Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025
"Bến hẹn" và chàng thi sĩ trong tấm áo Blouse trắng
"Bến hẹn" và chàng thi sĩ
“BẾN HẸN” là tên tập thơ vừa ra mắt tháng 7 năm 2025 của tác giả Nguyễn Đức Toàn. Tập thơ do NXB Hội Nhà văn ấn hành. Nguyễn Đức Toàn sinh năm 1978 tại Nho Quan, Ninh Bình, là một thạc sĩ y học, bác sĩ chuyên khoa cấp II, hiện đang làm việc tại tỉnh Ninh Bình.
Giai thoại tác giả văn học của Nguyễn Bính
Giai thoại tác giả văn học
của Nguyễn Bính
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của
họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa
vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ,
mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác
của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại
đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn
Bính.
Dưới đây là một số giai thoại “vẽ” nên chân dung Nguyễn Bính.
Những “nhân vật” nữ trong thơ Nguyễn Bính
Ai đã đọc thơ Nguyễn Bính thì không thể quên bài thơ Lỡ bước
sang ngang được. Và lại càng không thể quên hình tượng nhân vật người chị (lần
này chị bước sang ngang) trong bài thơ này. Lý do đơn giản là, thường thì người
ta đưa người yêu (em) đi lấy chồng. Còn ở đây Nguyễn Bính xưng là “chị”, lại có
tên tuổi hẳn hoi trong nhiều bài thơ Nguyễn Bính đề “Tặng chị Trúc”. Vậy chị
Trúc là ai? Liên quan gì đến “thiên tình sử” sang ngang lỡ bước này? Theo tìm
hiểu thì chị Trúc có tên thật là Lê N. Th. (tên viết tắt theo tác giả Bùi Hạnh
Cẩn, người anh bà con cô cậu và bạn thân của Nguyễn Bính). Chị Lê N. Th. là một
phụ nữ đẹp, có tâm hồn thơ mộng. Chị có chồng là ông chủ một hiệu ảnh ở Hà Đông
– Hà Nội. Nhưng hôn nhân này đổ vỡ. Chị đi bước nữa với nghệ sĩ Trúc Đường, là
anh ruột Nguyễn Bính. Có lẽ Nguyễn Bính gọi chị Trúc là từ tên anh Trúc Đường
mà ra. Hai người thuê nhà ở riêng và quyết tâm lấy nhau. Nhưng rồi duyên lại
không thành, Nguyễn Bính đã viết: Rồi đêm kia lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy
sang sông chị về. Tâm hồn Nguyễn Bính như thế đấy, thương chị dâu không thành
duyên với anh, mà viết ra bài thơ Lỡ bước sang ngang nức nở. Bài thơ dài đúng
110 câu, bằng với số ngày (110 ngày) mà anh chị mình đã sống gắn bó trong hạnh
phúc.
Bài thơ Cô lái đò (được nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc)
cũng là giai thoại có thật về một “bóng hồng” trong thơ Nguyễn Bính. Bài thơ
này được Nguyễn Bính viết từ những năm bốn mươi của thế kỷ 20. Tác giả Chu Văn
kể lại câu chuyện xúc động này như sau: Cô ta tên là Thoa, đưa đò ngang qua
sông Châu thơ mộng. Cô Thoa thường chở nhà thơ qua sông mà không lấy tiền, lại
còn đọc thơ của Nguyễn Bính cho khách nghe, có cả những câu thơ mang bóng dáng
mình: Xuân đã đem mong nhớ trở về/ Lòng cô gái ở bến sông kia… Sau này, trong một
lần qua sông, lúc này Nguyễn Bính đã mất, nhà văn Chu Văn ngậm ngùi báo tin với
cô Thoa lái đò: “Bác Bính làm thơ, vẫn hằng ngày đi chợ nhờ cô đưa sang ngang,
bác ấy mất rồi cô ạ”. Một tiếng nấc nghẹn, cô Thoa gục mặt trên mái chèo, tiếng
lạc đi: “Cháu biết! Giá chết thay được thì cháu tự nguyện chết thay để bác ấy sống,
bác ấy làm thơ”. Nói đến đây, nhà văn Chu Văn bàng hoàng “rót” một lời bình:
“Chao ôi, ngay cả bạn bè anh Bính, đã mấy ai nghĩ về anh chí tình đến như vậy”.
Và rồi còn nữa, bài thơ Viếng hồn trinh nữ, với những câu thơ
đau xé lòng“Có một chiếc xe màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/ Đem
đi một chiếc quan tài trắng/ Và những vòng hoa trắng lạnh người…” là xúc cảm
mãnh liệt của “thi sĩ chân quê” với cô gái chết trẻ, đẹp nhất phố Hàng Đào, Hà
Nội ngày xưa.
Thiên tuyệt bút “một lời là một vận vào khó nghe”
Nguyễn Bính không chỉ giỏi làm thơ lục bát về “hương đồng gió
nội”, mà ông còn có tài dịch thơ Đường rất chuyên nghiệp. Tài dịch thơ Đường của
Nguyễn Bính thể hiện ở chỗ ông chuyển những bài thơ Đường theo thể ngũ ngôn, thất
ngôn sang thể thơ lục bát – vốn rất mộc mạc, khó dung tải được cái âm hưởng của
Đường thi. Không những thế, Nguyễn Bính còn có tài dịch thơ Đường rất nhanh.
Giai thoại kể, hôm ấy ở tòa soạn báo Tiểu thuyết thứ năm, mọi người (gồm nhà
thơ, dịch giả, nhà lý luận…) bàn tán về việc dịch thơ chữ Hán. Chủ bút Lê Tràng
Kiều bèn thử tài dịch thơ Đường của mọi người với bài thơ Đường: Hoàng mai thời
tiết gia gia vũ/Phương thảo trì đường cứ cứ oa/Hữu ước bất lai hoa dạ bán/Nhàn
soa kỳ tử lạc đăng hoa. Ai nấy đều cầm bút xóa xóa gạch gạch bài dịch của mình.
Nguyễn Bính chẳng giấy bút gì cả, đọc liền một mạch bài thơ dịch của mình: Ao hồ
tiếng ếch gần xa/Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi/Nửa đêm cái hẹn sai rồi/Quân
cờ gõ nhảm làm rơi hoa đèn. Dịch thơ mà lại sáng tạo được như hai câu sau thì
thật là tuyệt bút!
Trong quá trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam từ đầu thế kỷ 20
đã xuất hiện cuộc tranh luận gay gắt giữa hai quan điểm: Một bên chủ trương
cách tân triệt để để làm cho thơ mới lạ. Trường phái này có các cây bút chủ chốt
như Phan Khôi, Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ… với các bài thơ như Tình già, Cây đàn muôn
điệu. Và một bên chủ trương giữ lấy cốt cách, cái hồn dân tộc cho thơ, trường
phái này tập hợp các nhà thơ dân dã như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ. Nguyễn
Bính cũng âm thầm góp tiếng nói tranh luận của mình, không phải đao to búa lớn,
mà bằng một bài thơ lục bát nhẹ nhàng Chân quê. Lúc ấy Nguyễn Bính mới 19, 20
tuổi. Một quan điểm rõ ràng, dứt khoát: Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u
mình với chúng mình chân quê… Quan điểm sáng tác này theo suốt cuộc đời thơ tác
giả và giúp Nguyễn Bính định hình một phong cách sáng tác độc đáo trong phong
trào Thơ mới 1932-1945.
Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính) sinh năm
1918 và mất năm 1966. Ông giã từ nghiệp thơ ở cõi trần sau một sự kiện mà nhiều
người cho là có một sự “linh ứng” giữa ông và đại thi hào Nguyễn Du – Truyện Kiều.
Nhà văn Chu Văn kể lại giai thoại này: Cuối năm 1965, nhân kỷ niệm 200 năm ngày
sinh danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, mọi người đều chuẩn bị bài viết cho
số báo Tết năm ấy. Nguyễn Bính vốn coi cụ Nguyễn Tiên Điền như là vị tổ sư nên
không thể không viết về cụ. Chỉ trong một đêm, Nguyễn Bính âm thầm, lặng lẽ viết
một bài thơ theo hình thức “tập Kiều” (lấy một câu Kiều và sáng tạo một câu của
mình). Khi đưa bài đến tòa soạn, mọi người khen hay nhưng đùa với Nguyễn Bính về
thân phận, vì ông đã “tập Kiều” câu thơ “Một lời là một vận vào khó nghe”. Nguyễn
Bính chỉ cười và cho là các bạn văn của mình mê tín. Đúng ba mươi Tết năm ấy,
Nguyễn Bính ra đi vĩnh viễn.
Cảm kích trước chân tài, người viết bài này xin viếng tặng
ông “nhà thơ chân quê” Nguyễn Bính mấy dòng thơ lục bát để tỏ lòng mến mộ:
Thôn Đoài còn nhớ thôn Đông
Cây đa bến nước còn mong người về
Cánh cò trắng mượt bờ đê
Van em nỡ phụ lời thề cỏ may
Sang ngang một chuyến đò đầy
Xót xa bát đũa tháng ngày mồ côi
Trò chơi tiền lá mồng tơi
Sánh so sao được tiền đời hỡi em
Khóc cười đất Huế mưa đêm
Trời Nam hành khúc một miền xanh mơ
Nếp nhà còn một vườn thơ
Hoa chanh vẫn nở giữa bờ chân quê!.
18/9/2025
Trần Ngọc Tuấn
Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Con người "Thật" của Nam Cao qua giai thoại văn học
Con người "Thật" của Nam Cao
qua giai thoại văn học
Nếu “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô
Hoài), thì cũng có thể hiểu thêm là, mỗi tác phẩm đều phản chiếu bóng dáng
cuộc đời thật của nhà văn vào trong đó. Suy ngẫm này rất đúng với trường hợp của
nhà văn Nam Cao.
Ai đã đọc truyện của Nam Cao chắc hẳn sẽ thấy những nhân vật
“ông giáo” trong Lão Hạc, Điền trong Giăng sáng, Hộ trong Đời thừa và thầy giáo
Thứ trong tiểu thuyết Sống mòn… đều là “phiên bản” ngoài đời của nhà văn Nam
Cao – Trần Hữu Tri.
Có một thi sĩ Nam Cao, và những trang viết cho thiếu nhi
Là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam giai đoạn 1930-1945, người “đánh dấu một bước phát triển mới của văn
xuôi quốc ngữ Việt Nam” (Từ điển Văn học, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, 1978),
nhưng ít người biết rằng lúc đầu khởi nghiệp cầm bút, chàng trai Trần Hữu Tri
cũng đã có buổi đầu nuôi giấc mộng thành nhà văn lãng mạn và thi sĩ. Trước đó,
năm 1938, Nam Cao cho ra đời bài thơ Ngày xuân thể hiện cái giọng điệu mỉa mai,
hằn học và pha chút hài hước đầy chua xót. Trong đó có những câu: Cái kiếp con
nhà văn/ Cứ mỗi độ xuân sang/Lại cảm lăn cảm lóc/Như là bàn gãy chân; Trên cành
trụi đẫm mưa/ Lộc mới đua nhau nở/Xuân đẫm óc nhà thơ/Nảy vọt bao thi tứ… Có thời
Nam Cao làm thơ với bút danh Nguyệt và xuất hiện nhiều trên thi đàn. Năm 1941
(năm truyện ngắn Chí Phèo ra đời), thi sĩ Nguyệt đã sáng tác nhiều bài thơ mang
cái sầu của Thơ mới. Trong một bài thơ, Nam Cao viết: Đời tối quá, em ơi tôi
nguyện ước/ Một bàn tay thắp hộ lửa lòng lên/Một tấm thân ấm áp ghé ngồi
bên/Câu dìu dịu vỗ về trong nhức nhối/Đôi tai bạn để nghe lời chim nói/Em xa
xôi tôi cô độc em ơi! Có lẽ về sau, khi nhận ra bộ mặt thật của cuộc sống, Nam
Cao đã chuyển hướng sáng tác để trở thành nhà văn hiện thực. Điều này thể hiện
rất rõ trong các “tuyên ngôn nghệ thuật” của ông, “nghệ thuật không cần phải là
ánh trăng lừa dối” (Giăng sáng).
Thoạt nhìn bên ngoài, con người Nam Cao lạnh lùng, ít nói,
khó gần, như chính ông đã tự bạch trong truyện ngắn Cái mặt không chơi được.
