Thứ Ba, 19 tháng 6, 2018

Có một bến Tầm Dương trong thi ca

Có một bến Tầm Dương trong thi ca
Lời thưa: Không biết còn bài viết nào hay hơn không về bến Tầm Dương?. Tôi đã đọc bài viết này của thầy Lê Tử Hiển chằng nhớ bao nhiêu lần, mỗi lần đều để lại trong lòng tôi một cảm xúc khó tả. Đúng là “… Hàng hàng gấm thiêu” (Nguyễn Du).
Tôi quyết định lấy câu thơ của Lâm Nghĩa Đường trong bài viết này làm câu Slogan cho trang web của mình. Chi bằng giới thiệu để bạn đọc tự cảm nhận.
1. Ngọn nguồn khơi bến Tầm Dương
Không thể kể hết những địa danh Đường thi đi về trong thi ca. Có khi chỉ một tên riêng mà gọi hồn nghìn xưa trỗi dậy. ”Có phải A Phòng hay Cô Tô” (Xuân Diệu). Những Chương Đài, Hoàng Hạc, Xích Bích… Song có sức vang vọng kỳ diệu hơn cả là Tầm Dương. Tầm Dương đã thoát thai khỏi một địa danh cụ thể mà hòa thành muôn vạn Tầm Dương của lòng người.
Những địa danh trên vốn là những thắng cảnh. Nhưng sự bất hủ chủ yếu gắn với một bài thơ, một người thơ. Xích Bích trở nên mênh mang cảm hoài qua những dòng phú bay bổng của Tô Đông Pha. Bến Phong Kiều, thành Cô Tô, chùa Hàn San mãi mãi mơ màng sương khói dưới ngòi bút Tương Kế. Lầu Hoàng Hạc chỉ trở thành lầu Hoàng Hạc khi Thôi Hiệu đề thơ để rồi sống mãi cùng mây trắng ngàn năm… Những cuộc gặp gỡ tưởng chỉ tình cờ, khoảng khắc vậy thôi mà hóa thành miên viễn.
Tầm Dương vốn là một khúc sông Trường Giang chảy qua địa phận huyện Tầm Dương, phía bắc thành phố Cữu Giang (nay thuộc tĩnh Giang Tây - Trung Quốc). Hữu duyên... thiên lý ngộ, bên bến sông kia, ”ai tri âm đó mặn mà với ai“. Đạm đạm trường thanh thủy - Du du viễn khách tình (Vi Thừa Khánh). Một bên là chàng Tư mã Giang Châu - nhà thơ tài hoa bị biếm trích - và một bên là nàng ca nữ tài sắc bị xã hội rẻ rúng… mà làm nên danh tác Tỳ bà hành lưu danh thiên cổ. Tiếng đàn vang bến Tầm Dương giao thoa nỗi lòng hồng nhan bạc mệnh - tài tử đa truân vang khúc dạo đầu “Tầm Dương giang đầu hạ tống khách” (bến Tầm Dương canh khuya đưa khách)… và Tầm Dương với sắc đỏ lá phong, sắc vàng hoa lau, hơi thu xào xạc đã trở thành nơi gợi nhớ những gì thật đẹp, thật huyền diệu mà cũng thật buồn!. Cái đẹp của mùa thu, đàn trăng nước hội tụ. Cái buồn của tài - tình lận đận gặp nhau ”một lứa bên trời“. Tất cả phổ vào một khúc Tỳ bà để rồi âm vang mãi.
2. Sông thơ trôi chảy, Tầm Dương nao lòng…

Thật vậy, Tỳ bà hành là nơi gặp gỡ của cảnh - tình diệu viễn nghìn năm phương Đông. Bốn mùa đẹp nhất là thu. Khoảng khắc đời người không gì buồn bằng ly biệt. Vật cảm ở thiên nhiên không gì bằng trăng, ở nhạc không gì bằng đàn. Mênh mang sâu thẳm không gì bằng nước. Trăng nước phát lộ tính chất lạnh của đàn. Trăng in đáy nước hiện hồn trăng, Đàn loang sóng nước hiện hồn đàn. Trăng đàn tương giao thành huyền diệu. Chưa có thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng, người xưa đã nhận ra mối liên quan giữa ánh trăng và âm thanh, kiểu ”Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt“. Sau này Hàn Mặc Tử viết ”Tôi bấm một đường tơ?. Nghĩa là rung rinh một luồng ánh sáng“. Trong Tỳ bà hành, bản nhạc đạt đến chỗ màu nhiệm khi đàn trăng nước hợp nhất:
Đông thuyền tây phảng tiễn vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch

(Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông)

Xuân Diệu đã nắm bắt được tinh thần của Tỳ bà hành mà làm nên một khúc Nguyệt cầm. Đây là một kiệt tác của Xuân Diệu - một thứ “siêu thơ” theo cách nói của Thanh Thảo - kết tinh từ mối giao duyên giữa tượng trưng thơ Pháp và tượng trưng Đường thi. Ngay từ câu đầu tiên Xuân Diệu đã cho trăng đàn nhập vào nhau: ”Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh“. Cung đàn chầm chậm đi vào lòng người, sau khoảng khắc “rung mình” đã đạt đến cao trào (ở khổ thứ ba) Đàn bộc lộ bản chất nước, đi đến chỗ sâu nhất của hồn người.
Đêm lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.

Từ một Nguyệt cầm-thơ, người nhạc sĩ lãng mạn tài hoa Cung Tiến phổ nên một Nguyệt cầm - nhạc du dương. Không chỉ với Cung Tiến. Cả một dòng nhạc tiền chiến “thoát thai từ Đường thi” (Phạm Duy), với những giai điệu đầy thơ mộng mô típ đàn-trăng-nước thấp thoáng bóng dáng một bến Tầm Dương thủa nào. Theo dòng nhạc buông lơi người nghe có khi bồng bềnh trên một dòng sông thu sương khói.
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lơ lững trôi xuôi dòng
Như oán thương ai chùng tơ lòng.

(Con thuyền không bến - Đặng Thế Phong)
Có khi lặng lẽ chuồi theo dòng xúc cảm trong một chiều đầy thơ và mộng:
Một chiều xưa mây nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Một tiếng chim rơi theo gió mơ hồ
Vang tiếng cầm ca thu tới bao giờ.

(Trương Chi - Văn Cao)
Dù không nhắc đến Tầm Dương, nhưng cái mơ màng kia chẳng phải gọi hồn Tầm Dương thủa trước? Chưa nói đến khi nghe một cung đàn, chạnh lòng bởi những thanh âm chậm, buồn sâu lắng, thì đàn kia bổng hiện dáng tỳ:

Cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương
Ai đó tri âm hững hờ

(Tiếng xưa - Dương Thiệu Tước)
Dù là nơi cái đẹp hội tụ - thăng hoa, nhưng Tầm Dương sẽ không làm xao động lòng người đến vậy nếu không có những giọt lệ ngậm ngùi áo xanh Tư mã. Giọt lệ thương mình, thương người - những kiếp tài hoa bạc mệnh. Đấy cũng là tiếng thơ cảm thương cho thân phận kỳ nữ: ”Một đêm đàn lạnh trên sông Huế - Ôi nhớ thương hoài vạt áo xanh“ (Văn Cao). Người kỳ nữ phả vào cung đàn cả cuộc đời bất hạnh. Bạch Cư Dị luân lạc mà cảm nhận được chỗ sâu sắc nhất của đàn. Cuộc bình thủy (bèo-nước) tương phùng bổng chốc thành tri âm, tri kỷ.
Những kiếp tài tình xưa nay đều đeo sẵn trong mình mệnh bạc, để gặp mình trong một kiếp Tư mã Giang Châu. Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Du với nàng ca kỷ thành Thăng Long tái diễn lại cảnh ngộ Tầm Dương thủa nào. Cũng người phụ nữ một thủa phong lưu tuyệt đỉnh, bây giờ chỉ còn lại hình dung tiều tụy võ vàng "Nỗi niềm xưa tưởng mà đau“. Nguyễn Du thấy trong số phận riêng tây cả bao biến thiên đau khổ của đời.
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ xứ tang điền bến thương hải
Tây Sơn công nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không đi nhất nhân tại

