Với Quê xa, Ðà Nẵng
Với Trường xưa, Phan Châu Trinh
Và Mỗi Người Bạn Luôn Hiện Mới.
Bạn tôi, nếu mới gặp lần đầu, ta có thể nghĩ đấy là gã tay chơi, kẻ sống theo lề
lối, sinh hoạt sôi nổi bề mặt. Cũng có thể đúng như thế, một phần do bạn vốn
môn đồ Thiếu Lâm, vô địch điền kinh học sinh, khuôn mặt sắc nét tươi vui, đều đặn.
Bạn cũng có thể trở nên một tay hào hoa ăn chơi không âu lo với cung cách quen
thuộc của dân học trường Tây, gia đình tài sản lớn. Nhưng, đời bạn đã không
theo con đường dễ dàng thuận lợi đó. Bạn chọn ngã chông chênh, nguy biến hơn,
cũng là lối đi rực rỡ huyền hoặc của tất cả nhân sinh - Ðường của người-yêu-
người với phương tiện đặc thù để diễn đạt tình yêu ấy - Nghệ Thuật. Và bạn đã
chọn hướng nghệ thuật hàng đầu - Âm Nhạc - Với thanh sắc kỳ ảo của riêng.
Bạn tôi, là một cô gái tội nghiệp trong số những thiếu nữ hẩm hiu bất hạnh. Bạn
không có nét quyến rũ, lộng lẫy dù đang lúc thanh xuân khởi sắc. Bạn chỉ là một
vóc dáng nhỏ bé linh hoạt, tóc nâu nhạt và đôi mắt luôn sáng ánh ngạc nhiên,
loáng lạ lẫm của tâm hồn đơn giản trung hậu trước những điều dữ dội, đe dọa từ
cuộc sống. Bạn mất cha từ tấm bé nên gia đình đã là một điều phiền muộn u uẩn,
và lớp học, nơi bạn hằng ngày nôn nao đi về, đôi khi cũng gây nên đớn đau...Tân
không có quần áo mới! Tân mặc quần... cháo lòng!". Gã bạn nhỏ cùng lớp chỉ
do nghịch ngợm vô tình nói lên câu ác độc... Bạn bật khóc, lòng ghi sâu mối
rúng động gớm ghê. Nỗi xót xa khi trái tim bị xúc phạm. Trong đơn độc tủi hổ của
tuổi lớn lên, Bạn như con chim nhỏ giữa đám lá sũng nước. Bạn cảm thấy bị đe dọa,
và cần được che chở.
... Hai bạn tôi yêu nhau từ một đêm trăng.
Gã thanh niên quả tình chỉ để ý đến người thiếu nữ như một phản ứng bù trừ. Anh
học trường Pháp từ bậc tiểu học nên quen giao tiếp phóng khoáng, văn minh. Từ
căn gác của gia đình, ngôi nhà lầu mặt tiền con đường lớn nhất thành phố, hằng
ngày anh nhìn thấy cô bé từ xóm nhà nghèo đi ra. Xóm nhỏ phần lớn là nhà tranh
quây quần quanh khu đường cát lỡ. Những lối đi cát xám, nhỏ vừa đủ hai xe đạp
tránh nhau, chạy vướng vít dưới tàng cây sầu đông, vào mùa Hè thoáng hương thơm
ngan ngát theo gió từ vịnh biển tản lan. Cô bé (Khi khởi đầu câu chuyện, chỉ là
cô bé gái vừa qua tuổi dậy thì) đã đi từ hẻm cát ra đến gốc cây đa, tiếp tục
theo một con lộ khác lớn hơn, cũng là đường đất cát mà bộ hành chỉ xử dụng hai
lối nhỏ hai bên, khoảng giữa tâm đường, cát gồ lên gò, đống. Ði hết đoạn đường
cát, cô mới rẽ vào phố chính trải nhựa.