Nhưng kỳ thực Nam Cao sống rất tình cảm, giàu tâm hồn với thế giới tuổi thơ. Từ
khi còn làm phóng viên cho báo Kịch bóng ở Sài Gòn, Nam Cao đã có nhiều trang
viết dành cho thiếu nhi. Sau này khi ra Hà Nội dạy học trường tư thục, tác phẩm
viết cho thiếu nhi của Nam Cao được nhà xuất bản Tân Dân in đều đều. Trong đó
có những truyện như: Phiêu lưu, Đầu đường xó chợ, Con mèo mắt ngọc, Bảy bông
lúa lép, Ba người bạn, Nụ cười… Mới đây, NXB Kim Đồng đã tái bản Con mèo mắt ngọc,
bản do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, biên soạn.
Một giai thoại về lòng nhân ái
Theo tư liệu của nhà văn Tô Hoài, trong Tự truyện và những
gương mặt, có một giai thoại rất xúc động, nói lên con người rất thật của Nam
Cao. Tô Hoài kể lại: Cuối năm ấy, vì bí đề tài viết, thầy giáo Trần Hữu Tri
(lúc này dạy học ở Hà Nội) bèn rủ Tô Hoài lên tàu vi vu một chuyến để tìm đề
tài, cảm hứng viết. Nửa đêm, họ từ Hà Nội vào đến Nam Định. Hai bạn văn lục tìm
chỗ thuê ngủ qua đêm nhưng ở đâu cũng chật khách. Tô Hoài và Nam Cao bèn đến
nhà săm (nhà trọ thường có gái điếm trước đây) Đông Dương gần Bến Củi để xem
còn chỗ trọ không, nhưng cũng kín chỗ. Hai chàng đang chuẩn bị lui gót thì nghe
tiếng một cô gái gọi lại: “Các anh ở tạm phòng em vậy. Em đi ngủ nhờ phòng bạn
cũng được”. Hai nhà văn bằng lòng. Nhưng rồi sau đó cô gái chẳng đi ngủ nhờ ai
cả, mạnh dạn mở chăn vào nằm giữa hai nhà văn. Tác giả Dế mèn phiêu lưu ký kể
tiếp: Đến khuya, tỉnh giấc, Tô Hoài nghe ri rỉ tiếng khóc của cô gái và tiếng
rì rầm khuyên can gì đó của Nam Cao. Sáng hôm sau, Tô Hoài nghe Nam Cao kể lại
mới biết cô gái ấy là em của một người bạn của Nam Cao ở Sài Gòn. Cô bị chồng
phụ bạc, từng cắt tóc đi tu và rồi lưu lạc đến đây. Nam Cao khuyên cô hoàn
lương và giúp cô ta ít tiền.
Rồi đôi bạn văn trở ra Hà Nội. Khoảng mười ngày sau, Nam Cao
viết xong tác phẩm đặt tên là Một đời người, dài hơn một trăm trang, viết theo
đúng câu chuyện cô gái điếm kể lại đêm ấy ở nhà săm Đông Dương. Nam Cao đem
truyện bán cho Nhà xuất bản Cộng Lực được 80 đồng (lúc ấy rất lớn). Chiều hôm
đó, Nam Cao lại rủ Tô Hoài đáp tàu xuống Nam Định. Nam Cao dự định trích 50 đồng
tiền bản quyền tác phẩm đem biếu cô gái. Nếu không vì hoàn cảnh vợ con nheo
nhóc ở quê, Nam Cao sẽ đưa cả 80 đồng cho cô ấy. Nhưng Nam Cao đã không gặp lại
cô gái ấy, tác giả Lão Hạc buồn rầu, ray rứt, hối tiếc mãi về sau…
Từ Vũ Bằng đến làng Vũ Đại…
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nam Cao chủ trương sống đã rồi
hãy viết, nhà văn chấp nhận làm anh tuyên truyền viên với những sáng tác gần
gũi, dễ nhớ, dễ hiểu… Song người đọc vẫn may mắn được thưởng thức một tác phẩm
mang đậm phong cách Nam Cao trước 1945, giàu ý nghĩa triết lý và thời sự – truyện
ngắn Đôi mắt. Truyện này lúc đầu Nam Cao đặt tên là Tiên sư anh Tào Tháo, lấy từ
câu nói của nhân vật Hoàng trong truyện khi thích thú nghe vợ mình đọc Tam quốc
trước khi ngủ. Và nguyên mẫu nhân vật Hoàng này chính là nhà văn Vũ Bằng, tác
giả của Thương nhớ mười hai. Nhà văn Tô Hoài kể lại, trong kháng chiến chống
Pháp, Nam Cao từ Hà Nam lên Việt Bắc, đã gặp vợ chồng anh Vũ Bằng đang tản cư ở
vùng trung du Quế Quyển trên đường vào Chi Nê (Hòa Bình). Sau này, khi biết Nam
Cao đưa mình vào Đôi mắt, Vũ Bằng nói bằng lòng với Nam Cao khi miêu tả mình
như thế – con người mơ màng bước vào trong trường kỳ kháng chiến; cái anh chàng
nửa chán đời nửa yêu đời; nửa thông minh, nửa dở hơi; vừa đi kháng chiến, vừa sợ
kháng chiến, cứ khật khưỡng trong nước sôi lửa bỏng như thế… Người ta nhớ truyện
ngắn Chí Phèo vì có quá nhiều cái lạ. Và người ta còn nhớ Chí Phèo vì đã có sự
trùng hợp kỳ lạ, ngẫu nhiên. Nam Cao đặt tên làng Vũ Đại trong Chí Phèo để mang
tính điển hình và đả kích bọn cường hào ác bá của làng xã ngày trước. Nhưng
chính Nam Cao không ngờ rằng ông đã ngã xuống hy sinh khi bị địch phục kích vào
ngày 1-11-1951 tại làng có tên là Vũ Đại, thuộc xã Gia Xuân (Hoàng Đan, Ninh
Bình). Thật là trớ trêu thay!
Nhưng sẽ không có sự mất mát trớ trêu trên, nếu Nam Cao là
người… không tôn trọng kỷ luật của tổ chức. Năm 1958, tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng đã kể lại câu chuyện này cho nhà văn Anh Đức: Trước khi Nam Cao bị địch
phục kích, ông đã đổi địa điểm chiến dịch với Nam Cao, nhưng Nam Cao không đổi
vì ông tôn trọng tổ chức. Nguyễn Huy Tưởng nói: “Giả sử xảy ra cuộc hoán đổi hướng
đi thực tế lần ấy, biết đâu tôi đã hy sinh vào chỗ của Nam Cao rồi cũng nên”.
18/9/2025
Trần Ngọc Tuấn
Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Nguyễn Kim Thanh với
hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một
quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng
ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa
mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những
dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim
tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con
cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh
trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch
cuộc đời.
Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách
khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa
cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp
hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Nhà văn Nguyễn Kim Thanh với các bút danh: Duy Anh, Kim
Thanh, Huỳnh Duy, Hưng Phú đã trình làng nhiều tác phẩm in chung và bốn tác phẩm
in riêng. Nhiều sáng tác của chị đã được đăng trên các Báo, Tạp chí Văn nghệ
Trung ương và địa phương. Hiện nay chị là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố Cần
Thơ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Cần Thơ. Công việc nhiều và hoàn cảnh còn khó
khăn nhưng đêm đêm chị vẫn miệt mài trên mỗi trang viết. Tình yêu văn chương đã
nhen nhóm trong lòng chị từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường Trung học
phổ thông Châu Văn Liêm. Đôi khi những bài thơ, những trang viết chỉ “một mình
mình biết, một mình mình hay”. Nhưng từ khi là hội viên Phân hội Văn học thuộc
Hội văn học nghệ thuật tỉnh Kiên Giang rồi chuyển về Cần Thơ và qua các lớp bồi
dưỡng ở các trại sáng tác, lý luận văn học, rồi đi thực tế nhiều chuyến thì những
truyện ngắn, tản văn của chị càng “nổi gió” hơn, ghim được vào trái tim người đọc.
Đề tài những truyện ngắn, tản văn của Nguyễn Kim Thanh phần lớn
đều xoay quanh số phận người miền Tây trong cuộc sống đời thường. Nhân vật thường
là những người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh ở miền quê hay phố thị khác nhau. Con
người, cảnh vật trong truyện hiện lên rất sống động qua cách kể, cách tả, cách
dẫn truyện khá hấp dẫn nhiều lớp lang, nhiều tình tiết.
Với tập truyện ngắn và tản văn này, chị đem đến cho người đọc
cái nhìn đa chiều về con người và cuộc sống của cư dân miền Tây Nam bộ bằng một
giọng văn kể chuyện tâm tình với nhiều chi tiết sống động. Mỗi truyện ngắn, mỗi
tản văn là một lát cắt, là một clip quay cận cảnh về đời sống, cảnh sắc vùng đất
đầy nắng gió khi con nước lớn, ròng. Người đọc sẽ bắt gặp đâu đó hình bóng quê
nhà với những con người dễ thương dễ mến như: ông Mười Sẹo, chú Hân, chú Thi,
cô Út, cô Nguyệt, cô Sinh, cô Ngần, bà Hai Qườn trong “Chuyện nhà ông Mười Sẹo”
mà ông Mười Sẹo là người đáng thương hơn đáng trách. Người đọc khó quên tiếng
chửi của Mười Sẹo, nó khác với tiếng chửi cả làng Vũ Đại của Chí Phèo, “Ổng chửi
bầy trâu là chủ yếu nhưng lũ trâu có nghe lời ông chửi tụi nó hay không mà cứ ốm
o dần đi”… Hay “Chuyện ở xóm Miễu” ta bắt gặp một lão Tam với biết bao người
đàn bà qua tay lão mà “mụ Hinh vẫn khoái lão Tam ra mặt”. Lão từng hại ba má
lão, hại các đồng chí của ba má. Lão chính là thằng Ức “đã chết trong lòng dân
xóm Miễu”. Lão chỉ uống rượu và bạn với con chó thôi, và lão đã tự biết mình có
tội với dân. Nhưng tình thương con vẫn bùng cháy trong huyết quản của lão. Ở
đây ta còn bắt gặp một ông Ba Giỏi gốc miền Trung chạy vào Rạch Sỏi (Kiên
Giang) sinh sống, có cảm tình với cách mạng, được bà con yêu mến nhưng có thằng
con nghịch tử bán đứng cả ba má và đồng đội, và ông đã “hộc máu lên vì uất ức,
ông không dám nhìn vào mắt các đồng chí của mình”. Các nhân vật xóm Miễu hiện
lên qua lời kể của chị rất có duyên, đan xen giữa các nhân vật làm người đọc
như “vừa quen vừa lạ” như sờ thấy được. Nào Bà Bảy, thằng Xứng, Sa Sang, nào
bác Tấn, chị Mười, lão Tam và bà con xóm Miễu luôn chan hòa tình làng nghĩa
xóm… Những trang viết như thế cứ ám ảnh người đọc, nhẹ nhàng mà sâu lắng
đậm chất đời và tính nhân văn.
Ở các truyện “Hương cỏ mật”, “Lá bùa hộ mệnh”, “Lục bình
trôi”, “Lưng chừng triền dốc”, “Luôn có một vì sao theo dõi anh” … Nguyễn Kim
Thanh vẫn giữ giọng kể chuyện tâm tình để khắc họa tính cách nhân vật, tạo điểm
nhấn cho mỗi truyện. Và tác giả kết thúc truyện theo hướng “mở” để “người
đọc cùng sáng tạo”. Không gian và thời gian truyện luôn mở rộng biên độ. Từ chiến
tranh chống Mỹ đến hòa bình lập lại, từ miền Tây tỏa đi Sài Gòn, Tây Nguyên, miền
Trung, miền Bắc… nhưng nhân vật và ngôn ngữ truyện rất đậm chất Nam Bộ. Từ
thành phố Cần Thơ, được xem là Tây đô của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, bàn
chân chị đã qua hầu hết các nẻo đường. Tới đâu chị cũng ghi lại những cảnh, những
người, những nét đặc trưng của vùng đất đó. Từ bông hoa ngọn cỏ, trái cây, bông
súng, lục bình, bông điên điển tới cánh cò, con đò, dòng sông, cầu tre lắt lẻo,
cầu khỉ gập ghình khó đi hay bến nước, ao hồ, câu ca điệu lý… đều ùa vào mỗi
trang văn. Mỗi truyện của chị đều ánh lên vẻ đẹp nhân văn như hơi thở cuộc
sống thường nhật vậy. Tất cả đều thấm đẫm tình người với những nỗi đau, niềm
vui của thân phận con người, đôi khi yếu đuối nhưng cũng rất kiên cường, cho dù
cuộc sống xô đẩy họ đối mặt với những nghịch cảnh của gia đình, xã hội
nhưng ở họ không hề tắt niềm tin và hy vọng. Những góc khuất tận cùng của con
tim nhân vật được chị diễn đạt như những lời tâm tình thỏ thẻ, khiến người đọc
dâng lên một niềm cảm thương sâu sắc. Tôi có cảm giác Nguyễn Kim Thanh như
hóa thân vào nhân vật, vào dòng chảy của ký ức với bao kỷ niệm vui buồn mà con
tim thôi thúc. Quá khứ, hiện tại và tương lai cứ thôi thúc chị phải
viết ra như trả món nợ cho đời.