(Cuộc thương hải tang điền thấm thoát - Cõi nhân gian thành quách đổi dời - Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi - Mà làng ca vũ một người còn trơ). Trước cảnh ấy, tình ấy, ông đau lòng việc cũ mà lệ thấm áo. Phải đâu ”khéo dư nước mắt...” tự chuốc lấy nỗi oan phong vận. Long Thành cầm giả ca là bài thơ mang nặng tâm sự và “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời” - Nguyễn Du.
Một Vũ Hoàng Chương quay quắt trong bi kịch đời mình, đến Đà Giang mà nhớ Tầm Dương ”Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi - Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ” (Đà Giang). Một Phùng Quán lăn lóc với đời cơm áo, trong cơn say bỗng thấy mình là chàng Tư mã “Ta Bạch Cư Dị - Khách bến Tầm Dương - Tư mã Nghi Tàm - Lệ đầm áo rách - Câu thơ bị biếm - Mềm môi ngâm tràn” (say)… Xòe bàn tay nhân loại mịt mù những đường chỉ ngang dọc, có bàn tay nào giống bàn tay nào. Ai vay kiếp con tằm rút ruột mình nhả tơ mà nhận lấy nỗi đau đứt ruột?. Giọt nước mắt rơi sóng sánh biển nhân sinh. Chỉ làm một gợn sóng giữa bình thản thờ ơ cõi thế. Bản chất của văn chương chỉ vây.
3. Gió đầu dòng mưa cuối chữ Tầm Dương
Các nhà lý luận thường xem xét vấn đề “trên bình diện ảnh hưởng những gì… và ảnh hưởng như thế nào…” để xem xét, phân loại, đánh giá các bến Tầm Dương trên dòng sông thơ Việt. Thực ra ảnh hưởng đích thực bao giờ chẳng phụ thuộc vào chủ thể tiếp nhận, tấm lòng tiếp nhận và sự sáng tạo muôn màu. Tầm Dương nhiều khi chỉ là cái duyên cớ, sự gặp gỡ trên một số phương diện… mơ hồ như một âm giai thứ vang vọng hồn người trên dòng sông thương cảm riêng lòng… Thật khó lấy lý trí phổ quát mà đánh giá lý lẽ riêng của cảm xúc con tim. Và ngược lai, ta tiếp nhận cung đàn Tầm Dương vang vọng kia, trước hết, ở tiếng nói đồng cảm tri âm “Cùng người một hội một thuyền” Muốn có hai câu thiên cổ danh cú (câu nổi tiếng ngàn năm) khiến người rơi nước mắt “Cùng một lứa bên trời lận đận - Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau” phải có bao lớp trầm tích cảm xúc lắng sâu tự lòng mà thăng hoa trong cảnh ngộ ngoài ý thức chủ quan.
Dễ gì có được một bến Tầm Dương riêng mình nếu lòng không giăng con nước!. Con nước chờ ngày con nước hát. Tiếng hát buồn tự thanh lọc những bi thương. Một Nguyễn Công Trứ vịnh Tỳ bà theo thể ca trù ”Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt“ dù chỉ để hát cô đầu chơi, nhưng cũng là một cách chơi ngông của riêng ông, “Tài tử với giai nhân là nợ sẵn“. Cách chơi của con người đa tài - đa tình lắm nỗi thăng trầm “Nhân sinh bất hành lạc - Thiên tuế diệc vi thương“ (Người mà không hành lạc - Dẫu sống ngàn năm cũng như chết non) hẳn có một bến Tầm Dương thoát kiếp, khẳng định con người cá nhân tự do tự biểu hiện và đã trước bạ thể hát nói vào lịch sử văn học. Một Chu Mạnh Trinh ưu tư, đồng cảm “Cho hay danh sĩ với giai nhân cùng một kiếp hoa duyên nặng nợ” mà đau lòng lặng lẽ “Giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa“. Cảm hứng trữ tình bi thiết lọc từ máu mình ngân nhạc bút tài hoa, chứ nào phải “Cái tình đồng loại nhạt nhẽo giữa danh sĩ và giai nhân”
Trai tài - gái sắc là chuyện muôn đời. Con tạo trêu ngươi cũng là chuyện muôn đời. Nhưng màu sắc thương cảm cung đàn vô thanh là chuyện riêng lòng khoảng khắc hóa mây trôi. Dẫu mượn Tầm Dương như một “phương tiện thể hiện ước muốn truy hoan”, nhưng tài - tình cũng đọng máu trong lời than của Vũ Hoàng Chương “Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu“. Ai một chiều qua bến sông trăng,”Thuyền mơ bến nơi đâu“. Thương người hay thương mình mãi “kiếp cầm ca” dang dở, trong nụ cười buồn tan con sóng vỗ hắt hiu của nữ sĩ Ngân Giang “Bến Tầm Dương trăng nước một con thuyền, ngán tình ca nữ“… Đến Xuân Diệu với niềm khao khát giao cảm “Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi“ thì bến Tầm Dương kia đã ra “biển lớn”. Nói như Phạm Văn Diêu “Tất cả như đều đã sống trong cái ám ảnh thanh cao tế nhị và kỳ diệu trong áng thơ Tỳ bà hành vậy”. Muôn đời, nói như Lâm Ngữ Đường, ”Một chữ Tình để duy trì thế giới, một chữ Tài để tô điểm càn khôn”. Tài - Tình để khiến trời hờn đất ghen. Nên mang mang tựa bến Tầm Dương. Bến Tầm Dương - bến cảm thương, bến hội tụ cái Đẹp mỏng manh “Hoa phi hoa…” bến Biệt ly - níu giữ… Sông cứ trôi, hoa cứ rơi, đậu bến vô thanh, âm thầm không vọng tiếng. Kiếp người dỡ dang, đời người mấy ai trọn vẹn. Đời buồn tênh như lỡ một cung đàn. Đưa người trên sông thu… ngày ấy thuyền lẻ khách, như tự đưa mình. Rượu Tầm Dương uống mãi chẳng say - Khói sóng nào hiu hắt não nề thay (Bạch Cư Dị - Thu giang tống khách). Chẳng có con nước nào trong tiếng đàn nhạt, ánh trăng suông. Ai chẳng khao khát một bến Tầm Dương tao ngộ, tương tri, đồng cảm. Mang sẵn trong tâm hồn chút thanh âm, tình ý Tỳ bà - Dòng sông đời thoáng neo đậu bến Tầm Dương.
Cung đàn Tầm Dương long lanh lệ. Bao nhiêu bến sông đã chìm trong sương khói thời gian?. Cuộc sống hiện đại mang màu sắc phương Tây ồn ào hối hả, bao dòng sông đã cạn trong trái tin người?. Đôi khi, nửa đêm chợt tĩnh, hồn Phương Đông thao thức bóng trăng im. Lại thấy bảng lảng “Sông lau lách - Nhạc đìu hiu lệ cũ - Gió đầu dòng mưa cuối chữ Tầm Dương” (Lê Đạt)
Và đây Xuân Lộc giới thiệu:
Tỳ Bà Hành
Bạch Cư Dị
Tầm dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan, thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong qui, khách bất phát
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy?
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi ”Nghê thường” hậu “Lục yêu”
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tao tao thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy hạ than
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn: ”Bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành

Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc băi tằng giao Thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tùng quân, a di tử
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lănh lạc xa mă hi
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can”
Ngă văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
“Ngã tằng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Tầm dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang địa đê thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Văng văng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Ẩu á trào triết nan vi thính
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác tỳ bà hành”
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Măn tọa trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa?
Giang châu tư mã thanh sam thấp!
Dịch thơ:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn nà làm thinh
Đời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc măi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay
Nghe não ruột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Giải bày hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa , lựa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời
Rằng “xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên
Gă Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu oi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi, khinh đường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Đêm khua, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa Kinh khuyết bấy lâu
Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc vơ, âm thầm quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội?
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca”
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh
(Bản dịch: Phan Huy Vinh)
Tỳ Bà Hành
Đêm đưa khách bến Tầm dương,
Gió thu san sạt lá vàng bông lau
Người xuống ngựa, khách đón chào,
Rượu kèo mời uống có đâu sáo đàn
Chén suông ngán nỗi hợp tan,
Trăng sông man mác, chứa chan nỗi lòng
Tiếng tì chợt vẳng trên sông,
Chủ quên trở lại, khách không vội về
Lần tìm sẽ hỏi ai kia,
Tiếng đàn nín bặt, người e ngỏ lời
Ghé thuyền đến cạnh chào mời,
Khêu đèn thêm rượu, lại bày tiệc hoa
Nằn nì mời mãi mới ra,
Ôm đàn che nửa, mặt hoa thẫn thờ
Ướm dây vặn trục dạo qua,
Chưa thành khúc điệu, thiết tha hữu tình
Đắn đo, nắn nót, rõ rành
Dường như tố cáo bình sinh nỗi buồn
Dang tay cúi mặt gảy luôn,
Xiết bao tâm sự như tuôn mạch sầu
Tiếng đàn đi tựa thấp cao,
Nghê Thường vừa dứt, lại vào Lục yêu
Dây to sầm sập mưa dào,
Nỉ non dây nhỏ, thì thào nỗi tây
Nhặt thưa réo rắt mấy dây,
Hạt châu to nhỏ rơi đầy trên mâm
Trong hoa ríu rít oanh ngâm,