Một ngày, không nhớ rõ là bao giờ, người thanh niên thấy ra cô bé... Sao
"nó" có nét mặt chịu đựng tội nghiệp đến thế?! Vẻ lặng lẽ cam phận
này rất dễ nhận vì cô vốn có nét sắc sáng loáng tinh anh với sống mũi cao thẳng,
da trắng và ánh mắt loáng xanh linh động. Anh theo dõi bước chân của cô bé như
thế từ lúc nào không rõ. Chỉ biết, Hè vừa qua, cô gái đã là một thiếu nữ toàn hảo,
nói lời tiếp xúc đầu tiên: "Thưa anh, em đã đậu trung học, đậu kỳ vừa rồi.
Ðậu bình thứ". Giọng nói trong trẻo, tự tin, chững chạc.
Hai bạn tôi tiếp xúc quen nhau sau ba năm nhìn thấy vào ngày Hè 1958. Mùa sống
động nồng nhiệt của tuổi trẻ và đất trời. Họ thường hẹn gặp nhau nơi vịnh biển
trong rừng dương liễu. Họ chọn khu rừng gần hồ nước, hướng về làng Thanh Bồ,
nơi lau lách, đồng cỏ ngút ngàn, tiếp giáp rừng dương, bờ biển để thiên nhiên
còn nguyên độ hoang sơ thuần nhã thích đáng, hòa hợp với tình yêu trong sáng,
thắm thiết của họ. Ở đấy không bóng người, chỉ tiếng gió vi vu xao động qua
tàng cây và hàng lau nghiêng ngã. Chuyến tàu hỏa chở hàng từ ga chợ Hàn trở về
gióng âm thanh xa vắng, thả lên trời vệt khói đen mỏng manh chỉ làm tăng thêm độ
u tịch của cảnh sắc. Ðoàn xe đôi khi bị mất hút đâu đó sau ngàn lau... Ở đây
yên tĩnh quá anh há.. Người con trai cười nhẹ. Anh chỉ có nụ cười trẻ trung
chân thật này, biết nói thế nào bằng tiếng Việt?! Quả thật âm thanh, ngôn ngữ
có một khoảng trống không vận dụng được. Chưa vận dụng được. Anh bất lực để nói
lên lời cụ thể. Anh cần một cách thức, điều kiện diễn đạt khác, đầy đủ, chính
xác, và thắm thiết hơn.
Một mùa Hè, một năm đi qua, nay lại đến mùa Hè thứ hai từ lúc thương mến. Ngày
Hè năm 1959, cô gái đột nhiên vắng mặt. Gọi là "đột nhiên" vì do phản
ứng của mối liên hệ đang bình thường, đang thắm thiết, bỗng nhiên bị cắt đứt.
Người thiếu nữ phải theo đoàn học sinh cùng trường đi cắm trại vào dịp cuối
năm. Cô vắng mặt từ sáng sớm, đến chiều người thanh niên động tâm. Chiều, khoảng
thời gian sau khi tan buổi học, từ lúc nắng sáng chuyển bóng đêm... Không hẳn
thế, thật sự chỉ là ngày hôm qua, chiều trước của buổi chiều ghê gớm này. Anh đạp
xe ra vịnh biển, đếân nơi vùng lau lách quen thuộc, để chân trần di động trên
bãi cỏ, gò cát... Anh đi đến chỗ mép hồ, ngồi xuống, nhặt quả thông, khối cỏ
tròn, tua tủa những cọng sắc như lông nhím, thảû khối cỏ quay lông lốc theo triền
dốc cát... Ðầu ngọn cỏ nhọn sắc đâm vào tay, hơi mát đầm đầm dưới chân, tiếng
rì rào của gió khua lá, mặt nước hồ hắt khối nắng vàng khô úa. Hình như tất cả
cảnh sắc đang sụp xuống tàn tạ, hấp hối.. Khối đất trời đang đổi thay. Ðang chết.
Chịu không nổi, anh trở lại thành phố. Phải đi tìm... Phải đi tìm...
- Ông biết học trò trường Phan Châu Trinh đi cắm trại ở đâu không ?