Ở những tản văn, chị lại đưa người đọc trở về tuổi thơ với
quê hương thân thương trìu mến qua những trang miêu tả đậm chất thơ. Đó là cảnh “Má
trồng rau ngày Tết” và “Tiếng rao bánh tráng ngày xuân”. Và đây là cả một “Vùng
ký ức” với bao âm thanh, sắc màu của “Ninh Kiều ngày mới”, “Nỗi nhớ mùa
trăng”, “Nỗi nhớ dòng sông”, “Mùa cá lòng tong”. Và những lời thầy dạy vẫn văng
vẳng bên tai. Tất cả là một tình yêu quê hương nồng thắm. Những trang viết về mẹ,
gia đình, bè bạn, tình thầy trò, tình yêu cứ ùa vào ký ức làm sáng lên niềm tin
và lòng thủy chung bền chặt. Trong mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương để
thương để nhớ, và nếu ai đó “Quê hương nếu ai không nhớ/Sẽ không lớn nỗi thành
người” (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ người Nga Ilia Erenbua đã viết: “Dòng suối đổ
vào sông, sông đổ vào đại trường giang Vonga. Con sông Voga đi ra biển. Lòng
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Nhưng không
phải ai cũng có được tình yêu quê nồng nàn, tha thiết như thế. Tình yêu quê
hương làng xóm, yêu con người miền Tây dân dã, mộc mạc trọng nghĩa khinh tài,
nhân ái cứ lớn dần trong chị. Đó chẳng phải là lòng yêu dân tộc và Tổ quốc sao?
Ta hãy thưởng thức món cá lòng tong kho tiêu, cá lòng trong ăn lẩu có bông súng
lục bình, khô cá lòng tong chiên giòn của má trong những ngày mưa dầm nắng lửa
càng cảm thấy vị mặn mòi đậm tình quê hương. Chị tả cảnh má Mải bỏ lưới xuống
xuồng bắt cá lòng tong khá điệu nghệ: “Năm nào cũng vậy, từ tháng mười một âm lịch
cho tới tháng tư năm sau mùa cá lòng tong về. Cá lăn tăn khắp sông rạch… Những
ngày vào mùa cá khi bắt đầu con nước lớn, má Mải bỏ lưới xuống xuồng, Bà bơi xuồng
tới đầu dòng sông hay đầu các con kênh và bắt đầu thả lưới… Bà sử dụng hai đoạn
tre nhỏ cắm xuống nước nép bên đầu kênh hoặc đầu vàm và bắt đầu giăng lưới”. Và
đây là tiếng rao bán các loại bánh gần Tết ở vùng quê vui làm sao: “Bánh tráng
nhúng, bánh tráng mè đen, bánh tráng ngọt nước cốt dừa, bánh tráng khoai mì… có
luôn bánh phồng nếp ngọt, lạt đây bà con cô bác ơi”. Rồi hình ảnh chợ nổi
miền Tây – nét đặc trưng vùng sông nước Nam Bộ không thể thiếu trong tản văn của
chị. Chỉ cần nhìn cây “bẹo” du khách đã biết gì? Treo gì bán nấy chăng? Và chị
đã cho biết: “Làm ăn khấm khá treo tàu lá dừa nước, bán ghe nhỏ, mua ghe lớn
hơn. Làm ăn không được hoặc gia cảnh không đi ghe được nữa thì cũng phải treo
tàu lá dừa nước… có cái treo mà không bán đó là quần áo, đồ sinh hoạt của người
thương hồ…”
Mỗi mùa trăng, mỗi khi con nước lớn ròng, ghe xuồng tấp nập
trên sông, nhất là những ngày giáp tết. Tình yêu cũng nảy nở trên sông, trên
ghe xuồng những đêm trăng sáng. Tiếng đờn hòa tấu, lời vọng cổ xuống “xề” cùng
với tiếng cụng ly cười nói cứ văng vẳng trên sông từ khuya tới sáng… Miền Tây
miệt vườn Nam Bộ là thế đó. Nó hiện lên trên mỗi trang văn của chị thật đáng
yêu biết dường nào.
Chỉ với mười sáu truyện và tản văn, Nguyễn Kim Thanh đã cho
người đọc thưởng thức bao vẻ đẹp về con người và cuộc sống nơi thôn dã bình lặng
hay phố thị đông vui của miền Tây Nam Bộ. Đó là một bức tranh vừa mang tính tổng
thể vừa đặc tả những nét đặc trưng nhất của vùng đất này với bao hương đồng gió
nội đáng yêu.
Ngày nay giữa những ồn ào của của lối sống công nghiệp thời
hội nhập, đọc những truyện ngắn và tản văn của chị ta như đang lắng nghe lời
tâm sự của những con người, những mảnh đời khát khao, hy vọng vươn tới một hạnh
phúc trọn vẹn. Xã hội ngày càng phát triển, nhưng cuộc sống cũng còn nhiều khó
khăn, trăn trở, thì vẫn còn đó những mâu thuẫn, những đối lập nảy sinh. Nhưng
ta tin rằng cái cao cả, thiện lương mà tác phẩm đem lại luôn là bài ca chiến thắng
cái xấu, cái ác.
Bằng một giọng kể hồn nhiên, đôn hậu, từ ngữ mộc mạc, những
phương ngữ Nam Bộ dùng đúng lúc đúng chỗ, chị đã chinh phục được trái tim người
đọc bằng những câu chuyện đẹp, những tản văn hay đậm chất tình, chất thơ. Hy vọng
đường văn của Nguyễn Kim Thanh còn tiến xa hơn nữa. Xin trân trọng giới thiệu “Mùa
cá lòng tong” cùng bạn đọc.
21/9/2025
Lê Xuân
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Trúc Linh Lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Trúc Linh Lan, nhà thơ
của những thân phận đàn bà
đa truân miền
sông nước
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói “Thơ
là một sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một
tác động trở lại vào thực tại… Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống,
nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn,
trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng
hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của
những con người”. Trong trường hợp này, quan niệm đó thật phù hợp với tiếng
thơ, tiếng lòng của nhà thơ Trúc Linh Lan biết bao.
“…thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu…” – Xuân Diệu
Thơ ca – một thế giới thi ảnh đầy ma lực – bên cạnh sự truyền
cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng
lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những
khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ
lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần
khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy
giá trị nhân sinh của mình.
Là vậy đó, khi ta sâu nặng với thế giới thi ca mới thấy hết
cái hàm sâu ẩn chứa huyền diệu mà nó mang lại. Cái cẩn mật, biến hoá của ngôn từ
thật là diễm tuyệt lắm thay! Và, Trúc Linh Lan – nhà thơ của đồng bằng – luôn
trăn trở về muôn trùng nhân thế, buồn thương cho số phận đa đoan người đàn bà
cùng những thăng trầm, đổi thay cuộc sống.
“Một đời mẹ vất vả
Đi qua bao mùa đông
Đi qua nhiều cơn gió
Đi qua nhiều dòng sông
(Một ngày xin đừng đến)
Với đời, có lẽ thứ khiến chị đau đáu, suy tư vẫn là thân phận
người đàn bà, kẻ hồng nhan giữa những đoạn trường của cuộc bể dâu. Vì lẽ đó, tiếng
thơ chị khi trầm lắng, nỉ non; lúc bi ai, bất lực… đầy thương cảm. “Kiếp
hường nhan lắm lao đao/ Luồn kim se chỉ nghẹn ngào tâm tư/ À ơi! ngọn gió “mùa
thu…”/ Năm canh mẹ thức để ru đời mình” (Tiếng ru buồn), Chị đúng là nhà
thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước.
Khi đứng trước một tấm ảnh ở bảo tàng, cảm xúc trong chị rung
lên, tràn dâng một sự đắng chát, nghèn nghẹn “Đập vào mắt tôi là một bàn
chân/bàn chân lam lũ,nứt nẻ, sần sùi/ bàn chân của mẹ/đi suốt chiều dài chiến
tranh”(ấn tượng từ một tấm ảnh ở bảo tàng Bến Tre). Nếu là bạn, bạn sẽ thế
nào trong hoàn cảnh ấy? khi ngắm một bức ảnh? Thực ra, với nhà thơ, lúc đó
không phải là một bức ảnh nữa, mà là cả một cuộc đời. Cuộc đời của một người
đàn bà, và những người đàn bà bi đát, bất hạnh, khốn cùng bởi tội ác chiến
tranh. Tất cả đang hiện ra, trải dài ra trước mắt chị. Điều đó khiến nhà thơ phẫn
uất, đau xót và thương cảm.
“Bàn tay mẹ gầy như nhánh lá kia
Mùa đi qua mẹ nhớ thương bạc tóc
Hát bài ca của lá
Những đứa con đi mãi không về…”
(Lời hát của bà mẹ Kam-Pu-Chia)
Thơ không phải là thứ để dạy đời, để đánh tráo… nếu “cố rặn”
thì thứ “rặn ra” chỉ là thứ giống với thơ thôi, tôi nghĩ vậy. Nên hơn hết, tôi
chỉ có thể cảm được những gì được rung rẩy, thành khẩn từ tim từ óc của người
thơ. Và ở đây, chính trong thơ Trúc Linh Lan, tôi đã nhìn thấy điều đó, cảm được
điều đó, một trái tim thấm đẫm tình yêu thương dành cho kiếp người truân
chuyên, lận đận. “Mẹ tần tảo, mẹ gian truân/ Một đời mưa nắng lưng chừng sắc
hương/ Cánh cò chịu khó chịu thương/ Hai vai nặng gánh nhân thường đục-trong
(Tiếng ru buồn). Chị cũng không quên dành cho phận hồng nhan bạc mệnh những
ngậm ngùi “Tôi chạm vào em, giọt lệ hoàng phi/ Đêm sáng lửa đưa người về với
Phật/ Ai rơi lệ xuống thuyền xuôi cố quốc! Gửi lại một thiên thần mang mệnh đế
vương? (Chiều Mỹ Sơn). Với đàn bà khổ hạnh, kém phần may mắn, chị dành cho
họ niềm cảm thương sâu sắc “Mẹ chồng hy sinh bỏ chị lại giữa đời/ con gởi
cô bác, chị lao vào công tác/ đất nước và con-hai vai gánh vác/ lúc một mình chị
cắn nát nỗi cô đơn” (Chị). Từ ngữ nhà thơ chọn dùng không quá trau chuốt,
chẳng cần bóng bẩy; nhưng tinh tường, sắc sảo. Giọng thơ như lời ru, nhẹ nhàng
mà chạm vào ta, thấm thía đến rát đau.
Chưa lần nhận miếng trầu say
Pháo hồng áo cưới – rủi may sang đò
Tình nồng còn ủ lớp tro
Bếp chưa bén lửa… đâu ngờ mưa rơi!
(Năm canh mẹ thức để ru đời mình)
Lứa đôi với những chuyện tình, những ngọt ngào, mất mát; những
sum vầy, ly tan… luôn là nỗi niềm rách xước ở mỗi trái tim đi trong cuộc đời
này. “Chưa lần nhận miếng trầu say” bước chân theo chồng khi trái tim
chưa biết yêu là gì? Và rồi “Bếp chưa bén lửa” cái tình chưa kịp nồng
sau buổi vu quy, thì trời nỡ “mưa rơi”. Thế là tắt lửa, đành một cuộc bi
ai cho lần “sang đò” may rủi. “Đôi ta mới gặp đã lìa/ Trách ai bẻ
khoá quăng chìa xa nhau” (Ca dao) xót xa nào bằng? Một tuổi xuân phơi phới,
một khát vọng đầy tràn… phút chốc tan biến cõi không. Và làm sao mà không chơi
vơi, hụt hẫng; không mơ ước, khát khao?“Biển xô dạt đời em/ Theo từng cơn sóng
dữ/ Một chuỗi đời mệt mỏi/ Bồng bềnh trong cô đơn!/ Một vòng tay – một nụ hôn/
Em từng đêm khao khát/ Ước chi anh là con sông hát/ Đổ vào đời em yêu thương (Ước
gì).
Bất chợt, tôi nhớ về những câu thơ của nhà thơ Phú Sĩ “Tôi
muốn viết cho em/ Về câu chuyện nợ duyên không chỉ sắc màu hồng/ Đổ vỡ những niềm
tin nào trách người bỏ lại/ Muộn phiền vẫn vây quanh đắng cay em nếm trải/ Vẫn
như viên ngọc mài… rồi sẽ lại sáng trong”(Người đàn bà vẫn thế đợi yêu thương).
