Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Thu Hằng với nỗi đau của bướm đêm

Thu Hằng với nỗi đau của bướm đêm

Tôi tình cờ biết nhà văn Thu Hằng khi đọc bài điểm tin, điểm sách hàng ngày của nhà thơ nhà thơ có nhiều fan hâm mộ. Từ lời giới thiệu rất gợi về đề tài nóng, gai góc của tác phẩm, tôi mua online “Nỗi đau của bướm đêm” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2024) và “Gặp lại giữa lưng chừng nhân thế” (Nhà xuất bản Dân trí – 2025).
“Nỗi đau của bướm đêm” là tác phẩm gọn (194 trang), bìa trang nhã, chữ in to dễ đọc. Nội dung tác phẩm đơn giản, câu chuyện xoay quanh cuộc đời Thơm, một cô gái trẻ, xinh đẹp, gia cảnh éo le, khốn khó. Cha mất sớm, một mình mẹ không đủ sức nuôi 4 người con, cô phải bước vào nghề bán thân để mưu sinh và gửi tiền về cho mẹ nuôi các em ăn học. Một lần Thơm mang thai với Hưng-một kiến trúc sư phong nhã, hứa đưa cô lên Hà Nội học may. Dù anh ta khuyên bỏ thai nhưng cô quyết định rời nghề để sinh con, làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, sau một thời gian chung sống với Tuấn (người bán khoai nghèo khó ngoài chợ), không có tiền mua thuốc, mua sữa cho con và gửi về cho mẹ, cô buộc phải quay lại con đường cũ. Sau dăm năm lao vào kiếm tiền bằng thân xác và bị lừa gạt, bị đánh ghen tả tơi, Thơm trở về quê kết hôn với người đàn ông góa vợ, xây dựng cuộc đời mới vui tươi, hạnh phúc.
“Nỗi đau của bướm đêm” là sự mạnh dạn, táo bạo của Thu Hằng khi chọn đề tài gai góc, bước vào “vùng tối” của xã hội, song cũng bộc lộ nhiều hạn chế trong việc dung hòa giữa hư cấu nghệ thuật và hiện thực đời sống.
Tác phẩm gây tiếng vang bởi dám thẳng thắn nhìn vào số phận những cô gái “bán thân”. Nhân vật chính được khắc họa như một thân phận bé nhỏ, nghèo khó, bị đẩy vào con đường làm gái bán hoa để tồn tại. Qua số phận thảm thương ấy, tác giả muốn gửi gắm cái nhìn nhân văn, cảm thông với những mảnh đời đau khổ bị xã hội ruồng rẫy, miệt thị, khinh bỉ. Việc chọn một đề tài gai góc, khơi gợi sự chú ý của độc giả đối với những vấn đề xã hội nhức nhối trong bối cảnh văn học đương đại Việt Nam chưa nhiều cây bút đi sâu khai thác, là điểm sáng nổi trội nhất của tác phẩm.
Đồng thời, tác phẩm gửi đi thông điệp: “Sau ánh đèn đêm là những phận người đầy thương tổn”. Nhân vật Thơm dù làm nghề bị coi là rẻ mạt, hạ đẳng nhưng vẫn được xây dựng như một con người giàu lòng nhân ái, có khát vọng hạnh phúc, có ước mơ đổi đời. Từ đó, giúp độc giả có cái nhìn cảm thông, khoan dung, độ lượng, tha thứ hơn về thân phận của các cô gái trẻ bị đẩy vào con đường tăm tối “bán trôn nuôi miệng”.
Nhiều đoạn văn trong “Nỗi đau của bướm đêm” mang hơi thở chân thật của đời sống, tạo nên sự gần gũi, dễ đọc. Nhà văn đặc tả vài cảnh khủng khiếp, làm cho các nhân vật khiếp đảm, độc giả buồn nôn như là minh chứng cho nỗi đau tột cùng của “bướm đêm”. Đầu tiên là một người đàn ông biến thái, ngồi trong phòng tối om. Hắn vào nhà nghỉ nhằm thỏa mãn điều quái đản xem được trong phim sex mà vợ không chịu làm. Hắn ngồi trên ghế, mặc vest chỉnh tề, đội một chiếc mũ len đen che kín toàn gương mặt trong căn phòng tối om. Lão chỉ cho “hé rèm cửa sổ” và bắt đôi môi xinh mọng của Thơm giúp hắn thỏa mãn. Dù Thơm vừa thấy nghẹt thở, vừa thấy buồn nôn; họng tắc nghẹn, cố vùng vẫy nhưng gã vẫn tóm chặt tóc Thơm và ấn đầu cô rất mạnh vào giữa khe đùi của hắn “cười khùng khục trong cổ họng và rên lên…”.
Cảnh thứ hai xẩy ra vào một buổi sáng khi con gái Thơm đang bị đau. Cô từ chối không được nên miễn cưỡng phải đi khách. Khách lần này là một trùm giang hồ đầu trọc lốc, mắt cú vọ, trên người đầy những hình xăm vằn vện. Hắn “trả thù” khi bị Thơm khó chịu “ném cho một ánh nhìn nảy lửa” cùng câu hối thúc “làm gì thì làm nhanh lên”. Sau khi bóp cổ, gã đẩy Thơm ngã dúi xuống giường, vừa làm vừa chửi. “Suốt mấy tiếng đồng hồ, Thơm chiu trận. Hắn cưỡi lên Thơm như một con hổ đói đang tóm được con mồi ngon, Mỗi lần bị hắn đè cứng, Thơm đều cảm thấy đau đớn và hoảng loạn tột cùng. Sự sợ hãi khiến tay chân Thơm co quắp lại không thể cử động được. Mắt cô nảy đom đóm. Cô thấy mình như ngạt thở, muốn hét lên nhưng không thể”. Do đó, cuốn sách vẫn giữ được lượng độc giả riêng, bất chấp nhiều tranh luận trái chiều.