Người bạn anh, vốn huynh trưởng một đoàn Hướng Ðạo tuy biết rõ tất cả địa điểm
cắm trại của vùng núi đồi, thôn dã quanh thị xã, không trả lời liền. Anh ta
nhìn vào nét mặt thê lương ủ dột của bạn... Ông làm sao thế Không có gì, tôâi
muốn biết họ đi cắm trại ở đâu. Cần lắm. Cuối cùng, cả hai đến chân đồi Mỹ Thị
lúc ngày hết và trăng đã lên.
Giải đồi dương liễu loang loáng, hiện ra mới mẻ theo từng khoảng khắc dưới
trăng với sợi thân lá óng màu sáng bạc xôn xao chuyển động, xô đẩy đùa trăng đi
như liếp sóng.. Ta có cảm giác như những lượn sóng bạc đẩu đâu từ ngoài trùng
dương xa xôi sau khi chạm đến bờ đã tràn qua giải cát, theo trăng lên đồi, tiếp
ngọn cây, xô liếp sóng lá cồn lên không gian xanh sáng... Nhưng sóng lá thông
còn phải đi hết lộ trình bất tận, chuyển xuống chân đồi, phía làng nhỏ và giòng
sông, khua mặt nước làm trôi những giải đường trăng thiêm thiếp tan vào bờ lau,
in hình khối núi Non Nước chìm chìm im lặng... Trên sóng nước, giữa giòng
trăng, từ con đò len lỏi trong lau sậy bạn tôi đưa ống sáo lên môi. Anh dùng
nguồn thanh âm của tre trúc thay tiếng lời, những nội dung mà ngôn ngữ bình thường
hạn hẹp không nói được. Từ trên đồi cao, mấy trăm học sinh ngồi dậy. Họ đồng im
lặng nghe giữa hơi gió cuốn lá, sóng trăng miên man thanh âm chuyển động kỳ ảo
- Giọng tiêu trúc ca ngợi, tỏ tình. Người thiếu nữ bật khóc. Bóng lá thông khi
gió thổi lệnh làm lộ rõ ngấn nước mắt trên má long lanh.
Và, Nguyễn Ðình Nghĩa cùng Trịnh Diệu Tân đã nuôi dưỡng, vượt sống, hiện thực
tình yêu hằng suốt hơn ba mươi năm, từ đêm Hè không hề mất độ sáng, và âm thanh
tiếng sáo vĩnh cửu màu trăng.
Cần gì phải cậy đến điển tích, sự việc người xưa, chuyện thần thoại... Những
Trương Lương, Trương Chi, Orphée để diễn đạt, biểu hiện sức mạnh kỳ diệu của
tình yêu, âm nhạc. Ðêm trăng mùa Hè 1959 nơi đồi Mỹ Thị đã không chỉ của riêng
Nguyễn Ðình Nghĩa và Trịnh Diệu Tân, mà đã là cảnh sắc, thanh âm, giòng rung động,
sức sống của tất cả lớp tuổi trẻ ngày ấy. Tuổi trẻ chỉ có một lần trong đời, mà
ba mươi, bốn mươi năm sau ở chốn cuối trời, nơi xứ lạ hoặc còn trong vùng đất
nước tang thương... Những người thầy tóc bạc Nguyễn Ðăng Ngọc, Bùi Tấn, Trần Tấn,
những người anh, người chị, Trần Ðại Tăng, Trần Ðình Hoàn, Ðặng Thị Liệu, Trần
Thị Kim Ðính... Những học trò, Vũ Ngự Chiêu, Nguyễn Bá Trạc, Hà Nguyên Thạch,
Bùi Ngọc Tô, Lê Chí Thảo, Tôn Thất Tuấn & Hải, Võ Thị Thương, Lê Thạch
Trúc, Lê Như Hảo, Nguyễn Liên Hương, Huỳnh Thị Phú, Võ Hồng Diệp.. Và rất nhiều
người. Tất cả đồng một lần xanh ngắt sống lại, một lần linh động phơi phới, khi
nhắc lại trường xưa, bạn cũ... Vô vàn tiếng sáo đêm Hè Mỹ Thị sáng giòng trăng.