Rõ là, đường nợ duyên của phận hường nhan mấy ai là bằng phẳng? nếu không phải “trâm
gãy bình tan”,“Tro tàn bếp lạnh”, thì cũng là “quất ngựa truy phong”.
Người đàn bà đã cũ
Trong trái tim người đàn ông bội bạc
Lâm râm thời gian trên màu tóc
Đa đoan cuộc đời trên mắt xưa
(Những ký âm tháng chín)
Tự hỏi, cuộc đời này, có bao “đàn bà” được “bạch
đầu giai lão” trong hạnh phúc lứa đôi? Mỗi một thời đại, mỗi sự đổi thay,
tốt dần lên hơn. Tuy vậy, đàn bà vẫn là thân phận mang nhiều nỗi thua thiệt,
trái ngang, đau khổ. “Thời gian chừng như vô nghĩa/ Mẹ bạc đầu thức trắng
những đêm thâu/ Cô gái nhà bên dù chẳng làm dâu/ Ngày giỗ anh vẫn sang nhà thắp
hương lặng lẽ” (Nỗi nhớ của mẹ), nhà thơ ẩn dụ trong sự đồng dạng, miêu tả
gợi cảm với đầy đủ màu sắc, âm thanh từ: “mái đầu bạc”, “tiếng bước
chân cô gái nhà bên” đến “tiếng thắp hương”… rồi phủ kín không gian,
phủ kín bóng người, từ đàn bà già đến đàn bà trẻ, một nỗi xót đau, tróng lạnh.
Có những buổi chiều
Ta buồn
Khi nhìn bóng mẹ ngã theo hoàng hôn
Tóc mù sương
Còng lưng gánh nỗi buồn ký ức
(Chiều)
Đôi lúc, người đọc sẽ bắt gặp chị làm thơ kiểu như đang tâm
tình, nó nhẹ nhàng, bình dị nhưng lại chạm vào ta bởi sự chân thiệt sâu sắc nơi
lòng “Chuyện cổ tích ngày xưa! Ai khóa kín khu vườn?/ Bầy con lớn lên đứa
còn, đứa mất…/ Ba đã trăm năm chuyến đi xa khuất/ Thương má một mình thắp bóng
trăng xưa” (Thương má một mình thắp bóng trăng xưa). Những người mẹ, người
vợ, những người đàn bà vùng sông nước đồng bằng, yêu chồng thương con. Chẳng
màng vất vả. Chẳng màng thanh xuân, “Xanh ngắt màu lá tôi giấu trong chồng
thư cũ/ Vô tình gió mở/ Giật mình!/ Xanh đã tàn phai”(Sắc thu phai). Cả một đời,
khi bình yên, họ sống vì gia đình; khi ngoại bang xâm lấn, họ sống cho nước
nhà. Trái tim họ luôn tím ngát thuỷ chung như giàn hoa cát đằng nở rộ “Giặc
càn về máu đỏ nhuộm sông/ Mẹ hy sinh đêm đánh tàu biệt kích/ Trong vòng tay cô
bác/ Đưa mẹ về bên giàn cát đằng nở tím thuỷ chung” (Câu chuyện bên dòng Xà
No).
Nhà thơ Trần Hữu Dũng như tặng đời nỗi cô đơn, khắc khoải “Ta
về mỏi cánh chuồn chuồn/ vô tình chạm phải mùi hương năm nào (Truông gió), thì
Trúc Linh Lan cảm thán trong bóng đêm mờ mịt, thiếu hơi người thương “Đêm
mất điện tôi ngồi trong bóng tối/ Đen như giọt cà phê đắng buổi chiều buồn/ Thắp
ngọn nến nhớ tay người bật lửa/ Một thuở nào… gợi chút bâng khuâng” (Thắp lửa), có
phải nhà thơ đang bật lửa? Để sáng lên cái tăm tối của bóng đêm? để ấm lên cõi
lòng giá buốt? Ta như nghe được cái lạnh lẽo từ sự tróng vắng của căn nhà đến nỗi
tróng lạnh ở trong tâm người đàn bà sớm goá bụa. Một nỗi buồn nhớ, cam đành đến
xót xa, quặn thắt “Bây giờ giấu mình trong căn gác tối om/ Cầm trên tay
cây nến còn một nửa/ Tự bật quẹt thắp cho mình ngọn lửa/ Sao nghe lòng lạnh lẽo
cô đơn?” (Thắp lửa).
Giọng thơ của chị là giọng nói bên trong của không ít số phận
người đàn bà. Trước những suy tư, thấu cảm trong tiếng thơ của chị, đôi lúc tôi
thấy ám ảnh, bởi nó thật quá, và cũng đau đớn, xót xa quá: “Đi qua ngày/
Khu vườn lạnh tanh hâm hao cơn khát nước/ Mặt trời cười trôi ngược/ Tôi tự nhận
ra mình đang đứng ở cuối đông. (Vô thường). Sẽ có không ít người đàn bà bắt
gặp bóng hình mình nơi thơ chị. Ngậm ngùi, chua chát.
Trực giác của chị là phần hoà hợp đến thăng hoa của ý thức và
tiềm thức, của lý trí và bản năng, của kinh nghiệm sống và nỗi niềm trắc ẩn… và
vì lẽ đó, thơ chị bên cạnh vẻ đẹp của ngôn từ, là sự tuôn đầy những khắc khoải,
yêu thương, trầm mặc “Chiếc lá xanh em giữ lại cho mình/Vàng mùa thu đi rất
khẽ” (Sắc thu phai). Bên cạnh những mới lạ, độc đáo, tinh tế của diễn
ngôn, là sự khai thác mọi góc cạnh của đời sống con người, đăc biệt là phận đàn
bà, phận hường nhan truân chuyên. Từ cõi thực đến cõi tâm linh, chị đều dành
cho họ tình yêu thương, sự trân quý cùng nỗi niềm hoài vọng, tiếc thương.
Ta chạm vào em. Nỗi buồn nghìn năm trước
Trên từng bức tượng nun dấu tích mấy vương triều
Sự huyền dịu lung linh những bàn tay múa
Từ nụ cười ẩn dấu nét bi thương
(Chiều Mỹ Sơn)
Với đời thường, cùng những gập gềnh, cheo leo, đỉnh dốc… nhà
thơ vẫn cố gắng tìm lấy niềm vui sống. Là chị động viên chính mình? Hay động
viên những bóng liễu, những tóc dài phận hẩm cõi trần gian này?
Tôi luôn mang theo nụ cười
Mặc dù cuộc đời chẳng mấy niềm vui
Tôi mặc cả hồn nhiên
Cho trái tim ngậm ngùi.
Tôi thấy hình như mình đang leo dốc,
Đỉnh núi mờ xa
(Tôi lừa dối tôi)
Chị không bị khuất phục, dù “Đỉnh núi mờ xa”, và chị
mong muốn mọi đàn bà quanh chị cũng đừng khuất phục. Dẫu đôi lúc đó là sự lừa dối
chính mình, chị vẫn muốn có sức mạnh để vượt qua tất cả. Và những ai yêu thơ
Trúc Linh Lan, bên cạnh nỗi buồn man mác, họ sẽ biết cách tự vỗ về, tự an ủi… để
sống vững vàng hơn, để sống kiêu hãnh hơn, “Ta tận dụng hết các sắc
màu/ Vẽ cho mọi người biếc xanh hi vọng/ Một đóa hồng không phai cho xuân
thiếu nữ/ Một chàng trai tựa cửa/ Ôm cây đàn dạo liên khúc tình si”. Họ vẫn
không ngừng mơ ước, không ngừng khát vọng, không ngừng tìm kiếm. “Tặng ai
đó ước mơ!/ Tặng ai đó nụ cười!/ Tặng ai đó trái tim đỏ thắm!/ Ta yêu người/ Ta
yêu ta! (Quà tặng của gió). Đàn bà giữa cuộc đời này thường được ví như
là “Liễu”, lả lướt, yếu mềm. Tôi thì lại thấy, đàn bà chẳng khác tuyết
tùng, một loại cây thân dẻo. Dẫu bão giông và tuyết có dập dùi, dẫu bao cây cao
to quanh nó đều ngã đổ, chết khô. Tuyết tùng vẫn sừng sững, xanh tươi, “Ta
đứng trên đỉnh vô ưu/ Để không thấy phận người đầy định mệnh/ Không còn ai
chông chênh đơn lẻ/ Không còn ai lỡ những chuyến tàu” (Yêu phận của người). Nói
đến sự dẻo dai, cang trường của kiếp má hồng, tôi chợt nhớ về những lời thơ đầy
gai góc, đa mang mà cũng đầy kiêu hãnh của nhà văn Trầm Hương “Người đàn
bà làm thơ/ Như bao bà mẹ tảo tần/ Lội trên cánh đồng chữ nghĩa/ Một
tay bịt trái tim đau/ Tay kia lau nước mắt/ Tay bồng con tay viết
sách/ Mà trải lòng. Mà phẫn nộ, đớn đau”. (Người đàn bà làm thơ).
Đó chính là sợi dây thần vô hình của thơ. Sức mạnh của nó là
vô biên. Và nhà thơ, họ luôn ở đó, như những con ong quý không ngừng góp những
giọt mật quý cho cuộc đời này. Ta không khỏi trân quý họ, những tài thơ cần mẫn,
miệt mài.
“Người đàn bà buồn làm thơ
Những con chữ mang tiếng nhạn kêu sương trong khuya khắc khoải”
(Người đàn bà buồn)
Và, cũng thật đúng với quan niệm của chính chị “Thơ Là cứu
cánh tâm hồn, cứu cánh nỗi đau, nỗi cô đơn tuyệt vọng, cứu cánh những khát vọng,
những cái đẹp không vươn tới được, những nỗi buồn không tên…”. Thật vậy, khi
hố lòng trống hoác, thơ chính là sự lấp đầy. Khi cõi lòng bi ai, thơ chính là
ánh chiếu rọi. Thơ là vậy, huyền diệu và tinh tường. Nên, thơ phải là thứ được “rút
ruột”, có vậy, thơ mới có thể chạm sâu và vĩnh hằng “Người đời sau/ Người
nghìn sau/ Trăm năm còn thao thức/ Linh thiêng rụng một nốt trầm” (Linh
thiêng rụng một nốt trầm).
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói “Thơ là một sản phẩm của
tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một tác động trở lại vào
thực tại… Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một
tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu
vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn,
là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người”. Trong
trường hợp này, quan niệm đó thật phù hợp với tiếng thơ, tiếng lòng của nhà thơ
Trúc Linh Lan biết bao.
Tôi cầm nụ cười trên tay
Tặng những ai buồn bã
Mà sao ai đó không vui?
Niềm vui xin đừng ngã giá!
Bóng hạnh phúc vô thường.
(Tôi lừa dối tôi)
Augustinô, một triết gia phương tây, đã nói “Hãy
yêu thiệt nhiều đi, rồi bạn sẽ biết mình nên viết cái gì?”. Quả thực, với giọng
thơ đầy sự thổn thức, khắc khoải như tiếng vọng của “nhạn kêu sương”, người
đọc dễ nhận thấy ở nhà thơ một tình yêu sâu nặng dành cho cuộc đời, dành cho những
kiếp nhân sinh bạc phần, bạc phận. Chị thực sự là nhà thơ của cõi lòng đàn bà
giữa cuộc hồng trần, giữa cuộc bể dâu. Nỗi khát khao hạnh phúc, niềm tiếc
thương hoài vọng, những trăn trở, ngậm ngùi… tất cả, tràn trong thơ chị bằng
thi pháp trữ tình, kiểu diễn ngôn mượt mà và những liên tưởng độc đáo; bằng sự
rung cảm, thành khẩn và bằng cả trí huệ.
Cần Thơ, 23/9/2024
Bảo Bình
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
"Ra vườn nhặt nắng" - Thanh âm kỳ diệu của trí tưởng
"Ra vườn nhặt nắng" - Thanh âm
kỳ diệu của trí tưởng
Từ hình ảnh người ông bị bệnh
“quên” (Alzheimer’s), “tha thẩn” trong vườn “nhặt nắng” vào
một chiều cuối hạ. Nhà thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh đã viết lên một bài thơ “xinh”
– lung linh phép màu của trí tưởng. Đẹp độ “toàn bích”, như mảnh vải của tự
nhiên mang nét thêu thùa của bàn tay tiên nữ:
Có phải thế hệ trẻ ngày nay cũng đã “quên”: quên đi cái xấu,
cái ác, quên đi niềm vui, lẽ phải và quên luôn cả cách cảm nhận cái đẹp chăng!