Cuối ghềnh nước suối réo ngầm bãi khơi
Tiếng đàn, suối lạnh không trôi,
Không trôi ngập ngừng, tạm thôi nhịp nhàng
Lắng nghe sầu oán ngổn ngang,
Bấy giờ lặng lẽ, lại càng hay hơn
Nước tuôn bình bạc vỡ tan,
Giáo gươm thiết kỵ tiếng ran rợn người
Khúc xong gảy một tiếng dài,
Bốn dây một tiếng như ai xé là
Đông tây thuyền lặng như tờ,
Giữa sông bóng sáng thẫn thờ gương nga
Trên dây cày móng ngẩn ngơ,
Dung y chỉnh đốn, đứng xa phân trình
Kể rằng xưa ở kinh thành,
Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà,
Học đàn từ thửa mười ba,
Giáo phường đệ nhất, tiếng đà đồn xa
Thiện tài phục ngón tỳ bà,
Thu nương tấm tức, khi đà giồi trau
Ngũ lăng tuổi trẻ đua nhau,
Đàn xong một khúc biết bao khăn điều
Lược trăm gõ nhịp gãy nhiều,
Chén mời, giọt rượu quần điều ố hoen
Năm qua năm lại bao phen,
Xuân thu trăng gió đã quen vui vầy
Nỗi buồn dì chết em đày,
Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân
Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,
Về già lấy một thương nhân bạn bè
Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,
Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè
Một mình nấp bóng chiếc ghe,
Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ
Đêm qua mộng thấy chuyện xưa,
Lệ rơi tầm tã, mắt mờ đỏ hoen
Tiếng tì đã gợi nỗi phiền,
Lại nghe mụ nói, chẳng yên nỗi lòng
Cùng nhau góc bể long đong,
Gặp nhau lọ phải đã cùng quen nhau
Đế kinh từ biệt bấy lâu,
Tầm Dương bị chích lại đau bấy chầy
Có đâu âm nhạc chốn này,
Suốt năm tơ trúc chẳng ngày nào nghe
Bến Bồn đất thấp ở kề,
Lau vàng trúc cỗi bao vi bốn bề
Sớm chiều nghe tiếng vật gì
Cuốc kêu vượn hú, ùa bi đêm ngày,
Xuân thu hoa nguyệt khoả khuây,
Thường thường chuốc chén lại say một mình,
Ca rừng sáo nội đã đành,
Liu lo ríu rít nào mình có hay
Tì bà giọng ấy đêm nay,
Nghe như tiên nhạc bên tai rach ròi.
Gảy thêm khúc nữa hãy ngồi,
Tì bà hành sẽ vì ai đặt thành
Cảm lời, đứng lúc lặng thinh,
Lại ngồi lựa ngón, lanh lanh gảy bài
Véo von khác trước một hồi,
Những người ngồi đó lệ rơi ngắn dài
Khóc nhiều hơn cả là ai
Giang Châu tư mã đẫm mùi áo xanh.
(Bản dịch: Trần Trọng Kim)
Lê Từ Hiển
Theo https://mrxuanloc.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cổ tích mới thời thế giới phẳng

   Cổ tích mới thời thế giới phẳng Truyện ngắn hiện đại đang trên con đường khám phá, vén mở thi pháp mới. Mỗi nhà văn đều tìm kiếm, khai ...