Và quả thật, một mình tôi sẽ không đủ sức đi hết đoạn đường khó nhọc từ mấy
mươi năm qua nếu không được sức nâng thường trực bền bỉ, cụ thể từ bằng hữu.
Tôi không thể nào sống qua những ngày trẻ tuổi trầm luân thiếu đói nơi căn gác
gỗ đường Tô Hiến Thành, Huế nếu không có Trạc, có Nghĩa, có Dinh...Tôi cũng
không thể nào qua khỏi mười bốn năm lính điêu linh nếu không có những Mễ, Lạc,
Lô, Tâm... Ðám bạn lính chia với tôi từng ngày, từng giờ bão lửa.
Và cuối cùng, từng phút giây đương cự nơi ngục tối. Tôi biết sống cùng Ai, nếu
không với những Người Bạn. Mỗi người bạn hiện hữu rõ từng chi tiết, nét mặt, tiếng
lời. Sự thiết thân mầu nhiệm này có thật. Nên từ bóng tối, cảnh chết, tôi đã phục
sinh...
Trăng giãi vàng rơi liếp sóng loang
Lau lách im lặng dưới đêm ngàn
Ngũ Hành năm cụm nằm thiêm thiếp
Thuyền chở tiêu sầu qua quá canh
......
Con đâu? Bạn đâu? Trời xưa đâu?
Ðêm đã qua lâu, bóng tối sâu ...
Còn chút hơi tàn hong nhịp thở
Nhớ Người ghìm tiếng thét chìm đau...
Nguyễn Ðình Nghĩa không chỉ vận động giòng âm hưởng từ ống trúc để bày tỏ tình
yêu. Anh hiện thực, hữu hiệu hóa khối năng lực thanh âm kia thành phẩm lượng vật
chất để nuôi dưỡng, duy trì, khai triển tình yêu kia trong đời sống. Anh cùng
Người Yêu kết hợp từ tiếng sáo đêm trăng, bỏ Ðà Nẵng vào Sài Gòn những ngày đầu
thập niên 60. Cả hai vào Sài Gòn với tay trắng. Tay trắng nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng- Chỉ với cây sáo trúc và tình yêu. Nhưng chuyện thần tiên và chuyện cổ
tích của Nghĩa -Tân được hiện thực hóa ở Sài Gòn với đại nạn chiến tranh, trong
căn nhà bốn thước bề ngang, hai mươi thước dọc nơi hẻm nhỏ đường Phan Văn Trị,
Nancy. Nguyễn Ðình Nghĩa dựng nên thế giới thanh âm tre, trúc ầm vang giòng xe
luôn náo động của hai con đường lớn nhất Sài Gòn-Chợ Lớn, Trần Hưng Ðạo và Cộng
Hòa, hòa nhịp với tiếng gõ xe mì, xe hủ tiếu âm động của dãy thùng hứng nước từ
đầu hẻm và lẽ tất nhiên, chuỗi rầm rì liên tục mệt nhọc của nhà máy đèn Chợ
Quán. Trong hẻm lao động tồi tàn náo loạn đó, Nguyễn Ðình Nghĩa đã hoàn thành
"tác phẩm" lớn của đời mình - Nuôi dưỡng vợ, và ba con từng ngày bằng
tiếng sáo. Diệu Tân thành người khoa bảng và các con khôn lớn trưởng thành.