Vì lẽ đó, thơ đã “phản ánh” đời sống đương đại. Và rồi không dừng lại, thơ “đồng
hành” để chữa lành- đánh thức bao nguồn cơn đẹp đẽ:
“Ông không còn trí nhớ/ ông chỉ còn tình yêu”. Khác với
chúng ta, “Ông” – dẫu đã mất đi lý trí thì trái tim vẫn ở lại và hồn
nhiên, trong trẻo như thưở ban đầu “những ngày ấu thơ”: luôn luôn hiểu và yêu mọi
điều bé nhỏ. Câu thơ nhắc nhở chúng ta về “lẽ giản đơn”, trong đời thường:
“Hãy biết trân trọng từng khoảnh khắc nơi cuộc sống chóng vánh trôi qua”…
Sang khổ thơ thứ hai, người cháu xuất hiện cùng “Ông”, gợi
nên sự gắn kết thế hệ. Đó cũng là vấn đề đang được đặt ra trong nhịp sống ngày
nay, khi người trẻ không còn biết quý giữ nghĩa tình với người đi trước, đã từng
sinh thành, yêu thương, ân cần, chở che… Hình ảnh diệu kì, lấp lánh phép màu cổ
tích đó, qua thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã tạo hình trong thơ nhiều
liên tưởng trong và ngoài đối tượng. Tất cả đều ngọt ngào, ý vị và sáng tạo tuyệt
vời.
Ảnh tượng nghệ thuật độc đáo: “Chiếc nắng”, chăng
là biểu tượng mối quan hệ cộng hưởng – tương giao ba chiều: Con người với thiên
nhiên, con người với con người, thế hệ này với thế hệ kia. Thắm thiết tình người,
tình đời. Tình cảm quê hương, đất nước, gia đình và hương vị tình thân thật thuần
khiết trên đời. Thiên nhiên cùng quyện trong nhau nơi “Chiếc lá” đặt
vào “vạt nắng” nên hình “Chiếc nắng”; Hồn người hòa vào
thiên nhiên: “Bé nhặt …/ Đặt vào vệt nắng vàng/ Ông cầm lên chiếc nắng/ Quẫy
nhẹ…”; Hai thế hệ chan hòa nơi vườn chiều thanh bình, yên ả trong cái trao
tay“chiếc nắng” màu nhiệm tình thân, làm cho cả chiều nhẹ nhàng “Sang
thu”…
Dẫu rằng hình hài ngũ ngôn kia chấm phá nét âm hưởng truyền
thống trong thi đề viết về thiên nhiên. Nhưng bằng cái nhìn vào bối cảnh hôm
nay, hướng về tuổi trẻ, rọi sâu tâm hồn khi những cử chỉ cao thượng đang trống
vắng nhạt mờ để gửi thông điệp về điều chân thiện: tìm lại bản thể yêu thương…
Nhà thơ “thiên tài” khắp cõi mạng Việt Nam Nguyễn Thế Hoàng Linh đã tạo nên một
thi phẩm nhẹ nhàng hồn hậu, dịu dàng ru êm và đẹp trên cả tứ – tình – hình cùng
những khoảng lặng sâu lắng trong đó. Bài thơ tồn tại như điều diệu kỳ mà nó đã
diễn đạt: “Thứ còn khi mọi thứ đã mất đi, chỉ có thể là tình yêu”.
23/9/2025
Tuấn Trần
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Trần Nguyệt Ánh
với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm
gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự
nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác
phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm,
khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định
hình một cá tính sáng tạo.
Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố
Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới
xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB
Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm
132 bài thơ 1 – 2 – 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà
thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Về nội dung cảm hứng, Vọng núi có sự mở rộng đề
tài, phạm vi đời sống trong quá trình sáng tác của nhà thơ. Những tập trước,
thơ Nguyệt Ánh chủ yếu là thơ tình yêu, trở đi trở lại là những cung bậc cảm
xúc yêu đương, những nhớ thương, hờn giận, cô đơn, hạnh phúc và sầu muộn. Đến tập Vọng
núi, chị đã biểu hiện cảm xúc, suy tư về nhiều vấn đề, phương diện đời sống hiện
thực và tâm hồn con người: Từ tình cảm yêu đương, tình cảm gia đình, tình yêu
quê hương đất nước đến những khám phá về thiên nhiên và văn hoá bản địa Tây
Nguyên, những trăn trở phận người, suy tư về thơ ca, chuyện đền ơn đáp nghĩa đối
với thương binh, liệt sĩ, chuyện tình người thời Covid, v.v…Trong đó có ba nội
dung cảm hứng chủ yếu là: Tình yêu đôi lứa, văn hoá Tây Nguyên, quê hương và
người mẹ. Hẳn nhiên, việc phân chia chỉ là tương đối, tạm thời để nhận diện; về
bản chất, nhiều trạng thái cảm xúc đã hoà quyện vào nhau trong các bài thơ. Tập
thơ đã thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, thiết tha yêu thương, ân tình, những tình
cảm đẹp đối với quê hương đất nước, niềm tin yêu cuộc sống, trân quý những giá
trị tinh thần của con người. Đó là ý nghĩa nhân văn tốt đẹp đáng ghi nhận của
tác phẩm.
Thơ là niềm giao cảm của con người và tình yêu là niềm giao cảm
mãnh liệt, nồng nàn, say đắm nhất. Nguyệt Ánh viết nhiều bài thơ tình, nhưng ở
tập thơ này, chị ít khi biểu hiện trực tiếp cung bậc cảm xúc tình yêu mà biểu
hiện bằng những ẩn dụ. Chị có những bài thơ hay về tình yêu, gợi những suy tư về
sự lựa chọn trong cuộc đời, về hạnh phúc và khổ đau: “Giữa bóng tối và ánh
sáng/ Em chọn lối nào cho chúng ta/ Để trái tim không bị tù đày/ Ánh sáng kia
làm mắt chói loà/ Không thấy đường đi làm em vấp ngã/ Trong bóng tối, anh dẫn
đường, tâm hồn được hồi sinh”. Sống giữa không gian văn hoá Tây Nguyên, tình
yêu của thi nhân hoà vào hình ảnh sông suối cuộn chảy, mãnh liệt và nồng cháy
như ngọn lửa đại ngàn: “Vũ điệu xoang nóng bừng lên ngọn lửa/ Chạm ánh mắt anh
cháy cả đại ngàn/ Tình em mãi là con sông dòng suối/ Chảy về nguồn giữa làng bản
mênh mông” (Gió nay lạnh làm run chiều phố núi). Tình yêu là cảm xúc say mê đắm
đuối, khát khao hạnh phúc lứa đôi: “Hoàng tử anh nhặt chiếc giày em vội vã đánh
rơi/ Ta thành đôi uyên ương bay trong bầu trời hạnh phúc/ Căn nhà chật dội cơn
mưa rào đẫm ướt giấc mơ em” (Lọ Lem say giấc mơ miền cổ tích), “Ngày hôn
phối của mặt đất và bầu trời/ Anh quyết dụ trái tim em ngược lối/ Giữa biển mơ
tràn nụ sóng hôn bờ/ Anh tan vào khoảng khắc đêm mơ/ Em chấp chới sóng ngầm
nghe biển hát” (Hôm nay ngày biển động). Tâm hồn thi nhân rạo rực yêu
thương và ngập tràn hạnh phúc giữa không gian hoa lá phồn sinh: “Và anh đến như
mùa xuân phồn thực/ Tháng Giêng em mơn mởn dậy thì/ Bông cúc tím giấu mình sau
vạt cỏ”. Tình yêu không chỉ là hưởng thụ mà còn đầy trăn trở, là trải nghiệm nỗi
đau, cô đơn, chờ đợi, thất vọng, tình yêu thanh cao, đẹp đẽ mà cũng đầy luỵ tục:
“Mũi tên thấm giọt đau thương tim mình chết yểu/ Anh mải mê hái những vì sao cuối
tận chân trời/ Hòn vọng phu em ngàn năm bạc đầu Tô Thị” (Em độc hành hun
hút phía không anh). Đôi khi là nỗi buồn của một lần lỗi hẹn: “Mắt phố chiều
nay vắng anh buồn hoang hoải/ Công viên hai ghế đá nhìn nhau/ Trống vắng một chỗ
ngồi” và những ẩn ức, bất lực khi phát hiện khoảng cách giữa ước vọng và hiện
thực cuộc đời: “Ngàn năm anh kiến tạo mặt hồ/ Tình em hoà vào biển lớn/ Hồ anh
gợi nhẹ lăn tăn/ Biển em mênh mông bất tận/ Làm sao chứa sóng mặt hồ” (Em đi
tìm lời ru trên sóng)…
Cao nguyên hùng vĩ, kỳ bí và hoang sơ với nhiều hình thức
sinh hoạt văn hoá dân gian đa dạng, độc đáo, là không gian Văn hoá Cồng chiêng,
không gian Sử thi và những nghi lễ đầy huyền tích văn hoá gắn với đời sống cộng
đồng các dân tộc. Trần Nguyệt Ánh thể hiện ý đồ nghệ thuật: “muốn khám phá bản
sắc văn hoá, phong tục của người Tây Nguyên” và cố gắng biểu hiện những nét đặc
sắc của đời sống và văn hoá Tây Nguyên. Trong mảng thơ này, Nguyệt Ánh đã thể
hiện những tri nhận, suy tư và xúc cảm chân thành về thiên nhiên sông núi, về
những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa: “Chiều bên
dòng Krông Ana/ Con dựa vào sông Mẹ/ Lắng nghe nước chảy dọc tim mình/ Dòng
tình yêu từ lòng Cư Yang Sin bất tận/ Cùng hoà nhập sông Cha/ Krông Ana hiền
hoà dáng mẹ!”. Đã đến Tây Nguyên, không thể quên tiếng chiêng huyền bí, ngân
nga, là âm thanh của sông núi, của hồn người, nối liền nhân thế với thần linh:
“Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên/ Âm thanh cuộn trào từ dòng Sê – rê – pôk/ Bật
ra từ những cánh rừng già/ Bung lên từ lòng đất ba – zan/ Tiếng của núi sông
hoà vào hồn dân tộc/ Bên nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời”.
Thiên nhiên, sông núi, các chất liệu văn hoá luôn gắn với những tâm tư, tình cảm,
thân phận của người dân nơi đây, nhất là người phụ nữ Tây Nguyên: “Người đàn bà
bên nhà sàn cô đơn/ Mượn trăng núi rừng soi bóng mình cho tỏ/ Mượn choé rượu cần
để quá khứ tiêu tan/ Nhịp chiêng xoá nhoà âm thanh ngày cũ đục buồn/ Thắp lửa
lòng sưởi ấm cả mùa đông/ Mảnh trăng cô đơn năm tháng ấm nồng vĩnh cửu!”.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, rừng
Tây Nguyên bị tàn phá nặng nề, bị khai thác đến mức tận diệt. Nhà thơ đã thể hiện
niềm xót thương trăn trở vì môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thú rừng chim
muông mất dần địa bàn cư trú: “Tiếng hươu con thảm thiết bìa rừng/ Ngọn lủa
cháy không tìm đâu lối thoát/ Lũ voi rừng gọi bầy rủ nhau chạy trốn”. Những
cánh rừng xưa kia làm nên đại ngàn xanh thắm nay chỉ còn là đồi khô núi trọc,
những sản phẩm và giá trị văn hoá truyền thống cũng bị mai một dần: “Hỏi rừng về
đâu? Thác lũ về đâu?/ Để linh hồn tượng gỗ cũng đớn đau/ Ngàn linh hồn ai oán gửi
lời khẩn cầu nhân thế!” (Những linh hồn cô độc lang thang trên bầu trời).