Tuy nhiên, đọc kỹ hơn, ta thấy rõ những điểm yếu khá lớn. Đầu tiên là bối cảnh lịch sử – xã hội mà tác giả lựa chọn. Truyện mở đầu vào khoảng cuối thập niên 80, thế kỷ XX, khi đất nước mới Đổi Mới. Đây là thời kỳ kinh tế khó khăn, nhân dân nhiều nơi còn thiếu ăn, vùng quê miền núi lại càng nghèo nàn, lạc hậu. Trong thực tế, ở những địa phương này hầu như chưa có khách sạn cao tầng, quán bar, karaoke, hay cảnh khách làng chơi vung tiền chục triệu (tương đương vài cây vàng) cho một cuộc mua vui. Vậy mà trong tác phẩm cảnh giàu sang, ăn chơi diễn ra tấp nập, nhộn nhịp. Hàng ngày, các cô giái trẻ trung, xinh tươi phải tiếp hàng chục khách sộp trong những khách sạn sang trọng.
Thêm nữa, mạng di động bắt đầu có tại Việt Nam từ năm 1993 với sự ra đời của MobiFone nhưng những trang văn đầu tiên viết về cảnh gái bán hoa tên Nụ luôn chụp ảnh, chỉnh trang và đưa lên mạng thả thính. Khách làng chơi và các má mì cũng “giao lưu” chọn hàng qua mạng.
Hư cấu văn học dĩ nhiên là cần thiết; tưởng tượng, sáng tạo càng quan trọng nhưng hư cấu phải dựa trên cái gốc hiện thực. Một khi tác phẩm đặt ra những chi tiết xa rời bối cảnh lịch sử, độc giả khó chấp nhận. Nếu hiện thực bị làm méo mó, cường điệu quá mức, người đọc sẽ mất niềm tin vào câu chuyện. Đây là một điểm trừ lớn khiến nhiều người cho rằng tác phẩm “thiếu chân thực”, tác giả thiếu vốn sống thực tế.
Mặt khác, nhân vật trung tâm của tác phẩm lại được khắc họa quá nhiều phẩm chất tích cực. Dù làm nghề “bướm đêm”, cô vẫn trong sáng, giàu lòng nhân hậu, gần như không vướng vào sự sa ngã nào ngoài thân phận éo le. Điều này vô tình làm nhân vật mất đi độ phức tạp, giằng xé nội tâm vốn dĩ phải có của một cô gái trong hoàn cảnh đó. Việc tô hồng nhân vật chính khiến tác phẩm mất đi sức nặng hiện thực, biến Thơm thành biểu tượng lý tưởng hóa hơn là một con người thật. Nhân vật phụ xung quanh cũng khá mờ nhạt, chủ yếu tồn tại để nhấn mạnh số phận của Thơm, chứ chưa tạo thành một bức tranh đa chiều về xã hội “bướm đêm”.
Cốt truyện “Nỗi đau của bướm đêm” theo mô-típ khá quen: một cô gái nghèo bị đẩy vào con đường bán hoa, mơ ước thoát khỏi cuộc sống dơ dáy nhưng cuối cùng vẫn phải theo nghiệp cũ. Đây là mô hình đã xuất hiện nhiều trong văn học, điện ảnh, nên khó tạo ra sự mới lạ.
Điểm gây nhiều tranh cãi nhất là cách kết thúc truyện một cách gượng gạo, hời hợt. Độc giả dễ nhận ra sự áp đặt của tác giả, chứ không phải sự phát triển tự nhiên từ mạch truyện. Thay vì để câu chuyện khép lại bằng một bi kịch mang sức ám ảnh, tác phẩm lại kết thúc nhẹ nhàng, tươi sáng (ai cũng nhận ra sai lầm khuyết điểm và tìm mọi cách bù đắp cho mẹ con Thơm) đã làm giảm đáng kể độ thuyết phục và giá trị phản ánh hiện thực.
Tóm lại: “Nỗi đau của bướm đêm” là một nỗ lực đáng ghi nhận trong việc khai thác đề tài gai góc, góp thêm một tiếng nói nhân văn, bênh vực cho những phận đời thường bị xã hội khinh miệt.
Tuy nhiên, tác phẩm bộc lộ nhiều hạn chế, sai lệch về bối cảnh lịch sử; nhân vật thiếu chiều sâu, cốt truyện quen thuộc, kết thúc gượng ép và đặc biệt là việc tô hồng nhân vật chính. Những yếu tố này khiến truyện tuy có sức hút ban đầu nhưng khó để lại dư âm sâu xa về mặt nghệ thuật.
Đặt cạnh những tác phẩm văn học Việt Nam đương đại viết về thân phận con người như “Bước qua lời nguyền” (Tạ Duy Anh), “Côi cút giữa cảnh đời” (Ma Văn Kháng), “Cánh đồng bất tận” (Nguyễn Ngọc Tư), … ta thấy “Nỗi đau của bướm đêm” còn khoảng cách lớn về tầm vóc nghệ thuật. Trong khi Tạ Duy Anh, Ma Văn Kháng hay Nguyễn Ngọc Tư khắc họa con người với đủ ánh sáng và bóng tối, đủ giằng xé nội tâm phức tạp, thì Thu Hằng mới dừng lại ở mức khơi gợi sự thương cảm. Hy vọng những tác phẩm tiếp theo của chị sẽ đạt nhiều thành công hơn về giá trị nội dung nghệ thuật.
15/10/2025
Nguyễn Công Thanh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...