Chuyện thần thoại có kết thúc rất cổ điển và trung hậu: Nguyễn Ðình Nghĩa là
cây sáo số một của Việt Nam, của miền Nam ..."Có một thằng cha bên Tàu, và
một cha nữa bên Tây, hai cha này thổi hay hơn moi !!" Nghĩa đã nói với tôi
như thế hơn hai mươi năm trước. Tôi nhìn quanh căn nhà lổng chỗng đồ đạc tồi
tàn, chiếc xe đạp treo trên tường, tấm bảng đen đầy bụi phấn, đống áo quần dơ,
sô nước, và Diệu Tân lấm lem khói bếp..."Ông nên "nhường" cho
hai cha ấy đi, sống thế này mà "thổi" được như ông là Thánh". Ít
khi nào lời nói đùa mang độ thật đến như thế. Nguyễn Ðình Nghĩa lúc ấy,
"cây sáo số một" của Việt Nam, gã Orphée tân thời chỉ một chiếc quần
xà lỏn trên mình. Nóng từ mái tôn hắt xuống như đang trong lò bánh mì... Hỏi ai
có thể "thổi" hay hơn bạn được?! Chỉ cho tên một người khác đi, trước
đây hoặc bây giờ.
30 tháng 4, 1975 sập xuống, cùng một lần với Miền Nam, Nghĩa và gia đình bị đuổi
ra khỏi căn nhà hẻm Phan Văn Trị... "Sáo với tiêu, rõ nỡm, cái đống tre
này chỉ đun được nồi cơm là phèo!" Gã cán bộ chỉ vào đống ống trúc đang chờ
đục lỗ nói với giọng khinh miệt rẻ rúng. Nghĩa và Diệu Tân trở lại miền Trung
sau hai mươi lăm năm. Khác với lần di chuyển vào Nam ngày trước, chuyến đi với
can đảm tuổi trẻ, và lãng mạn tình yêu. Hôm nay, hai người có khối nặng của ba
con, và nỗi thấm nhục bị miệt thị. Hành vi cao thượng của người Nghệ Sĩ bị đánh
giá thành hoạt động hèn mọn phục vụ chính trị suy đồi: "Chỉ có bọn Ngụy mới
trả tiền để anh thổi sáo cho chúng. Cách mạng chúng tôi không cần. Nhân dân ta
chỉ cần đánh Mỹ, thắng Mỹ, và thi đua lao động." Nghĩa và gia đình không về
lại Ðà Nẵng, anh đưa vợ và ba con đi xa hơn... Nơi hẻo lánh, vùng núi miền
Trung.
Và chuyện thần thoại được thực hiện lần thứ hai. Cái khó không bó được cái
khôn, với điều kiện chúng ta phải khôn. Sự cùng khổ đôi khi không là tai họa nếu
chúng ta có sức vượt qua cùng khổ. Ở miền núi, tiếp xúc với những người sắc tộc
Bahnar, H'mong, Rhadé... Nghĩa dần khám phá ra khối lượng nhạc khí độc đáo, kỳ ảo
của họ, với cây đàn T'rưng, nhạc khí gõ sơ khởi vỏn vẹn năm ống tre, đầu mắc
vào cột, một người ngồi giữ giây, một người gõ. Người Bahnar (vùng núi Quảng
Nam, Quảng Ngãi chạy qua Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuộc xuống Bình Long, Nam bộ)
chỉ vận dụng được một cung năm ngũ âm đơn giản để dùng trong việc liên lạc, mời
gọi họp bạn hoặc các buổi tế lễ như hạ trâu, cưới xin, mở cửa mả. Năm 1978, có
mặt trong buổi liên hoan âm nhạc đồng bào sắc tộc Việt Nam tại Nha Trang, Nghĩa
nẩy ra ý nghĩ khi nghe đàn T'rưng cải tiến (từ một nhạc công người Nam đem ra Bắc