Nhà thơ không lên tiếng tố cáo hay kêu gọi mà gợi những lời tự vấn thổn thức,
hay thể hiện niềm trắc ẩn, gợi giúp con người ý thức điều chỉnh thái độ, hành
vi đối với thiên nhiên: “Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện/ Cong tấm lưng
trần cõng cả một trời thu/ Ta là khách lãng du miền đất đỏ/ Khát khao cưỡi voi
du ngoạn đại ngàn/ Chợt trong mắt em giọt châu rơi sót lại/ Cho ta nhắc mình dừng
bước trước lưng em!”…
Đối với người tha hương, quê hương luôn là chốn yêu thương đi
về trong tâm tưởng. Trần Nguyệt Ánh lớn lên ở Tây Nguyên nhưng quê hương Thái
Bình với hình ảnh đặc trưng của đồng bằng châu thổ luôn thao thức, vương vấn: “Cánh
đồng thảo thơm phảng phất mùi ngọc của trời cuối vụ/ Hương vị tuổi thơ thấm đượm
quê nghèo lam lũ” (Đi xa vương vấn làng quê ngấm tận lòng mình). Nhà thơ
khát khao được về thăm những danh thắng gắn với lịch sử văn hoá quê hương: “Ước
cùng anh một lần về dự lễ hội chùa Keo/ Thăm đền Trần thấm nhuần công lao tổ
tiên giữ nước”. Yêu quê hương, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hoá của quê
hương, nhà thơ hân hoan giới thiệu: “Em tự hào phụ nữ quê mình Năm Tấn/ Lúa thảo
thơm một thời nuôi quân đánh đuổi giặc thù/ Anh hẹn đưa em về thăm Đồng Cói, Đồng
Châu/ Thăm lễ hội chùa Keo, xem du thuyền, hát chèo, hát hội…”.Trong tập thơ,
quê hương gắn với hình ảnh người mẹ vất vả, tảo tần và tận hiến. Hình ảnh người
mẹ hiện lên thật đẹp đẽ: “Mẹ đội cả bầu trời nâng cánh ước mơ con”, “Ánh mắt mẹ
sáng bừng trang cổ tích/ Soi cho con thoát kiếp nhọc nhằn/ Bàn tay mẹ chai sần
vất vả/ Dắt con qua vùng lam lũ mưu sinh”. Nhà thơ biểu hiện tình cảm biết ơn,
yêu thương gần gũi của một người con gái đối với mẹ: “Thời gian vụt trôi mẹ
quên đếm tuổi/ Mấy lần trốn trong tóc mẹ chơi trò đuổi bắt/ Mùa trôi ngang qua
mắt mẹ những lần thất bát/ Võng mạc lằn sợi vất vả thâm trầm/ Con trưởng thành
trên phên liếp bao dung” (Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm). Nhà thơ thấu cảm
nỗi vất vả, nhọc nhằn và hy sinh của mẹ bằng sự trải nghiệm của bản thân mình,
cũng vất vả, đớn đau vượt qua những thử thách của cuộc đời: “Bốn mươi năm con nếm
trải cuộc đời/ Thấu hiểu những buồn vui của người từng trải/ Cũng mang thai
hình hài máu mủ/ Để con thấu nỗi nhọc nhằn vất vả hy sinh”…
Về thi pháp nghệ thuật, Vọng núi là kết quả sự thể
nghiệm của Nguyệt Ánh với thể thơ 1 – 2 – 3, một thể thơ mới xuất hiện những
năm gần đây, có đặc điểm là ngắn gọn, cô đọng, mỗi bài chỉ có sáu câu và câu
thơ đầu cũng là tiêu đề của bài thơ (gần giống thơ Hai kư của Nhật Bản nhưng số
câu nhiều hơn). Đây là một thử thách đối với người viết vì không dễ gì gói gọn
tứ thơ, cảm xúc, ý tưởng, hình tượng trong một dung lượng nhỏ như vậy. Nguyệt
Ánh đã có sự táo bạo, nỗ lực và những thành công bước đầu được ghi nhận bằng Giải
thưởng cuộc thi thơ 1 – 2 – 3 của Ban tổ chức cuộc thi trên trang Văn học Sài
Gòn. Chị đã có những bài thơ hay như: Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên (tr
19), Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm (tr 21), Giữa bóng
tối và ánh sáng (67), Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện (tr
71), Mẹ quên tuổi mình trên vòm lá quê hương (tr 128), vv…
Một đặc điểm rõ nét là Nguyệt Ánh dùng với mật độ khá dày
phép chuyển nghĩa, lạ hoá để tạo nên nét mới mẻ, đa nghĩa cho hình tượng
thơ. Chị đã dụng công khi sáng tạo những ngôn từ và hình ảnh mới mẻ, táo bạo để
tăng sức biểu hiện cho thơ: “Người đàn bà gánh sóng lên phơi”,“Thu vặn mình bật
nhánh tình non”, “Mặc cho tình anh mãi vồng lên bất diệt”, “Để xuân trong em chực
trào núi lửa”, “Tháng giêng em mơn mởn dậy thì”, “Con cúi nhặt bàn chân cha
trong mùa đông cũ/ Ghép kỷ niệm xưa trên phiên nứa nhọc nhằn”, “mầm yêu”,
“nhánh mây”, “hạt mùa đông”, “nụ sóng”, “ đêm vỡ lòng”, “sợi nắng”, “ngực đất”, vv…
Tuy nhiên có những trường hợp liên tưởng quá xa, tạo ra sự tối nghĩa, khó cảm
nhận: “Đêm nỗi lòng tự khúc nỗi riêng em”, “Ý nghĩ chúng mình hôm nay dị bản”,
“Đích cuối cùng đến mộ địa tình anh”, vv…Thơ 1 – 2 – 3 đòi hỏi sự cô đọng và có
sức khái quát cao. Có lẽ vì vậy, nhà thơ đã dùng quá nhiều hình ảnh ước lệ quen
thuộc, nhiều ẩn dụ để xây dựng hình tượng thơ. Điều này làm chất thơ
nghiêng về suy tưởng mà nhạt về cảm xúc, hạn chế tính chất cụ thể, sinh động,
tươi mới và biến ảo của thi ảnh và thi cảm trong nhiều bài thơ, ví như: “Biển
chiều nay định vị trái tim em/ Bước chân khách cô liêu chợt như quen như lạ/ Vô
định lòng mình lạc bến nẻo xa/ Biển gọi tên em rộn khúc hoan ca/ Xếp lại nỗi nhớ
nơi ngăn tim ngập chìm hoài niệm”. Đây đó vẫn thấy một số bài cảm xúc thơ chưa
thật chín, chưa nhập sâu vào bản chất để biểu hiện được cái hồn của chất liệu
văn hoá Tây Nguyên. Hẳn nhiên, đây là một việc khó, đòi hỏi những nỗ lực tích
luỹ vốn văn hoá lâu dài, bền bỉ và sáng tạo.
Nhìn chung, Vọng núi là tác phẩm thành công của Trần
Nguyệt Ánh, thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với thơ và khát vọng vươn lên, khẳng
định bản sắc riêng của nhà thơ trong sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm có nội dung
phong phú, mang trị nhân văn tốt đẹp và nhiều nét mới mẻ, hấp dẫn về nghệ thuật
thể hiện. Đây là một đóng góp ý nghĩa của chị đối với thơ ca Đăk Lăk nói riêng,
thơ ca nước nhà nói chung. Rất mong Trần Nguyệt Ánh tiếp tục phát huy những
thành quả đã đạt được và nỗ lực hơn nữa để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đặc
sắc hơn trong tương lai.
24/9/2025
Nguyễn Phương Hà
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Hành trình chữ đến thế giới thơ
Trong “Văn học vết thâm”, cảm hứng
thơ được mở rộng từ kinh nghiệm riêng tư, tình yêu và khoái cảm, đến những ám ảnh
mang tính xã hội và lịch sử. Các bài thơ như “Người ch/nữ”, “Đường về nhà”
không chỉ phơi bày bi kịch của phụ nữ, mà còn gợi nhắc ký ức chiến tranh và hậu
chiến. Ở giai đoạn này, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cộng hưởng với những tầng ký ức
tập thể, khơi dậy âm vang của những mất mát chưa từng được bù đắp. Chữ, vì thế,
trở thành phương tiện ký thác, nơi lưu giữ và khắc ghi những thương tích lịch sử.
“nghĩa âm
chữ dương
đường lời sinh tử”
Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là hành trình kiến tạo chữ. Với chị,
ngôn ngữ vừa là phương tiện biểu đạt vừa là đối tượng sáng tạo, một sinh thể có
đời sống riêng: biết hít thở, đau đớn, yêu thương, tái sinh. Chữ trong thơ chị
trở thành trung tâm của mọi thao tác nghệ thuật và suy tưởng, được hình dung
như một thân phận, mở ra cho thơ khả thể sáng tạo vô tận. Qua “Di chữ” (NXB. Hội
Nhà văn, 2017), “Văn học vết thâm” (NXB. Hội Nhà văn & Nhã Nam, 2021) và những
sáng tác gần đây, có thể thấy hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh luôn hướng
tới một thế giới khác: vừa khai mở tầng sâu nội tâm, vừa kiến tạo cõi thơ riêng
biệt.
“tôi chỉ có bàn tay
cầm ngôn ngữ đau thương
không bản mặt tuyệt đối
tôi chỉ có một mình”
(Buồn thứ tự)
Khổ thơ tựa mảnh gương soi chiếu những bước đi đầu tiên của
tác giả trong tập thơ “Di chữ”. Ở đây, ngôn ngữ không còn là lớp áo khoác, mà
thành chính “bàn tay” để kiến tạo thế giới; nó gợi mở một cảm quan thi ca quyết
liệt: làm thơ không nhằm đi tìm sự vĩnh cửu hay tuyệt đối, mà dấn thân vào hiện
hữu mong manh, nhiều khi chỉ còn lại sự cô đơn. Cũng chính từ đó, ngôn ngữ trở
thành sức mạnh duy nhất để kiến tạo, để cất tiếng, để tiếp tục tồn tại giữa những
bất toàn.
Trong lời mở tập thơ “Di chữ”, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã viết: “Ngôn
từ – một tồn tại cưu mang, cho phép tôi bất chấp mọi nỗi bi ai mà tin rằng,
ngay cả khi ở dưới vực thẳm, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những đám mây bay –
những đám mây thơ; cho phép tôi, khi tỉnh cuộc lẫn tàn canh, tạ ơn loài người
yêu dấu bên mình./ Người làm thơ, có thể bằng thơ ca mà sống một cuộc sống
khác, từ thơ ca để được tái sinh.” Những dòng tự bạch này khẳng định: chữ
là nơi trú ngụ của linh hồn, là sức mạnh để con người hồi sinh, ngay cả trong
tuyệt vọng.
Từ nhan đề tập thơ “Di chữ”, nhà thơ đã gợi ra sự dịch chuyển,
rời bỏ, tái định vị liên tục của chữ, đồng thời cũng hàm nghĩa lưu giữ, di sản.
Trong thơ chị, chữ không bao giờ đứng yên trong những trường nghĩa quen thuộc,
mà luôn chuyển động, va đập, mở ra dư địa mới. Mỗi chữ vừa mang dấu ấn cá nhân,
vừa chất chứa ký ức cộng đồng và ý nghĩa phổ quát.
“thân thể tôi liệm bằng chữ, chữ cười buôn buốt”
“Nơi hợp chủng quốc ngôn ngữ
tôi phiên dịch tôi
tôi chảy một dòng sông khác”
(Những cuộc gặp dưới chân thánh giá)
Trải nghiệm chữ được dồn tụ thành ranh giới giữa hiện hữu và
hư vô, giữa sự tan rã của thân thể và khả năng cứu rỗi của ngôn từ. Ở đó, chữ
trở thành chất liệu để khâm liệm, là dòng chảy để tái sinh; mang tính hủy diệt
nhưng cũng mở ra khả năng chuyển hóa. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh chữ được
đặt vào những tình thế cực điểm – nơi con người bị thử thách khốc liệt, để rồi
từ chính ngưỡng cửa ấy, ngôn ngữ lại khai mở một lối đi khác. Có thể xem đây
như một bước vượt thoát: chữ không còn gắn với nỗi đau cá nhân đơn lẻ, mà nhập
vào dòng chảy mạnh mẽ, trở thành hành trình dịch chuyển bất tận. Thơ, vì thế,
là cuộc lưu trú miên viễn trong – qua – sau chữ, nơi mọi giới hạn lại mở ra một
cơ hội hóa sinh.
Từ cuộc khởi hành “Di chữ”, Thúy Hạnh đã khai mở thế giới chữ
quấn quyện, sinh sôi: “những con chữ múa gươm”, “chữ lim dim”, “chữ rầu
bóng tối”, “chữ vô nghĩa ý”, “những con chữ gân xanh chằng chịt”, “những con chữ
sốt rét”, “cung phi chữ”, “dan díu chữ”, “những câu thơ chữ thập”… Sự phong phú
ấy được tiếp nối trong những bài thơ mang tên “Phố chữ”, “Chữ”, “Cung phi từ”…
như một khẳng định rằng mọi sáng tạo đều khởi phát từ chữ, xoay quanh chữ và trở
về với chữ. Trong kiến tạo này, chữ trở thành một xã hội thu nhỏ, nơi nhà thơ
trao cho nó thân phận con người, với cảm xúc, dục vọng và cả sự bất toàn. Tính
đa hình sắc ấy đặt nền móng cho thế giới thơ đặc thù của Nguyễn Thị Thúy Hạnh:
một thế giới “thậm phồn”, luôn triển sinh và tự lấp đầy, nơi chữ có thể phân
thân để nhân lên sức sống, mở ra những chiều kích thẩm mỹ không giới hạn.