năm 1954). Ðàn T'rưng cải tiến thành cung Mi trưởng, có đầy đủ một hợp âm bát độ
giúp Nghĩa có so sánh: "Nếu chỉ với một ống sáo nhỏ bé anh đã tạo nên hằng
hà âm giai, âm sắc biến hóa kỳ ảo, thì huống gì đây những năm ống tre, cũng từ
tre, trúc mà ra thôi". Anh gọt không phải hằng chục, hằng trăm, hàng ngàn,
mà hằng chục ngàn ống tre... Chọn lọc, nấu luộc, phơi nắng, cất giữ để có những
ống tre tối ưu - Ðể buồng hơi (chambre à air) tạo nên âm thanh tuyệt đối thuần
túy - Một cung cộng hưởng tối đa. Căn nhà của anh trở nên một rừng tre nhân tạo
tua tủa những ống tre. Từng ngày với từng ống tre được gọt theo từng 1/5, 1/10
milimetre một... Năm 1981, Nghĩa hoàn tất chiếc đàn T'rưng đồ sộ gồm 27 ống có
khả năng tiết tấu bốn bát độ. Ngoài ra, anh phải cậy đến một sáng kiến khác của
người Nhật Watanabé, nhạc sĩ này đã tìm ra một "gam vô tình" cũng có
thể gọi là "gam mềm" sau khi gắn vào thêm hai ống. Chiếc đàn 29 ống
hoàn chỉnh. Bộ trưởng Văn Hóa (Cộng Sản) Lưu Hữu Phước không thể nào vùi lấp
sáng kiến và tài năng của Nghĩa, cũng một phần, đây là điều đáng hãnh diện của
người Miền Nam sau khi Hà Nội sáng chế nên cây gõ hai đầu; cây gõ nguyên thủy
chỉ một đầu.
Nguyễn Ðình Nghĩa được chính phủ Cộng Sản - Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam chấp nhận - Phải chấp nhận - Người nghệ sĩ Miền Nam này là một tài
năng đích thực. Tài sản lớn của tất cả Việt Nam. Thái độ này là một biểu hiện
điển hình của thú nhận: Sau mấy mươi năm chỉ huy miền Bắc, những người lãnh đạo
cộng sản đã thành hình được một khối lượng lớn (rất lớn) văn hóa phẩm gồm những
bài hát chỉ được hát một lần ở đài phát thanh; những ấn bản toàn tập chỉ được
mua bởi cơ quan chính phủ; những tranh, tượng dùng để trang trí ở các phòng họp,
hội trường nhà nước. Họ cũng dần hiểu rõ, "mặc cảm" cần được tiêu trừ
(Như một cấp lãnh đạo miền Bắc đã nói cùng cố học giả Nguyễn Hiến Lê: "Miền
Nam nên từ bỏ "mặc cảm tự ti" vì lạc hậu, phản động (do thua trận),
và miền Bắc cần từ bỏ "mặc cảm tự tôn (do đã thắng trận")- thật sự là
"mặc cảm" của đám tổng, lý sau khi ăn bạc, và cơn say bữa rượu thịt
chó của chính họ. Quả tình tôi rất thấm hiểu "cơn trả thù của người nghệ
sĩ" khi nhìn thấy hàng hàng cán bộ lãnh đạo, viên chức nhà nước, những văn
nghệ sĩ "cấp cao" cộng sản nối đuôi nhau vào xem và tranh mua những họa
phẩm của "bọn họa sĩ Ngụy": Nguyễn Trung, Ðỗ Quang Em, Ðằng Giao, Phạm
Cung, Nguyễn Hải Chí (Chóe). Tranh của cụ Nguyễn Gia Trí đã là một "Tài sản
Quốc gia". Tranh và những họa sĩ đã bị khinh miệt vất bỏ từ buổi sáng ngày
30 tháng 4, 1975.