“Di chữ” đã hiện diện như chính khát vọng và lý tưởng của người
viết: “ta đi giặt áo thơ/ mặc mới một mùa chữ” (bờ cổ), “tôi tái
sinh lời/ chữ tái sinh tôi” (Thanh minh), “tôi một đời ăn chữ/ nay
tôi nhả ra tim” (lựa chọn), “không ai có thể giết tôi được, tôi tự vệ
bằng từ/… tôi thở bằng ngôn ngữ khác, tôi xới hành trình khác, tôi mặc một thế
giới khác, tôi cầm tay những người lạ mặt./ đám ma tôi quan tài chất đầy sách,
thân thể tôi liệm bằng chữ”… Ngôn ngữ được đẩy đến giới hạn: trở thành thân thể,
thành vũ khí tự vệ, thậm chí thành cả cỗ áo quan để khâm liệm. Nó đồng thời
mang tính song trùng: nuôi dưỡng và hủy diệt, triển nở và ám ảnh bởi cái chết.
Chính trong nghịch lý ấy, chữ mở ra biên độ và hàm nghĩa mới. Với Nguyễn Thị
Thúy Hạnh, chữ vừa là môi sinh, vừa là lối vượt thoát.
“Trên dây đàn
lả lướt
những ngón tay như hoa huệ như sóng lượn như cầu vồng
như con thuyền
đậu vào một bến sông.”
(Nhạc tranh)
Chữ biến thành cõi sống, chạm vào ký ức, khơi dậy niềm vui, nỗi
buồn, khát vọng, đồng thời kiến tạo một thế giới phồn sinh, xung động, hủy diệt,
tái tạo… Hành trình trong “Di chữ” là cuộc thử nghiệm cực điểm, nơi chữ vượt khỏi
chức năng ký hiệu để trở thành nguồn năng lượng sáng tạo, cuộn xoáy và lan tỏa
trong đời sống tinh thần. Từ đó, nhà thơ mở ra một thế giới thơ không ngừng biến
đổi, luôn tiềm ẩn những khả năng trong đối thoại giữa ngôn ngữ, thân phận và
nhân sinh.
“Di chữ” mở ra thế giới thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, nơi cảm xúc
và trải nghiệm cá nhân mở rộng thành suy tư về tình yêu, tuổi trẻ, ký ức, những
chuyến đi xa, về Hà Nội, lịch sử và văn hóa. Đồng thời, thơ chạm tới những ám ảnh
thân phận, nỗi đau và sự mất mát, những dằn vặt dục vọng, những day trở của tôn
giáo – tâm linh, ký ức chiến tranh và bi kịch nhân loại. Đó là không gian đối
thoại đa tầng, nơi ý nghĩa chồng lấn và đan xen, buộc người đọc vừa theo dõi nhịp
xao động của nội tâm, vừa nhập cuộc vào các liên tưởng rộng mở của cộng đồng,
nhân loại. Trong chiều sâu ấy, văn chương, nghệ thuật và ngôn ngữ hiện lên như
định mệnh, như vết thương, cũng là nơi cưu mang và giải thoát.
Nếu “Di chữ” khẳng định chữ như một hữu sinh gắn với thiên
tính nữ, thì tập thơ “Văn học vết thâm” đã đưa hành trình chữ của Nguyễn Thị
Thúy Hạnh đi xa hơn: chữ xuyên qua vùng tối, lắng đọng ký ức cá nhân và cộng đồng,
hòa giữa nỗi đau riêng và thương tích lịch sử. Ngay từ nhan đề, tập thơ đã gợi
một sắc thẫm ám ảnh: chữ mang trên mình vết bầm, dấu chỉ khó phai, trở thành chứng
nhân cho những trải nghiệm của cá nhân lẫn tập thể.
“anh chờ em mùa thu
nói rằng sẽ gửi cho anh
một email khi nỗi nhớ tràn vực chữ
cơ thể anh đã chất đầy mưa úa”
(Email);
“em bảo anh đừng buồn nữa nghe không
dẫu ngày mai cuộc đời khép cửa
anh biết mình vẫn sống được qua ngày
bằng chữ”
(Xô nát thị thành)
Chữ trở thành dòng chảy phức hợp, nơi dồn tụ khát vọng và cả
tuyệt vọng. Trong “Email”, chữ mở ra tựa vực thẳm, gắn với mất mát, chia lìa, ở
“Xô nát thị thành”, chữ lại hóa nơi nương náu cho bi kịch, đổ nát. Cả hai khổ
thơ đều cho thấy chữ đã rời khỏi quỹ đạo thuần túy, mở biên độ rộng lớn, nơi chữ
va đập trực diện với đời sống, với sự xói mòn, với khát vọng tồn sinh. Sự chuyển
dịch ấy cho thấy trong hành trình của Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chữ đã vượt khỏi
tính nữ trong “Di chữ” để kiến tạo một thế giới khác: phong phú mà hỗn loạn,
chan chứa tình cảm mà cũng đầy bất trắc. Chữ ở đây bạo liệt và mong manh hơn,
có thể nâng đỡ con người vượt qua vực thẳm, nhưng cũng phơi bày những thương
tích khó lành. Chính sự căng kéo ấy đã làm nên một thế giới đa thanh, biến động,
chạm tới những cung bậc sâu nhất của tâm hồn.
Trong “Văn học vết thâm”, cảm hứng thơ được mở rộng từ kinh
nghiệm riêng tư, tình yêu và khoái cảm, đến những ám ảnh mang tính xã hội và lịch
sử. Các bài thơ như “Người ch/nữ”, “Đường về nhà” không chỉ phơi bày bi kịch của
phụ nữ, mà còn gợi nhắc ký ức chiến tranh và hậu chiến. Ở giai đoạn này, thơ
Nguyễn Thị Thúy Hạnh cộng hưởng với những tầng ký ức tập thể, khơi dậy âm vang
của những mất mát chưa từng được bù đắp. Chữ, vì thế, trở thành phương tiện ký
thác, nơi lưu giữ và khắc ghi những thương tích lịch sử.
Về nghệ thuật, “Văn học vết thâm” tiếp tục đẩy mạnh tính khai
phá từ “Di chữ”, nhưng với cường độ và phạm vi rộng hơn. Nếu “Di chữ” thiên về
thử nghiệm chữ như một hữu sinh, thì ở “Văn học vết thâm”, chữ được đặt trong
những cực hạn biểu đạt, gắn với thương tích cá nhân và ký ức cộng đồng.
“một thân thể phì nhiêu chữ
mọc lên như cái cây xanh tốt mà
nỗi buồn là con sâu đo bầu trời
dằng dặc bản nháp gió”
(Bóc một lớp vỏ);
Sự chuyển dịch của chữ tạo nên một không gian nghệ thuật linh
hoạt và đa tầng, nơi chữ có khả năng đối diện với mất mát, ghi lại những vết
tích thời gian, đồng thời mở ra các liên tưởng vượt ra ngoài đời sống nhân
sinh. Thế giới thơ hình thành từ sự vận động của chữ trở nên giàu năng lượng, gợi
cảm giác bền bỉ, phơi bày những khoảng trống, những dấu vết khó phai. Chính nhờ
sự di chuyển và biến đổi liên tục của chữ, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh kiến tạo một
cõi riêng, nơi ký ức, cảm xúc và ý niệm hội tụ, đồng thời mở ra những năng lực
khả dĩ trong cảm nhận và đối thoại.
Trong “Văn học vết thâm”, tác giả sử dụng thơ văn xuôi, cấu
trúc liệt kê, dòng ý thức phi logic, tạo dựng một trường ngôn ngữ vỡ vụn, xoắn
vặn, chập chờn. Chính sự phân mảnh ấy phản ánh tinh thần tác phẩm: một thực tại
thiếu khuyết, rạn nứt, luôn trong tình trạng bất an. Ở đây, chữ trình hiện một
cơ thể chằng chịt vết thâm, mang ký ức tập thể.
“anh trượt trên thân thể nàng một bờ dốc tuyết/ người đàn ông
xa lạ/ người đàn ông thân thuộc/ sau cửa kính quán café/ khuấy đôi mắt loãng/
cuối con đường nhỏ.”
(Yoko Yoko);
“Một siêu thị nước mắt không bán có, không bán không, không
bán không có, không bán có không không có, không bán không không không có có
có, không bán có không không có có không”
(Khả thể)
Chữ trở thành lực đẩy để khai mở những chiều kích mới, làm nổi
bật mối quan hệ phức tạp giữa cá nhân, cộng đồng và dòng chảy thời gian. Sự
chuyển dịch này tạo ra một thế giới thơ luôn dao động, vừa tập trung, lan tỏa,
hiện thực và tưởng tượng, đồng thời mở ra những khả năng liên tưởng đa dạng, từ
những mảnh ký ức, nỗi đau, đến những trăn trở về tồn sinh và văn hóa. Thế giới
thơ ấy là không gian của vận động liên tục, nơi chữ không ngừng thay đổi vị
trí, chất liệu và chức năng, khiến người đọc phải theo sát những biến chuyển
tinh vi, cảm nhận được những khoảng trống, những vết tích và những tiềm năng
chưa được khai mở.
Trong giai đoạn này, dòng chữ trở thành phương tiện mở rộng
hư huyễn, gia tăng tính ám ảnh và phức hợp của hình ảnh, cho phép người đọc tiếp
cận những khoảng không tiềm ẩn, vừa thực vừa ảo diệu, nơi các cấu trúc ngôn từ
và ý nghĩa liên tục biến đổi, đồng thời khơi gợi nhận thức sâu sắc về ký ức, cảm
xúc và bản sắc văn hóa.
“trong thư viện người thủ thư ngủ gục
thế mà anh lại mơ
về một dãy thuyền đậu như dải khăn
quấn quanh cổ sông
em ba ngấn”
(Tình nhân/Mở cửa)
Sự hòa quyện tinh tế giữa tính trừu tượng và cụ thể, giữa cảm
xúc cá nhân và liên tưởng vượt ra ngoài bản thân, khiến mỗi bước đi của chữ mở
rộng biên độ tưởng tượng và khơi dậy những rung động sâu kín nơi người đọc.
“Văn học vết thâm” đánh dấu giai đoạn chín muồi trong hành
trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh, mở rộng các mối liên hệ với cộng đồng, lịch
sử và xã hội, trở thành phương tiện ghi lại ký ức, lưu giữ thương tích, đồng thời
phản chiếu những dang dở, ngổn ngang của đời sống. Tập thơ là nơi chữ hiện hữu
như một chứng nhân, chuyển dịch, biến đổi để kiến tạo những không gian trải
nghiệm đa chiều, nơi cảm xúc, trăn trở và những dấu vết lịch sử hội tụ. Thế giới
thơ trong “Văn học vết thâm” vì thế vừa phong phú vừa căng thẳng, gợi nhắc những
thương tổn khó có thể chữa lành, đồng thời mở ra những khả thể nhận thức và
liên tưởng mới cho người đọc. Đây là cõi nghệ thuật, nơi chữ là hiện thực sống
động, luôn vận động và mời gọi người đọc tham dự, khiến mỗi trải nghiệm thơ đều
trở thành cuộc đối thoại giữa quá khứ, hiện tại và những dư địa chưa định hình.
*
Sau hai tập thơ đã công bố, Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã đẩy “con
đường chữ” đi xa hơn trong những bài thơ mới viết gần đây: chữ được giải phóng
khỏi ranh giới định hình, mở rộng biên độ, trở thành không gian liên văn bản.
Trong những bài thơ như “Symphony”, “Trong đầm”, “Bên dòng Hogsmill”, “Vào mùa
thu”, “Trôi từ Huế đến Quảng Trị sẽ mất bao lâu?”, “Nguyên nhân mất ngủ”…, chữ
vận hành theo những chuỗi ý tưởng phi lý, dòng ý thức bất định, khiến ngôn ngữ
phóng khoáng, chảy trôi. Người đọc ngỡ đi vào một giấc mộng, nơi mỗi chữ, mỗi
hình ảnh luôn dao động, tạo ra những khoảng trống đầy cạm bẫy, nơi hiện thực ẩn
khuất trong huyền hồ, khiến trải nghiệm thơ vừa mê hoặc vừa gai gợn.
“Bàn tay nàng vẫn ở lại với anh, ngọ nguậy, trong căn phòng tối
tăm này
Nó cầm ánh sáng, đốt cháy cặp mắt
Màu xanh nở, những ý nghĩ về nàng phồng lên
Màu vàng bốc cháy, một nụ hôn xám
Tiếng vó của thân xác”
(Symphony);
“Vào mùa thu, một người câm mở miệng, một người ao ước được
câm hoàn toàn, những tiếng nói chỉ tồn tại bên dưới lớp da.
Mỗi cánh rừng là một âm tiết. Trong đêm tối, hãy thử chơi với
những cơn bão, sau đó, dựng lại một con đường đã bị lũ cuốn vào mùa thu.”
(Vào mùa thu)
Hành trình chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh đang ở giai đoạn tràn
đầy sức sống và triển nở. Chữ trở thành chất liệu kiến tạo một thế giới, nơi
màu sắc, âm thanh, nhịp điệu hòa quyện với mê mị, kiến tạo chiều sâu thẩm mỹ,
làm nên dấu ấn riêng biệt. Sự chuyển dịch ấy khiến thơ gần gũi và cũng xa lạ, cụ
thể và trừu tượng, tạo những liên tưởng ám ảnh, nơi cảm xúc và ký ức liên tục
biến đổi, xô giật, phục hồi. Trong không gian ấy, chữ là động lực sống, chất
kích thích tưởng tượng, trở thành những điểm nút mở rộng biên độ ảo mộng. Thế
giới thơ vì thế mở ra phong nhiêu, bất tận, nơi mỗi chữ, mỗi hình ảnh đều dẫn dắt
người đọc vào những cung bậc cảm xúc sâu kín, khiến trải nghiệm thi ca trở
thành một hành trình xuyên qua ánh sáng, bóng tối, tiếng động và những rung động
tiềm thức.
*
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định
một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn
hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt
thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời
là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một
thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Từ nền tảng hiện sinh, thơ chị từng bước triển nở thành diễn
ngôn nữ quyền mạnh mẽ, nơi chữ trực tiếp gánh vác và biểu đạt thân phận người nữ:
gợi cảm, nhục cảm, vừa chịu nhiều thương tích. Nhà thơ khẳng định quyền được
nói, được cất tiếng bằng chính ngôn ngữ của giới mình. Chữ thành nơi hiển lộ sự
khác biệt, khẳng định bản ngã. “chúng tôi nằm bên nhau, sau tấm rèm của một
bài thơ/ mở tìm và sắp xếp/ ý nghĩa của cơ thể/ lắng nghe/ sự cọ xát/ nhịp điệu
khô hoặc ướt, những chuyển động từ không gian khác” (Những bản dịch). Chữ ở
đây vừa chuyển tải nhịp điệu, va chạm, vừa lưu giữ những rung động nội tâm, hòa
quyện giữa thân thể và ngôn ngữ. Tác giả đã biến chữ thành nội lực sống, gợi cảm
mà ám ảnh, mở ra hành trình trải nghiệm thơ không giới hạn, nơi mọi rung động đều
được khuếch đại và nhân lên trong nhịp điệu chữ.
Một chiều kích quan trọng trong thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là
tinh thần phản tỉnh xã hội gắn liền với ký ức cộng đồng. Từ những trang thơ viết
về hậu chiến, về miền Trung khắc nghiệt, về hình tượng người mẹ, cho đến những
giấc mơ phi lý của hiện tại, thơ chị không khép kín trong biên độ riêng tư, mà
luôn mở ra đối thoại với số phận cộng đồng. Chữ trở thành chứng nhân lịch sử,
nơi ký thác và lưu giữ những “vết thâm” của thời đại. Chính từ vai trò ấy, chữ
vừa cất giữ nỗi đau, vừa gợi nhắc, cảnh tỉnh, như cách nhấn mạnh rằng quá khứ
không thể và không được phép rơi vào quên lãng. “Mẹ, vẫn mở to hai hố mắt,
mở mãi, tìm tôi trong đêm/ Và tôi, nhảy qua hai hố sâu đó/ Để tìm đường về nhà” (Đường
về nhà). Hình ảnh người mẹ biểu tượng của ký ức cộng đồng, in đậm dấu ấn đau
thương, mất mát. Không gian thơ ám ảnh, liên kết quá khứ và hiện tại, biến hành
trình tìm kiếm và đối diện với nỗi đau thành trải nghiệm nội tâm của nhân vật
trữ tình.
Điểm độc đáo trong thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là kiến tạo một mỹ
học chữ mang tính cá nhân. Thông qua các thủ pháp như tách, ghép, kéo giãn, liệt
kê…, chữ không chỉ giữ chức năng biểu đạt mà còn hiện lên như một hiện hữu cụ
thể, buộc người đọc không chỉ tiếp nhận bằng tri giác ngôn ngữ mà còn chiêm ngắm,
chạm tới và cảm nhận bằng nhiều giác quan. Trong các bài thơ đồ hình, thơ thị
giác của “Văn học vết thâm” (“Đàn bà”, “Lá”, “Mộc”, “Nhịp điệu”), chữ được sắp
xếp theo khoảng trống, chồng lớp, tạo ra nhịp điệu và hiệu ứng thị giác mạnh mẽ,
cho người đọc chiêm ngưỡng hình tướng và chuyển động của chữ. Trong bài thơ
“Đàn bà”, chữ như trải theo thân thể người nữ, gợi sự mềm mại và tạo cảm giác
dao động; bài “Lá” rải chữ như mạng lưới hoặc vết rạn, gợi liên tưởng đến thiên
nhiên và vòng đời. Hai bài thơ “Mộc” và “Nhịp điệu” mở ra không gian chồng lớp,
phân tách và hội tụ, làm nổi bật tính dồn nén, bật nảy của cảm xúc. Thời gian
trong thơ cũng trở nên linh hoạt: các lớp chữ chồng chập, xen kẽ quá khứ, hiện
tại và tưởng tượng, khiến nhịp điệu vang động mà tĩnh tại, vừa ghi lại ký ức vừa
mở ra viễn mộng. Thơ vì thế trở thành bức tranh sống động, nơi chữ kiến tạo
không gian trải nghiệm trực tiếp, thị giác và xúc giác.
Thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh vận hành như một hữu sinh, gắn bó mật
thiết với nhịp điệu tâm/ sinh lý, hơi thở, cử động và cảm xúc, khiến chữ vừa gợi
hình thể, vừa hàm chứa sinh lực. Nhạc tính của chữ được khai thác tinh tế, để mỗi
âm tiết, mỗi dòng thơ vận hành như một giai điệu, cộng hưởng giữa cảm xúc và
thi ảnh, gia tăng sức ám ảnh và cảm giác huyền hồ, mộng mị. Trong cấu trúc ấy,
chữ trở thành hệ sinh thái tự hành, nơi các yếu tố ngôn ngữ không ngừng phân
tách và hội tụ; đồng thời, chữ luôn trong trạng thái hóa sinh, mở ra những viễn
tượng trong nhận thức và trải nghiệm thẩm mỹ. Nhờ đó, thế giới thơ của Nguyễn
Thị Thúy Hạnh hiện ra như một không gian bất định/ tận, không ngừng biến đổi
nhưng vẫn duy trì trật tự nội tại, nơi sự hỗn loạn và hài hòa cùng tồn tại
trong thế cân bằng mong manh mà bền vững.
Ở giai đoạn gần đây, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy khả
năng liên văn bản, trở thành một trường lực phức hợp, dung hòa nhịp điệu cảm
xúc, ký ức, hình ảnh và trải nghiệm.
“vì trăng sáng, vì thiếu máu lên não, vì huyết áp thấp, vì
mùi khuynh diệp, vì tiếng chuông gió, vì màu xám, vì những chữ cái đang già đi
trong bóng tối, vì người chết, vì người – chết – vì – người chết, vì ăn chay,
vì Irene của Poe, vì Insomnia của Linda Pastan, vì một cơ thể trôi dạt, vì nước
mắt, vì nốt muỗi đốt đã sưng to bằng con chim bồ câu, vì tiếng chiếp chiếp của
ánh sáng, vì khuôn mặt bệnh nhân như quả cau héo, vì thuyền tròng trành, vì tiếng
ngáy mở ra một đường hầm, vì một tiếng động ướt, vì xương sống của câu thơ kêu
răng rắc, vì hiện thực, vì hiện thực xã hội chủ nghĩa, vì mưa tháng giêng.”
(Nguyên nhân mất ngủ)
Sự dồn nén và cách “liệt kê” liên tiếp hình ảnh tạo ra hiệu ứng
ảo mộng, đưa người đọc vào một không gian vừa hỗn loạn vừa trật tự, nơi mọi
giác quan bị kích thích và liên tục bị thử thách. Con đường chữ mở ra một thế
giới thơ vô tận, nơi chữ mang trọng lượng vật chất và năng lượng cảm xúc, đồng
thời ghi lại những vết tích cá nhân lẫn tập thể.
Đồng hành cùng Nguyễn Thị Thúy Hạnh, người đọc được dẫn dắt
vào một thế giới thi ca khác biệt, đậm căn tính sáng tạo. Từ góc nhìn cá nhân,
có thể kỳ vọng rằng hành trình ấy sẽ mở ra nhiều miền sáng hơn, nơi niềm vui và
cảm giác an lành lan tỏa mạnh mẽ hơn. Bởi suy cho cùng, thơ cũng là một liệu
pháp chữa lành: giúp con người tìm lại sự cân bằng sau những xáo động, nâng đỡ
sau những đổ vỡ, nuôi dưỡng niềm tin để tiếp tục tồn tại. Trong chiều kích ấy,
thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh không chỉ cất lên tiếng nói riêng tư, mà còn trở thành
nơi nương náu tinh thần, minh chứng rằng ngay trong bóng tối, chữ vẫn có thể tỏa
sáng, gieo vào hồn người hạt mầm hồi sinh.
Nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, sinh năm 1987 tại Thanh Hóa, từng
giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có thời gian tu nghiệp tại Bắc
Kinh (Trung Quốc). Tháng 12/2019, chị bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Văn học
tại Học viện Khoa học xã hội. Hiện chị là nghiên cứu viên Phòng Văn học nước
ngoài, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ngoài sáng tác thơ,
chị còn viết tiểu luận, phê bình văn học và dịch một số tác phẩm từ tiếng Anh,
tiếng Trung sang tiếng Việt.
Con đường chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trình hiện như nguồn
năng lượng vận động liên tục, dồn nén thành áp lực và có khả năng bùng nổ thành
những mảnh vụn bất định. Dòng năng lượng ấy dẫn dụ người đọc vào miền sáng tạo,
nơi cảm xúc, ký ức và tưởng tượng hòa quyện, từ đó mở ra những khả hữu thẩm mỹ
bất ngờ cùng trải nghiệm ám ảnh khó dứt. Chính sự kiến tạo này giúp thơ chị vượt
qua lối viết của các tác giả cùng thế hệ, tạo một sắc diện mới lạ cho thơ Việt
đương đại, đồng thời mở ra tiềm năng chưa từng được thử nghiệm trong tổ chức
ngôn ngữ và hình dung về bản chất thi ca.
Nếu nhiều tác giả trưởng thành sau Đổi mới (từ 1986) chủ yếu
dừng lại ở việc giải phóng cái tôi trữ tình và làm rạn vỡ những khung khổ thi
pháp truyền thống, thì Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã đi xa hơn khi kiến tạo một mỹ học
riêng: biến chữ thành môi trường tồn sinh tự thân. Trong không gian ấy, ký ức,
xúc cảm, vô thức và tưởng tượng giao thoa, cộng hưởng, từ đó sản sinh những
hình thức thẩm mỹ mới mẻ, vừa gắn với trải nghiệm cá nhân, vừa mở rộng biên độ
đối thoại của thơ với đời sống đương đại. Chính sự dịch chuyển từ giải phóng
cái tôi sang kiến tạo một “cõi chữ” độc lập đã cho thấy nỗ lực cách tân mạnh mẽ
và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Thị Thúy Hạnh.
Ở giai đoạn hiện tại, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh trở thành cuộc
phiêu lưu của biến thể ngôn ngữ; không hướng tới một đích cố định mà luôn vận động,
dịch chuyển và biến hóa. Sự dịch chuyển ấy vừa đặt ra thách thức vừa mở ra cơ hội:
liệu thơ Việt đương đại có đủ sức mạnh và độ mở để đồng hành, vượt thoát giới hạn
cũ và kiến tạo một giai đoạn mới trong tiến trình hiện đại hóa thi ca? Từ hành
trình chữ, thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy: ngôn ngữ chỉ thật sự sống động
khi không ngừng biến hóa, và nhờ đó, thơ ca mới có thể hiện hữu như một thực thể
bền lâu.
Hải Phòng, 25/8/2025
Mai Văn Phấn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
Mùa thi - Mùa nhớ lan man
Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...



.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