Nguyễn Ðình Nghĩa đã là một ""trả thù" xứng đáng nhất. Nhân tiện
đây, tôi có ý nghĩ, đồng bào hải ngoại chớ nên gay gắt cùng với những văn, nghệ
sĩ hiện còn ở Việt Nam nếu như họ có phần "cộng tác" cùng chế độ,
chính quyền cộng sản ở đấy. Tại sao ta không chia phần "hãnh diện" vì
người Việt Nam (Người ở miền Bắc, Hà Nội lại là đa số) chỉ tìm đọc Nguyễn Hiến
Lê, Nguyễn Duy Cần, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Thụy Long, Lệ Hằng, Nguyễn Thị
Hoàng... và đến cả Bà Tùng Long, cụ Hồ Biểu Chánh. Họ hát "Huyền Sử Ca Một
Người Mang Tên Quốc" của Phạm Duy, bài "Hát Cho Một Người Vừa Nằm Xuống"
của Trịnh Công Sơn, và "Người Ở Lại Charlie" của Nhật Trường từ phòng
giam Trại 5 Lam Sơn, Trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa, Trại Hà Nam Ninh. Người miền
Nam có hề "thua" đâu. Thấy như thế. Nghĩ như thế.
Nhưng chuyện thần kỳ của Nguyễn Ðình Nghĩa không dừng lại ở đấy, ở Việt Nam.
Anh đến Canada năm 1984; tháng Giêng 1987 nhân dịp Tết Việt Nam, anh xuất hiện ở
phòng hòa tấu Ðại học Toronto và liên tục trình diễn qua các cơ sở văn hóa,
giáo dục vùng Ðông-Bắc nước Mỹ. Anh không đứng trên sân khấu một mình. Sau
lưng, và hai bên anh bây giờ đã có toàn thể khối lực hỗ trợ... Những Ðoan
Trang, Nam Phương, Nguyễn Ðình Nghị, và tiếp theo, Nguyễn Ðình Hòa và Chiến.
Ðây không còn là những đứa bé trèo lên vai, bám lên cổ anh ở hai mươi năm trước,
mà đã là người thiếu nữ Việt Nam làm sống động âm thanh khắc khoải gờn gợn của
Ðộc Huyền (Nam Phương); người dựng lại khối âm thanh rực rỡ của Thập Lục (Ðoan
Trang), và những cây guitar điện kỳ ảo, sống động, giàn trống hào hùng với Nghị,
Hòa, Chiến... Tất cả đã hòa nhịp cùng chiếc đàn T'rưng đồ sộ 29 ống của Nghĩa
hiện thực nên điều - Âm nhạc với nhạc khí cổ truyền Dân Tộc Việt Nam là một thế
giới kỳ diệu do từ nội dung sâu lắng, phong cách, kỹ thuật trình diễn điêu luyện
tế vi.
Buổi trình diễn ngày 2/6/1994, tại Thính Ðường Carnegie Hall, Ðại học Kỹ Thuật
New York là một xác chứng về câu chuyện có vẻ không thực của một gia đình tên gọi
Nguyễn Ðình Nghĩa. Vì sau gần trăm năm thành lập, phòng hòa âm ấy chỉ dành
riêng để các bậc thầy trình diễn về các bậc thầy, những Beethoven, Mozart,
Wagner... Nhưng nguồn sống động làm phấn khởi, thúc dục tôi viết nên bài này
không phải là giải thưởng của Thống Ðốc Tiểu bang Maryland về "Nghệ Sĩ Ðộc
Tấu Xuất Sắc" năm 1994 mà Nghĩa vừa nhận được hôm 12tháng Sáu tại
Baltimore. Có một điều gì cao quý và sâu xa hơn. Ðấy là dự định mà tôi tin chắc
Nghĩa sẽ thực hiện được - Làm sống lại Beethoven, Tchaikovsky, Debussy... Bằng
lửa. Với lửa. Nghĩa là Nghĩa sẽ tái cấu trúc, hoàn chỉnh lại cây "Ðàn Lửa"
của người Vân Kiều (vùng núi Bạch Mã, Cầu Hai, Thừa Thiên), một loại đàn đã bị
thất truyền và không người có khả năng khôi phục. Lửa sẽ được đốt lên (tất
nhiên từ một hệ thống lò ga thay vì lửa trại, lửa rừng), chuyền hơi nóng qua những
ống tre lớn, do Nghĩa đã nắm được cấu trúc từng tế bào tre, trúc. Và những hợp
tấu khúc lớn của các bậc thầy sẽ được dựng nên, bừng dậy như ánh lửa chập chùng
hằng cháy sáng từ ngày khai sinh sự sống trần gian.
Nhưng cuối cùng, cũng không hẳn như thế. Chẳng phải vì tài hoa đặc dị của bạn
mà tôi viết nên lời. Tôi cảm động vì một điều đơn giản. Về một điều rất đơn giản,
tầm thường, nhưng thấm thía, cảm động, xót xa.
...Ngày xưa, buổi rất lâu của hơn bốn mươi năm trước, những ngày của thời gian
trước 1954. Tôi lúc ấy là đứa trẻ nhà nghèo thường hay nhặt những hạt, hột
không tên, vô vị nào đó để lót lòng vào buổi, giờ xa bữa ăn vốn quá thiếu thốn.
Hạt cây quăn vị ngọt nhầy nhầy mủ trắng, hạt trái mâm xôi xám trắng trong
trong. Và trong những lúc lẫn quẩn nơi bụi hoang, bãi cỏ để tìm kiếm loại
"lương thực" tội nghiệp kia, giữa tiếng lá kiền kiền khô cuốn trong cỏ
tranh, trên mặt đường đất đá lồi lõm vùng ngoại ô Ðà Nẵng... Giữa tịch mịch của
thanh âm nắng, gió, lá, cỏ kia tôi nghe vọng tiếng chim... Tít ... tít ..tít
... tịt ...t..tịt ..tịt... Chim kêu tắt tắt, chậm chậm và lịm dần. Tôi không biết
tên chim nhưng cò ý nghĩ... Chim chắc cũng đang chịu phần tội nghiệp hẩm hiu.
Cũng chưa thấy dáng chim lần nào. Năm 1993, nơi vườn Lái Thiêu, giữa khoảng
xanh dầy của tàng măng cụt, tôi trải chiếc chiếu ngủ dật dờ trên đám lá, nắng
cuối năm vàng khô lạnh lạnh. Chẳng khá hơn tình cảnh của đứa bé bốn mươi năm
trước, và nghe lại tiếng chim...Tít ...tít ..tịt ..tịt ..tịt... Chim gì kêu buồn
quá ông ơi!! Chịu không nổi. Tôi phải nói lên cùng Út Năng, ông bạn già chủ vườn
tôi ở,
- Thì chim "mồ côi" mà cha...
- Mồ côi? Ai mồ côi ?!!
- Ông không nghe ra à... père...mère...frère... tout est perdue ... Mất hết
trơn như vậy làm sao mà không kêu..
- Ờ... há, vậy là con chim giống tôi. Hèn gì hồi nhỏ tôi đã nằm lặng ra mà
nghe.
Và tôi đã nghĩ có mấy ai trong đời phải mất hết trơn đến tội như thế. Và có ai
trong đời hằng phải nhớ đến một tiếng chim. Nhưng không, trong những bài nhạc
do Nghĩa soạn cho sáo, đàn có nhiều bài về chim, bài Phụng Vũ, bài Chim Loan,
và bài Chim Boong Klé...
- Boong Klé là chim gì? Tôi hỏi bạn.
... Chim "mồ côi" đó mà... Ở Ðà Nẵng, thuở nhỏ toa có nghe lần nào
không?
Vâng, Nghĩa và Tân ạ, tôi đã nghe tiếng chim ấy, và tôi cũng đã đôi lần kêu với
nó. Thật ra rất nhiều lần. Vẫn đang kêu cùng chim.
Quê hương tôi có loài chim mồ côi
Mẹ chết, mất cha, anh em phiêu tán
Lắng âm tiếng hiểu dần nên nguồn cội
Chim và Người cùng thấm khổ ÐAU thôi.
Tháng lúa chín, mùa "Chim Mồ Côi".
Cũng tháng đầy tuổi, 9-9-55.
Xóm Tân Tuyền,
Thành Hựu Tống,
Bang Tiến Xa Phan Nhật Nam Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét