Chủ Nhật, 22 tháng 8, 2021

Khúc quanh của dòng sông 2

Khúc quanh của dòng sông 2

Chính vào đêm đó, bên dòng sông, sau khi đã nói về Raymond, Indar bắt đầu nói với tôi về chính anh. Cái đêm làm tôi phấn khích lại làm anh cáu tiết và thất vọng, anh trở nên bị kích động ngay sau khi rời khỏi ngôi nhà của Yvette.
    Buổi tối đó, lúc trước, khi chúng tôi đi đến ngôi nhà để dự tiệc, anh đã nói đến Raymond như một ngôi sao, như người gần kề với quyền lực, người da trắng của Người Đàn Ông Vĩ Đại, nhưng rồi, bên ghềnh nước, anh nói về Raymond theo một cách khác hẳn. Với tư cách người chỉ dẫn cho tôi, Indar thật sự lo lắng trong việc làm thế nào cho tôi hiểu được bản chất cuộc sống ở Khu, và địa vị của bản thân anh ở đó. Giờ đây khi tôi đã nắm bắt được sự quyến rũ của cuộc sống của anh, anh lại giống như một người hướng lối đã mất lòng tin vào những gì mình đã chỉ dẫn. Hoặc giống một người, vì đã làm một ai khác tin, thấy mình có thể để mất đi một ít lòng tin của mình.
    Ánh trăng khiến tôi nhẹ nhõm lại làm anh nặng nề, và chính vì sự thất vọng đó mà anh bắt đầu nói. Tâm trạng của một buổi tiệc không còn ở lại với anh, ngày tiếp theo anh quay lại giống như mình trước đó. Nhưng rồi anh sẵn sàng hơn để công nhận sự thất vọng của mình khi nó đến, anh còn quay lại điều anh nói tối đó vào một lúc khác, khi có điều kiện, hoặc khi anh lại rơi vào tâm trạng tương tự tối đó.
    "Chúng ta phải học cách giẫm đạp lên quá khứ, Salim ạ. Tôi từng bảo anh vậy khi chúng ta gặp lại nhau. Quá khứ không thể khiến người ta rơi nước mắt, cả anh và tôi đều thế cả. Có thể có những nơi nào đó của thế giới – những đất nước đã chết, hoặc những đất nước an toàn và những đất nước bị bỏ quên – nơi con người có thể vui vẻ với quá khứ và nghĩ đến việc chuỷên tài sản và đồ sứ cho người thừa kế. Người ta có thể làm điều đó ở Thuỵ Điển, hoặc Canada. Một tỉnh nông thôn của Pháp đầy những người ngốc nghếch trong các lâu đài, một số thành phố - cung điện đổ nát của Ấn Độ, hoặc một thị trấn chết nào đó tại một đất nước Nam Mỹ vô vọng. Mọi nơi khác con người đều chuyển động, thế giới chuyển động, và quá khứ chỉ có thể tạo ra sự đau đớn.
    "Thật không dễ dàng đưa anh lại quá khứ. Đó không phải là điều anh có thể quyết định làm đúng như thế. Chính cái mà anh phải tự dựng lên, hoặc thương khóc sẽ mai phục và giết chết anh. Đó là tại sao tôi tiếp tục hình ảnh vê cái vườn bị giẫm lên cho đến khi nó biến thành đất bằng – đó là một vật nhỏ bé, nhưng hữu ích. Cách nhìn quá khứ đó đến với tôi vào cuối năm thứ ba ở Anh. Và khá buồn cười, nó đến với tôi khi tôi đang đứng trên bờ một dòng sông khác. Anh đã nói với tôi rằng tôi mang đến cho anh ở đây một kiểu sống anh luôn cảm thấy cần. Tôi cũng từng cảm thấy tương tự như thế khi đứng bên dòng sông ở London. Khi đó tôi đã có một quyết định về bản thân mình. Và chính vì kết quả gián tiếp của quyết định đó mà tôi về lại châu Phi. Thê mà khi đi tôi từng nghĩ sẽ không bao giờ trở về nữa.
    "Tôi rất không vui khi ra đi. Anh nhớ đấy. Tôi đã cố làm anh chán ngán – trên thực tế, tôi cố tình làm anh tổn thương – nhưng đó chỉ là vì chính tôi cũng chán ngán quá. Ý nghĩ hai thế hệ bị bỏ phí – thật là đau lòng lắm. Ý nghĩ mất đi ngôi nhà ông tôi đã xây, ý nghĩ vè những rủi ro ông tôi và bố tôi đã phải hứng chịu để xây dựng một cơ ngơi từ hai bàn tay trắng, sự can đảm, những đêm không ngủ - thật là đau lòng. Tại một đất nước khác một nỗ lực như vậy và một tài năng như vậy có thể làm chúng tôi trở thành triệu phú, quý tộc, hoặc bất kỳ thang bậc đáng kể nào cho nhiều thế hệ. Thế mà tan thành mây khói hết cả. Sự điên giận của tôi không chỉ với người châu Phi. Mà còn với cả cộng đồng và nền văn minh của chúng ta, cái đã cho chúng ta ý chí nhưng theo mọi cách đều bỏ chúng ta lại cho sự thương hại của người khác. Làm sao chúng ta có thể điên giận với một điều như vậy chứ?
    "Khi đến Anh, tôi nghĩ mình có thể để lại tất cả những cái đó sau lưng mình. Tôi không có kế hoạch gì hơn thế cả. Từ "đại học" làm tôi rối trí, và tôi còn ngây thơ đến nỗi tin rằng sau khoảng thời gian ở đại học một cuộc đời tuyệt diệu đang chờ đợi tôi. Ở tuổi đó ba năm là một thời gian dài – anh cảm thấy mọi điều có thể xảy ra. Nhưng tôi không hiểu nền văn minh chúng ta lan rộng đến đâu thì đó chính là nhà tù của chúng ta. Tôi cũng đã không hiểu nơi chúng ta lớn lên có thể lan rộng đến đâu, chúng ta thuộc về châu Phi và cuộc sống giản đơn bên bờ bỉên, và chúng ta có khả năng nào để có thể hiểu được thế giới bên ngoài. Chúng ta không có cách nào để hiểu một đoạn tư tưởng và khoa học cũng như triết học và luật học đã tạo ra thế giới đó. Chúng ta chỉ đơn giản là chấp nhận nó. Chúng ta đóng góp cho nó, và đó là toàn bộ những gì chúng ta có thể làm. Chúng ta cảm thấy thế giới vĩ đại chỉ đơn giản là ở đó, là cái gì đó cho những người may mắn trong số chúng ta để khám phá, và rồi sau đó chỉ ở bên lề mà thôi. Không bao giờ chúng ta có thể có được đóng góp gì cho chính bản thân chúng ta. Và đó là lý do chúng ta nhỡ nhàng mọi thứ.
    "Khi chúng ta đến một nơi như sân bay London chúng ta chỉ lo sao không bị rối mù lên. Nó đẹp và phức tạp hơn bất kỳ thứ gì chúng ta có thể mơ đến, nhưng chúng ta chỉ lo sao để mọi người thấy rằng chúng ta có thể xoay xở và không bị đè nát. Thậm chí chúng ta còn có thể giả vờ như chúng ta từng tưởng nó đẹp hơn thế nhiều. Đó là bản chất sự ngu dốt và sự thiếu năng lực của chúng ta. Và đó là cách tôi xử sự khi ở trường đại học tại Anh, cố sao không bị đè nát, luôn tỏ ra thất vọng nhẹ nhàng ,chẳng hiểu gì hết cả, chấp nhận mọi thứ, không thu hát được gì hết. Tôi nhìn và hiểu rất ít kể cả cho đến khi kết thúc thời gian học ở trường đại học tôi chỉ có thể phân biệt những toà nhà qua kích thước và hiếm khi tôi cảm nhận được các mùa trôi qua. Và dù vậy tôi vẫn là một người thông minh, và có thể qua được các kỳ kiểm tra.
    "Ngày xưa, sau ba năm như thế, nhẽ ra tôi có thể trở về nhà, đứng trên bục giảng và dành tâm sức kiếm tiền, sử dụng một tí chút những kỹ năng đã thu thập được, một phần kiến thức của sách vở của người khác. Nhưng dĩ nhiên tôi không thể làm thế được. Tôi phải ở lại nơi đó và kiếm một việc làm. Tôi đã không học được một nghề, anh biết không, không có gì ở nhà đẩy tôi vào hướng đó cả.
    "Đôi khi những người bạn đồng học của tôi nói về nghề nghiệp và những cuộc phỏng vấn. Người ta càng sớm nói đến các cuộc phỏng vấn bao nhiêu các công ty sẽ trả nhiều tiền bấy nhiêu. Trong ngăn kéo của những người đó đầy những phong bì màu nâu từ Hội đồng việc làm trường đại học. Những người ngu si nhất cũng là những người có những trỉên vọng đa dạng nhất, họ có thể làm gì cũng được, và trong ngăn kéo của họ những chiếc phong bì màu nâu dầy cộp nhiều như những chiếc lá mùa thu. Tôi phải tìm một việc, nhưng tôi không bao giờ nghĩ mình là người có thể đi được qua cuộc phiêu lưu của những chiếc phong bì màu nâu. Tôi không biết tại sao, tôi chỉ không làm được, và khi đó, khi gần học xong, tôi xấu hổ nhận ra cái mình có. Tôi hẹn gặp Hội đồng việc làm trường đại học và một buổi sáng tôi mặc bộ áo cánh rồi ra đi.
    "Ngay khi tới nơi tôi biết mình lang thang không mục đích. Hội đồng muốn cho các sinh viên người Anh những công việc ở Anh, không có chỗ cho tôi . Tôi nhận ra ngay khi tôi thấy vẻ mặt của cô gái ở văn phòng nơi đó. Nhưng cô thật xinh đẹp, và người đàn ông mặc đồ đen bên trong cũng thật đẹp. Anh ta rối tinh lên với gốc gác châu Phi của tôi, và sau khi nói chuyện một lúc về châu Phi ,anh ta nói "Thế tổ chức vĩ đại này có thể làm gì cho anh?" Tôi muốn nói "Liệu anh có thể gửi đến cho tôi những phong bì màu nâu như thế không?" Nhưng tôi lại nói "Tôi hy vọng anh có thể nói cho tôi biết", dường như anh ta thấy thế là buồn cười lắm. Anh ta nhìn các chi tiết về tôi, từ mẫu đơn, rồi anh ta thử tiếp tục cuộc trò chuyện, người mặc đồ cấp cao với người mặc đồ đen cấp thấp, người với người.
    "Anh ta không có gì nhiều để nói với tôi. Và tôi càng có ít điều để nói với anh ta. Tôi hiếm khi nhìn vào thế giới. Tôi không biết nó vận hành thế nào hoặc tôi có thể làm gì trong đó. Sau ba năm chết lặng học hành, tôi đã bị bao trùm bởi sự ngu dốt của mình, và trong cái văn phòng bé nhỏ đầy những giấy tờ hiền lành đó tôi bắt đầu nghĩ về thế giới bên ngoài như một nơi đáng tôn sùng. Bộ trang phục đen dành cho phỏng vấn của tôi trở nên bồn chồn . Anh ta nói "Chúa ơi, anh bạn, anh phải có định hướng nào chứ. Anh phải có ý tưởng nào về loại công việc anh nghĩ là anh sẽ làm chứ".
    "Anh ta đúng, dĩ nhiên rồi. Nhưng cái câu "Chúa ơi, anh bạn" đã ảnh hưởng đến tôi, cái gì đó anh ta có thể nhặt ra trong quá khứ tữ người ở trên anh ta và giờ đây ném vào tôi như một kẻ yếu thế hơn. Tôi trở nên giận dữ. Tôi nghĩ rằng rằng có thể nhìn chằm chằm anh ta với vẻ căm ghét tột độ và nói "Công việc tôi muốn là việc anh đang làm. Và tôi muốn làm việc của anh bởi vì anh thích thú nó lắm mà". Nhưng tôi không nói những từ đó ra, tôi không nói lời nào hết cả, tôi chỉ nhìn anh ta căm tức. Thế là cuộc phỏng vấn của chúng tôi kết thúc không có kết quả gì.
    "Bên ngoài tôi trở nên bình tĩnh hơn. Tôi đến quán cà phê nơi sáng sáng tôi thường đến uống. Như một sự an ủi, tôi mua cho mình một chiếc bánh sô cô la. Nhưng khi đó, trong sự ngạc nhiên, tôi nhân ra rằng tôi đang hạnh phúc ở quán cà phê vào lúc giữa ngày, uống cà phê và ăn bánh, trong khi kẻ hành hạ tôi ngập ngụa trong đống phong bì màu nâu trong văn phòng của hắn. Đó chỉ là sự trốn chạy và không thể kéo dài. Nhưng tôi nhớ nửa giờ đó của tôi đã tràn ngập niềm hạnh phúc trong trẻo.
    "Sau đó tôi không trông chờ gì từ Hội đồng việc làm hết. Nhưng anh chàng đó dù sao cũng là một người công bằng, một nền hành chính quan liêu vẫn là một nền hành chính quan liêu, và một ít những phong bì màu nâu đã đến với tôi, không đều đắn, không phải một phần của sự chạy đua mùa thu, làm kinh động những chiếc ngăn kéo trong nhà, mà giống như những chiếc lá rơi cuối cùng của năm, rách rời bở những cơn gió mạnh tháng Giêng. Một hãng dầu mỏ, hai hoặc ba hãng lớn khác có quan hệ làm ăn ở châu Á hoặc châu Phi. Với mỗi miêu tả công việc mà tôi đọc, tôi đều cảm thấy một sự thắt lại về cái mà tôi phải gọi là tâm hồn. Tôi tự thấy mình đang ngày càng giả dối với mình, hành động với chính mình, tự thuyết phục mình về sự đúng đắn với tất cả những gì được miêu tả. Và đó chính là nơi tôi cho là cuộc sống đã kết thúc với hầu hết mọi người, những kẻ củng cố những thái độ của mình để tự làm mình trở nên thích hợp với những công việc và cuộc đời mà người khác để lại cho họ.
    "Không có công việc nào trong số đó hợp với tôi. Lại lần nữa tôi thấy mình đang đùa giỡn với những cuộc phỏng vấn một cách không ý hướng. Một hôm tôi nói "Tôi không biết gì về công việc của ngài, nhưng tôi có thể để công tìm hiểu". Theo lý do nào đó điều này làm cho công việc đổ bể - trong trường hợp này đó là một hội đồng ba người. Họ cười, người già nhất cười đầu tiên, và cuối cùng chảy cả nước mắt, và họ đuổi tôi đi. Mỗi lần bị đuổi đi tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm, nhưng mỗi lần bị đuổi tôi lại thêm lo lắng về tương lai.
    "khoảng một tháng một lần tôi ăn trưa với cô giáo hướng dẫn tôi. Cô khoảng ba mươi tuổi, trông không đến nỗi xấu, và rất tốt với tôi. Cô không có điều gì bất thường vì cô luôn hoà thuận với chính mình. Đó là điều tôi thích ở cô. Chính cô đã khiến tôi làm điều phi lý tôi sắp miêu tả đây.
    "Người đàn bà đó cho rằng những người như tôi đang trôi nổi ngoài biển vì chúng tôi là nó của hai thế giới. Cô đúng, dĩ nhiên. Nhưng cùng lúc điều đó lại không phải là trường hợp của tôi – tôi nghĩ tôi nhìn mọi thứ rất rõ ràng – và tôi nghĩ cố có ý tưởng đó từ một anh chàng nào đó từ Bombay đến hoặc ai đó đã cố tự làm cho mình trở nên hấp dẫn. Nhưng cô ta cũng nghĩ là giáo dục và nền tảng của tôi là đặc biệt, và tôi không thể chống lại ý tưởng về những điều đặc biệt của tôi.
    "Một con người đặc biệt, một người của hai thế giới cần có một công việc đặc biệt. Và cô gợi ý tôi trở thành nhà ngoại giao. Đó là điều tôi đã quyết định làm, và đất nước tôi quyết định phục vụ - vì một nhà ngoại giao phải có một đất nước nào đó để phục vụ - là Ấn Độ. Điều này thật là phi lý. Tôi biết nó là phi lý, dù vậy tôi vẫn làm, tôi với một lá thư đến hội đồng tối cao Ấn độ. Tôi nhận được câu trả lời và họ hẹn gặp tôi.
    "Tôi đi tàu hoả đến London. Tôi không biết rõ London lắm, và nó cũng không giống với điều tôi vẫn biết, sáng đó tôi rất không thích nó. Phố Praeh với những cửa hàng sách khiêu dâm chẳng giống gì với đồi trụy thật sự cả, có Edgware Road, nơi cửa hiệu và nhà hàng dường như liên tục thay đổi, có những cửa hàng và đám đông ở Oxford Street và Regent Street. Đi tới Traflagar Square khiến tinh thần tôi lên một chút, nhưng nó nhắc tôi là tôi gần như đã đi hết cuộc hành trình. Và tôi phải bắt đầu thực sự lao vào sứ mệnh của mình.
    "Xe buýt đưa tôi xuôi khu Strand và thả tôi xuống vòng cung Aldwych, tôi đi ngang qua đường để tới toà nhà mà người ta đã chỉ cho tôi là Nhà Ấn độ. Làm sao tôi có thể nhầm được, với toàn bộ những hoạ tiết Ấn độ trên bức tường bên ngoài như thế? Khi đó tôi rất bối rối . Tôi mặc bộ đồ màu đen, thắt ca vát của trường đại học và đi vào toà nhà ở London, một toà nhà của người Anh, tuồng như là thuộc về Ân độ - một Ấn độ khá là khác với đất nước mà ông tôi đã từng nói đến trước đây.
    "Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy tràn ngập trong lòng một cơn điên giận thuộc địa. Và không chỉ là cơn điên giận với London hay nước Anh, nó còn là cơn điên giận vbz người đã tự cho phép mình bị lôi kéo bởi cơn mê đắm nước ngoài. Sự điên giận đó không giảm xuống khi tôi bước vào bên trong. Lại có những hoạ tiết phương Đông nữa. Những người đưa tin là người Anh tầm tuổi trung niên, rõ ràng họ được quản lý bằng một ban quản lý già nua, nếu anh muốn gọi tên nó, ban quản lý này lại được đặt dưới sự điều khiển của một dàn quản lý trẻ cấp cao hơn. Cho đến khi đó tôi chưa bao giờ cảm thấy liên quan mạnh mẽ đến thế với mảnh đất của tổ tiên tôi, của tổ tiên anh đến như vậy. Tôi cảm thấy trong toà nhà đó tôi đã mất đi phần quan trọng nhất của ý tưởng tôi là ai. Tôi cảm thấy tôi đã được trao cho sự hiểu biết tàn độc nhất về chỗ đứng của tôi trong thế giới này. Và tôi ghét điều đó.
    "Một quan chức cấp thấp đã viết thư cho tôi. Người tiếp tân nói với một trong những người đưa tin người Anh, và người này dẫn tôi đi, không phải với nghi lễ trang trọng, với rất nhiều tiếng hổn hển của người bị hen suyễn, đến một căn phòng có nhiều bàn. Tại một trong những cái bàn đó người đàn ông của tôi đang ngồi. Bàn ông ta trống trơn, và cả người dó cũng dường như xa vắng và có tâm trạng phơi phới. Ông ta nhỏ thó, đôi mắt vui vẻ, một dáng vẻ bề trên, và ông ta không biết tôi đã đến.
    "Dù mặc áo khóac và thắt ca vát lịch sự, ông ta không giống như tôi chờ đợi. Ông ta không phải dạng người tôi cần ăn mặc nghiêm chỉnh để đến gặp. Tôi nghĩ ông ta thuộc về một dạng văn phòng khác, một toà nhà khác, một thành phố khác. Tên ông ta là tên của đẳng cấp lái buôn của ông ta, và tôi rất dễ dàng tưởng tượng ra ông trong chiếc khố đang ôm một chiếc gối trong một cửa hàng vải tại một ngõ chợ, với đôi chân trần và những ngón tay mân mê ngón chân, ngồi gãi những mảng da chết. Ông ta thuộc loại người có thể nói "Áo sơ mi nhé, ông muốn mua áo sơ mi không?" và, quay lưng hẳn lại chiếc gối ôm, lôi ra một đống quần áo từ tấm vải trải trên sàn quầy hàng của mình.
    "Ông không bày quần áo trên bàn cho tôi xem, mà là lá thư của tôi, lá thư ông đã viết, và ông đòi xem. Ông hiểu rằng tôi đang tìm việc và đôi mắt tí hin của ông ta lấp lánh sự vui thích. Tôi cảm thấy rất ngượng ngùng trong bộ cánh của mình. Ông nói "Anh nên đến gặp ông Verma thì hơn", Người đưa tin người Anh, thở gấp, và dường như bị sốc với mỗi hơi thở, dẫn tôi đến một văn phòng khác. và tại đó ông ta bỏ tôi lại.
    "Ông Verma đeo cặp kính đen. Ông ngồi trong một văn phòng ít người hơn và trên mặt bàn có nhiều giấy tờ tài liệu hơn. Trên tường có những bức ảnh, từ thời anh, về những toà nhà và phong cảnh Ấn độ. Ông Verma trông nghiêm trọng hơn người đàn ông ban nãy. Chức vụ của ông cao hơn, và ông có thể dùng cái tên Verma để chứng minh đẳng cấp cao hơn của mình. Ông bối rối với lá thư của tôi, nhưng ông cũng không thấy thoải mái vì bộ cánh và chiếc cà vạt trường đại học của tôi và ông có vẻ chán ngán khi phỏng vấn tôi. Điện thoại kêu nhiều lần và cuộc phỏng vấn của chúng tôi không tiếp thục được. Một lúc, sau khi nói chuyện điện thoại, ông Verma để tôi lại và đi ra khỏi phòng. Ông đi một lúc và khi trở về, cũng một số giấy tờ, ông dường như ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Ông nói với tôi rằng tôi nên đến một văn phòng khác tại một tầng khác, và lần đầu tiên thực sự để ý đến tôi, hỏi tôi đến đây bằng cách nào.
    "Căn phòng tôi gõ cửa là một phòng lớn tối om, với một người đàn ông nhỏ bé ngồi trước một chiếc máy chữ chuẩn kỉêu cũ với bàn phím to đùng. Ông nhìn tôi với sự kinh hoàng – đó là hiệu quả của bộ cánh và chiếc ca vát của tôi, với bộ quần áo của người thuộc hai thế giới – và ông chỉ bình tĩnh lại khi đọc lá thư của tôi. Ông bảo tôi đợi. không có ghế. Tôi phải đứng.
    "Một tiếng chuông gọi vang lên, và người đánh máy kiêm thư ký nhảy dựng lên. Sau khi nhảy lên, có vẻ như ông ta đứng trên đầu ngón chân, ông ta nhanh chóng điều khỉên đôi vai lên xuống theo một kiểu khúm núm, cử chỉ này khiến ông ta nhỏ bé hẳn di so với trước, và với một bước sải chân đáng ngạc nhiên bằng đầu ngón chân, một bước nhảy, ông ta đi ra đến những cánh cửa gỗ ngăn cách chúng tôi với căn phòng phía bên kia. Ông gõ cửa, mở ra, và với một dáng đi gù gù, vẻ khúm núm trước đó, ông ta biến mất.
    "Mong muốn làm nhà ngoại giao của tôi giờ đã tan biến. Tôi ngắm nhìn những bức ảnh khổ lớn Gandhi và Nehru và tự hỏi rằng bằng cách nào, ngoài bố cảnh nghèo nàn như thế này, những người đó lại có thể bắt người khác coi mình là người được. Thật lạ lùng, trong toà nhà giữa trung tâm London đó, nhìn thấy những con người vĩ đại theo cách mới mẻ này, từ bên trong như thế. Cho đến lúc đó, từ bên ngoài, không biết đến chúng như tôi đã đọc trên báo và tạp chí, tôi đã ngưỡng mộ họ. Họ thuộc về tôi; họ nấng tôi lền và cho tôi một chỗ trong thế giới. Giờ đây tôi cảm thấy ngược lại. Trong căn phòng đó những bức ảnh của những con người vĩ đại này làm tôi cảm thấy tôi đang ở đáy một cái giếng. Tôi cảm thấy rằng trong căn phòng này toàn bộ nhân tính chỉ được phép với những con người này và chối từ mọi người khác. Mọi người đều cúi gục trước nhân tính của họ, hoặc một phần, những người lãnh tụ của họ. mọi người sẵn lòng làm mình bé nhỏ đi để tôn vinh thêm nữa những người lãnh đạo này. Những ý nghĩ đó làm tôi ngạc nhiên và đau đớn. Chúng còn hơn là dị giáo. Chúng phá huỷ những gì còn sót lại trong lòng tin của tôi về cách thức trật tự mà thế giới đang theo. Tôi bắt đầu cảm thấy bị gạt ra và cô đơn.
    "Khi người thư ký quay trở lại văn phòng, tôi nhân ra ông ta vẫn bước đi bằng đầu ngón chân, vẫn khúm núm, vẫn chúi người về phía trước. Tôi thấy rằng trông thật giống một sự khúm núm, khi so vai vào ông ta đã nhảy khỏi ghế của mình, nhảy đến cửa, không phải một hình dạng ông ta khoác lấy, mà chính là bản chất tự nhiên của ông ta. Ông ta bị gù. Đó là một cú sốc. Tôi bắt đầu lẫn lộn nghĩ lại về những cảm giác trước đó khi ông đi ngang qua tôi đến cánh cửa vào văn phòng phía trong, nơi người đàn ông da đen to béo bận đồ đen, một trong những người Ấn da đen, đang ngồi tại một cái bàn lớn màu đen, mở những chiếc phong bì với một con dao rọc giấy.
    "Đôi gò má bóng nhẫy của ông ta đi với cặp môi dày tạo ra cảm giác ông ta đang bĩu môi. Tôi ngồi xuống một cái ghế cách bàn ông ta một quãng. Ông ta không ngẩng lên nhìn tôi và cũng không nói gì cả. Và tôi cũng không nói, tôi để ông ta mở những lá thư. Bài tập đó ông ta phải làm đến hơn một giờ trong đời ông ta, con người sùng đạo phương Nam đó. Ông bốc mùi đẳng cấp và đền đài, và tôi chắc rằng dưới bộ cánh màu đen đó ông đeo toàn bùa.
    "Cuối cùng, nhưng vẫn không ngẩng đầu lên, ông ta nói "Thế nào?"
    "Tôi nói "Tôi đã viết thư xin một công việc ngoại giao. Tôi nhận được thư trả lời từ ông Aggarwal và tôi đến đây gặp ông ấy"
    "Vẫn mở thư của mình, ông nói "Mister Aggarwal".
    "Tôi mừng là ông ta đã tìm thấy điều gì dó mà chúng tôi có thể bàn luận được.
    " Aggarwal có vẻ không biết nhiều lắm. Ông ấy gửi tôi đến chỗ Verma.
    "Ông đã gần nhìn lên đến tôi. Nhưng ông không nhìn. Ông nói "Mister Verma".
    "Verma cũng có vẻ không biết nhiều lắm. Ông ấy nói chuyện rất lâu với một người tên là Divedi.
    " Mister Divedi.
    "Tôi đầu hàng.Ông ta có vẻ như đã loại được tôi. Tôi nói, mệt lử. Và ông ấy gửi tôi đến chỗ ông .
    " Nhưng trong thư anh nói anh đến từ châu Phi. Thế nào mà anh có thể làm nhà ngoại giao được chứ? Làm sao anh có thể chia sẻ sự trung thành của mình được?
    "Tôi nghĩ, làm sao ông dám giảng cho tôi về lịch sử và sự trung thành của tôi, hỡi tên nô lệ kia? Chúng tôi đã trả giá đắt cho những kẻ như ông. Ông trung thành với ai nữa, ngoài chính bản thân, gia đình và đẳng cấp của ông?
    "Ông ta nói Các anh sống sung sướng ở châu Phi. Bây giờ thật khó cho các anh trở lại. Nhưng anh phải làm rất nhiều việc với người địa phương.
    "Đó là điều ông ta đã nói. Nhưng tôi không nói với anh điều ông ta thực sự nói chính là đạo đức và sự may đời của ông ta. Với ông ta sự thuần khiết của đẳng cấp, cưới xin sắp xếp, ăn chay đúng đắn, là những điều bất khả xâm phạm. Mọi người khác đều đã bước chân lên sự nhơ bẩn, và phải trả giá. Cũng giống như thông điệp của những bức ảnh của Gandhi và Nehru tại căn phòng bên ngoài.
    "Ông ta nói Nếu anh trở thành công dân Ấn độ, sẽ có những kiểm tra nhất định. Chúng tôi đã sắp xếp để chúng được thực hiện tại một trong những trường đại học ở đây. Ông Verma có thể nói với anh. Nhẽ ra ông ấy không nên gửi anh đến chỗ tôi mới phải .
    "Ông ta bấm một cái chuông trên bàn. Cửa mở, và người thư ký gù lưng đưa vào một người cao gầy, với đôi mắt sáng, lo lắng và một vẻ khúm núm bợ đỡ. Người mới đến cầm một cái cặp nghệ sĩ, và ông ta có một chiếc khăn quàng cổ dài, màu xanh lá cây quấn lấy cổ, dù trời khá ấm áp. Không để ý đến tôi, mắt chỉ chăm chăm vào người da đen, ông ta mở chiếc cặp và bắt đầu lấy ra những bức tranh. Ông ta cầm từng chiếc một đặt trước ngực, chìa về phía người da đen một nụ cười thường trực mở rộng lo lắng, rồi nhìn xuống cái ông ta đang trưng ra, để với cái đầu cúi xuống những bức tranh của mình, và với sự khúm núm đã có ở đó, trông ông ta giống như một người đang ăn năn hối cải, đang trình bày tội lỗi với những người khác. Người da đen không nhìn người nghệ sĩ, chỉ nhìn các bức tranh. Chúng vẽ những ngôi đền và những người phụ nữ hớn hở đang uống trà – có thể là một cách giới thiệu về nước Ân độ mới.
    "Tôi đã bị xua đuổi. Người thư ký gù lưng, căng cứng trên chiếc máy chữ cũ, to, nhưng không gõ, những ngón tay xương xẩu như những con tôm đặt trên bàn phím, nhìn tôi lần cuối vẻ đe doạ. Lần này, dù sao qua cái nhìn của ông ta, tôi cũng có một câu hỏi "Giờ anh đã hiểu tôi là ai chưa?"
    "Đi xuống cầu thang, bao quanh bởi những hoạ tiết về Ấn độ vua chúa, tôi nhìn thấy ông Verman, lại rời xa cái bàn của mình, và với nhiều giấy tờ hơn, nhưng ông ta đã quên tôi. Người đàn ông thuộc đẳng cấp thương gia lười biếng trong văn phòng tầng dưới dĩ nhiên vẫn nhớ tôi. Tôi nhận của ông nụ cười mỉa mai, và rồi tôi đi ra khỏi chiếc cửa quay, hoà vào không khí London.
    "Chuyến đi ngắn ngủi của tôi vào ngành ngoại giao đã kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Lúc đó đã quá mười hai giờ trưa, quá muộn để uống cà phê và ăn bánh, khi một qúan bar snack nhắc nhở tôi. Tôi tiếp tục bước đi. Tràn đầy giận dữ. Tôi đi theo vòng cung Aldwych đến tận cùng, di qua phố Strand, và xuôi dòng sông.
    "Trong khi bước đi, một ý nghĩ đến với tôi, đã đến lúc về nhà. Tôi không nghĩ về thị trấn của chúng ta, về nơi bên bờ biển châu Phi của chúng ta. Tôi nhìn thấy một đường quốc lộ dọc hai bên là những cây cối khá cao. Tôi nhìn thấy những cánh đồng, lâu đài, một ngôi làng với những cái cây thấp. Tôi không biết quyển sách hay bức tranh nào đã cho tôi hình ảnh đó, hoặc tại sao một chỗ như thế l.ai có thể tạo cho tôi cảm giác an toàn. Nhưng hình ảnh đó đã đến với tôi, và tôi ngắm nghía nó. Những buổi sáng, màn sương, những bông hoa tươi mát, bóng của những cái cây vào lúc giữa ngày, những ánh lửa vào buổi tối. Tôi cảm thấy tôi đã biết cuộc sống đó, và nó vẫn còn chờ đợi tôi ở đâu đó. Dĩ nhiên thật là tuyệt.
    "Tôi thức tỉnh về nơi tôi đang ở. Tôi đang bước đi trên bờ kê bên cạnh dòng sông, đi mà không nhìn gì hết. Trên tường của bờ kê đó có những ngọn đèn kim loại màu xanh lá cây. Tôi kỉêm tra những cái đèn đó, từng bóng đèn, từng cọc đèn một. Tôi đã xa nơi tôi bắt đầu, và trong một lúc tôi đã rời khỏi những cái cột để kiểm tra những trụ đỡ bằng kim loại của những chiếc ghê dài trên vỉa hè. Những trụ đỡ này, khi tôi kinh ngạc ngắm nhìn, có dáng vẻ những con lạc đà. Lạc đà với những cái bướu của chúng! Một thành phố kỳ cục, khúc ca lãng mạn Ấn độ trong toà nhà đó, bản tình ca của sa mạc nơi này. Tôi dừng lại, bước chầm chậm trở lại, và bỗng dưng tôi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và bầu trời, những màu sắc dịu nhẹ của các toà nhà, sự chăm chút chúng được hưởng,
    "Tại châu Phi, trên bờ biển, tôi đã chỉ chú ý tới một màu trong tự nhiên – màu của biển. Mọi thứ còn lại chỉ là cây bụi, với màu xanh lá cây sống động, hoặc nâu và cứng đờ. Cho đến lúc này tại nước Anh tôi đã rảo bước, mắt nhìn vào những giá hàng trong các cửa hiệu, tôi đã không nhìn thấy gì hết. Một thành phố, thậm chí London, chỉ là một chuỗi phố và tên phố, và phố là một dãy dài cửa hiệu. Giờ đây tôi đã nhìn thấy thứ khác. Và tôi hiểu London không chỉ đơn giản là một nơi như thế, như người ta nói về núi, nơi đã được con người tạo ra, mà con người đã chú ý đến từng chi tiết như từng phút, như những con lạc đà đó.
    "Cùng lúc đó tôi bắt đầu hiểu rằng sự kinh sợ của tôi trước việc phải trở thành mtnn phiêu bạt là hoàn toàn sai, rằng với tôi giấc mơ về ngôi nhà và sự an toàn không gì hơn là một giấc mơ về sự cô độc, không ngày tháng, ngu xuẩn và yếu ớt. Tôi thuộc về mình tôi thôi. Tôi việc gì phải hạ thấp nhân cách của mình trước bất kỳ ai. Đối với ai đó giống như tôi thì chỉ có một nền văn minh và một nơi – đó là London hoặc một nơi nào giống thế. Mọi thứ khác của cuộc sống đều chỉ là làm ra để mà tin .Nhà – để làm gì kia chứ? Để trốn? Để cúi gập người trước những người vĩ đại của chúng ta? Đối với những người ở hoàn cảnh của chúng ta, những người bị dắt lối vào sự nô lệ, đó là cái bẫy lớn nhất. Chúng ta chẳng có gì hết cả. Chúng ta an ủi chính mình với ý nghĩ rằng những người vĩ đại của bộ lạc chúng ta, Gandhi và Nehru. "Tại đây, hãy lấy nhân tính và đưa cho tôi. Hãy nhận lấy nhân tính của tôi và hãy trở thành một người vĩ đại, chính anh ấy, cho lợi ích của tôi!" Không! Tôi muốn trở thành người bình thường, cho chính bản thân tôi.
    "Vào một số thời điểm tại một số nền văn minh các nhà lãnh đạo vĩ đại có thể mang đến nhân tính cho dân tộc mà họ lãnh đạo. Điều này khác với những người nô lệ. Đừng chê trách các nhà lãnh đạo. Đó chỉ là một phần khó chịu của tình thế. Tốt hơn là rút khỏi toàn bộ việc làm ăn, nếu anh có thể. Và anh có thể mà. Anh có thể nói – và tôi biết Salim ạ, rằng anh đã nghĩ đến điều đó – rằng tôi đã quay lưng l.ai cộng đồng của mình và biến đi. Tôi nói "Biến đi đâu và khỏi cái gì? Bạn có gì để cho tôi? Cống hiến của bạn là gì? Và liệu các người có đưa trả lại cho tôi nhân tính được không?" Dù sao đó là điều tôi đã quyết định vào buổi sáng hôm đó, bên dòng sông thành London, giữa những chiếc cột đèn và lạc đà, công việc của một số nghệ sĩ đã chết đã thêm vào vẻ đẹp cho thành phố.
    "Đó là năm năm trước đây. Tôi thường tự hỏi điều gì có thể xảy đến với mình nếu tôi không quyết định như vậy. Tôi cho là tôi có thể chìm xuồng. Tôi nghĩ tôi có thể tìm thấy một cái hố nào dưới và chui vào đó để trốn hdc đi qua. Dù sao, chúng ta dã tự gắn mình vào những ý tưởng mà chúng ta có với trách nhiệm của mình. Nhẽ ra tôi đã trốn vào cái hố của mình và bị què quặt bởi sự đa cảm của mình, làm điều mà tôi làm, và làm nó thật tốt, nhưng luôn ngóng về một cái gì đó. Và tôi có thể không bao giờ thấy thế giới là nơi giàu có đến vậy. Anh có thể không thấy tôi ở đây, châu Phi này, làm điều tôi đang làm. Tôi có thể đã không muốn làm điều đó, và không ai có thể muốn tôi làm điều đó. Tôi có thể nói "Giờ tất cả đã hết với tôi, thế nên tại sao tôi phải để mình bị người khác sử dụng? Người Mỹ muốn chiến thắng thế giới này. Đó là cuộc chiến của họ, chứ không phải của tôi. Và điều đó hẳn là phải ngu ngốc lắm. Thật ngu ngốc khi nói về người Mỹ. Họ không phải một bộ lạc, như anh có thể nghĩ từ bên ngoài. Họ là những cá nhân chiến đấu để tạo ra con đường của mình, cố gắng hết mức để anh hoặc tôi không chìm xuồng.
    "Sau đó khi tôi rời khỏi trường đại học, mọi chuyện thật không dễ dàng. Tôi vẫn cần có một công việc, và giờ đây điều duy nhất tôi biết là cái tôi không muốn làm. Tôi không muốn chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác. Những người như tôi phải tự tạo ra công việc riêng cho mình. Đó không phải cái gì đó đến với bạn trong một chiếc phong bì màu nâu. Công việc ở đó, đang chờ đợi. Nhưng nó không ở đó cho anh hoặc bất kỳ ai khác anh có thể khám phá, và anh khám phá nó bởi vì nó dành cho anh và chỉ mình anh mà thôi.
    "Ở trường đại học tôi từng tham gia diễn một vài vở kịch – bắt đầu bằng một vai thoáng qua trong một bộ phim nhỏ ai đó đã làm về một cậu bé và một cô bé đi dạo trong công viên. Tôi thuộc những người còn lại của nhóm đó ở London và bắt đầu đóng nhiều. Không quan trọng gì lắm đâu. London đầy những nhóm kịch nhỏ như thế. Họ tự viết kịch bản, và họ có tiền từ các hãng và các hội đồng địa phương ở khắp nơi. Và nhiều người trong số họ sống trong sự buồn khổ. Đôi khi tôi đóng những vai người Anh, nhưng thường thì họ viết vài vài riêng cho tôi, thế nên với tư cách một diễn viên tôi thấy mình trở thành người mình không muốn trong cuộc đời thực. Tôi đóng sĩ quan người Ấn độ đi thăm một bà mẹ thuộc đẳng cấp lao động đang hấp hối, tôi lại đóng một sĩ quan Ân độ khác bị kết tội hiếp dâm, tôi là một người lái xe buýt không ai muốn làm việc cùng…và vân vân. Một lần tôi đóng vai Romeo. Một lần khác là sự cải biên Người lái buôn thành Venise, thành chủ nhà băng Malindi, và tôi đóng vai Shylock. Nhưng mọi sự đã trở nên phức tạp quá mất rồi.
    "Đó là một cuộc sống trôi dạt, và thoạt tiên rất hấp dẫn. Rồi nó trở nên nặng nề. Mọi người bỏ đi và có những công việc, anh cũng hiểu họ đã có những mối quan hệ vững chắc từ lâu rồi. Đó luôn luôn là sự bỏ rơi, và có những lúc trong hai năm đó tôi đã cảm thấy mất phương hướng và phải đấu tranh rất khó nhọc để tiếp tục tâm trạng đã đến với tôi bên dòng sông đó. Giữa tất cả những con người đẹp đẽ đó tôi là kẻ duy nhất bị bỏ rơi. Tôi không muốn là kẻ bị bỏ rơi. Họ làm những gì có thể để tạo chỗ cho tôi, và đó đã là hơn bất kỳ ai ở ngoài có thể nói cho chúng ta. Đó là một khác biệt về mặt văn minh.
    "Một ngày Chủ nhật tôi được đưa đến ăn trưa tại nhà một người bạn của một người bạn. Không có gìl à bohemien về ngôi nhà hoặc bữa ăn, và tôi phát hiện ra tôi được mời vì một trong số những người khách vĩ đại là người Mỹ rằng quan tâm đến châu Phi. Ông nói về châu Phi theo một cách thật khác thường. Ông nói về châu Phi như thể châu Phi là một đứa trẻ bị ốm và ông ta là người đỡ đầu. Sau đó tôi trở nên thân thiết hơn với người đàn ông này, nhưng vào bữa trưa đó ông ta đã làm tôi điên tiết và tôi rất cáu với ông. Đó là vì trước đây tôi chưa bao giờ từng gặp loại người đó. Ông có tiền để chi cho châu Phi, và ông ta muốn một cách tuyệt vọng làm được điều đúng đắn. Khi nghĩ toàn bộ số tiền đó sẽ bị tiêu phí tôi không thấy vui. Nhưng ông ta cũng có những ý tưởng lớn đơn giản nhất về sự tái sinh ở châu Phi.
    "Tôi nói với ông ta là châu Phi sẽ không được cứu rỗi hoặc vươn lên bởi những bài thơ của Yevtushenko hoặc bởi cách nh với mọi người về sự yếu ớt của bức tường Berlin. Ông ta không có vẻ gì là ngạc nhiên. Ông muốn nghe nữa và tôi nhận ra mình được mới đến bữa trưa để nói những điều mà tôi đã nói. Và chính ở đó tôi bắt đầu hiểu mọi thứ mà tôi nghĩ đã làm tôi không quyền lực trong cái thế giới này và đồng thời biến tôi thành có giá trị, và rng đối với người Mỹ đó tôi hấp dẫn bởi vì tôi là chính tôi, một người không có khuynh hướng.
    "Đó là sự bắt đầu. Đó là cách tôi trở nên ý thức với những tổ chức đang sử dụng sự vượt trội kinh tế của phương Tây để bảo vệ thế giới đó. Những ý tưởng tôi đưa ra thật hung hăng trong bữa trưa hôm đó, và đã bình tĩnh hơn và thực tế hơn sau đó, là những ý nghĩ khá đơn giản. Nhưng chúng chỉ có thể đến từ ai đó giống tôi, ai đó thuộc về châu Phi, nhưng không hề có ích gì cho kiểu tự do vừa mới có ở châu Phi này.

    "Ý tưởng của tôi là thế này. Mọi thứ đã dồn lại để đẩy tới châu Phi vào một dạng độc tài. Do đó châu Phi đầy những người tị nạn, những người trí thức thế hệ đầu tiên. Các chính phủ phương Tây không muốn biết, và những người châu Phi cũ không có cách nào để hiểu – họ vẫn chiến đấu trong những cuộc chiến tranh cũ. nếu châu Phi có một tương lai, thì đó chính là trách nhiệm của những người tị nạn này. Ý tưởng của tôi là đưa họ ra khioi những đất nước mà họ không thể hoạt động và gửi họ, dù chỉ trong một thời gian ngắn, đến những nơi trên lục địa, những nơi nào có thể. Một sự trao đổi lục địa, để tạo cho chính những người đó niềm hy vọng, để cung cấp cho người châu Phi những thông tin tốt hơn về chính châu Phi ,và để bắt đầu cuộc cách mạng thực sự của châu Phi.
    "Ý tưởng đã được thực hiện rất tốt. Mỗi tuần chúng tôi nhận được những đơn yêu cầu từ các trường đại học nơi có thể duy trì kiểu cuộc sống trí thức mà không dính dáng vào chính trị của địa phương. Dĩ nhiên, chúng tôi đã thu hút sự đổ bộ tự do, của người da đen và da trắng, và chúng tôi đã gặp rắc rối với những tay chống Mỹ chuyên nghiệp. Nhưng ý tưởng này tốt. Tôi không cảm thấy mình phải biện hộ nó. Thực hiện tốt được như hiện nay lại là một vấn đề khác. Và có thể chúng ta không có thời gian. Anh đã nhìn thấy những cậu bé ở Khu này. Chúng làm mọi thứ vì điều đó, và đó là nơi nó có thể đạt được đến tận cùng. Có những lúc tôi cảm thấy châu Phi chỉ đơn giản là có con đường riêng của mình – những con người đói khát là những con người đói khát. Và đó là lúc tôi coi mọi cái thật thấp kém.
    "Làm một công việc giống như thế nghĩa là phải sống torng một sự lắp đặt – anh không cần nói với tôi điều đó. Nhưng mọi người đều sống trong sự lắp đặt. Văn minh là một sự lắp đặt. Và sự lắp đặt đó là chính tôi. Trong đó, tôi có giá trị, chỉ như tôi vốn có. Tôi không phải bật cái gì lên hết cả. Tôi khám phá chính tôi, tôi không cho phép ai bóc lột tôi. Và nếu được, nếu ngày mai những người ở trên quyết định chúng ta không đi đâu, tôi giờ đây đà học được rằng có những cách khác để có thể tự khai thác chính mình.
    "Tôi là một người may mắn. Tôi nắm thế giới ở trong tôi. Anh thấy đấy. Salim, trong thế giới này những người ăn mày là những người duy nhất có thể lựa chọn. Mọi người khác đều có sự thiên lệch về chính mình. Tôi có thể lựa chọn. thế giới là một chốn giàu có. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào điều bạn lựa chọn trong đó. Bạn có thể là người tình cảm và ôm riết lấy ý tưởng về sự thất bại của bạn. Bạn có thể là một nhà ngoại giao Ấn độ và luôn đứng bên thua cuộc. Nó giống như kinh doanh ngân hàng ấy. thật ngu xuẩn khi kinh doanh ngân hàng ở Kenya hoặc Sudan. Nhiều hay ít cũng giống cái mà gia đình tôi đã làm ở bờ biển. Các ngân hàng sẽ nói gì trong những báo cáo thường niên về những chỗ như thế? Rằng nhiều người nằm ngoài khu vực tiền tệ sao? Anh không thể trở thành một Rothschild ở đây. Nhà Rothschild đã biết lựa chọn châu Âu đúng lúc. Những người Do thái khác, cũng tài năng như vậy, đi làm ngân hàng cho đế chế Ottoman, tại Thổ Nhĩ Kỳ hay Ai Cập hoặc nơi nào đó, đã không được như thế. Không ai biết tên họ. Và đó là điều chúng ta đã làm trong hàng thế kỷ qua. Chúng ta khúm núm trước ý nghĩ của mọi người khác. Chúng ta đã chọn sai bên. Tôi đã mỏi mệt phải đứng ở bên thua cuộc rồi. Tôi không muốn bỏ qua. Tôi biết chính xác mình là ai và tôi đứng ở đâu trong thế giới này. Nhưng giờ đây tôi muốn chiến thắng, chiến thắng, chiến thắng".
Indar đã bắt đầu câu chuyện của anh vào cuối buổi tối hôm ở nhà Yvette và Raymond đó. Sau đó nhiều lần anh kể thêm. Anh đã bắt đầu câu chuyện vào buổi tối đầu tiên tôi gặp Yvette, và mọi nơi tôi gặp Yvette sau đó nàng đều đi với anh. Tôi lạ lùng với cả hai con người đó, tôi không hiểu ra sao nữa.
    Trong tâm trí tôi có hình ảnh Yvette của riêng mình, và hình ảnh đó không bao giờ thay đổi. Nhưng con người mà tôi thấy, nhiều lúc trong ngày, trong nhiều dạng ánh sáng và thời tiết khác nhau, trong những hoàn cảnh khác hoàn toàn với những hoàn cảnh tôi đã gặp nàng lần đầu, bao giờ cũng mới mẻ, luôn là một sự bất ngờ. Tôi bồn chồn được thấy mặt nàng – tôi bị nàng ám ảnh.
    Và Indar cũng bắt đầu thay đổi với tôi. Cả tính cách riêng biệt của anh cũng có một cái gì đó rã ra. Khi anh kể xong chuyện, trong mắt tôi anh không giống với người đã xuất hiện trong cửa hiệu của tôi nhiều tuần trước. Trong bộ quần áo của anh khi đó tôi đã nhìn thấy sự thiên vị dành cho London. Tôi đã thấy rằng anh đang chiến đấu để giữ lại được phong cách của mình, nhưng tôi không nghĩ phong cách của anh như cái gì đó anh tự tạo ra cho mình. Tôi thấy anh là một người bị hào quang của thế giới vĩ đại tác động đến, và tôi đã nghĩ đó là cơ may cho thế giới của anh, cả tôi, cũng có thể bị tác động bởi ánh hào quang đó. Trong những ngày đó tôi thường muốn nói với anh "Hãy giúp tôi thóat khỏi chốn này. Hãy chỉ cho tôi làm thế nào để giống được như anh".
    Nhưng giờ thì không thế nữa rồi. Tôi không thể ghen tị với phong cách hay sự độc đáo của anh nữa. Tôi thấy anh như bản thân anh. Tôi cảm thấy mình được bảo vệ trước anh. Tôi cảm thấy kể từ tối đó tại chỗ Yvette – buổi tối đã nâng tôi lên nhưng lại kéo anh xuống thấp – chúng tôi đã tráo đổi vai. Tôi không còn thấy anh là người hướng lối cho mình, anh là người cần được giúp đỡ.
    Đó có thể là điều bí mật của sự thành công về mặt xã hội của anh mà tôi từng ghen tị. Mong muốn của tôi – hẳn là giống với của những người ở London mà anh đã nói với tôi, những người đã tạo chỗ làm cho anh – là loại bỏ hoàn toàn sự nóng nảy và thất vọng, những thứ làm hỏng đi sự êm ái mà tôi biết là có ở đó. Tôi được bảo vệ trước anh và sự độc đáo của anh, cả việc nói quá cũng như sự lừa dối của anh. Tôi muốn tất cả những cái đó không bị tổn thương. Điều làm tôi buồn là trong một thoáng chốc anh phải rời đi, anh phải tiếp tục với những công việc giảng dạy tại nơi khác của mình – một giảng viên, thật không chắc chắn về tương lai của anh trong vai trò đó như anh từng đã làm trong những vai tròn trước của mình.
    Những người bạn duy nhất trong thị trấn mà tôi giới thiệu cho anh là Shoba và Mahesh. Họ là những người duy nhất tôi cho là có thể có điều gì đó chung với anh. Nhưng hoá ra không phải. Cả hai bên đều nghi kỵ nhau. Cả ba người theo nhiều cách – nổi loạn, liên quan đến vẻ đẹp hình thể của họ, tìm ra vẻ đẹp đó như là dạng thưc dễ dàng nhất của nhân cách. Mỗi người đều thấy người kia như là một phiêu bản của chính mình, và họ giống như những người – Shoba và Mahesh một bên, Indar ở bên kia - cảm thấy ở bên kia sự giảo trá.
    Một hôm tại bữa trưa trong căn hộ của họ - một bữa ăn ngon: họ đã sửa sọan rất kỹ càng, đồ bạc và đồ đồng được đánh bóng, những chiếc rèm kéo xuống che ánh sáng chói loà bên ngoài, ngọn đèn ba bấc chiếu sáng chiếc thảm Ba Tư trên tường – Shoba hỏi Indar "Anh làm việc này có kiếm được tiền không?" Indar nói "Có chứ". Nhưng lúc ra ngoài, trong ánh nắng và bụi đỏ, anh trở nên tức giận. Khi chúng tôi lái xe trở về Khu, về nhà anh, anh nói "Các bạn của anh không biết tôi là ai và tôi đã làm gì. Họ thậm chí còn chẳng biết tôi từ đâu đến". Anh không nhắc đến những chuyến đi của mình, anh muốn nói họ đã không đánh giá cao những cuộc tranh đấu mà anh đã từng trải qua. "Hãy nói với họ, giá trị của tôi là giá trị vị trí của chính tôi. Không có lý do khác để có thể kiếm được năm mươi nghìn đô la hay một trăm nghìn đô la một năm".
    Đó là tâm trạng của anh khi sắp đi khỏi Khu. Anh dễ nổi nóng và thất vọng. Nhưng với tôi, thậm chí trong những ngày chán nản đó, Khu vẫn là địa điểm đáng trông chờ. Tôi trông chờ lặp lại buổi tối mà tôi đã từng có – tiếng hát Joan Baez, những ngọn đèn mờ ảo và những chiếc đệm châu Phi trên sàn nhà, người đàn bà bối rối trong bộ đồ chùng màu đen, cuộc đi bộ đến ghềnh nước dưới ánh trăng và những đám mây. Tôi bắt đầu cảm thấy phấn khích. Tôi giữ bí mật không nói với Indar. Và Yvette, mỗi khi thấy nàng, trong ánh sáng điện mờ ảo hoặc trong ánh sáng ban ngày tầm thường, lại làm tôi bối rối, thật khác với những gì tôi còn nhớ.
    Ngày nối ngày qua đi, học kỳ của trường bách khoa đã hết. Indar đột ngột tạm biệt vào một buổi chiều, như một người không muốn gây náo loạn nhiều về lời tạm biệt , anh không muốn tôi tiễn anh. Và tôi cảm thấy rằng Khu và cuộc sống ở đây, đã vĩnh viễn khép lại trước tôi.
    Ferdinand cũng đi. Nó lên thủ đô theo khóa tập huấn công chức nhà nước. Tôi tiễn Ferdinand ra tàu thuỷ vào cuối học kỳ. Những bông lan dạ hương trên sông đang trôi nổi trong những ngày nổi loạn, người ta nói chúng thấm máu, vào những buổi chiều nặng nề, ngột ngạt với cái nóng lấp lóa nắng, chúng không có mùi, vào lúc có trăng những bông hoa này có màu trắng, chúng rất hợp với tâm trạng một buổi tối đặc biệt. Giờ đây màu tim hoa cà trên màu xanh lá cây đậm, chúng nói về điều gì đó đã qua, những người khác đang tới.
    
    Tàu thuỷ đến vào buổi chiều hôm trước, kéo theo chiếc thuyền chở khách. Tôi không thấy Zabeth và chiếc thuyền độc mộc của cô. Ferdinand không muốn cô đến đây. Tôi đã nói với Zabeth đó chỉ là vì Ferdinand đang ở tuổi muốn chứng tỏ mình độc lập. Và điều này rất đúng xét theo khía cạnh nào đó. Chuyến đi đến thủ đô là rất quan trọng với Ferdinand, và vì nó quan trọng, Ferdinand muốn được tự làm một mình, không có mẹ.
    Nó luôn tự coi mình quan trọng như thế. Nhưng ở nó đã phát triển một cung cách mới đáng ngạc nhiên. Từ chiếc thuyền độc mộc lên khoang hạng nhất tàu thuỷ, từ một ngôi làng đến trường bách khoa và cuộc thi công chức, nó đã nhảy qua hàng thế kỷ. Chuyến đi của nó không hề dễ dàng, hồi cuộc nổi loạn nó muốn chạy trốn. Nhưng kể từ đó nó đã học được cách chấp nhận mọi khía cạnh của chính nó và mọi khía cạnh của đất nước, nó không vứt bỏ gì đi hết. Nó chỉ biết đất nước nó và cái đất nước cho nó, và toàn bộ những gì đât nước này cho nó giờ đây nó đều muốn đền đáp. Điều này giống như một sự cao ngạo, nhưng đó cũng là một dạng nhẹ nhàng và chấp nhận. Nó đang ở nhà, nó chấp nhận toàn bộ tình thế, và nó là chính nó ở mọi nơi.
    Đó là điều nó thể hiện sáng đó khi tôi chở nó từ Khu ra bến tàu. Sự thay đổi từ Khu được những nhà cửa xập xệ bên ngoài – với những cánh đồng thưa thớt trồng ngô, những dòng suối nhỏ đầy rác và hàng chồng rác – tất cả ấn tượng mạnh lên tôi hơn là lên nó. Tôi muốn cùng với nó nghĩ về niềm tự hào ccn để không để ý gì đến chúng, nó nói về chúng, không có ý phê phán mà xem chúng là một phần của thị trấn. Tại Khu, khi từ biệt những người quen, nó đã cư xử như một cậu học việc công chức, với tôi trong xe nó giống như với một người bạn cũ, và rồi bên ngoài những cánh cửa cầu tàu, nó trở nên vui sướng một cách dễ hiểu, và kiên nhẫn, hoà vào đám đông châu Phi, trong sự hối hả của phiên chợ.
    Miscerique probat populos et foedera jungi. Đã từ lâu tôi thôi không còn để ý tới sự rực rỡ của những từ này nữa. Toà nhà chỉ trở thành một phần của cảnh chợ vào những ngày có tàu. Qua đám đông đó giờ đây chúng tôi bắt đầu con đường của mình, với một ông già đi theo, người yếu ớt nhất trong số chúng tôi, người xách va li cho Ferdinand.
    Những chậu ấu trùng và sâu; những giỏ chứa đầy gà bị trói chặt kêu quang quác khi bị người bán hàng xách một cái cánh lên cho người khách xem; những con dê mắt u tối trụi thùi lụi, nằm ngổn ngang trên mặt đất, nhai rác và giấy, những con khỉ non lông ẩm ướt, đầy vẻ khổ cực, bị buộc dây dây dắt chặt quanh những cái eo lưng gầy guộc và gặm lạc, vỏ chuối, vỏ xoài, nhưng nhai mà không có vẻ gì ngon lành, như thể chúng biết mình sắp bị giết thịt.
    Những người khách thoáng qua đầy nóng vội đến từ vùng cây bụi, những người khách tới bằng xuồng, đi từ một ngôi làng xa xôi đến một ngôi làng khác, được gia đình hoặc bạn bè đưa tiễn, những người bán hàng có cửa hàng ngồi tại cửa hàng của mình (hai hoặc ba cái dưới chân toà nhà) với những chỗ ngồi bằng thùng, đã nấu ăn, với chai lọ nồi niêu, nến, trẻ con, những người què quặt trây ì và những kẻ ăn cắp. Và các quan chức.
    Ngày nay còn có nhiều quan chức hơn, và ở đây phần lớn trong số họ có vẻ rất năng nổ vào những ngày có tàu thuỷ. Không phải tất cả họ đều mặc đồng phục cảnh sát, và không phải tất cả họ đều là đàn ông. Nhân danh người mẹ đã chết của mình, người phục vụ khách sạn, "người đàn bà Phi châu", như ông thường gọi trong những bài diễn văn của mình, Tổng thống quyết định phải vinh danh càng nhiều phụ nữ càng tốt, và ông đã làm thế bằng cách biến họ thành nô bộc của chính phủ, không phải lúc nào cũng với những nhiệm vụ rõ ràng.
    Ferdinand, tôi và người xách đồ tạo thành một nhóm khá là đáng chú ý (fe cao hơn nhiều so với người trong Khu), và chúng tôi bị chặn lại chừng sáu bảy lần bởi những người muốn xem giấy tờ của chúng tôi. Một lần chúng tôi bị một người đàn bà bận đồ vải bông theo kiểu châu Phi chặn lại. Cô ta nhỏ như những chị em của mình, những người chèo xuồng độc mộc trong những kinh rạch của làng, và xấu xí, tận tuỵ, cái đầu của cô ta không có tóc và trông như hói, nhưng khuôn mặt cô tròn trĩnh. Cô nói xẵng giọng với chúng tôi. Cô cầm ngược các vé tàu của Ferdinand (một là vé lên tàu, một là phiếu ăn) khi kiểm tra, cô nhăn mặt.
    Khuôn mặt Ferdinand không biểu lộ điều gì. Khi cô ta trả lại cho nó vé, nó nói "Cám ơn, citoyenne" Nó nói không hề có vẻ mỉa mai, cái nhăn của người phụ nữ biến thành một nụ cười. Và điều này dường như là điểm mấu chốt của việc kiểm tra – người đàn bà muốn được kính trọng và được gọi là citoyenne. Monsieur, madame và boy đã trở thành lỗi thời quá rồi. Tổng thống đã tuyên bố tất cả chúng tôi là citoyen và citoyenne. Ông sử dụng hai từ cùng với nhau trong những bài diễn văn của mình, lặp đi lặp lại như những nốt nhạc vậy.
    Chúng tôi đi xuyên qua đám đông người đang chờ đợi – người ta nhường chỗ cho chúng tôi, đơn giản vì chúng tôi đang di chuyển – cho đến cầu tàu. Và tại đó người xách đồ của chúng tôi, như thể biết cần phải làm gì, đặt đồ xuống, đòi rất nhiều tiền, nhanh chóng bớt giá và chuồn mất. Những cái cửa, chẳng hiểu vì sao, lại đóng trước chúng tôi. Những người lính nhìn chúng tôi rồi khóa lại, không cho chúng tôi đi qua. Chúng tôi đứng trong đám đông đó nửa giờ hoặc hơn, dựa vào cửa, trong ánh nắng chói chang, trong mùi kẹo và đồ ăn hun khói, và rồi, chẳng có lý do nào rõ rệt, một người lính mở cửa cho chúng tôi vào, nhưng chỉ có chúng tôi chứ không phải bất kỳ ai đứng sau, như thể dù cho có những cái vé của Ferdinand và vé vào cửa của tôi, anh ta làm thế chẳng qua là để chiếu cố chúng tôi.
    Tàu thuỷ vẫn đậu, mũi hướng về ghềnh nước. Phần cao màu trắng với những khoang hạng nhất – cái duy nhất nhìn thấy được phía trên mái nhà của khu hải quan, là phần đuôi tàu. Trên cái boong nền kim loại ở dưới, chỉ cách mặt nước vài feet, một hàng rào bằng sắt giống như của trại lính chạy xuống phía vòng cung dưới. những khoang tàu kim loại dành cho hành khách kém tiền hơn. Hạng thấp nhất được xếp trên cái thuyền nhỏ - những dãy lồng chim trên một đống vỏ sắt, những cái lồng lưới sắt và rào kính, lưới và cửa sắt dày hai lớp, kết cấu bên trong lồng bị giấu kín, bị mất đi trong sự mờ tối, dù có ánh mặt trời và sự lấp lánh của dòng sông.
    Các khoang hạng nhất vẫn sang trọng. Những bức tường sắt màu trắng, những cái boong dán nhãn được lau chùi và đánh bóng. Tất cả cửa đều mở, có rèm. Có người hầu và thậm chí cả một người phụ trách.
    Tôi nói với Ferdinand "Chú nghĩ những người ở dưới sẽ đến hỏi cháu chứng nhận công dân đấy. Ngày xưa phải có cái đó người ta mới cho cháu lên đây".
    Nó không cười, như người già dặn thường làm. Nó không biết gì về quá khứ thuộc địa. Ký ức của nó về cái thế giới rộng lớn hơn này bắt đầu bằng cái ngày huyền bí khi những người lính què cụt, những người nước ngoài, đã đến làng mẹ nó tìm những người da trắng để giết, và Zabeth đã làm tất cả họ sợ và chỉ dám mang theo vài người đàn bà của làng.
    Với Ferdinand quá khứ thuộc địa đã tan biến. Tàu thuỷ vẫn luôn là châu Phi, và hạng nhất trên tàu là cái giờ đây có thể thấy. Những người châu Phi ăn mặc lịch sự, người nhiều tuổi hơn mặc đồ lễ, những người thuộc thế hệ mới đã tiến hoá, một số phụ nữ đi cùng gia đình, tất cả đều ăn mặc theo kiểu đi xa, một hoặc hai bà trong những gia đình đó, gần gũi hơn với những con đường rừng, đã ngồi trên sàn cabin của mình chuẩn bị bữa trưa, mở những hộp cá hun khói và khỉ hun khói cho vào những cà mèn sặc sỡ nhiều màu, mùi rất đậm, rất mặn.
    Những cách cư xử quê kệch, lối làm ăn ở rừng, trong một khung cảnh không phải rừng. Nhưng đó chính là cách, tại các vùng đất tổ tiên của chúng ta, chúng ta đã bắt đầu – cái đệm của người cầu nguyện trên cát, rồi sàn đá của một nhà thờ Hồi giáo, những nghi thức và cấm kỵ của những người du mục đã được mang đến lâu đài của vị sultan hoặc maharaja, trở thành truyền thống của giới quý tộc.
    Tôi vẫn thấy chuyến đi này thật là khó nhọc, nhất là khi, giống như Ferdinand, tôi phải chia sẻ cabin với một người khác, một người đang đứng trong đám đông ngoài kia vẫn chưa vào được đến nơi. Nhưng với tôi tàu thuỷ không có nghĩa gì cả - dù biểu tượng thời thực dân được thêu màu đỏ trên nền sọc, những mảnh chăn và gối được giặt là cẩn thận trên giường của Ferdinand – với những người ngày xưa từng hỏi giấy chứng nhận công dân, chẳng vì lý do gì cả. Tàu thuỷ giờ đây có nghĩa với những người sử dụng nó và với họ nó rất vĩ đại. những người ở cùng boong với Ferdinand biết rằng họ không phải hành khách trên một con thuyền nhỏ.
    Từ đàng sau cầu tàu, nhìn về phía những cái thuyền cứu nạn, chúng tôi có thể thấy nhiều người đang lên thuyền với hòm xiểng và các thứ gói của mình. Phía trên mái nhà của hải quan bên ngoài thị trấn có rất nhiều cây và cây bụi – thị trấn mà khi chúng tôi ở đây, có đầy những phố phường và các khoảng không gian mở cùng mặt trời và các toà nhà. Không nhiều nhà cửa có thể nhìn thấy được qua cây cối và không cái nào nổi lên trên chúng. Và từ độ cao trên boong trên bạn có thể thấy – theo màu sắc cây cối, sự khác biệt giữa các loại cây nhập ngoại với cây bụi – thị trấn mới nhỏ bé làm sao, chật chội làm sao bên bờ sông. Nhìn theo hướng khác, qua dòng sông đầy bùn lầy đến mức dưới của cây bụi và sự trống trơn của bờ bên kia, bạn có thể cho rằng thị trấn chưa hề tồn tại. Và vậy là con thuyền nhỏ trên dòng sông này giống như một điều kỳ diệu, và những khoang hành khách hạng nhất quả là một thứ xa xỉ không thể có.
    Cả ở cuối boong tàu này này cũng có gì đó thật ấn tượng – một cabine de luxe. Những tấm bảng kim loại dà cũ, ố bạc trên cửa nói lên điều đó. Hai ca bin đó giờ chứa gì? Ferdinand nói "Chúng ta ngó một cái nhé?" Chúng tôi đi vào trong căn phòng ở đàng sau. Trong đó tối và rất nóng, cửa sổ đều bị bịt kín cả lại. Một phòng tắm bằng gạch nung, hai ghế bành, một cái bàn với hai chiếc ghế rệu rã, hai chân nến trống trơn, những bức rèm rách rưới ngăn những cái giường với phần còn lại của khoang, và một máy điều hoà nhiệt độ. Ai, trong đám đông bên ngoài có cái y tưởng kỳ cục là cần thiết những thứ thế này? Ai có thể yêu cầu sự riêng tư, những tiện nghi nhiều đến thế này?
    Từ một góc xa của boong tàu vẳng lại tiếng cãi cọ. Một người đàn ông đang phàn nàn rất lớn giọng, và nói bằng tiếng Anh.
    Ferdinand nói "Cháu nghĩ cháu đang nghe thấy giọng bạn chú".
    Đó là Indar. Anh mang rất nhiều đồ, anh đang toát mô hôi và tức điên. Hai tay chìa ra thẳng tắp – giống như hai càng của cái máy nâng – anh đang khệ nệ bưng một cái hộp nông nhưng rất lớn, mở ra ở trên, mà anh không thể thoát nợ được. Cái hộp rất nặng. Nó đầy đồ rau cỏ và chai lọ, mười hoặc mười hai cái chai, và sau khi đi bộ khác lâu từ cầu tàu và đi lên những bậc thang tàu thuỷ, Indar có vẻ như đã kiệt sức và đang sắp phát khóc.
    Với một bước chúi lên trước anh ngả vào cabine de luxe và quẳng toẹt cái thùng lên sàn. Anh tỏ ra cực kỳ mệt mỏi, giậm chân than thở về chỗ của mình và vung vẩy hai tay rất dữ, như thể muốn lấy lại sức lực bằng cách ấy.
    Anh đã làm quá, nhưng anh có khán giả. Không phải tôi, người mà anh đã nhìn thấy nhưng làm ra vẻ không nhận ra. Yvette ở sau anh. Nàng xách va li. Anh hét lên với nàng, bằng thứ tiếng Anh rất chuẩn của mình "Cái vali, đứa chó chết nào cầm rồi?" Nàng trông thật mệt mỏi và chán chường, nhưngnàng vẫn nói rất nhỏ nhẹ "Vâng, vâng", và một người đàn ông mặc quần áo hoa mà tôi tưởng là hành khách đang xách cái vali.
    Tôi đã nhìn thấy Indar và Yvette cùng với nhau nhiều lần, nhưng chưa bao giờ trong mối quan hệ thân tình người nhà thế này. Vào một thời điểm không thích hợp ý nghĩ họ sắp sửa bỏ đi đến với tôi. Nhưng rồi Yvette, đứng thẳng lên, và nhớ ra phải mỉm cười, nàng nói với tôi "Anh cũng đi tiễn ai đó à?" và tôi hiểu sự lo lắng của mình đúng là điên rồ.
    Indar giờ đã thả lỏng gân cốt. Mọi điều anh dự định lúc này với Yvette đã bị tiêutan bởi sự lo lắng cho cái hộp.
    Anh nói "Họ không có cái chở đồ. Họ không có cái quái quỷ đó".
    Tôi nói "Tôi nghĩ anh đi máy bay cơ".
    "Hôm qua chúng tôi đã đợi hàng giờ ở sân bay. Không có máy bay. Đến nửa đêm họ đưa chúng tôi một cốc bia và nói là máy bay không hoạt động. Thế đấy. Không phải là hoãn chuyến bay. Người Đàn Ông Vĩ Đại muốn vậy. Không ai biết khi nào ông ấy mới cho máy bay hoạt động lại. Và đi mua vé tàu thuỷ - anh có phải làm việc đó không? Đủ mọi thứ quy tắc thủ tục. Chẳng có ai ở đó cả. Cái cửa chó chết lúc nào cũng khoá. Và cứ năm yard lại có một người đến hỏi giấy tờ. Ferdinand, hãy giải thích cho tôi điều đó đi nào. Rồi thằng cha tăng giá, mọi thứ phụ thêm vào, hắn ta tính tổng cộng cao hơn hai mươi lần. Cũng số lượng đó, hơn hai mươi lần, tại sao? Hắn có nghĩ cái máy sẽ đổi ý không? mất phéng nửa giờ. Và rồi, ơn Chúa, Yvette nhắc tôi về đồ ăn. Và nước. Thế là chúng tôi phải đi mua. Sáu chai nước Vichy cho năm ngày. Đó là tất cả những gì họ có – tôi đến châu Phi để uống nước Vichy đấy. một đô la rưỡi một chai, chai Mỹ. Sáu chai rượu vang đỏ, cái thứ rượu Bồ Đào Nha chua loét ở đây đấy. Nếu biết phải vác cái hộp thì tôi đã không mua.
    Anh cũng mang theo năm hộp cá sardine, mỗi ngày một hộp, tôi cho là thế, hai hộp sữa khô, một hộp Nescafé, một phô mai Hà Lan, bánh bích quy và một đống bánh mật của Bỉ.
    Anh nói "Bánh mật là theo ý Yvette. Cô ấy nói bổ lắm".
    Nàng nói "Giữ được trong trời nóng".
    Tôi nói "Có một người ở trường trung học đã từng sống chỉ bằng bánh mật thôi".
    Ferdinand nói "Chính vì vậy chúng tôi hun khói mọi thứ lên. Một khi mà không đập vỡ vỏ bánh thì để được lâu lắm".
    "Nhưng tình trạng thực phẩm ở nơi này thật là thảm hại" Indar nói. "Mọi thứ trong các cửa hiệu đều là đồ nhập và đắt quá. Và ngoài chợ, ngoài những thứ sâu bọ và những thứ người ta bắt được, chỉ có thể tìm được vài thứ vớ vẩn khác thôi. Rồi thì người ta đổ dồn đến. Làm thế nào để thoát ra đây? Cần có toàn bộ cây bụi này, toàn bộ cơn mưa này. Và rồi có thể có nạn đói trong thị trấn".
    Khoang trở nên đông người hơn trước. Một người đàn ông béo lùn đi chân đất đến giới thiệu mình là người phục vụ của cabine de luxe, và theo anh ta là người quản lý tàu, với một cái khăn vắt trên vai và tay cầm khăn trải bàn. Người quản lý đuổi người phục vụ đi, trải khăn bàn lên bàn – một cái khăn cổ thật đáng yêu, nhưng đã bị giặt là đến mòn cả ra. Rồi anh ta nói với Yvette
    "Tôi thấy rằng ông đây đã mang theo đồ ăn và đồ uống riêng của mình. Nhưng không cần thế đâu, thưa bà. Chúng tôi vẫn theo những quy định cũ, nước của chúng tôi được lọc kỹ. Bản thân tôi từng làm việc trên những con tàu chở hàng đi biển và từng đến nhiều nước trên thế giới. Giờ thì tôi già rồi và làm việc ở con tàu châu Phi này. Nhưng tôi đã quen với người da trắng và biết cách thức của họ. Ông đây không có gì phải sợ cả, thưa bà. Ông trông có vẻ khá rồi đấy. Tôi sẽ xem xem đồ ăn ccoo đây có được chuẩn bị riêng không, và tôi sẽ tự tay phục vụ ông đây tại khoang".
    Ông là một người gầy gò, một người lai đã có tuổi, mẹ hoặc bố ông hẳn là một người lai da trắng và da đen. Ông đã sử dụng một cách cố ý những từ bị cấm – Monsieur, madame. Ông trải khăn bàn. Và ông đứng đợi tiền boa. Indar đưa ông ta hai trăm franc.
    Ferdinand nói "Chú cho ông ấy nhiều quá. Ông ấy gọi chú là monsieur và madame, và chú lại đưa tiền. Ngay sau đó sẽ chẳng có gì nữa đâu. Giờ thì ông ấy sẽ không làm gì cho chú nữa đâu".
    Có vẻ Ferdinand nói đúng. Khi chúng tôi đi xuống một boong tàu đến quán bar, người quản lý đã có ở đó, đứng dựa lưng vào quầy bar uống bia. Ông ta tảng lờ cả bốn người chúng tôi. Và không chịu làm gì khi chúng tôi hỏi bia và người ở quầy bar nói "Terminé" (Đóng cửa). Nếu người quản lý không uống và nếu một người nào khác với ba người đàn bà ăn bận đẹp đẽ không uống ở đó, thì chúng tôi có thể tin vào điều đó. Quầy bar – với một bức ảnh lồng khung Tổng thống trong bộ đồ lãnh đạo, tay cầm can có hình cái bùa – đã trống trơn, những cái giá màu nâu trống không.
    Tôi nói với người ở quầy bar "Citoyenó", Ferdinand nói "Citoyen". Chúng tôi đút một ít tiền, và bia được mang ra từ phòng sau.
    Indar nói "Cậu sẽ làm hướng dẫn cho tôi, Ferdinand. Cậu sẽ tán họ hộ tôi".
    Đã chuyển sang buổi chiều, trời nóng. Quầy bar tràn ngập ánh phản chiếu của dòng sông, những nét vàng nhảy múa. Bia, rất nhẹ, ru ngủ chúng tôi. Indar quên đi những đau đớn, anh khai màn một cuộc tranh luận với Ferdinand về một chủ đề từng được bàn cãi ở Khu, về tương lai quan hệ Trung Quốc và Đài Loan. Sự bồn chồn của tôi cũng đã giảm xuống, tâm trạng của tôi ủê oải, tôi có thể rời tàu thuỷ cùng với Yvette.
    Ánh sáng cũng như ánh sáng của tất cả các buổi chiều – mọi thứ đều ngột ngạt, sự chói chang đã bắt đầu, nhưng mới chỉ thấp thóang. Dòng sông ánh lên, dòng nước đầy bùn chuyển thành màu trắng và vàng. Nó đang bận rộn với những con thuyền độc mộc với động cơ lắp ở bên ngoài, vẫn như ngày trước. Những chiếc thuyền độc mộcmang những cái tên kỳ quái về "đơn vị" của mình in trên những chữ to dọc hai bên sườn. Thỉnh thoảng, khi một chiếc xuống đi ngang qua một chỗ rực rỡ ánh sáng, những người ở trên trông đều giống như đang phản chiếu cái ánh sáng đó, khi ấy trông họ như đang ngồi xuống rất chậm, chỉ có vai và đầu, để rồi trong một lúc trông họ như những khuôn mặt hài hước trong một bức tranh biếm hoạ, đang dấn thân vào một chuyến đi kỳ cục.
    Một người đàn ông lảo đảo đi vào quầy bar với đôi giày mòn vẹt. Ông hẳn là đến từ thủ đô, cách đi giày đó chưa lan đến chỗ chúng tôi. Ông cũng là một quan chức, đến để kiểm tra vé và giấy tờ của chúng tôi. Không lâu sau ông đã lảo đảo đi, sự sợ hãi xâm chiếm người quản lý và người đứng quầy bar và một số người đang ngồi uống ở bàn. Chính sự sợ hãi này phân biệt thuỷ thủ và quan chức, dù không ai mặc đồng phục hết cả, với những người khác đến và đút tiền để được uống bia, và điều đó chỉ có nghĩa là tàu sắp khởi hành.
    Indar đặt tay lên đùi Yvette. Khi nàng quay sang anh nói "Tôi sẽ xem có thể làm gì cho quyển sách của Raymond. Nhưng cô biết những người ở thủ đô đấy. Nếu họ không trả lời thư, thì có nghĩa là họ không muốn trả lời. Họ không bao giờ nói có hay không đâu. Họ chỉ không nói gì thôi. Nhưng tôi sẽ tìm cách".
    Rồi họ ôm hôn nhau trước khi tạm biệt, chỉ là hình thức. Ferdinand lạnh lùng. Không bắt tay, không lời từ biệt nào. Nó chỉ nói đơn giản "Salim" và với Yvette nói chỉ gật đầu chào chứ không hẳn là cúi chào.
    Chúng tôi đứng trên cầu tàu và nhìn. Sau khi khởi động một chút con tàu rời khỏi bức tường cầu tàu. Rồi con thuyền cập vào, và tàu thuỷ và con thuyền quay vòng nhỏ trên sông, con thuyền kéo theo một đống đồ nấu ăn và gà qué.

Sự khởi hành có thể cảm thấy như là một sự hoang vắng, một sự phán xét về địa điểm và những người nó để lại sau. Đó là điều tôi đã quen thuộc từ ngày hôm trước, khi tôi biết mình sắp từ biệt Indar. Với sự quan tâm của mình với anh, tôi nghĩ anh – như từng nghĩ về Ferdinand – là một người may mắn, người được đi để có kinh nghiệm rộng lớn hơn, để lại tôi trong cuộc đời nhỏ bé này tại một nơi lại lần nữa không còn ý nghĩa gì hết.
    Nhưng giờ đây, đứng cạnh Yvette trên cầu tàu, tôi không nghĩ vậy nữa, sau sự cố và may mắn của lời từ biệt thứ hai này, đứng nhìn con tàu và chiếc thuyền đang đi thẳng vào dòng sông màu nâu, đi về phía bờ bên kia trống không, tái nhợt đi trong sự nóng nực và là một phần của bầu trời màu trắng. Nơi này đã tiếp tục sau đó, như chúng tôi từng thế trước đây, tại thị trấn trên dòng sông mà Indar là người đã bị gửi đi. Anh sẽ có một chuyến đi rất khó nhọc.
Đã quá hai giờ chiều, thật là khó chịu trong cái nóng thiêu đốt, nhất là ở ngoài trời. Cả hai chúng tôi đều chưa ăn gì – ngoài một cốc bia loãng toẹt – và chúng tôi không phản đối ý kiến đi ăn một cái gì đó tại một chỗ mát mẻ.
     Mặt đường cầu tàu đã trở nên nóng như nung. Những bóng đen cứng ngắc ngả xuống những toà nhà, những toà nhà san sát – những bức tường rất tốn gạch, những cửa sổ màu xanh, những mái nhà xanh lét. Một cái bảng bên ngoài phòng bán vé để giờ tàu chạy. Nhưng các quan chức, đám đông bên ngoài cửa cầu tàu đã tản đi. Còn lại bức tường đá granite trên công trình đổ nát đã được xây dựng lại. Những chiếc lá phượng nhẹ bỗng, mặt trời chiếu thẳng qua đó. Mặt đất gồ lên quanh những chùm cỏ, cây bụi, đầy rác và phân súc vật.
    Chúng tôi không đến quầy bar Bigburger của Mahesh. Tôi muốn tránh lời đàm tiếu – Shoba không tán thành quan hệ giữa Yvette và Indar. Thay vào đó chúng tôi đến Tivoli. Quán bar này không xa lắm, và tôi hy vọng thằng hầu Ildephonse của Mahesh không báo cáo lại cho chủ của nó. Nhưng cũng chẳng hề gì, Ildephonse thường đi vắng vào giờ này.
    Tivoli là một chỗ mới hoặc khá mới, là một phần của cuộc bùng nổ kinh tế vẫn đang tiếp diễn ở chỗ chúng tôi, thuộc sở hữu của một gia đình đã điều hành một nhà hàng ở thủ đô trước độc lập. Giờ đây, sau mấy năm ở châu Âu, họ trở về thử lại thời vận. Đối với họ đây là một cuộc đầu tư – họ không để lại đồng nào để phòng ngừa hết – và tôi nghĩ họ đang gặp vận. Nhưng tôi không biết về những thói quen châu Âu và cách làm hàng ăn của họ. Với chúng tôi Tivoli có nghĩa là châu Âu. Đó là một quán ăn gia đình, nó phục vụ trong từng khoảng thời gian ngắn những người làm việc trong các dự án của chính phủ tại Khu chúng tôi – Khu, sân bay, hệ thống cung cấp nước, trạm thuỷ điện. Không khí ở đây là không khí châu Âu, châu Phi bị bỏ ra ngoài. Không có quan chức với đồng hồ vàng và bút máy bút chì nạm vàng, như ở chỗ Mahesh. Đến Tivoli chúng tôi có thể cảm thấy khá thư giãn.
    Nhưng bạn không quên được bạn đang ở đâu. Bức ảnh Tổng thống ở trên cao ba feet. Những tấm chân dung chính thức của Tổng thống trong trang phục châu Phi ngày càng to hơn, và chất lượng in ấn ngày càng tốt hơn (người ta nói chúng được làm ở châu Âu). Và một khi bạn biết về ý nghĩa của bộ da cáo và tính biểu tượng của cái hình trên cây gậy, bạn sẽ bị ấn tượng, bạn không thể làm được gì. Chúng tôi đều trở thành người của ông, thậm chí cả ở Tivoli này chúng tôi cũng nhớ rằng mình, theo nhiều cách khác nhau, đang phụ thuộc vào ông.
    Thường thì những người hầu – hoặc những công dân phục vụ - rất thân thiện, hồ hởi và nhanh chóng. Nhưng đã quá bữa trưa, người con trai của gia đình cao lớn, to béo đứng sau quầy tính tiền, lấp sau máy pha cà phê, quản lý mọi việc, d đang ngủ trưa, không có ai khác trong gia đình có mặt ở đó, và những người phục vụ đang đứng khá lười biếng, giống như những đồng nghiệp trong bộ đồng phục màu xanh của mình. Họ không thô lỗ lắm, chỉ đơn giản là họ đã bị trừu tượng hóa, giống như những người đã mất đi một vai trò.
    Dù sao máy điều hòa nhiệt độ vẫn chạy, không còn c ai nóng nực, và giờ đây sự khô ráo đã thay thế độ ẩm bên ngoài. Yvette trông đã bớt mệt mỏi, sức lực đã trở lại với nàng. Chúng tôi gọi người phục vụ. Anh ta mang đến cho chúng tôi một bình rượu vang đỏ Bồ Đào Nha, đặt nó xuống và để cho bớt lạnh, và hai cái khay gỗ với cá hồi Scotland đặt trên bánh nướng. Mọi thứ đều được nhập khẩu, mọi thứ đều đắt, cá hồi xông khói trên bánh mì nướnglà món được gọi nhiều nhất ở Tivoli này.
    Tôi nói với Yvette "Indar hơi giống một tài tử điện ảnh. Mọi việc có thật sự tệ như anh ấy nói không?"
    "Thậm chí còn tệ hơn nữa ấy chứ. Anh ấy đã mất toi một đống séc du lịch".
    Nàng ngồi quay lưng vào tường. Nàng có một cử chỉ nhỏ - giống Raymond – lòng bàn tay chống vào cạnh bàn, đầu hơi nghiêng về bên phải.
    Cách đó hai bàn một gia đình năm người đang kết thúc bữa trưa và nói chuyện rất to. Những người bình thường, kiểu nhóm gia đình mà tôi thường gặp ở Tivoli. Nhưng Yvette tỏ vẻ rất bực mình, một sự tức giận nho nhỏ xâm chiếm nàng.
    Nàng nói "Anh không thể nói về họ được. Tôi thì có thể".
    Khuôn mặt đó, sự tức giận đó vẫn giống như một nụ cười, và đôi mắt tố cáo đó, nửa khép trên một tách cà phê nhỏ mà nàng đặt hờ trên miệng, trông thật kín đáo. Tại sao nàng lại tức giận với gia đình kia? Dựa trên cơ sở nào mà nàng phán xét họ? Công việc người đàn ông làm, ngôn từ, cách nói to, cử chỉ chăng? Thế nàng sẽ nói gì về những người trong các hộp đêm của chúng tôi đây?
    Tôi nói "Trước cô có biết Indar không?"
    "Tôi gặp anh ấy ở đây" nàng để tách cà phê xuống. Đôi mắt nàng theo dõi nó và như thể đang quyết định điều gì đó, nàng nhìn tôi "Anh sống cuộc sống của anh, một người lạ xuất hiện. Anh ta là một điều phiền toái. Anh không cần anh ta. Nhưng gánh nặng đó đã trở thành một thói quen".
    Kinh nghiệm về phụ nữ bên ngoài gia đình của tôi khá đối với, rất hạn chế. Tôi không có kinh nghiệm xử sự với một người phụ nữ như thế này, không có kinh nghiệm về thứ ngôn từ, không có kinh nghiệm về sự tức tối và tâm tính như thế này. Và qua những gì nàng vừa nói tôi thấy được sự dũng cảm, sự cả gan mà, với một người loại như tôi, thường hơi e sợ, và, vì lẽ đó, bị hớp hồn.
    Tôi không sẵn lòng để chúng tôi lấy Indar làm một điểm chung, như thể dường như giữa Indar và nàng có Raymond ở giữa. Tôi nói "Tôi không thể nói cho cô biết tôi thích cái buổi tối ở chỗ cô hôm đó đến mức nào. Tôi không thể quên được chiếc áo choàng cô khoác. Tôi thường xuyên hy vọng được nhìn lại nó. Áo may bằng lụa đen, được cắt và thêu rất đẹp".
    Tôi không thể chọn được một đề tài tốt hơn. Nàng nói "Lần đó thì có gì. Nhưng tôi đảm bảo anh sẽ được thấy nữa".
    "Tôi không nghĩ đó là phong cách Ấn độ. Cách cắt may là của châu Âu".
    "Nó từ Copenhagen. Margit Brandt. Một lần Raymond đến đó để họp".
    Và ở cửa Tivoli, trước khi chúng tôi trở lại với cái nóng và ánh nắng mặt trời, vào lúc đứng lại trong sự nóng nực giống như một sự nghỉ trước khi thực sự đi vào trong cơn mưa, nàng nói với tôi, như thể đó là một dư vị "Anh có muốn đến nhà tôi ăn trưa vào ngày mai không? Chúng tôi phải tiếp một giảng viên. Raymond dạo này hay thích tiếp khách như vậy lắm".
    Chắc tàu thuỷ đã đi xa được khoảng mười lăm dặm xuôi dòng. Có lẽ nó đang đi qua vùng cây bụi, nó có thể đà đi qua vùng cây bụi đầu tiên. Tại đó, thị trấn còn rất gần, họ có thể phải đợi tàu từ sáng, và có thể có không khí một chợ phiên cho đến khi tàu đi qua. Những người phục vụ đã xuống thuyền độc mộc, chèo ra chỗ con tàu và cái thuyền đang chuyển động, cố thu hút sự chú ý của hành khách. Những chiếc thuyền độc mộc buôn bán, lao ra từ chỗ của mình trên bờ sông với hàng hoá nhỏ nhoi, dứa, những cái ghế thô sơ, và các thứ dụng cụ (đồ để dùng trong chuyến đi trên dòng sông, một đặc sản của vùng), có thể được dính vào thành cả đám ở hai bên con tàu, và những chiếc thuyền độc mộc đó có thể bị lôi đi, bị lôi đi – hàng dặm xuôi dòng, và sau đó phải mất hàng giờ để chèo về, sau sự phấn khích ngắn ngủi đó, xuyên qua buổi chiều nhợt nhạt, bụi và đêm, trong im lặng.
    
    Yvette hoãn bữa trưa. Nhưng nàng không báo cho tôi. Người hầu mặc áo khoác trắng dẫn tôi vào một căn phòng rõ ràng không chờ đợi người khách nào và hoàn toàn không giống căn phòng mà tôi còn nhớ. Những tấm đệm châu Phi vẫn nằm trên sàn nhà, nhưng mấy cái ghế gấp tối đó không có (tôi còn nhớ Yvette từng nói chúng được cất trong buồng ngủ) đã được mang ra trở lại – mấy cái ghế có đính tua giả nhung, với màu "đồng cũ" có ở khắp nơi trong Khu.
    Các toà nhà ở Khu đã được dựng lên nhanh, và những chỗ hổng mà bóng tối che đậy nhìn thấy rõ vào ban ngày. Những chỗ trát vữa trên tường nhiều chỗ đã bị nứt và tại một chỗ còn lở cả gạch bên trong ra. Những cánh cửa sổ và cửa ra vào, không có vòng hoặc khung gỗ, trông giống như những cái hố không đều nhau. Những tấm panel trần nhà, một thứ chất liệu nén theo cách nào đó, bung ra ở một vài nơi. Một trong hai máy điều hoà nhiệt độ trong phòng đã bị gỡ đi, chúng không chạy nữa. cửa sổ mở, và không có mái chống nóng, không có cây bên ngoài, chỉ có mặt đất san phẳng, căn phòng đầy ánh sáng và không hề đem lại cảm giác an toàn. Tôi đã tự dựng cho mình biết bao là phóng túng quanh căn phòng này, quanh âm nhạc từ máy quay đĩa – được đặt ở chỗ đó, dựa vào tường cạnh giá sách, vỏ nhựa đục đầy bụi trong ánh nắng!
    Thấy căn phòng như thế, như Yvette sống hàng ngày, hiểu thêm về địa vị của Raymond trong nước, giống như bắt gặp sự không đề phòng và biết được sự tầm thường trong nhà của nàng, một ý tưởng nào đó về những căng thẳng và những điều không hài lòng của cuộc sống của nàng ở Khu, cái mà cho đến khi đó đối với tôi vẫn vô cùng rực rỡ. Thật đáng sợ thấy nàng và cuộc sống của nàng, và thật đáng ngạc nhiên và đáng tiếc khi những phóng túng cũ đã biến mất. Nhưng sự tiếc nuối và sợ hãi chỉ kéo dài cho đến khi nàng bước vào. Hẳn nhiên sự ngạc nhiên luôn luôn ngự trị trong tôi chính là bản thân nàng.
    Nàng tỏ ra vui vẻ hơn là hối lỗi. Nàng đã quên mất, nhưng nàng biết có điều gì đó nàng phải nhớ về bữa trưa này. Có quá nhiều thay đổi trong kế hoạch bữa trưa đó - bữa trưa đã được tổ chức ở phòng giáo viên của trường bách khoa. Nàng đi làm cho chúng tôi vài quả trứng Nam Phi. Người hầu đi vào để lau một số chỗ bẩn trên chiếc bàn hình bầu dục có màu tối và được đánh bóng kỹ càng, và để dọn bàn. "Anh sống cuộc sống của anh. Một người lạ xuất hiện. Đó là một gánh nặng".
    Trên giá sách tôi nhìn thấy cuốn sách Indar đã chỉ cho tôi với lời cảm ơn Raymond và Yvette với tư cách là những người chủ nhà đáng mến vào một thời điểm ở thủ đô – một lời cám ơn có nhắc đến Yvette. Ánh sáng và căn phòng đã thay đổi dường như đã làm cho nó biến thành một quyển sách khác. Màu gáy sách đã nhạt đi. Một quyển tôi lấy ra có chữ ký của Raymond và ghi năm 1937- một dấu hiệu quyền sở hữu, nhưng cũng có thể là một điều cố ý, cách nói của Raymond về niềm tin vào tương lai của mình. Cuốn sách đó giờ đã cũ kỹ lắm rồi, gáy màu nâu, những chữ màu đỏ trên gáy gần như đã biến đi – một cái gì đó đã chết, một phế tích. Một quyển khác, mới hơn, có chữ ký của Yvette với cái tên hồi nàng còn chưa lấy chồng, rất có phong cách, lối viết tay của Lục địa, với một chữ y phóng túng, và nói lên rất nhiều điều, giống như cách của Raymond đã ký trên quyển sách hai mươi năm trước đó.
    Tôi nói với Yvette khi chúng tôi đang ăn trứng rán, "Tôi rất thích được đọc cái gì đó của Raymon. Indar nói ông biết về đất nước này hơn bất cứ ai còn sống. Ông có xuất bản quyển sách nào không?"
    "Ông ấy đang viết sách, và đã vài năm nay rồi. Chính phủ sẽ xuất bản nó, nhưng bây giờ hình như có khó khăn thì phải."
    "Thế thì không có sách rồi".
    "Có các tập luận văn của ông ấy. Chúng đã được in trong một quyển sách . Nhưng tôi khuyên không nên đọc. Tôi chịu không đọc được. Có một vài bài báo trên các báo. Ông ấy không có nhiều thời gian cho những thứ như thế. Ông ấy tiêu tốn phần lớn thời gian cho quyển sách lớn về lịch sử đất nước".
    "Có đúng là Tổng thống đã đọc nhiều đoạn trong đó?"
    "Người ta vẫn nói thế".
    Nhưng nàng không nói cho tôi những khó khăn hiện tại. Và tôi đoán rằng Raymond đã tạm thời bỏ lịch sử để làm một tuyển tập diễn văn của Tổng thống . Bữa trưa của chúng tôi bắt đầu đi vào chỗ buồn chán. Giờ đã hiểu địa vị của Yvette và Raymond trong Khu, biết về những câu chuyện tôi đã từng nghe về Raymond có lẽ được nghe bởi những người khác, tôi bắt đầu cảm thấy rằng ngôi nhà hẳn là một nhà tù đối với nàng. Và buổi tối đó, khi nàng tổ chức tiệc và mặc bộ áo Margit Brandt để xuất hiện, là một sai lầm.
    Tôi nói, khi chủân bị đi "Cô phải đến câu lạc bộ Hellenic với tôi một buổi chiều nào đó mới được. Ngày mai đi. Mọi người ở đó đã lâu rồi. Họ đã thấy mọi điều. Điều cuối cùng họ muốn nói là tình hình đất nước".
    Nàng đồng ý. Nhưng sau đó nàng nói "Anh không được quên nhé".
    Tôi không có ý kiến gì về những cái nàng đã nói. Nàng rời khỏi phòng, đi qua cánh cửa mà Raymond đã đi vào sau khi ông nói tối hôm đó, và nàng trở lại với một tập tạp chí, Cahiers, một số trong đó được in ở nhà in chính phủ tại thủ đô. Chúng là những quỷên tạp chí có bài của Raymond, đó là sự khởi đầu.
    Thứ cỏ sắc nhọn trên những bãi cỏ của Khu rất cao, nó gần như chôn vùi những ngôi nhà le lói ánh đèn trông thấp như nấm làm bằng nhôm dọc theo những đại lộ trải nhựa. một số những ngọn đèn đó đã bị đập vỡ, đã lâu rồi, nhưng có vẻ không ai quan tâm đến điều đó. Ở bên kia Khu là đất cho trang trại thí điểm đã bị cỏ mọc đầy, tất cả những gì còn l.ai của dự án là cánh cửa Trung quốc mà những người Trung Quốc hoặc Đài loan hiện không còn ở đây đã xây, và sáu chiếc máy kéo mục nát nằm hàng ngang. Nhưng Khu, nơi mọi người đi dạo vào các chiều chủ nhật, theo con đường một chiều – giờ được đội Cận vệ trẻ chứ không phải quân đội trông coi – vẫn còn lại. Những bức tượng mới vẫn được dựng thêm tại những lối đi dạo công cộng. Bức tượng mới nhất, ở tận cùng đại lộ chính, là một bức tượng đồ sộ miêu tả một người mẹ và đứa con mình. Những lời ngày xưa của Nazruddin đến với tôi "Nó chẳng là gì hết. Chỉ là cây bụi thôi" Nhưng điều cảnh báo tôi không phải là Nazruddin. Không có gì cho tương lai công việc buôn bán của tôi hết. Tôi nhìn thấy những khu đất trống của Khu, và những túp lều của những người đến từ làng mạc ngay hướng bên ngoài, và ý nghĩ của tôi về Yvette và cuộc sống của nàng ở Khu. Không phải châu Âu ở châu Phi, như tôi thường cảm thấy khi Indar còn ở đây. Chỉ là một cuộc sống tại vùng cây bụi. Và sự sợ hãi của tôi, vừa là sợ hãi vì thất bại với nàng, bị bỏ lại một mình không có gì bên cạnh, vừa là sự sợ hãi của hàng chuỗi những thành công.
    Nhưng sự cảnh báo này tan biến vào buổi chiều ngày hôm sau khi nàng đến căn hộ. Nàng đã từng ở đó trước đây cùng với Indar, trong chính khung cảnh đó, tôi có cảm giác rõ ràng hơn về sự quyến rũ của nàng. Nàng đã thấy cái bàn bóng bàn với đống dây thừng cũ của tôi với một góc để trống để Metty ủi quần áo. Nàng đã nhìn thấy những bức tranh vẽ các bến cảng châu Âu mà bà già người Bỉ đã để lại cho tôi cùng căn phòng màu trắng.
    Sau khi nói một số chuyện về hội hoạ và câu lạc bộ Hellenic, hai chúng tôi đứng dựa vào bức tường, nàng cho tôi chiêm ngưỡng khuôn mặt nhìn nghiêng, quay đi khi tôi cúi vào gần ,không đẩy tôi ra cũng không khuyến khích tôi, chỉ tỏ ra mệt mỏi, chấp nhận một sự quấy rầy mới. Thời điểm đó – như tôi đã đọc – là chìa khóa cho tất cả những gì tiếp theo. Sự giằng xé mà tôi thấy khi đó tôi thường muốn thấy, nó là sự đấu tranh mà tôi không bao giờ không trả lời được cả.
    Cho đến khi đó những khoái lạc của tôi vẫn chỉ là những khoái lạc nhà thổ về sự chiếm hữu và thóai hoá, với người đàn bà như là nạn nhân tự nguyện, sự đồng loã của cô ta trong sự thoái hoá của chính cô ta. Tôi chỉ biết có thế. Đó là tất cả mà tôi đã học được từ các nhà thổ và hộp đêm của thị trấn chúng tôi. Thật không khó khăn gì để mà bỏ tất cả những chỗ đó khi Indar ở đây. Tôi đã cố tìm những cơ hội giảm bớt những tội lỗi. Thực ra, có lúc, dù nó vẫn kích thích tôi gặp những người đàn bà đi thành từng nhóm ở quầy bar hoặc một phòng khách ở nhà thổ, tôi vẫn không thể vui thú với trò xác thịt thật sự với những người đàn bà mà mình phải bỏ tiền ra mua, và tự hạn chế mình chỉ có những khoái cảm tình dục thấp kém. Quen thuộc quá với kiểu khoái lạc đó với nhiều người đến thế làm nảy sinh cái gì đó như là chiêm ngưỡng những gì họ mang đến, và cùng lúc đó, giống nhiều người đàn ông khác đi một mình đến nhà thổ, tôi nghĩ mình là một kẻ thật yếu đuối, hết sức kém cạnh. Nỗi ám ảnh của tôi với Yvette đã đưa đẩy tôi đến mức không ngờ, và cuộc phiêu lưu với nàng (không phải mua mà là tự nguyện) đã bắt đầu trong căn phòng màu trắng khá mới mẻ đối với tôi này.
    Điều tôi gọi là những khoái lạc nhà thổ đã nhanh chóng đẩy tôi qua sự ngượng ngùng đầu tiên. Nhưng trong phòng ngủ với chiếc giường ngủ rất rộng, với nệm cỏ - ít nhất phục vụ cho mục đích mà tôi chắc rằng nữ hoạ sĩ Bỉ đã có ý – những khóai lạc đó đã bị ngăn chặn. Sự tự chiêm ngưỡng những khoái lạc đó đã rơi rụng hết cả.
    Đàn bà chiếm một nửa thế giới và tôi nghĩ tôi đã đến được nơi không sự trần truồng nào của đàn bà có thể làm tôi ngạc nhiên được nữa. Nhưng giờ đây tôi cảm thấy như thể mình đang cảm nhận điều gì đó mới mẻ, và đang lần đầu nhìn một người đàn bà. Tôi kinh hoàng khi thấy rằng, bị ám ảnh bởi Yvette như thế, tôi đã mơ rất nhiều về chuyện này. Cơ thể trên chiếc giường với tôi như phát lộ hình thể đàn bà. Tôi tự hỏi rằng những áo quần đó, dù là những quần áo rõ ràngmang màu sắc nhiệt đới tôi từng nhìn thấy trên người Yvette, liệu có thể liên quan nhiều đến thế không, liệu có làm vỡ đôi cơ thể như thế không ,thành những mảnh riêng biệt và không thật sự được giấu đi trong sự tuyệt diệu của cái toàn thể.
    Viết về cơ hội theo cách của những tạp chí khiêu dâm thật là sai toét. Nó giống như là đang thử mang những cái ảnh của chính tôi, cho người nhìn những hành động của chính tôi, để đảo ngược cơ hội thành khoái lạc nhà thổ mà, trên giường ngủ, không còn được thế nữa.
    Tôi rất bối rối, nhưng cảnh giác. Tôi không muốn lạc hướng trong sự tự nhìn mình và tự thẩm thấu của sự phóng túng đó, sự mù quáng của phóng túng đó. Tôi chỉ muốn mình – lo lắng đến nỗi xìu xuống – chiến thắng được sự sở hữu cơ thể này, bởi vì tôi muốn chiếm hữu người sở hữu nó, tôi thấy thật là hoàn hảo, và muốn nữa, trong hành động, giữ mình trong những cách thức có thể làm cho tôi làm được điều đó, tránh không chà đạp lên cơ thể đang ở đây với tôi, tránh sự tẩy xoá của cái nhìn và động chạm. Toàn bộ nghị lực và tâm trí tôi dồn vào mục đích mới chiếm hữu con người này. Toàn bộ khoái cảm của tôi nằm vào hướng mới này, và hành động tình dục với tôi trở thành một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ, một kiểu làm đầy, mãi mãi mới.
    Trước đây vào những lúc thế này, những thời điểm đồng nghĩa với chiến thắng, sự chán chường đã ập xuống tôi mới nặng nề làm sao! Nhưng với một mục đích là chiến thắng hơn là thành công, hành động hiện nay đòi hỏi một sự cảnh giác thường trực, một cái nhìn thường trực ra bên ngoài từ bản thân tôi. Nó không êm ái, dù nó biểu hiện một nhu cầu lớn với sự êm ái. Nó đã biến thành một hành động vật chất tàn bạo, một hành động gần như là làm việc, và trong khi như thế nó trở nên tàn bạo, cái tàn bạo được tính tóan kỹ càng. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Nhưng tôi còn ngạc nhiên hơn bởi chính tôi, vẫn với toàn bộ những thúc đẩy đến sự yếu ớt, như thể hành động này là hành động đầu hàng ở nhà thổ, mà tôi đã biết lâu rồi.
    Yvette nói "Đã hàng năm nay em không được thế này rồi". Câu nói này, nếu là đúng, có thể coi là một phần thưởng xứng đáng, sự cực khoái của tôi không còn là quan trọng nữa. Nếu điều nàng nói là đúng! Nhưng tôi không có cách nào đánh giá câu trả lời của nàng. Nàng là người có nhiều kinh nghiệm, còn tôi chỉ là con cừu non mới vào nghề!
    Và lại có thêm một sự kinh ngạc nữa. Cho đến cuối tôi không hề cảm thấy mệt mỏi, không cảm thấy trống rỗng. Ngược lại. Trong căn phòng với những bậu cửa sổ sơn trắng đó, một màu trắng giờ đây đã tan hoà vào ánh sáng của buổi chiều muộn, trong căn phòng nóng nực này, vào cuối một ngày thật nóng, toát mồ hôi, tôi, với một cơ thể trơn tuột vì mồ hôi, tôi cảm thấy đầy tràn sức lực. Tôi có thể đi chơi squash tại câu lạc bộ Hellenic ngay lập tức. Tôi cảm thấy mình được tái tạo, được tiếp năng lượng, da thịt tôi cảm thấy thật mới mẻ. Tôi tràn ngập sự băn khoăn về điều đã xảy đến với tôi. Và từng phút một tôi chìm đắm vào torng những khoái cảm sâu thẳm của mình, tôi bắt đầu nhận thức được sự tước đoạt mênh mông trước đó của mình. Thật giống như là phát hiện ra một cơn đói thật lớn lao, chưa từng xuất hiện trong con người tôi.
    Yvette, trần truồng, ẩm ướt, không bị ngăn trở, tóc xoã ra, nhưng đã trở lại là mình, sự sôi nổi đã chấm dứt, đôi mắt bình lặng, ngồi vắt chân vào nhau ở mép giường và gọi điện thoại. Nàng nói thổ ngữ. Nàng nói với người hầu phòng của nàng, nàng sẽ về nhà ngay bây giờ, nàng bảo người hầu phòng báo cho Raymond. Nàng mặc quần áo và sửa lại giường. Sự lo lắng đến đồ đạc trong nhà của nàng khiến tôi tưởng tượng – một cách đau đớn – nàng từng làm như vậy ở những nơi khác.
    Ngay trước khi rời khỏi phòng ngủ nàng dừng lại và hôn nhẹ vào cửa quần tôi. Và thế là hết – hành lang, cái bếp kinh tởm của Metty, tầng đệm, ánh sáng buổi chiều vàng vọt, những cái cây ở sân sau, bụi trong không khí, mùi nấu nướng, thế giới hoạt động, và tiếng bước chân của Yvette bước xuống cầu thang lộ thiên. Hành động hôn vào quần tôi đó, mà ở nơi khác tôi có thể coi như là một trong những trò lấy lòng của gái nhà thổ, cái hành động đòi tiền boa, giờ đây đẩy tôi vào nỗi buồn và sự nghi ngờ. Điều đó có nghĩa là gì? Nó có thật không?
    Tôi nghĩ đến việc đến câu lạc bộ Hellenic, để sử dụng thứ sức lực đã đến với tôi, và để đổ mồ hôi thêm một chút nữa. Nhưng tôi đã không đi. Tôi đi đi lại lại trong căn hộ để thời gian trôi đi. Ánh sáng bắt đầu nhạt dần, và một sự tĩnh lặng lan chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy mình được ban phước và được tái ta,o, tôi muốn được ở một mình một lúc với cảm giác đó.
    Sau đó, nghĩ đến bữa tối, tôi lái xe đến hộp đêm gần đập nước. Giờ đây nó đã đẹp hơn, với cơn bùng nổ kinh tế và những người xa xứ. Nhưng cấu trúc vẫn giữ nguyên và vẫn có vẻ gì đó tạm bợ, vẻ của một nơi có thể đầu hàng chẳng mất mát gì nhiều – chỉ có bốn bức tường gạch không hơn, quanh một khoảng không gian dọn sạch sẽ giữa đám cây bụi.
    Tôi ngồi bên ngoài tại một cái bàn dưới cây cối trên mỏm đá và nhìn xuống dòng nước đang chảy qua đập nước, và cho đến khi ai đó nhận ra tôi và bật những ngọn đèn màu xung quanh những cái cây, tôi ngồi trong bóng tối, cảm thấy sự mới mẻ trong da thịt mình. Những chiếf xe đi tới và đậu lại. Có những giọng nói tiếng Pháp của người châu Âu và châu Phi. Những người phụ nữ châu Phi, hai hay ba người, đến bằng taxi từ thị trấn. Choàng khăn, lười biếng, thẳng đuột, nói to, họ lê dép trên nền đất. Khi ở Tivoli, Yvette đã tức giận với những sự vô ý của một gia đình nước ngoài. Với tôi tất cả đã xa vời – hộp đêm, thị trấn, những túp lều, những người nước ngoài "tình hình đất nước", mọi thức chỉ làm nền mà thôi.
    Thị trấn, khi tôi lái xe trở về, đã quay trở lại cuộc sống ban đêm của mình. Giờ đây đã vào đêm, trên những phố chính ngày càng đông người, có không khí làng xã, với những nhóm người không xác định quanh những quầy bán đồ uống tại những khu vực tồi tàn, những ngọn lửa rán đồ ăn trên hè phố, những chỗ ngủ ngoài trời, sự say xỉn của những người đàn ông rách rưới, sẵn sàng sủa lên như chó, mang thức ăn đến những góc tăm tối của mình, ăn trong cái nhìn của người khác. Những cửa sổ của một số cửa hiệu – đặc biệt các cửa hiệu bán quần áo, với những thứ đồ nhập khẩu đắt đỏ của mình – sáng rực, với lý do chống trộm cắp.
    Trên quảng trường không xa căn hộ, một người đàn bà trẻ đang nói oang oang – một sự ầm ĩ thật sự mang tính châu Phi. Cô ta đang bị chen lấn trên hè phố bởi hai người đàn ông, mỗi người vung vẩy một thứ vũ khí. Nhưng không ai trên quảng trường làm gì hết. Những người đàn ông này mặc đồ Vệ Binh Trẻ. Các sĩ quan nhận lương từ Người Đàn Ông Vĩ Đại, và họ được cho vài chiếc xe jeep của chính phủ. Nhưng, cũng giống các quan chức ở cầu tàu, họ phải tìm việc gì đó để làm. Đó là "đội tuần tra đạo đức". Ngược lại thì đúng hơn. Cô gái có thể bị tóm đến từ một quán bar nào đó, có lẽ cô đã cãi lại hoặc không chịu trả tiền.
    Trong căn hộ tôi thấy đèn trong phòng Metty bật sáng. Tôi nói "Metty?" Nó nói qua cánh cửa "Patron?" Nó đã không gọi tôi là Salim nữa, ngoài cửa hiệu chúng tôi hiếm khi gặp nhau. Tôi nghĩ giọng nói của nó thật là buồn, và tiếp tục đi về phòng mình, chiêm ngưỡng vận may của mình, và tôi nghĩ, Metty tội nghiệp. Làm cách nào để kết thúc điều đó cho nó? Một người thân thiết làm sao, và đến cuối cùng vẫn không có bạn. Nó nên ở lại bờ biển thì hơn. Nó có chỗ ở đó. Tại đó những người giống nó. Ở đây nó lạc lối.
    
    Yvette gọi điện cho tôi tại cửa hiệu vào cuối buổi sáng ngày hôm sau. Đó là lần đầu tiên nàng gọi điện, nhưng nàng không gọi tên tôi hay nói tên nàng. Nàng nói "Anh có ăn trưa ở căn hộ không?" Trong tuần hiếm khi tôi ăn trưa ở căn hộ, nhưng tôi nói "Có", nàng nói "Tôi sẽ đến gặp anh ở đó". Và đó là tất cả.
    Nàng không để cho tôi một quãng nghỉ, không có sự im lặng, không cho tôi thời gian để ngạc nhiên. Và thực tế, chờ đợi nàng trong căn phòng khách màu trắng sau mười hai giờ, đứng tại bàn bóng bàn, xem lướt qua một tạp chí, tôi không hề cảm thấy ngạc nhiên. Tôi cảm thấy cơ hội – dù gì cũng là toàn bộ sự bất thường của nó, sự quái đản của giờ giấc, sự bừng sáng chết người của ánh sáng – để được chỉ là sự tiếp nối của cái gì đó tôi từng sống với từ lâu.
    Tôi nghe nàng bước vội vã trên cầu thang nàng đã xuống buổi chiều hôm trước. Tôi không nhúc nhích, chỉ thấy bồn chồn. Cửa tầng đệm mở, cửa phòng khách mở - bước chân của nàng nhanh và không hề chậm lại. Tôi quá vui mừng gặp lại nàng, đó là một sự khuây khoả mênh mông. Vẫn có sự vội vã trong thái độ của nàng, nhưng qua gương mặt nàng dường như được cấu tạo như thế, nàng không hề mỉm cười. Đôi mắt nàng nghiêm trang, với một sự ẩn giấu giằng xé, náo động.
    Nàng nói "Em nghĩ về anh cả buổi sáng. Em không tài nào đẩy anh ra khỏi đầu được", và dù nàng đã vào phòng khách chỉ để rời khỏi đó, dù việc nàng chuyện căn hộ là sự tiếp nối thẳng thắn của cú điện thoại của nàng, nàng vẫn muốn có đủ thời gian để nói, nàng đi vào phòng ngủ và bắt đầu cởi quần áo.
    Điều này diễn ra trước mắt tôi. Đối diện với nàng, tôi lại cảm thấy những niềm khoái lạc cũ. Cơ thể tôi lại vâng lời những thúc đẩy mới, phát hiện trong bản thân nó những nguồn trả lời cho nhu cầu mới của tôi. Mới – đó là từ chính xác. Nó luôn luôn mới, rất quen thuộc qua cơ thể và những câu trả lời của nó, cũng thực thể như chính hành động, đòi hỏi sự cục cằn, kiểm soát và tinh tế đó. Cuối cùng (như tôi đã cả quyết, như tôi từng cả quyết tất cả trước đó), được tiếp thêm sức lực, được sống lại, tôi cảm thấy tôi đã được đưa lên xa hơn rất nhiều sự tuyệt vời của buổi chiều hôm trước.
    Tôi đã đóng cửa hiệu vào lúc mười hai giờ. Mãi ba giờ chiều tôi mới quay lại đó. Tôi không hề ăn trưa. Ăn trưa làm tôi mất thời gian, mà thứ sáu là ngày buôn bán được. Tôi thấy cửa hiệu bị đóng cửa. Metty đã không hề mở cửa, như tôi đã dăn nó. Đã mất toi một tiếng đồng hồ không bán được gì, và nhiều người bán lẻ từ những ngôi làng xa xôi đã mua được hàng và bắt đầu chặng đường dài về nhà bằng thuyền độc mộc hay xe tải. Hàng hoá được những chiếc xe hàng cuối cùng chở đến không còn nhiều nữa.
    Lần đầu tiên tôi cảm thấy cần báo động về bản thân mình, về sự chậm trễ. Tôi có những viễn cảnh của sự nghèo đói và tình trạng đổ nát, người không thuộc về châu Phi lạc lối ở châu Phi, không còn có sức mạnh hay mục đích để giữ những gì thuộc về mình, và với ít hơn những gì những kẻ say sưa rách rưới chết đói dở từ những ngôi làng lang thang đến quảng trường, nhìn vào những quầy hàng thực phẩm, lang thang xin xỏ từng ngụm bia, và những kẻ gây rắc rối trẻ tuổi từ những thị trấn đổ nát, một nhân tố mới mặ áo phông đóng dấu ảnh Người Đàn Ông Vĩ Đại và nói về những người nước ngoài và lợi lộc và, chỉ muốn có tiền (giống như Ferdinand và bạn bè của nó t.ai trường trung học ngày xưa) đến các cửa hiệu và mặc cả gay gắt những hàng hoá mà chúng không hề muốn, khăng khăng đòi mua giá gốc.
    Từ sự báo động về bản thân đó – bởi đó là lần đầu tiên – tôi chuỷên sang tức giận Metty, người mà đêm trước tôi còn thương đến thế. Rồi tôi nhớ lại. Đó không phải lỗi của Metty. Nó đang ở chỗ hải quan, thanh toán hàng đến bằng tàu thuỷ, con tàu đã mang Indar và Ferdinand đi xa, con tàu vẫn trên chặng đường đến từ thủ đô.
    
    Trong hai ngày, kể từ bữa ăn trưa ăn trứng rán với Yvette ở nhà nàng trong Khu, những tạp chí có bài của Raymond đã bị bỏ trong ngăn kéo của tôi. Tôi không xem chúng. Giờ thì tôi làm điều đó, nhớ đến chúng qua những ý nghĩ về chiếc tàu thuỷ.
    Khi tôi hỏi Yvette cho xem những thứ Raymond từng viết, đó chỉ là cách để tiếp cận nàng. Giờ đây không cần thế nữa. Những bài báo Raymond viết trên các tạp chí địa phương có vẻ thật khó nhằn. Một là bài điểm sách về một cuốn sách của Mỹ về các luật lệ thừa kế ở châu Phi. Bài khác, khá dài, với đầy đủ chú thích và bảng biểu, dường như là một phân tích kỹ càng về cách thức bầu cử ở bộ lạc, về những cuộc bầu cử hội đồng địa phương tại thị trấn mỏ khổng lồ ở phía Nam ngay trước độc lập, một số trong những cái tên của các bộ lạc bé nhất tôi từng nghe nói đến.

Những bài báo trước đó, trên các tạp chí nước ngoài, có vẻ dễ hiểu hơn. "Bạo loạn trong một trận bóng đá", trong một tạp chí Mỹ, và về cuộc bạo loạn sắc tộc ở thủ đô trong những năm 1930 đã dẫn đến việc thành lập câu lạc bộ chính trị đầu tiên của châu Phi. "Những tự do bị đánh mất", trong một tạp chí của Bỉ, là về sự thất bại của một chương trình truyền đạo, vào cuối thể kỷ mười chín, để mua lại những người nô lệ bị bắt đi từ những lễ hội nô lệ của người A rập, và cho họ về ở trong những "ngôi làng tự do".
    Tôi quan tâm đến những bài báo đó – tôi đặc biệt quan tâm đến những cuộc truyền đạo và nô lệ. Nhưng những đoạn văn sáng sủa khi mở đâu thật gây thất vọng, không thể đọc được những bài báo này ở cửa hiệu vào buổi chiều. Tôi để chúng ra, để đọc sau. Và buổi tối hôm đó, khi đọc sách trên chiếc giường lớnó mà Yvette vài giờ trước đã mặc quần áo, và nơi hơi của nàng vẫn còn vương lại, tôi cảm thấy kinh hoàng.
    Bài báo về một vụ xung đột sắc tộc – sau đoạn văn mở đầu sáng sủa mà tôi đã đọc ở cửa hiệu – trở thành một tập hợp các sắc lệnh của chính phủ và trích dẫn trên các bài báo. Có rất nhiều từ các báo, Raymond dường như coi việc này là cực kỳ quan trọng. Tôi không thể nghĩ như thế, bởi vì qua kinh nghiệm của mình tại bờ biển tôi biết rằng báo chí tại những vùng thuộc địa nhỏ viết về một kiểu sự thật rất đặc biệt. Báo chí không nói dối, nhưng chúng chỉ là hình thức. Báo chí tôn kính viết về những người có vai vế - thương gia, quan chức cao cấp, thành viên các hội đồng lập pháp và hành pháp. Chúng thường để lọt mất những điều quan trọng, thường là những điều cốt yếu – mà người dân địa phương có thể biết được và xì xào với nhau.
    Tôi không biết những tờ báo ở đây trong những năm 1930 có khác lắm so với báo ở vùng bờ biển của chúng tôi không, và tôi luôn hy vọng rằng Raymond biết cách luồn sau những câu chuyện trên báo và những bài xã luận để nói lên được những sự kiện thật sự. Một cuộc xung đột sắc tộc tại thủ đô trong những năm 1930 – điều đó hẳn phải có một cốt truyện rất mạnh, đấu súng tại các quán cà phê và câu lạc bộ châu Âu, sự kinh hoàng và nỗi sợ hãi tại các cité châu Phi. Nhưng Raymond không hề quan tâm đến khía cạnh đó. Ông không hề tạo cảm giác dã từng nói chuyện với một ai đó trong số những người có liên quan, dù nhiều người vẫn còn đang sống khi ông viết bài báo. Ông dính vào những tờ báo, dường như ông muốn cho thấy rằng ông đã đọc toàn bộ chúng và đã tạo ra được khía cạnh chính trị chính xác của một sự kiện. Chủ đề của ông là một sự kiện ở châu Phi, nhưng ông có vẻ như đã viết về châu Âu hoặc một nơi nào đó ông chưa từng ở.
    Bài báo về những nhà truyền đạo và nô lệ cũng đầy trích dẫn, không phải từ các báo, mà là từ kho tự liệu truyền đạo châu Âu. Chủ đề với tôi chẳng mới mẻ gì. Tại trường học tại Khu bờ biển chúng tôi đã nói về sự lan truyền của châu Âu trong những lãnh thổ của chúng tôi như thể không hơn là một thất bại của người A rập và những cách thức buôn bán nô lệ của họ. Chúng tôi nghĩ đến cái đó như là của chương trình học của trường châu Âu, chúng tôi không quan tâm. Lịch sử là cái gì đó đã chết và đã qua, một phần của thế giới của cha ông chúng tôi, và chúng tôi không mấy quan tâm đến nó, dù vậy, trong những gia đình buôn bán như gia đình tôi, vẫn có những câu chuyện mơ hồ - mơ hồ đến nỗi chúng không được coi là thật – về những giáo sĩ châu Âu mua nô lệ giá rẻ từ các hội chợ trước khi mang đến bờ biển. Những người châu Phi (và đó là mấu chốt của câu chuyện) đã bị lột da, họ nghĩ rằng những nhà truyền đạo đã để ăn thịt họ.
    Tôi không có ý tưởng nào, cho đến khi tôi đọc bài báo của Raymond, rằng cuộc phiêu lưu đã từng có quy mô rất lớn và rất nghiêm trọng. Raymond cung cấp tên của tất cả những ngôi làng tự do từng được dựng lên đó. Rồi, trích dẫn và trich dẫn từ những lá thư và báo cáo trong các lưu trữ, ông chỉ ra ngày tháng của sự biến mất của mỗi ngôi làng. Ông không hề cung cấp các lý do và coi chúng chẳng là gì cả, ông chỉ trích dẫn từ các báo cáo của những người truyền tin. Dường như ông không đi đến nơi nào hết trong những chỗ ông viết, ông không thử nói chuyện với ai đó. Thế mà chỉ cần nói chuyện năm phút với Metty – người đã ở bờ biển, từng trải qua nỗi hãi hùng trên con đường đi qua châu lục – nó có thể nói cho Raymond biết rằng toàn bộ kế hoạch sùng đạo đó tàn độc và xấu xa đến mức nào, để một số người không được bảo vệ trong một lãnh thổ lạ nghĩa là để họ lại cho sự tấn công và bắt cóc và còn tồi tệ hơn. Nhưng Raymond dường như không hề biết đến điều đó.
    Ông biết nhiều quá, ông nắm được nhiều quá. Ông hẳn phải mất hàng tuần lễ cho mỗi bài báo. Nhưng ông có quá ít hiểu biết thực sự về châu Phi, ít hơn cả Indar, Nazruddin hay Mahesh, ông chẳng hề có một chút gì bản năng của cha Huismans về sự lạ mặt và băn khoăn về địa điểm. Ông đã biến châu Phi thành chủ đề của mình. Ông đã cống hiến hàng năm trời cho những cái hộp tài liệu trong nghiên cứu của mình mà tôi đã từng nghe từ Indar. Có lẽ nào ông đã biến châu Phi thành chủ đề của mình với ông đã đến châu Phi và bởi vì ông là một nhà học giả, quen làm việc với giấy tờ,và đã tìm thấy tại nơi này đầy những giấy tờ mới.
    Ông từng là giáo viên ở thủ đô. Khi ông còn ở tuổi trung niên – vận may đã đưa ông tiếp cận với Tổng thống tương lai. Vận may – và một cái gì đó thuộc về sự triù mến của giáo viên với cậu bé châu Phi tuyệt vọng đó, một sự trìu mến có khả năng lẫn lộn với một ít cay đắng về sự thành công của cậu ta hơn là của ông, người đàn ông có thể đã tự thấy mình trong cậu bé, lời khuyên ông đã cho cậu bé cần gia nhập lực lượng quốc phòng dường như có trong đó một sự cay đắng nào đó – vận may đã cho ông mối quan hê. đặc biệt đó với người đã trở thành Tổng thống và đã đưa ông, sau độc lập, đến vinh quang mà ông chưa từng bao giờ mơ đến.
    Với Yvette, không có kinh nghiệm, từ châu Âu, và với những tham vọng của chính mình, hẳn ông đã toả sáng. Nàng hẳn đã nhầm lẫn với những tham vọng của mình, nhiều như là tôi đã từng ở chỗ nàng, trong đó tôi đã thấy sự quyến rũ đến nhường nào. Quả thật, khi đó, chúng tôi đã có Raymond là điểm chung, từ chỗ khởi đầu.
Tôi thường nghĩ về vận may đã cho tôi nhìn thấy Yvette lần đầu tiên trong buổi tối ở nhà nàng đó, trong cái không khí châu Âu giữa lòng châu Phi, khi nàng mặc chiếc áo Margit Brandt và được chiếu sáng bởi những ngọn đèn đọc sách đặt trên sàn nhà, và mọi thứ khao khát đã vây toả tôi trong giọng hát của Joan Baez.
    Có lẽ trong một khung cảnh khác và một thời điểm khác nàng đã không gây cho tôi ấn tương như thế. Và có lẽ, nếu tôi đã đọc những bài báo của Raymond vào ngày Yvette đưa chúng cho tôi, thì đã không có gì diễn ra trong buổi chiều hôm sau, khi nàng đến căn hộ của tôi. Tôi hẳn là đã không để cho nàng có cớ để trưng về phía tôi khuôn mặt nhìn nghiêng của nàng đứng dựa vào bức tường màu trắng trong phòng khách, thay vào đó hẳn là chúng tôi đã đến câu lạc bộ Hellenic. Ngắm nàng trong căn nhà đầy ánh sáng buổi trưa đó đã khiến cho tôi cảm thấy một sự báo động nào đó. Để hiểu hơn về Raymond ngay sau khi đã nhìn nàng rõ hơn – tham vọng của nàng, sự đánh giá không hay của nàng dành cho ông, thất bại của nàng.
    Và thất bại như thế không phải là cái tôi lựa chọn để có. Mong muốn của tôi về một cuộc phiêu lưu với Yvette là một mong muốn được lên tới trời cao, được thoát khỏi cuộc đời tôi đang sống – sự ngây độn, sự căng thẳng chẳng có mục đích nào, "tình hình đất nước". Đó không phải là mong muốn nhập vào với những người bị bẫy như tôi.
    Nhưng đó là điều giờ đây tôi cảm thấy. Và nó không mở rộng cho tôi mà không kéo lại. Sau buổi chiều đầu tiên dó, khám phá đầu tiên của tôi với nàng, tôi đã bị Yvette sở hữu, bị sở hữu bởi người mà tôi không bao giờ thôi muốn chiếm đoạt. Sự thoả mãn chẳng cứu thoát gì cả, nó chỉ mở ra một sự trống rỗng mới, một nhu cầu tươi mới.
    Thị trấn giờ đây với tôi đã thay đổi. Nó có những hội đoàn mới. Những ký ức và tâm trạng khác nhau đã gắn liền vào nơi này, vào thời gian, thời tiết. Trong ngăn kéo bàn tôi ở cửa hiệu, nơi những tạp chí của Raymond từng bị bỏ quên trong hai ngày, giờ đây có những bức ảnh của Yvette. Một số trong đó khá cũ và hẳn là phải quý giá lắm với nàng. Nàng tặng những hình ảnh đó cho tôi, những bức ảnh vào nhiều thời điểm khác nhau, như là một sự ưu ái, phần thưởng, cử chỉ âu yếm, từ đó, vì không bao giờ lãng phí cảm giác động chạm (và trên thực tế rất ít khi hôn nhau) với một thoả thuận ngầm, chúng tôi tiếp tục như chúng tôi đã bắt đầu và không bao giờ nói với nhau những lời âu yếm. Dù có những say mê xác thit, những bức ảnh của Yvette mà tôi thích thú là trong sạch nhất. Tôi đặc biệt quan tâm đến những bức ảnh khi nàng còn là con gái ở Bỉ, mà tương lai vẫn còn mù mịt ở phía trước.
    Với những bức ảnh đó trong ngăn kéo, cách nhìn cửa hiệu của tôi đã khác, quảng trường với những cây cối tã tượi, những quầy hàng ngoài chợ, những người dân làng đi lang thang, những con đường không lót đá đầy bụi trong mặt trời hay đỏ rực chảy tràn trong cơn mưa. Thị trấn bị gãy sụm, tại đó tôi cảm thấy mình trở nên trung tính, trở thành nơi mà tất cả đã đến với tôi.
    Với suy nghĩ đó tôi quan tâm đến chính trị theo một cách, gần như một mối lo lắng chính trị. Tôi có thể không cần đến điều đó, nhưng vô ích. Qua Yvette, tôi với tới Raymond, và qua Raymong tôi gắn mình chặt chẽ hơn bao giờ hết vào hiểu biết về sức mạnh của Tổng thống . Nhìn ảnh Tổng thống ở mọi nơi tao cho tôi cảm giác rằng, dù không phải là người châu Phi đi nữa, chúng tôi cũng trở thành người của ông. Ngoài ra, qua Raymond, tôi có thêm cảm giác rằng tất cả chúng tôi đều phụ thuộc vào Tổng thống và rằng – dù chúng tôi làm nghề gì và dù chúng tôi nghĩ đang làm việc cho mình – chúng tôi đều đang phụng sự ông.
    Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó khi tôi từng tin Raymond như là Indar miêu tả ông – người đàn ông da trắng của Người Đàn Ông Vĩ Đai – tôi từng sợ cảm thấy quá gần với quyền lực cao nhất của đất nước, tôi cảm thấy mình đã được mang đi lên cao hơn rất nhiều so với nước tôi biết là những nỗi lo lắng hàng ngày của nó – những bụi cây trên núi, những con đường ở tình trạng tồi tệ, các quan chức ăn của đút lót, những thị trấn đổ nát, những người hàng ngày đến từ vùng cây bụi và không tìm thấy gì để làm và có ít thứ để ăn, sự nghiện ngập, những vụ giết người chớp nhoáng, cửa hiệu của tôi. Quyền lực và cuộc sống quanh Tổng thống tại thủ đô, dường như là rất thực và rất chính yếu về đất nước.
    Khi tôi hiểu rằng vị thế của Raymond là thế nào, một lần nữa Tổng thống lại hiện ra ở một nơi xa xôi và cao hơn chúng tôi. Nhưng giờ đây còn lại một mối liên hệ với ông, ý thức về quyền lực của ông như một cái gì đó cá nhân, mà tất cả chúng tôi đều phải gắn với bằng một sợi dây, mà ông c t kéo ra hoặc lúc lắc. Đó là điều trước đây, tôi chưa từng cảm thấy. Cũng giống như những người bỏ xứ tại thị trấn, tôi từng làm điều được định sẵn cho tôi. Chúng tôi treo những bức ảnh trong cửa hiệu và công sở của chúng tôi, chúng tôi đóng góp tài chính cho Tổng thống của chúng tôi. Nhưng chúng tôi cố để tất cả những cái đó tách biệt hẳn với cuộc sống riêng tư của mình. Tại câu lạc bộ Hellenic, chẳng hạn, dù không có quy định nào về điều đó, chúng tôi không bao giờ bàn cãi về các chính sách địa phương.
    Nhưng giờ đây đã đi sâu đến thế vào các chính sách thông qua Raymond và Yvette, và hiểu rằng ẩn ý đàng sau một bức ảnh chính thức, mỗi bức tượng mới của đức mẹ châu Phi cùng đứa con, tôi không thể nào tiếp tục xem những bức tượng và ảnh đó là cái nền nữa. Tôi chúng tôi được nói rằng hàng nghìn bức ảnh được các máy in ở châu Âu in ra, nhưng để hiểu mục đích của tổng thống thì phải bị chúng tác động cái đã. Người khách có thể cười khẩy về đức mẹ châu Phi, tôi thì không thể.
     Tin tức vê1 quyển sách lịch sử của Raymond thật tồi tệ, không có tin tức gì cả. Indar, dù đã hứa tìm cách in quyển sách (và bàn tay từ biệt đặt lên đùi Yvette trên tàu thuỷ) đã không viết gì về cả. Yvette biết anh cũng chẳng hề viết cho tôi, rằng anh ta là một người có rất nhiều vấn đề với bản thân mình. Có lẽ Yvette chẳng mảy may quan tâm đến Indar, nàng muốn có tin tức, và rất lâu sau khi Indar rời khỏi nơi này nàng tiếp tục chờ đợi vài lời từ thủ đô.
    Cùng lúc đó Raymond đã kết thúc công việc với những bài diễn thuyết của Tổng thống và quay trở lại với lịch sử của mình. Ông rất giỏi trong việc che giấu nỗi thất vọng và căng thẳng. Nhưng chúng được phản chiếu lại ở Yvette. Đôi khi nàng đến căn hộ, trônng nàng già đi mấy tuổi sao với tuổi thật của nàng, với làn da trẻ trung được tẩy trắng, mẩu thịt phía dưới gò má lún xuống ở đoạn đầu của một cái cằm đôi, những quầng thâm quanh mắt nàng nhìn rất rõ.
    Cô gái tội nghiệp! Nàng không hề dự tính điều này trongcb đời của mình với Raymond. Nàng từng là một sinh viên ở châu Âu, khi họ gặp nhau. Ông tới cùng phái đoàn chính thức. Vai trò của ông trong tư cách cố vấn của người đàn ông với lên chức Tổng thống được giữ bí mật, nhưng sự nổi bật của ông thì ai cũng biết và ông đã được mời đến nói chuyện tại trường đại học của Yvette. Nàng đã hỏi một câu – khi đó nàng đang viết một luận văn về chủ đề nô lệ trong các tác phẩm châu Phi thuộc địa của Pháp. Họ đã gặp nhau sau đó, nàng đã bị chóang vì những quan tâm của ông. Trước đó Raymond đã lấy vợ, nhưng ông đã ly dị vài năm trước độc lập, khi ông vẫn là giáo viên, và vợ ông cùngcn gái đã quay trở lại châu Âu.
    "Người ta bảo rằng đàn ông nên nhìn vào người mẹ của cô con gái mà họ muốn lấy" Yvette nói. "Các cô gái nên nhìn vào người vợ mà người đàn ông đã bỏ hoặc đuổi đi, và biết rằng họ không thể khá hơn. Nhưng anh có tưởng tượng được không? Con người đẹp đẽ và nổi bật đó – khi Raymond lần đầu tiên đưa em đi ăn tối ông ấy đã đưa em đến một chỗ thật đắt tiền. Ông ấy làm việc đó với vẻ rất khinh bạc. Nhưng ông ấy biết em xuất thân từ gia đình thế nào và ông ấy biết rất chính xác ông ấy đang làm gì. Ông ấy tiêu cho bữa ăn tối đó nhiều tiền hơn bố em kiếm được trong một tuần. Em biết đó là tiền của phái đoàn nhưng điều đó đâu nghĩa lý gì. Đàn bà luôn ngu xuẩn mà. Nhưng nếu đàn bà không ngu xuẩn thì trái đất này không thể quay được.
    "Em phải nói rằng hồi đó thật tuyệt. Tổng thống mời bọn em đến ăn tối thường xuyên và lần đầu tiên, lần thứ hai hoặc thứ ba em ngồi ngay bên phải ông. Ông nói ông không thể làm khác với vợ của professeur cũ của mình – nhưng điều đó không đúng, Raymond chưa bao giờ dạy ông ấy cả, đó chỉ là tin đồn thổi của báo chí châu Âu thôi. Ông đặc biệt đáng mến, Tổng thống ấy, và không bao giờ có ẩn ý hay nói những điều vô nghĩa, em có thể nói thêm như thế. Lần đầu tiên em và Tổng thống nói về cái bàn, rất nghiêm chỉnh đấy. Nó được làm bằng gỗ địa phương và được chạm khắc hoa văn châu Phi với những kỹ thuật đáng nể và những người thợ chạm gỗ và đất nước này đã cung cấp cho toàn bộ thế giới thứ đồ gỗ chất lượng cao đó. Điều này cũng giống như nói chuyện về một khu công nghiệp dọc theo dòng sông – đó chỉ là một chủ đề của câu chuyện mà thôi. Nhưng khi đó em còn trẻ lắm và muốn tin mọi thứ người ta nói.
    "Luôn luôn có máy quay caméra. Luôn luôn máy caméra, ngay cả vào những ngày đầu tiên đó. Ông ấy luôn đặt chúng, anh biết điều đó mà, và điều đó làm cho cuộc nói chuyện trở nên khó khăn. Ông ấy không bao giờ cho anh bắt đầu một chủ đề mới, ông chỉ đơn giản là lái nó đi. Cái nhãn hoàng gia – mà ông đã lấy của ai đó, và em học được nó từ ông, một cách khó khăn. Ông có cái cách bỏ rơi người đối thoại rất đột ngột, như hiểu phong cách cá nhân ấy. dường như ông ấy thích thú với cái cách quay ngoắt đi và bước thẳng khỏi phòng vào một thời điểm nào đó.
    "Bọn em thường xuyên đi cùng ông. Bọn em làm nền trong một số bức ảnh chính ngày xưa – những người da trắng đứng làm nền. Em nhận thấy trang phục của ông ấy đã thay đổi, nhưng em nghĩ đó chỉ là vì ông muốn có quần áo thuận tiện hơn thôi, những trang phục đồng quê theo phong cách châu Phi. Mọi nơi bọn em đến thường trở thành những séances d animation (lễ hội) rất mở rộng, có các điệu nhảy bộ lạc. Ông luôn rất chú ý đến điều đó. Ông ấy nói ông ấy muốn vinh danh những điệu nhảy mà Hollywood và phương Tây coi nhẹ. Ông định xây dựng những nhà hát hiện đại cho chúng. Và chính trong một trong những buổi tiếp tân đó em đã gặp rắc rối. Ông cắm cây gậy xuống đất. Em không biết điều đó có nghĩa là gì. Em không biết là phải im lặng, rằng ngày xưa mở miệng nói khi các vị thủ lĩnh cắm cây gậy xuống đất có thể bị đánh đến chết. Em đứng cạnh ông và nói điều gì đó cực kỳ tầm thường về kỹ thuật của các vũ công. Ông mím môi tức giận và nhìn ra chỗ khác, rồi quay luôn đi. Không kiểu cách gì cả. Tất cả mọi người châu Phi đều kinh hoàng trước điều em làm. Và em cảm thấy điều đó đã trở nên khủng khiếp và rằng em đã đến một nơi thật là khủng khiếp.
    "Sau đó em không được xuất hiện cùng ông ở chỗ đông người nữa. Nhưng dĩ nhiên điều đó không phải là lý do ông đoạn tuyệt với Raymond. Trên thực tế, sau đó ông còn thân thiết hơn với Raymond. Ông đoạn tuyệt với Raymond khi ông quyết định rằng không cần gì ở ông ấy nữa, rằng trong tầng lớp lãnh đạo mới người đàn ông da trắng là một sự phiền nhiễu với ông ở thủ đô. Còn với em thì ông không bao giờ nói chuyện nữa. Nhưng ông vẫn luôn quan tâm đến em, cho người đến hỏi thăm em. Ông cần một khuôn mẫu cho mọi việc, và em nghe nói de Gaulle quen gửi những lời hỏi thăm cá nhân đến vợ của các kẻ thù chính trị c mình
    "Đó là lý do tại sao em nghĩ rằng nếu Indar làm được gì đó cho quyển sách của Raymond ở thủ đô, thì ông ấy có thể quay l.ai được vị thế nào đó. Ở đây mọi thứ đều quay trở về tông thống. Nơi này là màn trình diễn của độc nhất một người, anh biết rồi đấy. Và em đang trông chờ nhận được một lời gián tiếp nào đó. Nhưng trong những tháng vừa qua ông không hề gửi lời hỏi thăm đến cho em."
    Nàng đau khổ nhiều hơn Raymondj. Nàng ở trong một đất nước vẫn còn xa lạ với nàng và nàng đang bị quay cuồng, bị phụ thuộc tới hai lần. Raymond thì đã ở nơi này, một nơi đã trở thành nhà của ông. Ông ở trong hoàn cảnh mà có lẽ ông đã sống qua trước kia, khi ông là một giáo viên không tên tuổi tại thủ đô thời thuộc địa. có thể ông đã quay trở lại cá tính cũ của mình, sự cam chịu ông từng óc khi còn là giáo viên, người đàn ông có hiểu biết câm lặng nhưng đầy thách thức về bản thân mình. Nhưng tôi vẫn thấy ở đây có gì đó khác. Tôi cảm thấy Raymond đã đi theo một cách rất ý thức một mã khóa nào đó mà ông đã tự tạo ra cho mình, và việc đi theo mã này đã mang lại cho ông sự thanh thản.
    Mật mã này ngăn ông không nói ra sự thất vọng hay đố kỵ. Trong đó ông khác biệt hẳn với những người trẻ tuổi tiếp tục tới Khu và gọi ông và lắng nghe ông. Raymond vẫn còn có công việc vĩ đại của mình: ông vẫn có những hộp giấy mà nhiều người muốn nhòm vào, và hơn hết sau toàn bộ những năm tháng là người đàn ông da trắng của Người Đàn Ông Vĩ Đại, sau toàn bộ những năm tháng là người hiểu biết nhiều về đất nước hơn bất kỳ ai còn sống, Raymond vẫn còn có tiếng tăm.
    Khi một người khách phê phán một quyển sách của ai đó hay một cuộc họp mà ai đó đã tổ chức ở đâu đó (thời gian này Raymond không được mời đến các cuộc họp), Raymond có thể sẽ không nói gì hết cả, trừ khi có gì đó để nói tốt về quyển sách hoặc cuộc họp đó. Ông nhìn rất bình thản vào mắt người khách, như thể chỉ đợi anh ta chấm dứt. Tôi thấy ông làm như thế nhiều lần, ông tạo ra cảm giác đang chờ anh ta ngừng nói. Khuôn mặt của Yvette thì biểu lộ rõ nỗi kinh ngạc bị xúc phạm.
    Một tối tôi nghe một người khách nói rằng Raymond đang xin một việc làm ở Mỹ và bị từ chối. Người khách, một người đàn ông rậm râu với đôi mắt lóng lánh không thể tin cậy, nói như thể ủng hộ Raymond vậy. Thậm chí ông ta còn tỏ ra cay đắng thay cho Raymond, và điều đó làm tôi có cảm giác ông ta là một trong những vị học giả đến thăm mà Yvette từng nói với tôi, khi họ đến với giấy tờ của Raymond, điều đó cũng đồng nghĩa với một cơ hội ghé qua nàng một lát.
    Nhiều điều đã thay đổi kể từ những năm đầu 1960, người đàn ông rậm râu nói. Những nhà nghiên cứu châu Phi bây giờ không còn hiếm nữa, và những người đã cống hiến toàn bộ cuộc đời cho châu lục giờ đã bị vượt qua. Những quyền lực lớn đã thống nhất lúc này không tranh cãi về châu Phi nữa, vì các thái độ về châu Phi đã thay đổi. Những người từng nói rằng thập kỷ này là thập kỷ của châu Phi, và đã lon ton chạy sau những người vĩ đại, giờ đây đã biến khỏi châu Phi rồi.
    Yvette xoắn tay lại và nhìn chăm chăm vào đồng hồ của mình. Đó dường như là một cách ngắt lời có chủ ý. Nàng nói "Thập kỷ châu Phi đã kết thúc đúng mười giây trước đây".
    Nàng từng làm điều đó một lần trước, khi ai đó nói về thập kỷ châu Phi. Và lần này trò đó lại có hiệu quả. Nàng mỉm cười, Raymond và tôi phá lên cười. Người đàn ông rậm râu lẩn đi, và chủ đề về đơn xin việc của Raymond bị từ chối đã bị bỏ luôn.
    Nhưng tôi mất tinh thần bởi điều tôi nghe được, và khi hôm sau Yvette đến căn hộ, tôi nói "Nhưng em chẳng nói gì với anh rằng bọn em đang nghĩ đến việc ra đi gì cả"
    "Anh có bao giờ nghĩ đến chuyện ra đi không?"
    "Thực ra là có".
    "Thực ra chúng ta ai cũng đều phải ra đi hết. Cuộc đời của anh đã được cố định. Anh đã đính hôn với người con gái của người đàn ông đó, anh từng nói với em. Mọi thứ đều chờ đợi anh. Cuộc sống của em ở đây thì bất ổn. Em phải làm điều gì đó. Em không thể ở lại đây được".
    "Nhưng tại sao em không nói với anh?"
    "Tại sao lại phải nói điều mà anh chẳng thể nào thay đổi được gì? Và nó cũng chẳng hề tốt đẹp gì cho chúng ta khi nói tới. Anh cũng biết, Raymond không bao giờ còn có được cơ hội nào khác ở nước ngoài nữa đâu".
    "Thế tại sao ông ấy lại đệ đơn?"
    "Em đã bắt ông ấy. Em nghĩ có một khả năng, Raymond không muốn tự làm điều đó. Ông ấy trung thành".
    Sự gần gũi với Tổng thống đã đem lại danh tiếng cho Raymond, từng khiến người ta mời ông tới các cuộc họp tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới, giờ đây đã khiến ông bị đánh giá thấp ở nước ngoài. Trừ phi một điều gì đó thật lạ thường xảy đến, nếu không ông sẽ phải ở lại đây, phụ thuộc vào quyền lực của Tổng thống .
    Vị thế của ông tại Khu buộc ông phải chứng tỏ quyền lực của mình. Nhưng lúc nào ông cũng lưỡng lự trước quyền lực,. giảm nó xuống số không, không hề có chỗ dựa nào. Ở vào vị trí của ông tôi không nghĩ mình có khả năng vờ như có quyền lực nào đó – thật là khó khăn. Tôi chỉ có thể bỏ đó mà đi, hiểu rằng sự thật của cái mà Mahesh đã nói với tôi nhiều năm trước. "Hãy nhớ lấy, Salim, ở đây người ta malin lắm".
    Nhưng Raymond cho thấy không có gì không chắc chắn cả. Và ông trung thành – với Tổng thống , với chính ông, những tư tưởng và tác phẩm của ông, quá khứ của ông. Sự ngưỡng mộ của tôi dành cho ông tăng lên. Tôi nghiên cứu các bài phát biểu của Tổng thống – các tờ nhật báo đã gửi đến từ thủ đô – với những dấu hiệu cho thấy Raymond sẽ được trở lại vị trí sủng thần. Và nếu tôi trở thành người khuyến khích Raymon, qua Yvette, nếu tôi trở thành người khen ngợi ông, tung hô ông kể cả ở câu lạc bộ Hellenic như là người chưa xuất bản nhiều lắm nhưng thật sự được biết đến, người mà mọi người khách thông minh cần phải đến gặp, thì đó không phải chỉ vì tôi không muốn thấy ông đi xa cùng với Yvette. Tôi không muốn thấy ông bị hạ nhục. Tôi ngưỡng mộ mật mã của ông và muốn rằng khi thời điểm chính của tôi đến tôi cũng có thể gắn mình vào một cái gì đó theo cách giống như thế.
    Cuộc sống tại thị trấn của chúng tôi đã quá đủ dự đoán rồi. Yvette, thấy cuộc đời của tôi đã được định đoạt với mọi thứ chờ đợi tôi ở đâu đó, đã coi cuộc sống của nàng là trôi nổi. Nàng cảm thấy nàng không được chuẩn bị như những người khác trong chúng tôi, nàng phải tự lo lắng cho bản thân mình. Dù vậy đó cũng chính là cách tất cả chúng tôi đều cảm thấy, chúng tôi thấy cuộc đời của mình thật trôi nổi, chúng tôi thấy cuộc đời của những người khác vững chãi hơn. Nhưng trong thị trấn, nơi mà tất cả đều vô đoán và luật lệ như thế, cuộc đời của tất cả chúng tôi đều trôi nổi. Không ai trong chúng tôi có thể chắc chắn vào cái gì hết. Luôn luôn không biết mình đang làm gì, chúng tôi luôn luôn gắn liền vào tính võ đoán, cái vây tủa lấy chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi không thể nói mình đang ở đâu nữa.
    Chúng tôi sống vì mình. Chúng tôi phải sống. tất cả chúng ta đều phải sống. Nhưng bởi vì chúng ta cảm thấy cuộc sống của chúng ta thật trôi nổi, chúng ta cảm thấy bị tách biệt, và chúng ta không còn cảm thấy tin tưởng vào bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì nữa. Đó là điều đã xảy đến với Mahesh "Không có gì là đúng hay sai ở đây hết. Không có gì đúng" Đó là điều xảy đến với tôi.
    Đó là điều trái ngược với cuộc sống của gia đình và cộng đồng của tôi ở bờ biển. Cuộc sống ở đó đầy những quy tắc. Quá nhiều quy tắc, đó là một kiểu sống đã được định trước.Ở đây tôi không theo quy tắc nào. Trong cuộc nổi loạn – đã khá lâu rồi – tôi đã phát hiện rằng tôi không theo quy tắcđó. Nghĩ về điều đó như thế có nghĩa là tự cảm thấy mình trôi nổi và lạc lối. Và tôi thích không phải nghĩ về điều đó, thật là quá giống với sự kinh hoàng bạn có thể cảm thấy vào bất cứ thời điểm nào nếu bạn suy nghĩ thấu đáo về vị thế thực tế của thị trấn trong lục địa, và về vị thế của chính bạn trong thị trấn đó.
    Thấy Raymond trả lời sự võ đoán với một thứ mã khoá như là đã được làm riêng cho ông với tôi thật là lạ kỳ.
    Khi tôi nói điều đó với Yvette, nàng nói "Anh có nghĩ em có thể cưới một người nào đó không hề lạ lùng không?"
    Thật lạ, sau tất cả những sự phê phán đó, hoặc cái mà tôi xem như là phê phán! Nhưng mọi điều lạ lùng trong mối quan hệ của tôi với Yvette nhanh chóng không còn là lạ lùng nữa. Mọi điều về mối quan hệ đều là mới mẻ với tôi, tôi nhìn nhận mọi thứ như là nó có.
    
    Với Yvette – với cả Yvette và Raymond – tôi đã có được một dạng cuộc sống gia đình, niềm say mê trong căn hộ, buổi tối tĩnh lặng kiểu gia đình trong căn nhà của Khu. Ý nghĩ rằng đó là cuộc sống gia đình của tôi đến với tôi khi bản thâ n cuộc sống đó bị xáo động. Khi nó xảy đến tôi chỉ đơn giản là đang sống nó. VÀ chỉ khi cuộc sống bị xáo động thì sự điên rồ đó mới tới với tôi trong sự lạnh lùng với nó tôi đã chấp nhận cách sống mà, nếu tôi nghe được của một người nào đó khác khi tôi còn trẻ hơn, tôi sẽ coi là thật kinh khủng. Trưởng thành là nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi tiếp tục nghĩ về điều đó torng khung cảnh gia đình và cộng đồng trên bờ biển, và coi nó thật là quỷ quyệt, thật không cao quý và ít giá trị.
    Chính Yvette là người đã đề xuất, sau một buổi chiều trong căn hộ, rằng tôi có thể ăn tối với họ tối đó tại nhà họ. Nàng làm điều đó với rất nhiều trìu mến, và với cả mối quan tâm tới buổi tối cô quạnh của tôi, và dường như nàng không thấy trong điều đó bất cứ vấn đề nào cả. Tôi rất bực dọc, tôi không nghĩ mình có khả năng mặt đối mặt với Raymond trong nhà của ông sau đó. Nhưng Raymond đang nghiên cứu khi tôi đến, và ở lại đó cho tận đến lúc ăn, và sự bồn chồn của tôi biến mất trong sự phấn khích mới tôi cảm thấy khi nhìn thấy Yvette, vừa mới còn trần truồng, rên rỉ trong khoái lạc, trong vai trò người vợ.
    Tôi ngồi trong phòng khách. Nàng đến và đi. Những khoảnh khắc đó đặc biệt gây thích thú cho tôi. Tôi bị khuấy động bởi mỗi hoạt động xảy ra trong nhà, tôi yêu sự bình thường của quần áo nàng. Những cử chỉ của nàng trong ngôi nhà có vẻ nhanh hơn, chủ động hơn, cácn nói tiếng Pháp của nàng (với Raymond giờ đã ngồi ở bàn ăn) chính xác hơn. Ngay cả khi (mọi nỗi lo lắng đã tan biến) tôi lắng nghe Raymond nóimùi cũng thật là kinh khủng với tôi, khoảng cách giữa nàng và tôi để có thể thấy nàng như là một người lạ, và rồi nhìn qua người lạ đó để thấy người đàn bà khác mà tôi biết.
    Vào dịp thứ hai hoặc thứ ba như thế tôi đã lái xe đưa nàng trở về căn hộ với tôi. Không hề có sự lẩn tránh nào, ngay lập tức sau khi ăn Raymond liền trở về với những nghiên cứu của mình.
    Yvette nghĩ tôi chỉ muốn đi chơi một vòng. Khi nàng biết điều tôi đang nghĩ thì nàng kêu lên, và khuôn mặt nàng – thật kịch và thân thiết ở bàn ăn – đã biến thành nỗi lạc thú. Trên đường về căn hộ nàng cười phá lên. Tôi ngạc nhiên với phản ứng của nàng, tôi chưa bao giờ thấy nàng thoải mái, vui sướng thư giãn như thế.

Nàng biết nàng rất quyến rũ đàn ông – các học giả đến thăm nhà nàng khiến nàng hiểu điều đó.. Nhưng được ham muốn và được cần thiết thêm nữa sau tất cả những gì đã diễn ra trong buổi chiều dài của chúng tôi dường như đã làm nàng xúc động theo cách trước đó nàng chưa từng bao giờ biết đến. Nàng thích thú với tôi, cực kỳ thích thú với chính mình, và thân tình đến mức tôi dường như trở thành người bạn học của nàng hơn là một tình nhân. Tôi thử đặt mình vào địa vị nàng, và trong một khoảnh khắc tôi có ảo tưởng nhập được vào cơ thể và trí óc phụ nữ của nàng để hiểu được nỗi vui sướng của nàng. Và khi đó tôi nghĩ, biết điều tôi làm với cuộc đời nàng, rằng tôi đã biết thêm về những nhu cầu và cội nguồn hạnh phúc của nàng.
    Metty ở trong nhà. Ngày trước, theo thói quen cũ, tôi đã cẩn thận lo sao mình tách biệt với nó để được riêng tư, hoặc ở mức độ nào đó có vẻ như thế. Nhưng giờ đây sự bí mật đã không còn có thể và dường như không còn là vấn đề nữa rồi. Và tôi không bao giờ còn lo lắng về Metty trong căn hộ nữa.
    Điều đáng ngạc nhiên tối đó đã trở thành một phần trong khung cảnh những ngày chúng tôi với nhau. Bữa tối với Raymond ở nhà, hoặc cuộc nói chuyện sau bữa ăn với Raymond, diễn ra trong một kiểu thân tình, giữa buổi chiều ở căn hộ và buổi tối muộn ở căn hộ. Do đó tại ngôi nhà, khi Raymond xuất hiện, tôi có khả năng lắng nghe với tâm trí sáng suốt và mối quan tâm thực sự với mọi điều ông nói.
    Thói quen đó không hề thay đổi. Ông hướng tới công việc trong nghiên cứu của mình khi tôi - và những người khách khác, nếu có khách – tới. Ông chỉ hiện ra, và mặc dù vẻ đãng trí của ông, tóc ông thường xuyên bóng lộn, được chải rất cẩn thận hất ra đàng sau bằng một bài nói ngắn, có thể chẳng có gì, nhưng những lần ông xuất hiện thường là rất ngắn.
    Ông thích, đặc biệt sau những cuộc tranh luận sau bữa tối, bắt đầu bằng cách tỏ ra là một người khách rụt rè trong chính ngôi nhà của mình. Nhưng điều đó không đặc trưng cho ông lắm. Nhiều người muốn nghe về vị thế của ông tại đất nước và mối quan hệ của ông với Tổng thống , nhưng Raymond không còn nói về điều đó nữa. thay vì đó ông nói về những chủ đề trí thức nói chung. Thiên tài của Theodor Mommsen, người mà theo Raymond đã viết lại lịch sử của Rome, là một chủ đề được yêu thích. Tôi ngày càng nhận ra ông chỉ thích nói về điều đó.
    Ông không bao giờ tránh bình luận về chính trị, nhưng ông không bao giờ tự mình nêu chủ đề chính trị ra và không bao giờ rơi vào sự luận giải chính trị. Tuy nhiên, với những người khách rất có tinh thần phê phán của chúng tôi, Raymond sẽ cho phép họ nói và không hề ngắt lời.
    Những người khách của chúng tôi ngày càng có đầu óc phê phán. Họ có rất nhiều điều để nói về việc thờ cúng đức mẹ đồng trinh châu Phi. Những đền thờ đã được dựng lên – và được dựng lên rồi – tại nhiều nơi khác nhau có dính dáng đến mẹ của Tổng thống , và những người hành hương tới những nơi đó được cho nghỉ mấy ngày. Chúng tôi biết về việc thờ cúng, nhưng ở vùng chúng tôi không có nhiều đền thờ cho lắm. Mẹ của Tổng thống xuất thân từ một bộ lạc ở hạ lưu sông, rất xa, và tại thị trấn chúng tôi chỉ có vài bức tượng theo phong cách châu Phi nửa vời, và những bức ảnh về các đền thờ và đám rước. Nhưng những người khách đã ở thủ đô thì có nhiều chuyện để kể, và thật dễ dàng với họ với tư cách người đứng ngoài tỏ ra có tính thần phê phán.
    Họ ngày càng hay lôi kéo chúng tôi – Raymond, Yvette và những người như tôi – vào sự châm biếm của họ. dường như trong mắt họ chúng tôi đã bắt đầu không thuộc về châu Phi, những người tự cho phép mình quay sang những người châu Phi, chấp nhận tất cả dành cho chúng tôi. Sự mỉa mai như thế từ những người chỉ vừa đi qua, những người chưa từng đến gặp lại nhưng đã chơi chúng tôi đủ trò, những người an toàn trong những đất nước của họ, kiểu châm biếm như thế đôi khi gây tổn thương. Nhưng Raymond không bao giờ tự cho phép mình bị kích động.
    Với một kẻ thô bỉ ông nói "Điều anh nói không thể được hiểu là sự nhại lại Thiên chúa giáo, anh nói nồng nhiệt thế chỉ có thể có nghĩa với những người theo Công giáo. Trên thực tế đó là lý do, theo quan điểm của Tổng thống , tại sao không thể là một ý tưởng tốt. Điểm mấu chốt của bức thông điệp có thể bị mất đi trong lời nhại lại. Bởi vì ở trung tâm của tôn giáo đó là một ý tưởng lớn về cứu rỗi phụ nữ châu Phi. Nhưng tôn giáo đó, được trình bày như nó vốn có, có thể gây tác dụng phụ đối với người dân vì nhiều lý do. Thông điệp đó có thể bị diễn đạt tồi, và ý tưởng lớnó nó bao trùm có thể quay ngược trở lại hay hoặc ba thế hệ."
    Đó là Raymond – vẫn trung thành, lúc nào cũng cố tạo ý nghĩa cho các sự kiện hẳn là phải thu hút ông lắm. Điều này không có gì tốt cho ông cả. Không hề có tin tức gì từ thủ đô. Ông và Yvette tiếp tục luẩn quẩn.
    
    Nhưng khi đó, trong một tháng hoặc hơn, tinh thần của họ có vẻ bắt đầu lên. Yvette nói với tôi là Raymond có lý khi tin rằng tuyển chọn các bài phát biểu của Tổng thống đã khiến ông được quan tâm trở lại. Tôi rất mừng. Thật là kỳ cục, tôi tự thấy mình nhìn các bức ảnh của Tổng thống theo một cách khác. Và dù không có tin nào trực tiếp được gửi tới, Raymond, sau khi đã phòng thủ lâu đến thế, và sau mọi cuộc nói chuyện ông đã làm về tục thờ đức mẹ, bắt đầu bình luận nhiều hơn với khách khứa và để che giấu, với một cái gì đó rất hứng khởi trng ông , rằng Tổng thống đã chuẩn bị một kế hoạch có thể tạo ra một hướng đi mới cho đất nước. Một hoặc hai lần thậm chí ông còn nói đến khả năng xuất bản một quyển sách về các bài phát biểu của Tổng thống , và quyển sách hẳn là sẽ tác động mạnh lên dân chúng.
    Cuốn sách được xuất bản. Nhưng đó không phải là cuốn Raymond đã làm, không phải quyển sách của những trích dẫn dài dặc thêm vào một vài bình luận. Mà đó là một cuốn sách rất nhỏ, rất mỏng về các tư tưởng, Maximes (Châm ngôn) mỗi trang hai hoặc ba ý tưởng, mỗi ý tưởng khoảng bốn hoặc năm dòng.
    Từng đốngsách đổ về thị trấn của chúng tôi. Chúng xuất hiện tại tất cả các quầy bar, cửa hiệu và văn phòng. Cửa hiệu của tôi có một trăm quyển, Mahesh có một trăm nước mươi ở Bigburger, Tivoli có một trăm năm mươi. Mỗi kẻ dắt mối trên hè phố có một cái kho nho nhỏ - năm hoặc mười quyển, phụ thuộc vào đơn đặt hàng. Sách không phải cho không, chúng tôi phải bán chúng hai mươi francs một bó năm quyển một. Người trung gian phải gửi toàn bộ tiền về thủ đô, và trong vài ngày, ông ta chạy khắp nơi với chiếc Land Rover của mình đầy ắp Maximes, cố bán hết chúng đi.
     Đội Vệ binh trẻ mua khá nhiều sách của ông để dùng cho cuộc diễu hành của trẻ em vào chiều thứ bảy. Những cuộc diễu hành như thế thường diễn ra rất vội và, là những công việc nặng nề - áo xanh, hàng trăm những đôi chân màu xanh bận rộn, giày vải màu trắng, một số đứa trẻ bé hơn điên cuồng, gần như phát khóc, đều đặn phá hàng tìm cách chạy về nhóm cùng quận của mình, đứa nào cùng chỉ chực đợi đến cuối buổi diễu hành và rồi trở về nhqà, có thể cách đó hàng dặm.
    Cuộc diễu hành với quyển sách nhỏ của Tổng thống còn thảm hại hơn thường lệ. buổi chiều cực kỳ nóng bức và nặng nề, sau một trận mưa sớm vào buổi sáng và bùn trên phố, đang khô đi, bắn lên đến tận xe đạp và thậm chí lên đến chân và khô lại cứng đơ. Bùn làm cứng những chiếc giày trẻ con và trông như những vết thương trên chân của chúng vậy.
    Trẻ con được lệnh cầm sách của Tổng thống bước đi và hét to cái tên dài của Tổng thống mà ông tự đặt cho mình. Nhưng lũ trẻ không bao giờ nghiêm chỉnh được, những tiếng hô không đều nhau, và khi mây đen quay trở lại, trông như thể sắp mưa đến nơi, cuộc diễu hành trở nên gấp gáp hơn lệ thường. Chúng chỉ cầm quyển sách và chạy vụt đi trong bùn đất, chỉ hét lên khi Đội Vệ binh trẻ gào lên với chúng.
    Các cuộc diễu hành đã trở nên cái gì đó nực cười với những người dân chúng tôi, và chẳng được tích sự gì. Phần lớn mọi người, ngay cả những người đến từ vùng cây bụi xa xôi, hiểu tục thờ đức mẹ là thế nào. Nhưng tôi không nghĩ ai trên quảng trường hoặc ngoài chợ có thể hiểu cuộc diễu hành Maximes có ý nghĩa gì. Tôi không nghĩ, nói thật , rằng cả Mahesh có thể biết nó muốn nói gì hoặc muốn làm cái gì, cho đến khi anh được cho biết về điều đó.
    Với chúng tôi, Maximes là một thất bại. Và nó hẳn cũng thất bại ở những nơi khác trên đất nước, bởi vì không lâu sau khi đưa tin những đơn đặt hàng lớn cho cuốn sách, báo chí đã bỏ ngưng đề tài này.
    Raymond nói về Tổng thống "Ông ấy biết khi nào phải rút lui. Đó luôn là một torng những phẩm chất nổi bật nhất của ông. Không ai có thể hiểu hơn ông sự trào lộng khủng khiếp của dân chúng của ông. Và cuối cùng ông có thể là đã quyết định rằng mình bị cố vấn tồi".
    Raymond vẫn chờ đợi. Trong cái mà tôi gọi là bộ mật mã của ông tôi bắt đầu nhận thấy một sự bướng bỉnh và cái gì đó như ảo vọng. Nhưng Yvette giờ đây cũng không buồn biểu lộ sự sốt ruột của mình nữa. Nàng đã chán chủ đề Tổng thống . Raymond có thể không có chỗ nào khác để đi nữa cả. Nhưng Yvette bị kích động. Đó là một đối với tôi
Mahesh là bạn tôi. Nhưng tôi nghĩ anh bị quáng vì quan hệ với Shoba. Rằng tất cả đã là hết với anh rồi. Shoba ngưỡng mộ anh và cần anh, và do vậy anh hài lòng với chính mình, hài lòng với con người mà cô ngưỡng mộ. Dường như mong muốn duy nhất của anh là quan tâm chăm sóc con người đó. Anh ăn bận cho cô, chăm lo vẻ bên ngoài vì cô. Tôi thường nghĩ rằng khi Mahesh tự nhìn ngắm mình anh sẽ không so sánh mình với những người đàn ông khác, hoặc phán xét mình theo lý tưởng đàn ông, mà chỉ nhìn vào cái cơ thể làm cho Shoba thích thú. Anh tự nhìn mình như là vợ anh nhìn anh, và điều đó giải thích tại sao, dù anh là bạn tôi, tôi nghĩ rằng niềm tin của anh vào Shoba đã biến anh thành một nửa đàn ông, và không cao quý.
    Tôi thường đắm mình vào một cuộc phiêu lưu, cho niềm ham mê và sự tràn đầy về cơ thể, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng điều đó có thể dẫn dắt tôi theo lối đó, rằng toàn bộ ý tưởng của tôi về bản thân mình có giá trị có thể đề cập theo cách một người đàn bà đáp ứng lại cho tôi. Nhưng đó chính là như thế. Toàn bộ sự tự đánh giá của tôi đều đến từ người tình của Yvette, từ chỗ phục vụ và làm nàng thích thú theo cách cơ thể mà tôi có thể làm.
    Đó là niềm kiêu hãnh của tôi. Đó cũng là niềm hổ thẹn của tôi khi phải tự giới hạn tính đàn ông của mình trở nên nhỏ bé như thế. Có những lúc, đặc biệt trong những thời khắc chậm chạp ở cửa hiệu, khi tôi ngồi ở bàn (những bức ảnh của Yvetrte trong ngăn kéo) và tự thấy mình đang đau buồn. Đau buồn, trong sự thoả mãn về cơ thể có thể còn hơn cả là đầy đủ! Có một lúc khi tôi không thể nghĩ điều đó là có thể.
    Và thật nhiều điều đến với tôi qua Yvette. Tôi đã biết được rất nhiều điều mới mẻ. Tôi đã mất đi cách thức của một thương gia ngoại quốc không xuất hiện quá nhiều để bị để ý, thậm chí tự làm mình mờ đi. Tôi đã được cung cấp rằng nhiều hiểu biết về lịch sử, quyền lực chính trị, những châu lục khác. Nhưng với toàn bộ hiểu biết mới, thế giới của tôi lại chật hẹp hơn trước. Trong những sự kiện bao quanh tôi – như việc xuất bản quyển sách của Tổng thống , và cuộc diễu sách – tôi chỉ lo liệu cuộc sống của tôi với Yvette có bị đe doạ hay sẽ được tiếp tục. Và thế giới của tôi càng trở nên chật hẹp thêm bao nhiêu tôi càng sống trong đó một cách mù quáng hơn.
    Ngay cả như vậy, tôi vẫn bị sốc khi nghe tin Noimon đã bán hết mọi thứ và rời đi Úc. Noimon là khách hàng lớn nhất của chúng tôi, một người Hy Lạp có chân trong mọi phi vụ. Ông đã đến vùng đất này khi còn là một người trẻ tuổi, sau chiến tranh làm việc cho một đồn điền cà phê Hy Lạp sâu trong vùng cây bụi. Dù khi đến ông chỉ nói tiếng Hy Lạp, ông đã triển khai công việc rất nhanh, mua các đồn điền cho riêng mình rồi buôn bán đồ gỗ trongthị trấn. Độc lập dường như đã làm ông lụn bại, nhưng ông vẫn trụ được. Tại câu lạc bộ Hellenic, mà ông coi như là của bố thí của mình, và cai quản, đã tiếp tục được qua những khoảng thời gian khó khăn nhất, ông thường nói rằng đất nước này là nhà của ông.
    Trong giai đoạn bùng nổ kinh tế, Noimon đã đầu tư trở lại và lại phát triển, ông từng muốn mua Bigburger của Mahesh với giá rất cao. Ông có quan hệ chặt chẽ với các quan chức và có được những hợp đồng lớn với chính phủ (ông đã trang bị nội thất cho nhà cửa trong Khu). Và giờ đây ông đã bí mật bán hết đi cho một hãng nhà nước nào đó mới nổi tại thủ đô. Chúng tôi chỉ có thể đoán chừng giá tiền và những lời lãi bí mật của cuộc mua bán đó, báo chí ở thủ đô đưa tin đó là một sự quốc hữu hoá, có đền bù xứng đáng
    Sự ra đi của ông để lại cho chúng tôi cảm giác bị phản bội. Chúng tôi cũng cảm thấy thật điên rồ, bị liên quan. Mọi người đều có thể quyết định trong một sự kinh hoàng trong cuộc bùng nổ nó kéo theo cả những người mạnh mẽ. Và Nazruddin đã báo trước cho tôi. Tôi nhớ ông đã nói qua về sự khác biệt giữa thương gia và nhà toán học. Thương gia mua 10 và sung sướng bán được ở giá 12, nhà tóan học thấy 10 lên đến được 18, nhưng không muốn bán vì muốn nhân đôi từ 10 lên 20.
    Tôi đã làm tốt hơn thế. Cái (theo thang bậc của Nazruddin) mà tôi đã mua với giá 2 giờ đây theo năm tháng đã lên đến 20. Nhưng giờ đây, với sự ra đi của Noimon, nó đã rơi xuống 15.
    Sự ra đi của Noimon đánh dấu kết thúc cho sự bùng nổ của chúng tôi, chấm dứt lòng tin. Tất cả chúng tôi đều biết điều đó. Nhưng tại câu lạc bộ Hellenic – nơi chỉ hai đêm trước, dụi bụi trong mắt, Noimon vẫn còn nói về cách thức thực dụng thông thường của ông về việc nâng cấp bể bơi – chúng tôi đã rất hứng khởi với những điều đó.
    Tôi nghe nói rằng Noimon đã bán hết chỉ để có tiền cho con mình đi học, cũng có người nói ông đã bị vợ xúi (có tin đồn rằng Noimon có một gia đình khác, với một người vợ châu Phi). Và rồi đã bắt đầu có tin rằng Noimon hối tiếc về quyết định của mình. Đồng là đồng, cuộc bùng nổ vẫn còn tiếp tục, và trong khi Người Đàn Ông Vĩ Đại vẫn còn nắm quyền, mọi điều sẽ vẫn được tiến triển bình thường. Bên cạnh đó, dù Úc, châu Âu hay Bắc Mỹ là những nơi thật đẹp để đến thăm, cuộc sống ở đó không thể có màu hồng như nhiều người vẫn nghĩ và Noimon, sau một quãng đời sống ở châu Phi, sẽ sớm thấy cái đẹp ở đây. Chúng tôi sống thoải mái hơn trước, với những người phục vụ và những bể bơi, những tiện nghi mà ở những chỗ khác phải triệu phú mới được hưởng.
    Điều này thật vô nghĩa. Nhưng người ta vẫn phải nói, dù câu chuyện bể bơi thật là ngu ngốc, bởi vì dù có các kỹ thuật viên nước ngoài, hệ thống cung cấp nước của chúng tôi cũng đã bị hỏng. Thị trấn đã phát triển quá nhanh và quá nhiều người vẫn còn tiếp tục đến, trong những thị trấn đổ nát các ống nước khẩn cấp được sử dụng cả ngày, và giờ đây nước thiếu thốn ở mọi nơi. Một số bẻ bơi – chúng tôi không có nhiều lắm – đã cạn nước. Ở một số nơi máy lọc đã bị khoá lại – tiết kiệm hoặc vì thiếu kinh nghiệm – và những bể bơi đó bị một thứ rêu mộc màu xanh sáng với những thứ cỏ mọc nhanh bao phủ, giống như một khu rừng đầy chất độc. Nhưng những bể bơi đó vẫn tồn tại, dù tình trạng thế nào đi nữa, và mọi người vẫn có thể nói về chúng như thế bởi vì ở đây chúng tôi thích ý tưởng về bể bơi hơn là chính bản thân nó. Ngay cả khi các bể bơi hoạt động thì chúng tôi vẫn chưa học được cách thích nghi với sự xa xỉ buồn tẻ trong cuộc sống ngày qua ngày của thị trấn chúng tôi.
    Tôi nói lại với Mahesh ở câu lạc bộ Hellenic, đoán rằng anh sẽ chia sẻ thái độ với tôi hoặc ít nhất cũng sẽ thấy chuyện đó buồn cười, cũng tồi tệ như một chuyện đùa.
    Nhưng Mahesh không thấy chuyện đùa. Cả anh cũng đánh giá cao chất lượng vượt trội của cuộc sống trong thị trấn này.
    Anh nói "Tôi mừng là Noimon đã đi. Cứ để ông ta có được hương vị của cuộc sống tốt đẹp ở đây. Tôi hy vọng ông ấy sẽ hối tiếc. Shoba có vài người bạn Ismaili ở London. Họ rất khoái cuộc sống ở đó. Nhưng không phải tất cả. Họ vẫn viết cho Shoba. Anh cứ hỏi cô ấy. Cô ấy sẽ nói với ah về những người bạn ở London. Cái mà họ gọi là một cái nhà to ở đấy có thể chỉ là một chuyện cười với chúng ta ở đây. Đắt đỏ lắm. Hỏi họ sống thế nào nếu về nhà. Không ai trong số họ sống như tôi đang sống ở đây hết cả".
    Sau đó tôi nghĩ rằng từ "tôi" cuối cùng trong câu nói của Mahesh đã làm tôi bực dọc. Mahesh có thể diễn đạt tốt hơn. Từ "tôi" khiến tôi nhi1`nó đến điều đã làm Indar tức giận về bữa trưa của anh với Mahesh và Shoba. Indar đã nói "Họ không biết tôi là ai hay tôi đã làm gì. Họ thậm chí còn không biết tôi đã từng ở đâu", Anh đã nhìn thấy điều mà tôi không nhìn thấy khi đó, với tôi thật là cả một tin tức lớn khi nghe Mahesh nghĩ là anh đang sống "tốt", theo cách mà anh nói.
    Tôi chưa từng nhận thấy một sự thay đổi lớn lao nào trong cách sống của anh. Anh và Shoba vẫn sống trong căn hộ bê tông của mình với phòng khách đầy những thứ nhỏ bé. Nhưng Mahesh không đùa. Trong bộ trang phục đẹp đẽ cạnh chiếc máy pha cà phê nhập về cho cửa hàng uỷ quyền của mình, anh thực sự nghĩ rằng đó là cái gì đó, thành công và trọn vẹn, thực sự nghĩ anh đã làm ra nó và không còn chỗ nào cao hơn để đến nữa cả. Bigburger và cuộc bùng nổ - và Shoba, luôn ở đó – đã tiêu diệt toàn bộ bộ óc hài hước của anh. Và tôi thường nghĩ anh là một người sống sót bên lề!
    Nhưng tôi cũng không thể kết tội anh hay những người khác. Tôi cũng giống họ. Tôi cũng muốn sống với cái mình đang có, tôi cũng căm ghét cái ý tưởng rằng tôi bị liên quan. Tôi không thể nói, như họ, rằng mọi chuyện vẫn rất tốt. Nhưng quả thực đó là thái độ của tôi. Việc cuộc bùng nổ dã đi xuống và lòng tin đã bị lung lay với tôi đã là lý do quá tốt để không phải làm gì cả. Đó là cách tôi giải thích cho Nazruddin khi ông viết cho tôi từ Uganda.
    
    Nazruddin rất ít viết thư cho tôi. Nhưng ông vẫn thu thập kinh nghiệm, trí óc ông vẫn hoạt động đều, và dù thư của ông làm tôi bồn chồn trước khi mở ra đọc, tôi luôn đọc chúng với sự thích thú, bởi vì bên trên tin tức cá nhân ông luôn có một cái gì đó mới mẻ mà ông định bắt tay vào.
    Chúng tôi vẫn còn rất bị sốc về chuyện Noimon nên tôi nghĩ, khi Metty mang thư đến cho tôi từ bưu điện, rằng bức thư viết về Noimon hoặc về triển vọng của thị trường đồng. Nhưng đó lại là thư về Uganda. Tại đó cũng có nhiều vấn đề.
    Mọi việc ở Uganda đều rất tệ. Nazruddin viết. Quân đội đã làm chủ, đầu tiên thì tỏ ra tử tế, nhưng giờ đây đã có những dấu hiệu rõ ràng về những cuộc biến loạn bộ lạc và sắc tộc. Và những biến loạn đó sẽ thổi tung tất cả. Uganda rất đẹp, dễ sống, không bị nghèo đói, phì nhiêu và có những truyền thống cao cấp của châu Phi. Cần phải có tương lai, nhưng vấn đề với Uganda giờ đã lớn lắm rồi. Đất nước giờ đây trở nên quá nhỏ bé cho những hằn thù giữa các bộ lạc. Những con đường xe hiện đại đã khiến đất nước trở nên quá nhỏ bé, luôn có thể có bạo loạn. Giờ đây mọi bộ lạc đều cảm thấy bị đe doạ trong lãnh thổ của chính mình hơn là những ngày khi mọi người, kể cả các thương gia từ bờ biển như cha ông chúng tôi đi bộ đến, và một cuộc phiêu lưu buôn bán đơn giản cũng có thể mất hàng năm. Châu Phi, trở lại ngày xưa với những phương tiện hiện đại, giờ lại ở tình trạng khó khăn. Tốt hơn là đọc chính những dấu hiệu chứ đừng hy vọng mọi việc có thể được giải quyết.
    Thế nên lần thứ ba trong đời Nazruddin nghĩ đến việc chuyển đi và bắt đầu lại, lần này không ở châu Phi nữa mà ở Canada. "Nhưng vận may của bác hết mất rồi. Bác thấy điều đó trong bàn tay mình".
    Bức thư, dù mang đến những tin tức không hay ho gì, vẫn được viết với phong cách trầm tĩnh xưa nay của Nazruddin. Nó không hề đưa ra lời khuyên trực tiếp và không hễ có đòi hỏi trực tiếp nào. Nhưng đó là một sự gợi lại – đặc biệt vào thời đỉêm khó khăn của ông – về món hời tôi kiếm được từ Nazruddin, bổn phận của tôi đối với gia đình ông cũng như gia đình tôi. Và cùng lúc nó củng cố ý muốn ở lại, không làm gì hết của tôi.
    Tôi trả lời theo cách tôi đã nói, vẽ ra những nét đại cương về những khó khăn mới của chúng tôi tại thị trấn. Tôi dành thời gian viết trả lời, và khi tôi thấy mình đang viết một cách say mê, dựng lên cho Nazruddin thấy chân dung của tôi như là ai đó thiếu khả năng và không giúp đỡ được gì, một trong số những "nhà tóan học" của ông. Và không gì tôi viết là đúng cả. Tôi tự gọi mình là kẻ vô dụng]. Tôi không biết nơi nào tôi có thể đến. Tôi không nghĩ – sau những điều tôi đã nhìn thấy ở Indar và những người khác trong Khu – rằng tôi có tài hoặc những kỹ năng để sống được tại một đất nước khác.
    Và cứ như thể tôi đã bị chính bức thư của mình túm lấy. Sự hoảng sợ của tôi tăng lên, cùng cảm giác tội lỗi và ý nghĩ tôi đang tự phá huỷ chính mình. Và ngoài điều đó ra, ngoài cuộc sống, tôi đang cảm thấy mình chìm xuống và càng chìm xuống tôi lại càng bị ám ảnh. Tôi bắt đầu tự vấn. Liệu tôi có bị Yvette sở hữu không? Hay là tôi – giống như Mahesh với ý tưởng mới về việc anh ta là ai – nằm trong tay tôi, người đàn ông mà tôi nghĩ là thuộc về Yvette? Để phụng sự nàng theo cách tôi làm, thật cần thiết phải nhìn nhận từ bản thân tôi. Sự thoả mãn của tôi nằm ở chính sự nghi ngờ về bản thân này, tôi nghi ngờ, sau cuộc đời nhà thổ của mình liệu tôi có còn là một người đàn ông theo cách đó với mọi người đàn bà khác. Nàng đã cho tôi niềm tin về nam tính mà tôi ngày càng cần. Sự gắn liền của tôi vào nàng chẳng phải là một sự gắn liền theo ý tưởng đó ư?
    Gắn chặt một cách lạ lùng với ý tưởng đó, ý tưởng về tôi và Yvette, là thị trấn – căn hộ, ngôi nhà ở Khu, cách thức cả hai cuộc sống mà chúng tôi sắp xếp, sự vắng mặt của một cộng đồng, sự tách biệt mà chúng tôi sống. Không chỗ nào khác có thể giống hệt ở đây, và có lẽ không chỗ nào khác quan hệ chúng tôi lại có thể diễn ra như ở đây. Vấn đề tiếp tục tại một nơi khác không bao giờ được đặt ra. Tôi không hề thích nghĩ đến toàn bộ những điều đó.
    Lần đầu tiên khi nàng trở lại căn hộ sau bữa tối tại nhà, tôi cảm thấy mình đã biết được chút gì đó về các nhu cầu của nàng, của một người đàn bà tham vọng đã lấy chồng từ khi còn trẻ và đến một đất nước sai lầm, tự đày đoạ mình. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình có thể đáp ứng những nhu cầu đó. Tôi ngày càng chấp nhận, và bị phấn khích với ý tưởng rằng tôi là một đều rắc rối đã trở thành một thói quen. Có thể nàng cũng nghĩ về tôi như thế. Nhưng tôi không có cách nào kiểm chứng điều đó và cũng không thật sự muốn lắm. Sự cô độc khiến tôi bị ám ảnh đã trở thành điều gì đó mà tôi thấy là cần thiết.
    Trong thời gian đó mọi việc vẫn tiến triển, và hai chúng tôi đều quay trở lại với cuộc sống đứt đoạn của mỗi người. Không có thảm kịch nào. Tính tất yếu của sự kết thúc – ngay cả khi cuộc bùng nổ kinh tế đã chấm dứt và 15 điểm của tôi rớt xuống 14, khi Nazruddin và gia đình ông thử đi lập nghiệp ở Canada – là sự an toàn của tôi.
    Khá đột ngột, Shoba rời chúng tôi để đi thăm gia đình cô ở phía đông. Bố cô mất. Cô đến dự lễ hoả táng.
    Tôi rất ngạc nhiên khi nghe Mahesh kể điều đó. Không phải về cái chết, mà vì việc Shoba có thể quay trở lại gia đình mình. Tôi hoàn toàn không thể tin được điều này. Shoba đã tự cho mình là kẻ chạy trốn, là người đã chống lại lễ giáo của cộng đồng mình khi lấy Mahesh, và đã sống tại nơi xa xôi để trốn tránh sự trả thù của gia đình mình.
    Khi lần đầu tiên cô kể câu chuyện đó cho tôi – vào bữa trưa một ngày yên lặng, chậm rãi trong cuộc nổi loạn – cô đã nói rằng cô phải cẩn thận với người lạ. Gia đình cô rất có thể thuê ai đó, thuộc dòng giống bất kỳ, làm điều mà họ đã đe doạ, làm biến dạng dung nhan cô, hoặc giết Mahesh. Axit trên khuôn mặt một người phụ nữ, giết một người đàn ông – họ là một gia đình kiểu mẫu trong những chuyện như thế này và Shoba rất chỉnh chu theo nhiều cách, không quá khó chịu cho tôi biết rằng cô đã bị đe doạ. Thường thì những mối đe doạ đó không có nghĩa lý gì, và chỉ để làm thoả mãn một tập tục, nhưng đôi khi chúng co thể được thực thi chính xác đến từng chữ. Dù sao, thời gian cũng đã trôi qua, và Shoba dường như cũng đã quên đi một số chi tiết về câu chuyện đầu tiên của mình, tôi không còn tin vào tấn thảm kịch về một người lạ mặt giết thuê đó nữa. Nhưng tôi vẫn tin rằng Shoba bị gia đình đuổi đi.
    Tôi vẫn luôn có ý thức về tấm gương của Shoba, và đám tang của bố cô giúp tôi phát hiện cô vẫn còn những mối dây liên lệ với gia đình. Mahesh cũng cư xử như một người con rể đang đau buồn. Điều này có thể là cách của anh dựng lên một tấn kịch thảm thiết bên ngoài công việc để có được những đơn đặt hàng đắt tiền cà phê và bia và Bigburger (giá cả vào những ngày đó!) với một dáng vẻ dịu dàng và buồn bã. Nhẽ ra tôi cũng theo cách của ah để tỏ ra thông cảm với Shoba. Nhưng quả thật làm như thế hơi giống cách cư xử của một người đàn ông cảm thấy cuối cùng cũng kiếm được chỗ của mình. Thế đấy!
    Nhưng rồi câu chuyện đùa bắt đầu trở nên tồi tệ. Shoba đi tận hai tháng. Cô trở về sau đó ba tuần, và lần này có vẻ như là đi trốn. Tôi không nhận được lời mời ăn trưa nào, những bữa ăn đó – gần như giờ đã trở thành truyền thống – cuối cùng cũng đã chấm dứt. Cô ghét tình hình chính trị ở phía đông, Mahesh nói. Cô không bao giờ thích người châu Phi và đã trở về, tức tối vì nạn trộm cắp và những nhà chính trị ăn của đút lót, những lời dối trá liên tiếp và thù địch trên radio và trên báo chí, trò giật túi ngay giữa thanh thiên bạch nhật, sự bạo hành vào ban đêm. Cô hoảng sợ về một khía cạnh của gia đình mình, với nó cô đã lớn lên và luôn nghĩ là vững chắc và an toàn. Toàn bộ những cái đó, xen lẫn với sự lo lắng của cô dành cho người cha, đã làm cô trở nên lạ lùng. Tốt hơn và để thời gian trôi đi, Mahesh giải thích như vậy.
    Nhưng như thể vẫn chưa hẳn là giải thích. Chắc hẳn còn có cái gì đó hơn là nỗi tức giận về chính trị và sắc tộc và sự lo lắng cho người cha mà cô từng xấu hổ. Liệu có thể có một cách nhìn mới nào đó về người đàn ông cô đã lựa chọn và sống với anh ta? Một tiếc nuối nào đó về cuộc sống gia đình giờ đây cô đã bỏ phí, một mối lo lớn hơn với những điều cô đã phản bội?
    Vẻ đau buồn mà Mahesh, khi không có mặt Shoba, sẵn sàng để khoác vào người là một nỗi buồn sâu sắc và có thật sau khi Shoba trở về, và rồi nỗi buồn đó biến thành nỗi tức tối nóng giận. Anh bắt đầu để lộ tuổi tác. Niềm tin, điều đã làm tôi điên tiết, rời khỏi anh. Tôi lo vì điều đó, lo rằng anh có thể hưởng nó trong thời gian quá ngắn ngủi. Và anh, người đã nói thẳng thắn thế về Noimon, và đã nói tự hào đến thế về cách anh sống ở đây, giờ lại nói "Buồn cười thật Salim ạ. Tất cả lại trở nên hài hước rồi".
    Không còn có thể ăn trưa với họ hoặc tới thăm căn hộ của họ, tôi đành đến Bigburger vài buổi tối để nói vài lời với Mahesh. Một tối tôi gặp Shoba ở đó.
    Cô đang ngồi ở quầy tính tiền, dựa lưng vào tường, và Mahesh ngồi trên một cái ghế gần cô. Họ giống như những khách hàng.
    Tôi chào Shoba, nhưng cô không hề tỏ ra nồng nhiệt. dường như tôi là một người lạ hoặc ai đó cô chỉ biết sơ sơ. Và thậm chí khi tôi ngồi xuống bên cạnh Mahesh cô vẫn tiếp tục tỏ ra xa cách. Cô làm ra vẻ không nhìn thấy tôi. Và Mahesh thì vờ như không nhận thấy điều gì hết. Hay là cô đang trách cứ tôi vì những điều mà cô đang tự kết án trong lòng mình?
    Tôi biết họ từ lâu lắm rồi. Đó là một phần cuộc đời tôi, dù sao tình cảm của tôi với họ cũng giảm sút rồi. Tôi có thể thấy được sự chật chội và nỗi đau và cái gì đó ốm yếu trong đôi mắt Shoba. Tôi cũng có thể thấy cô đang đóng kịch một chút. Dù vậy tôi vẫn bị tổn thương. Và khi tôi đi – không hề có tiếng kêu "ở lại đi!" từ một trong hai người – tôi cảm thấy rã rời và hơi thất vọng. Và mọi chi tiết thân thuộc của cuộc sống ngoài đường buổi đêm – những đám lửa nướng in lên những gương mặt kiệt sức của những người ngồi quanh, những nhóm người trong những bóng tối dưới thềm các cửa hiệu, những người ngủ và những người bao quanh, sự mê hồn rách rưới lạc lối, những ánh đèn của một quầy bar chiếu ra một lối vào bằng gỗ - mọi thứ đều đã mang một ý nghĩa khác.
   

Trong căn hộ có một chiếc radio. Nó thường được bật rất to, và khi đi lên cầu thang lộ thiên tôi có cảm giác Metty dang nghe bình luận trận bóng đá từ thủ đô. Một giọng chói tai đang vang lên, và có tiếng đám đông rống lên. Cửa phòng Metty không đóng, nó đang mặc đồ ở nhà và ngồi ở mép giường. Ánh sáng từ ngọn đèn treo ở giữa phòng màu vàng và tối, radio đang nói oang oang.
    Nhìn lên thấy tôi, rồi lại nhìn xuống, rất tập trung, Metty nói "Tổng thống ".
    Thật rõ ràng, giờ đây tôi đã bắt đầu nghe được các từ. Điều này giải thích vì sao Metty cảm thấy không cần giảm âm lượng của radio xuống. Một bài diễn văn, tôi đã quên mất.
    Tổng thống nói bằng tiếng châu Phi mà hầu hết người dân ở dọc dòng sông hiểu được. Một thời ông phát biểu bằng tiếng Pháp. Nhưng trong bài diễn văn này chỉ có một vài từ tiếng Pháp là citoyen và citoyenne, và chúng được dùng đi dùng lại, để tạo nhạc tính, giờ đây đang biến thành những câu gợn sóng, giờ đây đang tách biệt, mỗi âm tiết đều để tạo hiệu ứng của một tiếng trống trang trọng.
    Thứ tiếng châu Phi mà Tổng thống đã lựa chọn cho các bài phát biểu của mình là một thứ ngôn ngữ hoà trộn và đơn giản, và ông đã đơn giản hóa nó hơn nữa, biến nó thành ngôn ngữ của quầy rượu và cuộc cãi nhau trên phố, tự biến đổi mình, trong khi nói, người đàn ông làm mọi người bối rối và bắt chước nhãn hiệu sự cao đẳng và ân điển của de Gaulle thành hạ đẳng nhất trong những cái hạ đẳng. Và đó là chỗ hấp dẫn của thứ ngôn ngữ châu Phi mà Tổng thống sử dụng. Các sử dụng vương giả và đầy chật nhạc, thứ ngôn ngữ thấp kém nhất và những câu nói thô nhất là cái đã làm Metty say mê.
    Metty say sưa nghe. Đôi mắt nó, dưới những đốm sáng vàng vọt của cái trán, cố định, nhíu lại, đầy chăm chú. Môi nó mím lại và trong sự tập trung nó vẫn tiếp tục mím. Khi nghe thấy những câu nói thô tục dân dã, hoà với tiếng đám đông gào lên, Metty mỉm cười.
    Bài diễn văn, cho đến lúc này, vẫn giống với rất nhiều bài diễn văn khác mà Tổng thống đã đọc. Chủ đề không có gì mới: hy sinh và tương lai sáng sủa, nhân phẩm phụ nữ châu Phi, sự cần thiết phải củng cố, dù với những người da đen đó tại các thị trấn mơ đến việc một ngày được bước đi như những người da trắng, nhu cầu của những người châu Phi ở châu Phi, quay trở lại nỗi xấu hổ vbz cách thức dân chủ và xã hội, và phát hiện lại những yếu tố đẹp của sự ăn kiêng và những thứ thuốc men của ông cha và không chạy theo như trẻ con những thứ đồ chai lon nhập khẩu, yêu cầu cảnh giác, làm việc, và trên hết, kỷ luật.
    Đó là tại sao, trong khi xuất hiện chỉ để thiết lập lại kỷ luật, Tổng thống lại có thể cũng nhận ra và lố bịch hóa sự phê phán của mình, dù đó là sự thờ cúng đức mẹ đồng trinh hay sự thiếu lương thực thuốc men. Ông luôn tỏ ra phê phán, và ông thường đẩy cao nó lên. Ông có thể tỏ ra là mình biết mọi thứ. Ông có thể tỏ ra mọi thứ đang diễn ra ở đất nước, tốt xấu hay tầm thường, đều là một phần trong kế hoạch lớn hơn của ông.
    Người dân thích nghe những bài diễn văn của Tổng thống vì nó rất gần gũi, giống như Metty lúc này, họ chờ đợi những lời nói đùa quen thuộc. Nhưng mọi bài phát biểu cũng là một lần diễn trò, với những đạo cụ sân khấu và mỗi bài diễn văn có một mục đích. Bài diễn văn này có chủ đề liên quan đến thị trấn và vùng của chúng tôi. Đó là điều Tổng thống đã nói, và đã trở thành một trong số và đã trở thành một trong số những đạo cụ của phần sau bài diễn văn, ông liên tục ngắt lời để nói rằng ông có điều gì đó để nói với người dân thị trấn và vùng của chúng tôi, nhưng chúng tôi còn phải chờ đợi. Đám đông ở thủ đô luôn coi đạo cụ là đạo cụ, phần mới của phong cách, bắt đầu gào lên khi nghe nhắc đến chúng
    Ở vùng chúng tôi thích bia của chúng tôi. Tổng thống nói. Ông còn thích hơn, ông có thể chuốc say bất kỳ ai trong số chúng tôi vào một ngày nào đó. Nhưng chúng tôi không được đi đái sớm quá, ông cần phải nói với chúng tôi điều đó. Và rõ ràng rằng lời phát biểu của Tổng thống đang hướng tới đội Vệ binh trẻ. Cách đây hai hôm hoặc hơn, chúng tôi đã chờ đợi lời phát biểu này, cách đây hai hôm ông đã giữ mọi chuyện trong sự mù mờ.
    Đội Vệ binh trẻ không bao giờ lấy lại được uy tín của mình sau thất bại của chuyến diễu hàng với quyển sách. Các cuộc diễu hành của con cái họ vào chiều thứ bảy đã chẳng ra sao, và các quan chức đã thấy rằng không có cách nào để bắt buộc trẻ con phải tham gia. Họ đã tiếp tục với Đội tuần tra đạo đức. Nhưng các đám đông buổi đêm giờ đây đã trở nên thù địch hơn, một sĩ quan của đội Vệ binh trẻ đã bị giết vào ban đêm.
    Bắt đầu một cuộc cãi nhau với một số người ngủ trên hè đường đã chặn một đoạn vỉa hè theo cách bán thường trực với những khối bê tông dỡ từ một toà nhà. Và điều này có thể chỉ kết thúc bằng một màn la hét. Nhưng người sĩ quan đã bị đâm và đã ngã xuống. Sự ngã xuống đó, vẻ bất lực tạm thời đó làm rúng động những khối bê tông, và dấu máu khi đó đã khuyến khích một hành động bất thần, đầy kích động của kẻ giết người, khoảng năm sáu tên có thân hình bé nhỏ.
    Không ai bị bắt. Cảnh sát sốt ruột, đội Vệ binh trẻ sốt ruột, người dân trên các phố không sốt ruột. Vài ngày sau đó quân đội được gửi đến giữ trật tự tại một số thị trấn nghèo đói. Việc này đã gây ra một cuộc tản cư nhỏ về các làng, các thuyền độc mộc bận suốt. Nhưng chẳng có gì xảy ra hết cả. Mọi người đều chờ đợi Tổng thống sẽ làm gì. Nhưng hai ngày đã qua mà Tổng thống chẳng nói mà cũng chẳng làm gì hết cả.
    Và điều Tổng thống nói giờ đây thật là chậm trễ. Đội Vệ binh trẻ vùng chúng tôi đã rã đám. Họ đã quên trách nhiệm của mình với người dân và đã mất lòng tin vào ông, Tổng thống , họ nói quá nhiều. Các sĩ quan không có tiền lương, họ không cần công việc chính thức nào cả, họ có thể bị đuổi khỏi thị trấn và gửi trả về vùng cây bụi để làm công việc xây dựng tại đó. Tại vùng cây buị họ có thể học được sự khôn ngoan của khỉ.
    "Citoyens – citoyennes, con khỉ thông minh. Khỉ thông minh như cứt. Khỉ có thể nói. Các bạn không biết điều đó à? Tốt, tôi sẽ nói cho các bạn bây giờ đây. Khỉ có thể nói, nhưng nó giữ im lặng. Khỉ biết rằng nếu nó nói trước mặt người, người có thể bắt nó, đánh nó và bắt nó làm việc. Bắt nó vác đồ trong trời nắng. Bắt nó chèo thuyền. Citoyens! Citoyennes! Chúng ta sẽ dậy những người đó giống như khỉ. Chúng ta sẽ gửi họ đến vùng cây bụi và để họ làm việc mòn đời ở đó".
Đó là cách của Người Đàn Ông Vĩ Đại. Ông chọn thời điểm của mình, và cái tưởng như là một thử thách đối với quyền lực của ông cuối cùng lại đóng góp thêm cho quyền lực đó. Thêm một lần nữa ông tự chứng tỏ mình là bạn của dân tộc, petit peuple, như ông vẫn thích gọi họ, và ông trừng phạt những kẻ chống đối lại.
    Nhưng Người Đàn Ông Vĩ Đại chưa từng đến thăm thị trấn chúng tôi. Có lẽ, như Raymond nói, những bản báo cáo ông nhận được không chính xác hoặc không đầy đủ. Và thời điểm đó một cái gì đó sai lầm đã diễn ra. Tất cả chúng tôi đều nghĩ đội Vệ binh trẻ là một mối đe doạ và mọi người đều sung sướng thấy họ biến đi. Nhưng chính sau khi giải tán đội Vệ binh trẻ, mọi việc ở thị trấn của chúng tôi bắt đầu trở nên tồi tệ.
    Cảnh sát và các quan chức của mình bắt đầu gây khó khăn. Họ hành hạ Metty bất cứ lúc nào nó lái xe, ngay cả khi đi rất gần, đến chỗ hải quan. Nó luôn phải ngừng xe, đôi khi bởi những người nó quen, đôi khi bởi những kẻ từng dừng xe nó lại trước đó, và giấy tờ xe bị kiểm tra, cả giấy tờ tuỳ thân của nó nữa. Đôi khi nó phải để xe lại và đi bộ về cửa hiệu để lấy giấy chứng nhận hay giấy tờ gì đó nó không mang theo. Và cũng chẳng ích gì hơn nếu nó có đủ giấy tờ.
    Một lần, không có lý do gì hết cả, nó bị đưa đến trụ sở cảnh sát, phải lăn dấu tay và – cùng với một số người mất tinh thần khác đã bị hốt đến – phải mất toi một buổi chiều với những bàn tay đen thui trong căn phòng với những chiếc ghế gỗ đen thui, sàn nhà bê tông rạn và những bức tường xanh xấu xí và chiếu sáng từ trên đầu và trên vai cọ vào họ.
    Căn phòng, mà tôi đã cứu nó ra vào cuối buổi chiều, sau này sẽ ám ảnh nó rất lâ u, nằm trong ngôi nhà nhỏ bằng bê tông cốt thép ở đằng sau toà nhà chính thời thuộc địa. Sàn nhà chỉ cách mặt đất có vài inch, cửa mở, và gà qué kiếm ăn trong cái sân trống trơn. Đơn sơ và ngập ánh sáng chiều như một căn phòng bình thường như thế, nó lại là nhà tù. Có một cái bàn và một cái ghế dành cho sĩ quan phụ trách, những cái thứ đồ nội thất đó càng khiến những người bị nhốt trong đó mất tinh thần hơn.
    Viên sĩ quan mồ hôi chảy ròng ròng trong bộ quân phục hồ quá cứng, chậm rãi viết vào quyển sổ cái, tô từng chữ một, có vẻ như đang vào sổ các chi tiết từ những mẩu giấy bẩn thỉu đầy vết vân tay. Y có một khẩu súng. Có một bức ảnh Tổng thống đang cầm cây gậy uy quyền, và trên đó, trên bức tường xanh, rất cao ở trên, nơi bề mặt tường không bằng phẳng đầy bụi bặm, có dòng khẩu hiệu Discipline Avant Tout - Kỷ luật là trên hết.
    Tôi không thích căn phòng này, và tôi nghĩ tốt hơn hết sau chuyện này không để Metty lái xe nữa, tự tôi sẽ tới chỗ nhân viên và môi giới hải quan. Nhưng rồi bọn sĩ quan cũng lại đối xử với tôi như thế.
    Họ lục lại các tờ khai hải quan cũ, những thứ đã được đóng dấu và được quy định theo mẫu từ lâu, và mang chúng đến cửa hiệu, vẫy vào mặt tôi như những tờ giấy đòi nợ đến hạn phải trả. Họ nói họ đang có áp lực từ thượng cấp và muốn làm lại vài chi tiết với tôi. Thoạt tiên họ còn rụt rè, giống như những thằng bé muốn làm cho tôi một điều tốt nào đó, rồi họ quay ra tức tối, như những quan chức bị chạm nọc. Những người khác muốn kiểm tran kho hàng của tôi xem có gian dối gì so với những lời khai trong tờ khai hải quan và hóa đơn bán hàng của tôi, những người khác nói muốn kiểm tra giá cả.
    Thật là phiền phức, và mục đích là tiền, và tiền thật nhanh, trước khi mọi chuyện thay đổi. Những người đó đã đánh hơi thấy những đổi thay sắp tới, trong sự giải tán đội Vệ binh trẻ họ đã thấy những dấu hiệu yếu ớt của Tổng thống , chứ không phải là sức mạnh. Và trong tình hình đó tôi không thể cầu viện ai được. Mọi quan chức đều sẵn sàng, để được coi trọng, đảm bảo về đạo đức của mình. Nhưng không một quan chức nào ở chức vụ đủ cao hoặc đủ an toàn để đảm bảo đạo đức một quan chức khác.
    Mọi việc trong thị trấn vẫn thế - quân đội đóng ở các doanh trại, những bức ảnh Tổng thống ở khắp nơi, tàu thuỷ từ thủ đô đến. Nhưng mọi người đã mất đi hoặc đã vứt đi ý tưởng về một quyền lực nhìn thấu mọi sự, và mọi thứ lại trở nên trôi tuột như ban đầu. Đến lần này, sau bao nhiêu năm hoà bình và hàng hoá đầy trong kho, người ta trở nên tham lam hơn.
    Điều xảy đến với tôi cũng xảy đến với những người buôn bán khác. Ngay cả Noimon, nếu ông vẫn ở lại, có thể cũng phải chiịu chung số phận. Mahesh âu sầu hơn bao giờ hết. Anh nói "Tôi vẫn thường nói: mi có thể thuê chúng, nhưng mi không thể mua được chúng". Đó là một trong những câu châm ngôn của anh, nó có nghĩa là ở đây không còn có thể có những mối quan hệ thăng bằng nữa, rằng chỉ còn có những bản hợp đồng qua ngày giữa người và người, và trong cơn khủng hoảng đó hoà bình là cái gì đó bạn có thể mua tươi sống hàng ngày. Lời khuyên của anh là chịu đựng đến cùng. Thì chúng tôi cũng chẳng thể nào làm gì khác được cả.
    Cảm giác của tôi – sự thoải mái bí mật của tôi trong khoảng thời gian này – là các quan chức đã làm rối tình hình và sự điên cuồng của họ tự họ gây ra. Cũng giống như Raymond, tôi ngày càng tin vào sự khôn ngoan trong quyền lực của Tổng thống , và luôn tin ông có thể làm gì đó để đảm bảo quyền lực của mình. Vì vậy tôi nói dối quanh co và không chịu trả tiền, vì nếu trả lần đầu tôi sẽ tiếp tục phải trả mãi.
    Nhưng sự kiên nhẫn của những tên quan chức đó lớn hơn của tôi. Không có gì quá lời khi nói rằng không ngày nào không có một viên quan chức nào đó rờ đến tôi. Tôi bắt đầu chờ họ gọi. Điều này khiến thần kinh của tôi trở nên căng thẳng. Đến giữa buổi chiều mà vẫn chưa có ai gọi tới là tôi thấy mình mồ hôi đầm đìa. Tôi ngày càng căm ghét và sợ hãi, những khuôn mặt cười cười malin gí sát vào mặt tôi trong một sự thân tình và cứu giúp giả dối.
    Và rồi áp lực giảm dần. Không phải vì Tổng thống đã hành động gì đó, như tôi từng hy vọng. Nhưng bởi vì bạo lực đã đến thị trấn của chúng tôi. Không là những vụ đánh lộn và giết nhau như kịch trên hè phố mỗi tối nữa, mà là cuộc tấn công định kỳ, hàng đêm vào nhiều khu vực khác nhau tại các trụ sở cảnh sát và bản thân các cảnh sát cùng các quan chức và thợ xây.
    Nhưng không nghi ngờ gì nữa, chính các quan chức đã thấy trước được sự việc sẽ đến, trong khi tôi thì không. Chính vì lẽ đó họ đã ra sức vơ vét đến mức có thể. Một đêm bức tượng đức mẹ đồng trinh châu Phi và đứa con ở Khu bị giật đổ khỏi cái bệ của nó và bị phá tan tành, như là ngày trước những bức tượng thời thuộc địa. Từng bị nghiền nát, và tòa nhà bên ngoài cầu tầu cũng vậy. Sau đó các quan chức bắt đầu biến đi đâu hết. Họ thôi không tới quấy rầy cửa hiệu nữa, họ còn quá nhiều việc khác để làm. Và dù tôi không thể nói liệu mọi việc có trở nên tốt đẹp hơn không thì bạo lực vẫn tới, với tôi cũng như mọi người tôi gặp trên phố và các quảng trường, thật lạ, hầu hết chúng tôi lại cảm thấy vui mừng, giống như khi ngắm nhìn một ngọn lửa lớn hoặc một cơn bão.
    Tại cái thị trấn đang lớn bổng, đông chật người, không có luật lệ của chúng tôi, đã có một số cuộc bạo loạn. Đó là những cuộc quấy rối liên quan đến nước sạch, và trong nhiều trường hợp tại các thị trấn nghèo đói đã từng có những bạo loạn khi ai đó bị xe chẹt chết. Trong điều hiện đang diễn ra vẫn còn cái nhân tố c sự điên cuồng của mọi người, nhưng cũng rõ ràng rằng chúng có tổ chức hơn, hoặc ít nhất nó cũng có một kỷ luật nghiêm hơn. Vài lời dự báo, hình như vậy, đã được tung ra quanh các khu cité và các thị trấn nghèo đói và đã tìm được sự khẳng định torng suy nghĩ của rất nhiều người. Chính vì thế các quan chức đã rời đi.
    Một buổi sáng, khi mang cà phê đến cho tôi, Metty, trông rất nghiêm trang, đưa cho tôi một mẩu giấy, được gấp lại kỹ càng, bẩn thỉu dọc theo đường viền bên ngoài. Đó là tờ truyền đơn với tiêu đề "Tổ tông gào thét" được xuất bản bởi một tổ chức nào đó có tên là Đội Quân Tự Do.
     "Tổ tông gào thét". Quá nhiều vị thần giả dối đã đáp xuống mảnh đất này, nhưng không vị nào lại giả dối bằng các vị thần ngày nay. Việc thờ phụng người phụ nữ châu Phi đã làm mờ đi hình ảnh người mẹ thật sự của chúng ta, và kể từ chiến tranh là hoạt động chính trị mở rộng, chúng ta quyết định đôi mặt với Kẻ Thù bằng đụng độ vũ trang. Tuy nhiên tất cả chúng ta đều đã chết vĩnh viễn. Các bậc Tổ tông đang gào thét. Nếu chúng ta không điếc chúng ta sẽ nghe thấy họ. Chúng ta gọi những thế lực đế quốc, các công ty đa quốc gia và những chính phủ bù nhìn là Kẻ Thù, là những đức chúa giả dối, những kẻ tư bản, những kẻ giáo sĩ và giáo viên đã đưa ra cách diễn giải giả dối. Luật pháp khuyến khích tội ác. Các trường học rao giảng sự ngu dốt và mọi người thực thi sự ngu dốt hơn là yêu thích văn hoá thực sự của mình. Lính tráng và cảnh vệ của chúng ta được cung cấp những ham muốn giả dối và giờ đây ở mọi nơi những người nước ngoài coi chúng ta là những tên trộm. Chúng ta đang mơ hồ về chính mình và đang dẫn mình đi lạc lối. Chúng ta đang bước gần đến cái chết. Chúng ta đã quên mất Những Đạo Luật Sự Thật. Chúng ta – Đội Quân Tự Do, không hề được giáo dục. Chúng ta không in sách và phát biểu. Chúng ta chỉ biết Chân Lý, và chúng ta coi mảnh đất này là mảnh đất của những người mà tổ tông của họ đang phản đối. Dân Tộc Chúng Ta phải hiểu được sự thách thức. Họ phải học cách chết với chúng ta.
    Metty nói nó không biết tờ truyền đơn này từ đâu đến. Ai đó đã nhét vào nó người đêm hôm trước. Tôi nghĩ nó biết nhiều hơn thế, nhưng không bắt nó nói.
    Chúng tôi không có nhiều máy in trong thị trấn, và tôi thấy ngay là tờ truyền đơn – được in rất tồi, chữ gãy và lẫn lộn vào nhau – đến từ hiệu in được sử dụng để in tờ báo tuần của đội Vệ binh trẻ. Tờ báo đó, khi còn tồn tại, đã từng là tờ báo địa phương duy nhất ở đây, và là một tờ báo không có ý nghĩa gì – cũng giống như những tờ báo tường của trường học, với những mẩu quảng cáo vớ vẩn của các thương gia, người buôn bán và thậm chí cả những người bán các sạp hàng ở chợ, và một ít gọi là tin tức (đúng ho_nó là những lời hăm doạ gửi chung tới cho mọi người) về những kẻ không chịu theo các quy định đi lại hoặc sự dụng xe cộ của chính phủ như là taxi ban đêm hoặc ngủ ở chỗ không được phép.
    Còn lạ hơn thế nữa. Các sĩ quan của đội Vệ binh trẻ, khi còn phục vụ Tổng thống , đã từng rất căm ghét những người họ dẫn tới cảnh sát. Giờ đây, bị làm nhục bởi Tổng thống trong bài phát biểu "con khỉ" đó, bị tước mất quyền lực và việc làm, họ hiện ra trước mọi người như là những người bị hắt hủi đau khổ của vùng, như là những người bảo vệ mọi người trong vùng. Và mọi người hưởng ứng.
    
    Điều này cũng giống như khoảng thời gian trước cuộc nổi loạn. Nhưng hồi đó không hề có những tờ truyền đơn, không có những lãnh tụ trẻ và có giáo dục đến thế. Và con một cái gì đó khác nữa. Vào thời cuộc nổi loạn thị trấn mới chỉ đang bắt đầu được tái thiết, và những biến lọan đầu tiên bắt đầu từ khá xa, tại các ngôi làng. Giờ đây mọi thứ đều diễn ra trong bạo lực, và đầu tiên dường như chỉ hướng tới các quan chức thì giờ đây đã ngày càng trở nên thông thường hơn. Các quầy hàng và cửa hiệu châu Phi bị tấn công và cướp bóc. Người ta bắt đầu bị giết bằng những cách thức thật rùng rợn bởi những kẻ gây bạo loạn và cảnh sát và các quan chức tại các thị trấn nghèo khổ
    Thoạt tiên là người châu Phi và các vùng lân cận, tiếp đó là những người nước ngoài và vùng trung tâm – tôi quan sát thấy tiến trình đó ở đây. Nghĩa là, vừa mới thoát được kiểu tấn công của các quan chức mà tôi không thể kêu đâu được, lại một lần nữa tôi phải nghĩ mình đang trơ trọi, không có gì che chắn. Tôi mang nỗi sợ hãi này theo mình trên những đường phố quen thuộc, cái cảm giác mà giờ đây tôi thấy bị tổn thương một cách cụ thể. Đường phố bao giờ cũng nguy hiểm. Nhưng không phải với tôi. Với tư cách một người đứng ngoài, cho đến giờ tôi luôn tách biệt với bạo lực mà tôi chứng kiến.
    Sự loạn lạc có quy mô thật lợ Nó cắt đứt mọi thứ, và lần đầu tiên tôi nghĩ đến một cuộc tranh đấu. nếu đã từng có một ngôi nhà an toàn chờ tôi về, ở khá xa thị trấn nơi có thể để tôi vào, tôi tin rằng lần này mình đã bị bỏ rơi. Đã từng có một căn nhà, đã từng có nhiều căn nhà như thế. Nhưng giờ đây không còn ngôi nhà nào như thế nữa. Tin tức từ Nazruddin đứt đoạn. Năm đầu tiên của gia đình ông ở Canada bắt đầu rất tệ, ông lại lần nữa hốt cả gia đình đi và lần này thì sang Anh. Thế giới bên ngoài không còn cung cấp chỗ trú ngụ nữa, với tôi nó vẫn là một cái gì đó to lớn không được biết đến, và ngày càng đáng sợ. Điều tôi từng một lần viết một cách giả dối cho Nazruddin giờ đã thành sự thật. Tôi không còn vị thế để hành động nữa. Tôi phải ở lại chỗ mình đang ở.
    Và, quên mất các mục đích, tôi tiếp tục sống cuộc đời của mình, tôi đã học được điều đó nhiều năm trước từ Mahesh. Và sự việc ngày càng đi sâu hơn, trong những mối quan hệ của tôi với mọi người mà tôi biết, mà tôi đã quên không nghiên cứu khuôn mặt nữa, đã quên đi nỗi sợ hãi của mình. Theo cách này nỗi sợ, cảm giác mà ai cũng có thể thấy và đến vào bất kỳ lúc nào, trở thành nền tảng, một điều kiện của cuộc sống, là cái gì đó bạn buộc phải chấp nhận. Và tôi gần như bình thản với điều mà một người Đức từ thủ đô đến, một người trạc sáu mươi tuổi, nói với tôi một chiều tại câu lạc bộ Hellenic.
    Ông ta nói "Trong tình hình này, anh không thể suốt ngày sợ hãi như thế. Điều gì đó có thể xảy ra, nhưng anh phải nghĩ nó như là một tai nạn vớ vẩn. Điều gì đó bên ngoài tầm kiểm sóat của anh, điều có thể xảy ra ở bất cứ đâu".
    Thời gian trôi đi. Không một tiếng nổ nào vang tới, không một động lực nào như tôi đã chờ đợi lúc đầu. Những tiếng súng đã không nổ ở trung tâm, những ý nghĩa của cuộc nổi loạn đã bị giới hạn. Các cuộc tấn công và giết chóc giảm dần, cảnh sát bắt đầu truy bắt, dường như đã có một sự cân bằng nào đó. Hai hoặc ba người bị giết mỗi tối. Nhưng, thật lạ, tất cả dường như diễn ra ở xa lắm. Sự uể oải to lớn và không thể kiểm soát của thị trấn đã bóp nghẹt toàn bộ và chỉ để lộ ra những sự kiện quái đản nhất, mọi người trên đường phố và quảng trường đã không còn chờ đợi tin tức nữa. Tin tức, trên thực tế rất hiếm. Tổng thống không tuyên bố gì, và đài hoặc báo chí từ thủ đô cũng không đưa thêm tin tức gì cả.
    Tại trung tâm thị trấn của chúng tôi cuộc sống lại tiếp tục như trước. Thương gia đến từ thủ đô bằng máy bay hoặc tàu thuỷ và lại đến ở chỗ Van der Weyden, đến ăn ở những quán ăn nổi tiếng nhất, giải trí ở những hộp đêm nổi tiếng nhất và không hỏi han gì, có thể họ chẳng hề hay biết thị trấn vừa trải qua một trạng thái nổi loạn, rằng cuộc nổi loạn có những kẻ cầm đầu và – dù tên họ chỉ được biết đến trong số chúng tôi – những người tuẫn đạo của nó.
    
    Có lúc nào đó, Raymond từng có vẻ một người sợ hãi. Vào một thời điểm nào đó dường như ông đã quyết định mình không thể tiếp tục được gọi về làm sủng thần của Tổng thống nữa, và ông đã thôi không chờ đợi nữa, không còn tìm cách đọc các dấu hiệu nữa. Tại bữa tối ở nhà ông không còn phân tích hay giải thích các sự kiện, ông không còn cố lắp ghép mọi thứ vào với nhau nữa.
    Ông nói về lịch sử hoặc về Theodor Mommsen. Tôi không biết ông đang nghiên cứu gì, và Yvette cũng không biết, nàng cũng không quan tâm mấy. Một lúc nào đó tôi đã có cảm giác là ông đang đọc những thứ cũ kỹ ông từng viết. Ông nhắc đến một cuốn nhật ký ông viết khi lần đầu tiên đến vùng này. Ông đã quên mất nhiều thứ quá, ông nói, quá nhiều thứ quá u buồn để quên đi . Chúng thường xuyên là một trong những chủ đề tại bàn ăn, dường như ông nhận ra điều đó và bỏ lửng. Sau đó ông nói "Thật lạ khi đọc những dòng nhật ký đó. Hồi ấy bạn thường tự cào da để xem mình có bị chảy máu không".
    Cuộc nổi loạn làm ông thêm rối trí, và sau khi bức tượng đức mẹ ở Khu bị phá nát ông trở nên rất nóng nảy. Không còn bộ quần áo của Tổng thống hiện ra để hỗ trợ người của ông bị tấn công, ông định cho họ nghỉ việc. Và giờ đây Raymond sống trong nỗi sợ bị cắt chức. Đó là điều đã rơi xuống đầu ông – công việc, chỗ ở, lương thực của ông, sự an toàn đơn giản nhất. Ông là một phế nhân, và ngôi nhà trong Khu giống như nhà của thần chết.
    Sự mất mát cũng thuộc về phía tôi. Ngôi nhà này rất quan trọng với tôi, như giờ đây tôi đã thấy, ngôi nhà phụ thuộc rất nhiều vào sức lực và sự lạc quan của cả hai người đang sống ở đó. Một Raymond phế nhân không nghĩ gì về những buổi tối của tôi ở đó. Những buổi tối tại ngôi nhà đó là một phân trong mối quan hệ của tôi với Yvette, chúng không thể giản đơn bị chuyển đến một địa điểm khác. Điều này có thể có nghĩa là một bài thơ điền viên, một kiểu thị trấn khác, một kiểu quan hệ khác, không giống như cái mà tôi đã từng có.
    Cuộc sống của tôi với Yvetten phụ thuộc vào sức lực và sự lạc quan của cả ba người chúng tôi. Tôi lo sợ với phát hiện này. Tôi đã phát hiện nó lần đầu tiên khi đang ở dưới áp lực của các viên quan chức. Tôi muốn giấu nàng điều này. Tôi cảm thấy mình có thể đến với nàng, và được ở với nàng theo cách tôi muốn, mạnh mẽ, như tôi vẫn thường đến với nàng. Tôi không thể để nàng thấy tôi là người bị những người khác giằng xé và làm suy yếu. Nàng có lý do của mình để trở nên nóng nảy, tôi biết điều đó, và tôi không thể chịu được ý nghĩ về sự mất mát sẽ tới cùng với tiện nghi.
    Đó là lần đầu tiên – như thể chúng tôi hiểu nhau – chúng tôi bắt đầu giãn cách những cuộc gặp. Những ngày đầu không có Yvette, những ngày đầu sống trong sự cô độc, nỗi phấn khích nhỏ bé và viễn cảnh rõ ràng là thật nặng nề. Tôi thậm chí có thể giả vờ mình là một người tự do và do đó có thể sống mà không có nàng.
    Rồi nàng có thể sẽ gọi điện. Việc nhận ra rằng tôi vẫn còn cần thiết cũng đã là một sự thoả mãn, và có thể được biến đổi, trong khi tôi chờ đợi nàng ở căn hộ, thành sự tức tối và tự chán ghét, nó có thể tiếp tục tiến đến thẳng cái khoảnh khắc khi, sau khi đã đi qua cầu thang bên ngoài, nàng đến phòng khách, mọi sự tức tối của Raymond và những ngày đã qua biểu hiện rõ trên khuôn mặt nàng. Rồi rất sớm sủa, trong tâm trí của tôi, những ngày giãn cách có thể đã biến đi, thời gian có thể lùi xa. Giờ đây về mặt thể xác mà nói tôi biết nàng rất rõ, bất cứ cuộc gặp nào cũng có thể là cuối cùng.
    Nhưng ý tưởng về tính liên tục đó, tuy vẫn ngự trị ở những thời điểm thân tình, chặt chẽ này, chỉ là một ảo tưởng, tôi biết vậy. Có những giờ và những ngày ở nhà nàng, với Raymond, đó là sự riêng tư rất riêng của ông, và sự tìm kiếm riêng của nàng. Càng ngày nàng càng có ít tin tức đi. Có những sự kiện giờ đây chúng tôi không còn chia sẻ cho nhau, và càng có ít hơn những điều có thể nói với tôi mà không phải giải thích.
    Giờ đây nàng gọi điện thoại cho tôi khoảng mười ngày một lần. Mười ngày giống như là cái ngưỡng mà nàng không thể vượt qua. Một trong những ngày đó – khi chiếc giường cỏ to đã được duỗi thẳng, nàng trang điểm lại khuôn mặt và nhìn vào những phần của cơ thể trong tấm gương để bàn, trước khi quay trở về Khu – tôi đã nghĩ rằng có cái gì đó thật tệ trong quan hệ của chúng tôi. Dường như tôi là người cha, người chồng tốt, hoặc thậm chí như người bạn của một người phụ nữ, nhìn nàng đang chuẩn bị đến cuộc hẹn với tình nhân.
    Ý nghĩ như vậy giống như một giấc mơ khủng khiếp, cố định một nỗi sợ mà chúng ta không muốn công nhận, và có hiệu ứng của một khải lộ. Tôi cho rằng, khi nghĩ về sự gay gắt của mình và thất bại của Raymond, tôi đã bắt đầu coi Yvette cũng là một phế nhân, bị cầm tù trong thị trấn, ốm yếu như chính nàng và tài sản bị bỏ phí của cơ thể nàng như là tôi đã phát chán với bản thân vàa những lo lắng của mình. Giờ đây, nhìn Yvette đang đứng trước tấm gương bàn, nhìn nàng rực sáng hơn là tôi đã cho nàng, tôi thấy mình đã sai lầm làm sao. Những ngày trống vắng đó khi nàng ở cách xa tôi, những ngày mà tôi không thể đòi hỏi, nàng có thể làm đủ thứ chuyện. Tôi bắt đầu chờ đợi sự khẳng định. Và rồi, cuộc gặp thứ hai sau đó, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm ra
    Tôi biết nàng rất rõ. Ngay cả đến bây giờ, tôi cũng chưa bao giờ dễ dàng nhìn thẳng vào nàng. Không có cách nào khác có thể có ý nghĩa, không có cách nào khác. Cái nàng lấy đi khỏi con người tôi vẫn là điều lạ lùng. Những câu trả lời của nàng cũng là một phần của món quà tặng, và tôi đã ngày càng quen với chúng, tôi đã học được cách đánh giá chúng một cách tinh tế. Một lần tôi đã có cơ hội biết được ký ức nhạy cảm của nàng về tôi đã bắt đầu khởi động và nối hiện tại với quá khứ. Nhưng giờ đây, vào lúc tôi đang nói, những câu trả lời của nàng đầy lẫn lộn. Có gì đó đã xen vào, một thói quen mới đã bắt đầu hình thành, đã làm ảnh hưởng đến trí nhớ ngày xưa vốn rất tinh tế. Đó là điều tôi đã chờ đợi. Nó phải thế, một ngày nào đó. Nhưng thời điểm này giống như là thuốc độc vậy.
    Sau đó tới khoảng trống kinh khủng. Chiếc giường cỏ to đã được dọn dẹp lại – công việc của người nội trợ vẫn vậy, sau khi được sử dụng với biết bao đam mê. Tôi đang đứng. Nàng cũng đang đứnjg, ngăm môi mình trong gương.
    Nàng nói "Anh làm em trông khá quá này. Anh làm gì nếu không có em?" Đó là một sự lịch thiệp đạt tiêu chuẩn. Nhưng rồi nàng nói "Raymond sẽ muốn làm tình khi trông em như thế này". Và điều này rất bất bình thường, hoàn toàn không giống với nàng.
    Tôi nói "Anh làm em phấn khích à?"
    "Những người già hơn không ghê tởm như anh nghĩ đâu. Và dù sao đi nữa em cũng là đàn bà. Nếu một người đàn ông làm gì đó với em, em phải phản ứng thôi".
    nàng không muốn làm tôi bị tổn thương, nhưng nàng đã làm vậy. Và rồi tôi nghĩ, nhưng nàng có thể có lý, Raymond giống như một đứa trẻ bị đánh đòn vậy. Nàng sắp trở về với tất cả những thứ đó.
    Tôi nói "Anh nghĩ anh đã làm khổ ông ta".
    "Raymond? Em không biết. Em không nghĩ thế. Ông ấy không bao giờ biểu lộ gì cả. Dĩ nhiên, bây giờ ông ấy có thể, ông ấy có lẽ đã hơi khác".
    Tôi đì cùng nàng ra tầng đệm, bóng của ngôi nhà trùm lên sân, những cái cây phía trên những ngôi nhà và hàng cây bên ngoài, ánh sáng buổi chiều giát vàng, bụi trong không khí, những lùm cây phượng, mùi đun nấu. Nàng vội vã đi xuống những bậc cầu thang gỗ đến một nơi ánh nắng mặt trời, trải giữa những ngôi nhà, đổ lên người nàng. Rồi, trong tiếng ồn của những cái sân xung quanh, tôi nghe tiếng nàng nổ máy xe.
    Và chỉ vài ngày sau đó tôi nghĩ thật lạ làm sao khi chúng tôi lại nói về Raymond vào thời điểm đó. Tôi đã nói về nỗi đau khổ của Raymond khi tôi nghĩ về bản thân mình, và Yvette đã nói tới nhu cầu của Raymond khi nàng nghĩ đến những nhu cầu của chính nàng. Chúng tôi đã bắt đầu nói, nếu không phải ngược lại, thì chí it cũng theo cách gián tiếp, biến những dấu hiệu với sự thật đó thành những cái người ta trong các trường hợp khác thấy không cần phải làm.
    
    Khoảng một tuần sau, một tối tôi nằm trên giường đọc một cuốn tạp chí bách khoa toàn thư của mình về nguồn gốc "big bang" của vũ trụ. Đó là một chủ đề thân thuộc, tôi thích đọc trong những cuốn bách khoa toàn thư khác. Kiểu đọc đó không phải là để lấy kiến thức, tôi đọc để tự gợi mình lại theo một cách đơn giản và vui vẻ mọi thứ mà tôi không biết đến. Đó là một kiểu thuốc phiện, nó làm tôi mơ mộng về một thời gian tương lai bất khả nào đó, khi đang giữa thời buổi hoà bình thế này, tôi có thể bắt đầu toàn bộc các vấn đề và hiến mình cả ngày cả đêm cho học tập.
    Tôi nghe tiếng xe. Và tôi biết, trước khi có tiếng chân bước trên các bậc cầu thanh, rằng đó là Yvette, đã đến thật tuyệt vời vào cái giờ muộn màng này, không báo trước. Nàng bước rất nhanh qua các bậc cầu thang, giầy và quần áo nàng tạo thành một loại tiếng động khi đang đi, và nàng mở cửa phòng ngủ.
    Nàng đã ăn mặc thật cẩn thận, và khuôn mặt nàng hồng hào. Hẳn là nàng đã ở một bữa tiệc nào đó quay về. Ăn mặc như thế, nàng lao đến giường và ôm lấy tôi.
    Nàng nói "Em thử một vận may. Suốt bữa tối em cứ nghĩ đến anh, ngay khi em có thể chuồn đi. Em phải làm. Em không chắc anh có nhà không, nhưng em cứ thử xem".
    Tôi có thể ngửi thấy mùi bữa tối và mùi rượu trong hơi thở của nàng. Tất cả đều diễn ra thật nhanh – kể từ lúc có tiếng sập cửa xe cho đến lúc có cảnh như thế này; Yvette nằm trên giường, căn phòng trống rỗng biến đổi, Yvette trong tâm trạng vui vẻ, nồng nhiệt giống như tâm trạng đã có lần đầu tiên khi nàng đến căn hộ buổi tối sau bữa tối ở Khu. Tôi thấy mình đang khóc.
    Nàng nói "Em không thể ở lại được. Em chỉ có thể hôn và đi thôi".
    Sau đó nàng nhớ quần áo của mình còn đang khá xộc xệch. Đứng trước gương, nàng kéo váy lên để cho áo vào. Lúc đó, tôi nằm lại trên giường.
    Ngoảnh đầu sang một bên, nhìn vào gương, nàng nói "Em nghĩ anh lại rơi vào những ám ảnh cũ rồi đấy".
    Dường như lần này nàng muốn nói cụ thể hơn. Nàng đã đánh mất tâm trạng mà nàng mang theo đến đây. Cuối cùng nàng đã chuẩn bị xong. Khi nàng nhìn thấy tôi trong gương một lần nữa, dù, khá vui sướng với nàng và với tôi, sự vui sướng về một cuộc phiêu lưu nhỏ.
    Nàng nói "Em xin lỗi, nhưng em phải đi" rồi sắp ra khỏi cửa, nàng lại quay lại mỉm cười và nói "Anh không giấu người đàn bà nào ở trong tủ đấy chứ?"
    Tôi không thể kiềm chế được nữa. Nó giống như là cái gì đó tôi từng nghe thấy từ những cô gái điếm, những người nghĩ có thể tỏ vờ ra ghen để làm tôi thích thú. Tôi căm ghét cái lúc này. Những đối nghịch: lại mối liên hệ này bở những đối nghịch. Người đàn bà ở trong tủ đó, đó là người bên ngoài. Chuyến đi từ Khu, một chuyến đi trở về. Âu yếm, ngay trước khi phản bội. Và tôi đã khóc.

Tất cả bùng nổ, mọi điều được hình thành trong tôi kể từ khi nàng bắt đầu kéo quần áo lên. Và tôi ra khỏi giường, đứng trước nàng và cánh cửa.
    "Em nghĩ anh là Raymond phải không?"
    Nàng giật mình.
    "Em nghĩ anh là Raymond phải không?"
    Lần này nàng không có cách trả lời. Nàng bị một đòn quá nặng và quá trực diện, thậm chí nàng còn giơ tay lên để phòng vệ, lùi lại và ngã mình xuống sàn nhà. Tôi đặt chân lên nàng, làm điều đó vì vẻ đẹp của đôi giày của nàng, mắt cá của nàng ,chiếc váy mà tôi đã thấy nàng kéo lên ,chỗ phình ở hông nàng. Nàng quay mặt xuống sàn nhà và giữ nguyên tư thế đó một lúc, rồi với một tiếng thở dài như một đứa trẻ trước khi thét lên, nàng bắt đầu khóc, thoạt đầu còn cố nén rồi sau đó biến thành những tiếng nức nở thật sự, rất to. Và cứ như thế suốt mất phút.
    Tôi ngồi xuống giữa đống quần áo tôi đã tuột ra trước khi lên giường, trên chiếc ghế bành Windsor có vành dựa vào tường. Lòng bàn tay tôi trở nên cứng đanh, căng ra. Mu bàn tay tôi, từ ngón tay nhỏ đến cổ tay, đau nhức, xương lạo xạo. Yvette đứng lên. Đôi mắt nàng ở giữa mí mắt, màu đỏ và cứng lại với những giọt nước mắt thực sự. Nàng ngồi trên thành giường của chiếc đệm cỏ, ở góc giường, và nhìn xuống sàn nhà, tay nàng đặt trên đầu gối. Tôi cảm thấy rất đau khổ.
    Sau một lúc nàng nói "Em đến để gặp anh. Em cứ nghĩ làm thế là tốt. Hoá ra là em sai".
    Rồi chúng tôi không nói gì nữa.
    Tôi nói "Em đã ăn tối chưa?"
    Nàng chầm chậm lắc đầu. Buổi tối của nàng như thế là đã hỏng – nàng đã bỏ nó – nhưng mới dễ dàng làm sao! Và cử chỉ lắc đầu đó khiến tôi bước vào sự vui sướng trước đó của nàng, giờ đây đã biến mất. Sai lầm của tôi, tôi đã quá sẵn sàng để cho nàng tự thấy mình là một người thất bại.
    Nàng cởi giày ra, co hai chân vào nhau. Nàng đứng lên, lại cởi váy ra. Rồi, cứ như thế, với mái tóc đã chải, áo vẫn mặc, nàng đi đến giường, kéo mảnh vải phía trên lên che mình và chuyển đến thành giường bên kia. Nàng vùi đầu vào gối, quay lưng về phía tôi, và cuốn tạp chí bách khoa toàn thư, vẫn ở lại bên kia thành giường, rơi xuống sàn nhà với một tiếng động nhỏ. Và như thế, vào khoảnh khắc vĩnh biệt này, trong sự nhại lại cuộc sống gia đình, chúng tôi cứ như thế một lúc, cảm thấy rất lạ lùng.
    Sau một lúc nàng nói "Anh không đến à?"
    Tôi quá nóng nảy để có thể làm hay nói gì đó.
    Một lúc sau nàng quay lại nói với tôi "Anh đừng có ngồi mãi trên ghế như thế".
    Tôi bước đến và ngồi lên giường cạnh nàng. Cơ thể nàng mềm mại, uyển chuỷên và ấm áp. Tôi mới chỉ thấy nàng như thế chỉ một hay hai lần trước đó. Và lân này! Tôi nắm lấy hai chân nàng,dạng ra. Nàng nhẹ nhàng đưa chân coa lên – những chỗ lõm êm ái của da thịt ở mặt trong đầu gối – và rồi tôi khạc nhổ vào giữa hai chân nàng cho đến khi không còn chút nước dãi nào nữa. Toàn bộ sự mềm mại của nàng biến mất trong căm hận. Nàng gào lên "Anh không thể làm vậy!" Nàng tát tôi, tay tôi đau nhói sau mỗi cái đánh, cho đến khi nàng nhoài ra phía bên kia giường và ngồi dậy, bắt đầu quay điện thoại. Nàng gọi điện cho ai vào giờ này? Nàng có thể cầu viện đến ai, ai là người mà nàng có thể đặt lòng tin?
    Nàng nói "Raymond đấy phải không? Ồ, Raymond. Không. Không. Em ổn mà. Em xin lỗi. Em đến ngay bây giờ đây".
    Nàng mặc váy và đi giầy vào, và qua cánh cửa để mở nàng đi thẳng ra lối ra. Không dừng lại, không ngập ngừng, tôi nghe tiếng nàng rảo bước xuống cầu thang, một âm thanh mới lạ lùng làm sao, vào lúc này! Cái giường, nơi chẳng có gì xảy ra, vẫn đang bị xáo trộn – lần đầu tiên nàng để nó lại trong tình trạng như thế, lần cuối tôi phải làm công việc dọn dẹp. Có những dấu vết của đầu nàng trên gối, nếp quần áo của nàng trên chăn theo cử động của nàng, những thứ giờ đây trở nên hiếm hoi, cực kỳ quý giá với tôi, những tàn tích trên vải vóc sẽ nhanh chóng mất đi. Tôi nằm xuống nơi nàng đã nằm, để thấy lại mùi vị của nàng.
    Ngoài cửa, Metty nói "Salim?" Nó lại gọi lần nữa. "Salim" và nó đi vào, mặc quần áo ở nhà.
    Tôi nói "Ồ, Ali, Ali. Tối nay những điều tồi tệ đã diễn ra ở đây. Tao đã khạc nhổ vào người nàng. Nàng đã để tao khạc nhổ lên người".
    "Lại cãi cọ đây mà. Sau ba năm trời mà lại kết thúc như thế".
    "Ali, không phải thế đâu. Tao không thể làm gì với nàng. Tao không muốn nàng. Tao không muốn nàng. Đó là điều tao không thể chịu đựng được. Tất cả hết rồi".
    "Chú không được ở trong nhà. Ra ngoài đi. Cháu sẽ mặc đồ vào và đi dạo với chú. Chúng ta sẽ cùng đi dạo. Chúng ta sẽ ra bờ sông. Nào, cháu sẽ đi với chú"
    Đi ra sông vào giờ này. Không. Không.
    "Cháu biết nhiều điều về gia đình chú hơn chú, Salim ạ. Sẽ tốt hơn cho chú nếu đi ra ngoài đó. Cách tốt nhất đấy"
    "Tao sẽ ở nhà"
    Nó đứng một lúc rồi đi về phòng. Nhưng tôi biết nó đang chờ và đang nhìn. Toàn bộ mu bàn tay cứng đờ của tôi đau nhức, ngón út dường như đã chết. Da xanh mét từng chỗ - giờ đây giống như một phế tích.
    Tôi đã sẵn sàng thì chuông điện thoại vang lên.
    "Salim, lúc đó em không muốn đi đâu. Anh thế nào?"
    "Khủng khiếp. Còn em?"
    "Khi đi khỏi đó em lái xe rất chậm. Qua cầu em lái rất nhanh để quay trở lại gọi điện cho anh đây"
    "Ant biết rằng em sẽ làm thế mà. Anh đang chờ em gọi lại".
    "Anh có muốn em quay lại không? Đường vắng lắm. Hai mươi phút nữa em có thể tới được. Ôi, Salim. Trông em khủng khiếp lắm. Mặt em trông thật kinh khủng. Em sẽ phải trốn vài ngày."
    "Với anh em lúc nào cũng đẹp. Em biết mà".
    "Nhẽ ra em phải mang cho anh vài viên thuốc an thần. Nhưng lên xe rồi em mới nghĩ đến điều đó. Anh phải cố ngủ đi. Uống một ít sữa nóng và cố ngủ đi. Một thứ đồ uống nóng sẽ tốt lắm. Để Metty đi đun sữa cho anh".
    Chưa bao giờ gần gũi hơn, chưa bao giờ giống với một người vợ hơn thế. Thật là dễ dàng hơn khi nói ở điện thoại. Và khi mọi điều đã qua, tôi bắt đầu nhìn vào đêm tối, chờ đợi ánh sáng ban ngày và một cú điện thoại khác. Metty đã ngủ. Nó để cửa phòng mở và tôi nghe thấy nó thở.
    Rồi đến một thời điểm, khi ánh sáng tới, đột nhiên đêm đã thành một phần của quá khứ. Những bụi cây trên khung cửa sổ sơn trắng bắt đầu hiện ra, và vào lúc đó, ở bên ngoài sự đau đớn to lớn của tôi, tôi có một sự bừng tỉnh. Nó không đến bằng từ ngữ, từ ngữ tôi định gán vào nó thật hỗn độn và gây ra sự bừng tỉnh để biến mất. Tôi thấy dường như người ta sinh ra để già đi, để sống trong một gang tay, để có được chút kinh nghiệm. Người ta sống để có được chút kinh nghiệm, giá trị của kinh nghiệm là vô hình, niềm vui và sự đau đớn – và hơn hết, đau đớn – chẳng có nghĩa gì cả, sở hữu sự đau đớn cũng vô nghĩa như là săn lùng khoái cảm. Và thậm chí ngay cả khi sự bừng tỉnh đã biến đi, đã nhỏ bé và chỉ còn vô nghĩa một nửa như một giấc mơ, tôi nhớ rằng mình đã có nó, hiểu biết về ảo tưởng của nỗi đau đó.
    Ánh sáng bừng lên qua những cửa sổ sơn trắng. Căn phòng bị xáo tung đã thay đổi tính chất. Dường như đã cũ rích. Giờ đây chỉ một chứng tích thực sự còn lại là bàn tay đau của tôi, nếu nhìn tôi sẽ tìm thấy một hoặc hai sợi tóc của nàng. Tôi mặc quần áo, xuống tầng, và từ bỏ ý định đi dạo buổi sáng, bắt đầu lái xe qua thị trấn đang tỉnh dậy. Tôi cảm thấy tươi tắn trở lại bởi màu sắc, tôi nghĩ ngồi sau tay lái buổi sớm này là một việc nhẽ ra tôi phải thường xuyên làm từ trước.
    Quãng bảy giờ tôi đến trung tâm, đến Bigburger. Những túp lều và hộp đầy rác rưởi nằm trên hè phố. Ildephonse ở đó, chiếc áo khoác của bộ đồng phục giờ đây đã rách rưới như một thứ trang sức. Ngay cả vào cái giờ sớm sủa này Ildephonse cũng đã nhấp giọng rồi, cũng như phần lớn người châu Phi, nó chỉ cần một tí bia địa phương để lên giây cót tinh thần và để treo mình lửng lơ. Nó biết tôi nhiều năm rồi, tôi là khách hàng đầu tiên của ngày hôm đó, nó hiếm khi thấy tôi. Đôi mắt say lờ đờ vì bia của nó nhìn chằm chằm vào tôi trên phố. Nó ngậm trong miệng một cái tăm khéo léo và chính xác đến nỗi nó có thể nói thoải mái, môi dưới rơi xuống đều đều mà không làm rụng cái tăm, giống như một trò diễn vậy.
    Tôi gọi nó lại, và nó mang đến cho tôi tách cà phê và mẩu pho mát trong cái khay. Tốn mất hai trăm quan, khoảng sáu đô la, cái giá thật là kỳ cục vào những ngày đó.
    Tám giờ kém một phút, Mahesh đến. Anh luôn tự hào về sự nhỏ bé và gầy gò của mình. Nhưng anh không còn gày gò như trước nữa rồi, tôi đã bắt đầu có thể thấy anh là một người đàn ông béo lùn.
    Hiệu ứng của việc anh đến lên Ildephonse giống như một tia điện. Cái nhìn lờ đờ biến ngay khỏi mắt nó, cái tăm biến mất, và nó bắt đầu nhảy khắp chỗ, mỉm cười và chào đón những người khách hàng sớm, chủ yếu là khách từ chỗ Van der Weyden.
    Tôi hy vọng Mahesh có thể nhận ra tình trạng của tôi. Nhưng anh chẳng hề để ý đến điều đó, anh thậm chí còn không có vẻ gì là ngạc nhiên khi trông thấy tôi.
    Anh nói "Shoba muốn gặp anh, Salim".
    "Cô ấy thế nào?"
    "Cô ấy khá hơn rồi. Tôi nghĩ cô ấy khá hơn rồi. Cô ấy muốn gặp anh. Anh phải đến căn hộ nhé. Đến ăn. Đến ăn trưa. Đến ăn trưa vào ngày mai".
    
    Zabeth giúp tôi qua được buổi sáng. Đó là ngày đi chợ của cô. Công việc buôn bán của cô đã đi xuống kể từ cuộc nổi loạn, và tin tức của cô trong những ngày này là về cuộc bạo động của dân làng. Đây đó thanh niên bị cảnh sát hoặc quân đội bắt, đó là chiến thuật của chính phủ. Không có gì xuất hiện trên báo chí, cây bụi giờ đây lại tham gia vào cuộc chiến. Dường như Zabeth đang ở bên lề của những cuộc nổi loạn, nhưng tôi không thể chắc được, và tôi cố tỏ ra trung lập đến mức có thể.
    Tôi hỏi về Ferdinand. Thời gian của nó ở thủ đô với tư cách một học viên hành chính đã kết thúc. Nó hẳn phải có một vị trí tốt sớm sủa, và tin mới nhất tôi nghe được từ Zabeth là nó được coi là người kế nhiệm của vị đại biểu Khu, người mới đây đã bị phế truất sau khi cuộc nổi loạn bùng phát. Tổ tiên lẫn lộn của Ferdinand đã khiến nó trở thành sự lựa chọn tốt cho vị trí khó khăn đó.
    Zabeth nói về cái danh hiệu to lớn đó một cách trầm tĩnh (tôi nghĩ về quyển sách của trường trung học ngày xưa, và đến lúc khi vị đại diện tỉnh ký tên vào cả một trang như một sự trung thành). Zabeth nói "Tôi cho rằng Ferdinand sẽ là đại diện, Salim ạ. Nếu người ta để nó sống".
    "Để nó sống hả Beth?"
    "Nếu người ta không giết nó. Tôi không biết bao giờ tôi mới thích nó nhận công việc đó, Salim ạ. Cả hai bên đều muốn giết nó. Và Tổng thống thì muốn giết nó đầu tiên, như một vật hy sinh. Ông ấy là một người hay ghen tị mà Salim. Ông ấy không để ai nổi lên ở chỗ ông ấy đâu. Chỉ có ảnh của ông ấy ở khắp nơi thôi. Và nhìn vào báo chí mà xem. Ảnh ông ấy to hơn mọi người khác. Nhìn mà xem".
    Báo hôm trước từ thủ đô đến đang nằm trên bàn tôi, và bức ảnh Zabeth chỉ là ảnh Tổng thống cùng với các quan chức chính quyền tại một tỉnh phía Nam.
    "Nhìn mà xem, Salim. Ông ấy to lớn quá. Những người khác nhỏ đến nỗi anh chẳng thấy rõ họ. Anh không thể biết họ là ai".
    Các quan chức bận trang phục giống hệt nhau do Tổng thống nghĩ ra – áo khoác vạt ngắn, ca vát, thay vì áo sơ mi và nơ đeo cổ. Họ ngồi thành hàng chật sát trong ảnh trông rất giống nhau. Nhưng Zabeth chỉ vào một cái gì đó khác cho tôi. Cô không coi bức ảnh là một bức ảnh, cô không hề nói đến khoảng cách và tầm nhìn. Cô quan tâm đến khoảng không gian của mỗi người có mặt trong ảnh. Quả thật, cô chỉ vào cái gì đó tôi chưa bao giờ nhận ra: trong những bức ảnh trên báo chỉ những người khách nước ngoài có được khoảng không gian bằng với Tổng thống . Với người dân Tổng thống luôn được diễn tả là một gương mặt cao vời vợi. Ngay cả khi những bức ảnh cùng kích thước, thì ảnh của Tổng thống sẽ chỉ có khuôn mặt ông, trong khi những người khác thì phải chụp cả người. Thế nên bây giờ, trong bức ảnh của Tổng thống đang hướng đến các quan chức miền Nam, một bức ảnh được chụp từ vai Tổng thống , hai vai của Tổng thống , đầu và cái mũ chiếm gần hết khoảng không gian, còn lại các quan chức ngồi sát kề nhau, ăn mặc hệt như nhau.
    "Ông ấy sẽ giết những người đó, Salim ạ. Họ đang gào thét trong lòng, ông ấy biết họ đang gào thét. Anh cũng biết, Salim ạ, rằng ông ấy không được tôn sùng đến thế đâu. Chẳng là cái gì cả".
    Cô nhìn vào bức ảnh lớn trong cửa hiệu, chụp cảnh Tổng thống đang giơ chiếc gậy lên, chiếc gậy được nạm khắc nhiều biểu tượng khác nhau. Đoạn giữa chiếc gậy có hình một khuôn mặt người, một thứ vật thờ đặc biệt.
    Cô nói "Chẳng là cái gì hết. Tôi sẽ nói cho anh về Tổng thống . Ông ta có một người đàn ông, và người đàn ông này đi trước ông ta mỗi khi ông ta đi đâu đấy. Người đàn ông này nhảy ra khoi xe trước khi xe dừng lại, và mọi điêu xấu cho Tổng thống đều đi theo người đàn ông này và nhờ vậy Tổng thống của chúng ta luôn bình an vô sự. Tôi thấy rồi, Salim ạ. Và tôi sẽ nói cho anh một vài điều gì đó. Người đàn ông nhảy ra và biến vào đám đông là người da trắng".
    "Nhưng Tổng thống không có ở đây mà, Beth".
    "Tôi thấy chứ, Salim. Tôi nhìn thấy người đàn ông đó. Anh đừng có nói với tôi là anh không biết".
    
    cả ngày hôm đó Metty rất tốt. Không nhắc lại những gì đã xảy ra, nó chăm sóc tôi một cách kính nể (sự kính nể như thể tôi là một người đàn ông hung bạo, đang bị thương) và dịu dàng. Tôi nhớ lại những lúc thế này trong cuộc sống chung của chúng tôi trên bờ biển, sau mỗi cuộc cãi cọ trong gia đình. Tôi cho là nó cũng nhớ đến những khoảnh khắc đó, và cũng đang rơi vào những ký ức cũ . cuối cùng tôi cũng làm theo nó, và điều này có hiệu quả đáng kể.
    Tôi nghe lời nó về căn hộ vào giữa buổi chiều, nó bảo nó có thể trông cửa hiệu được. Sau đó nó không đến chỗ gia đình nó như thói quen. Nó về căn hộ và kínn đáo cho tôi biết là nó có ở đó, và ở lại. Tôi nghe tiếng nó bước rón rén. Điều đó thực ra không cần thiết, nhưng sự chú ý có lợi cho tôi, và trên cái giường đó, nơi nhiều lúc tôi đã thấy lại những cảnh ngày hôm trước (không, chính là ngày này) tôi bắt đầu ngủ.
    Khi tỉnh dậy tôi thấy mình thật hỗn độn. Cả ánh sáng buổi chiều lẫn bóng tối ầm ĩ đều không đúng. Thế là đêm thứ hai đã trôi qua. Điện thoại không hề đổ chuông và tôi cũng không gọi. Buổi sáng Metty mang cà phê đến cho tôi.
    Tôi đến chỗ Shoba và Mahesh để ăn trưa, tôi thấy dường như tôi đã ở Bigburger và đã nhận lời mời này từ lâu rồi.
     Căn hộ với những bức rèm hạ xuống để che ánh nắng chói chang, với những tấm thảm Ba tư và đồ đồng đẹp đẽ và toàn bộ những thứ đồ vật nhỏ bé, vẫn như là tôi vẫn nhớ. Đó là một bữa ăn trưa im lặng, không đặc biệt như là bữa trưa hội ngộ hay làm lành. Chúng tôi nói về những sự kiện mới xảy ra. Chủ đề là giá trị tài sản – vào thời điểm nào đó nó đã từng là chủ đề yêu thích của Mahesh, nhưng giờ lại khiến tất cả mệt mỏi – đã không ăn thua gì. Giờ đây chúng tôi chỉ bàn luận về các món chúng tôi ăn.
    Đến lúc cuối Shoba hỏi về Yvette. Đó là lần đầu tiên cô làm vậy. Tôi nói vắn tắt việc đã xảy ra. Cô nói "Tôi rất tiếc. Một điều như thế sẽ chỉ xảy đến với anh trong hai mươi năm nữa". Và sau đó tất cả những điều tôi nghĩ về Shoba, những cách thức chính quy và sự khôn ngoan của cô, tôi bị mê hoặc bởi sự dễ mến và minh triết của cô.
    Mahesh lau bàn và chuẩn bị pha Nestcafé – cho đến giờ tôi vẫn chưa nhìn thấy người hầu nào. Shoba keó một phần rèm ra để lọt chút ánh sáng vào. Cô ngồi, trong ánh sáng rực rỡ, trên chiếc trường kỷ hiện đại – với những tay nắm có hình ông, thấp và chắc chắn – và bảo tôi đến ngồi cạnh. "Đến đây, Salim".
    Cô nhìn chăm chú vào tôi khi tôi ngồi xuống. Rồi, ngẩng đầu lên một chút, cô hướng mặt nghiêng về phía tôi và nói "Anh có nhìn thấy gì trên mặt tôi không?"
    Tôi không hiểu câu hỏi
    Cô nói "Salim!" và quay mặt về tôi, vẫn ngẩng lên, nhìn thẳng vào mắt tôi "Tôi có còn đáng ghét lắm không? Nhìn quanh mắt tôi và má trái xem. Nhất là má bên trái. Anh thấy gì không?"
    Mahesh đặt những chiếc tách cà phê lên trên chiếc bàn thấp và đứng cạnh tôi, cùng nhìn với tôi. Anh nói "Salim không thể thấy gì đâu".
    Shoba nói "Để anh ấy tự nói đi. Nhìn vào mắt trái tôi xem nào. Nhìn vào da phía trên mắt ấy, và nhìn vào má nữa". Và cô giữ nguyên mặt ngẩng lên, như thể đang đặt đầu lên đâu đó.
    Nhìn thật kỹ, nhìn thật kỹ vào chồ cô muốn tôi nhìn, tôi thấy cái tôi nghĩ rằng màu của mệt mỏi hoặc ốm yếu dưới mắt cô cũng thành từng phần rất nhẹ phớt qua trên da, một sự nồng nhiệt yếu ớt trên làn da tái của cô, chỉ có thể nhận được trên gò má trái. Và đã nhìn rồi, sau khi không thấy gì, tôi không thể phát hiện gì thêm nữa, v` tôi thấy sự kinh tởm mà cô đã nói. Cô đã thấy cái tôi thấy. Cô rất buồn, nhẫn nhục.
    Mahesh nói "Giờ thì tệ quá rồi. Em đã để anh ấy nhìn thấy".
    Shoba nói "Khi tôi nói với gia đình là tôi sẽ đến sống với Mahesh, các anh của tôi đã doạ sẽ tạt a xit vào mặt tôi. Anh có thể nói là điều đó đã xảy ra. Khi cha tôi chết họ đã gửi cho tôi một bức điện. Tôi coi đó là dấu hiệu cho thấy họ muốn tôi trở về nhà dự đám tang. Thật là một cách thật tồi tệ để về nhà – cha thì chết, đất nước thì trong tình trạng đó, người châu Phi thật là khủng khiếp. Tôi thấy mọi người bên bờ của một vách núi dựng đứng. Nhưng tôi không thể nói cho họ điều đó. Khi anh hỏi họ đang làm gì, họ có thể vờ rằng mọi cái vẫn tốt, có gì mà phải lo đâu. Và anh cũng phải giả vờ giống như họ. tại sao chúng ta lại thế này?
    "một sáng tôi không biết cái gì đã xui khiến tôi. Đó là một cô gái Shindi từng học ở Anh – theo như cô ta nói – và đã mở một hiệu cắt tóc. Mặt trời rất chói chang trên các ngọn đồi ở đó, và tôi đã lái xe đi nhiều nơi, thăm lại bạn cũ và chỉ lái xe thôi, rời khỏi ngôi nhà. Mỗi một nơi tôi từng yêu, đến và xem, tôi bắt đầu căm ghét, và tôi phải dừng lại. Tôi cho rằng trong khi lái xe đi vòng vòng mọi cái trở nên bầm lại và sưng tấy lên trên da tôi. Tôi hỏi cô gái Sindhi có thứ kem gì đó mà tôi có thể dùng được không. Cô ta nói cô ta có một thứ. Cô ta từng dùng cái đó. Tôi thét lên bảo cô ta dừng lại. Cô ta đã dùng oxy già. Tôi chạy về nhà với khuôn mặt bị lột. Và ngôi nhà của người chết đó đã thực sự trở thành ngôi nhà phiền muộn đối với tôi.
    "Tôi không thể ở lại đó. Tôi phải giấu khuôn mặt mình khỏi mọi người. Và rồi tôi chạy về đây, vẫn phải trốn như trước. Ở đây tôi không đi đâu được. Giờ thì tôi chẳng đi đâu được nữa. Tôi chỉ thỉnh thoảng ra ngoài buổi tối thôi. Tôi đã khá hơn. Nhưng vẫn còn phải cẩn thận lắm. Tôi không ra nước ngoài được nữa rồi, Salim ạ. Tôi muốn đi lắm, muốn bỏ đi lắm. Và chúng tôi có tiền. New York, London, Paris. Anh có biết Paris không? Có một chuyên gia thẩm mỹ ở đó. Người ta nói ông ấy làm da giỏi hơn bất cứ ai. Chắc là phải hay lắm, nếu tôi đến được đó. Và rồi sau đó tôi có thể đi khắp nơi. Thuỵ Sĩ chẳng hạn – tiếng Anh gọi là gì nhỉ"
    "Switzerland".
    "Anh thấy đấy, sống trong căn hộ này tôi đã quên mất tiếng Anh rồi. Đó chắc là một nơi đẹp lắm, tôi vẫn nghĩ thế, nếu xin được thị thực".
    Lúc này Mahesh vẫn nhìn vào mặt cô, nửa khuyến khích nửa tức tối với cô. Chiếc áo sơ mi vải cô tông màu đỏ trang nhã của anh với chiếc cổ chật cứng, dáng rất đẹp đang mở rộng trên cổ - đó là một phần của phong cách mà anh đã học được ở cô.
    Tôi sung sướng khi thoát khỏi họ, khỏi nỗi ám ảnh họ đã bắt tôi tham dự trong phòng khách. Lột da, da – những từ đó làm tôi không thoải mái suốt trên dọc đường về.
    Với tôi nỗi ám ảnh lớn hơn một khuyết tật về da. Họ đã tự kết liễu đời mình. Một khi họ phải chịu đựng ý nghĩ về những truyền thống cũ xưa của họ (vẫn đến một nơi nào khác, bởi những người khác) giờ họ hoàn toàn trống rỗng ở châu Phi này và không được bảo vệ, chẳng có gì để dựa vào cả. Họ bắt đầu mục nát. Tôi cũng giống như họ. Trừ phi ngay bây giờ tôi phải hành động, nếu không số phận tôi cũng sẽ giống như họ. vấn đề lập đi lập lại về gương và mắt đó, việc bắt người khác phải tìm ra khuyết tật, sự điên rồ trong một căn phòng nhỏ.
    Tôi quyết định đi vào thế giới, để phá tung cái địa lý chật chội này của thị trấn, để làm trách nhiệm của tôi với những người phụ thuộc vào tôi. Tôi viết cho Nazruddin rằng tôi sẽ tới London thăm ông, chỉ đơn giản vậy thôi. Dù sao cũng là một quyết định ra trò! Khi không có lựa chọn nào khác, khi gia đình và cộng đồng chỉ còn lay lắt tồn tại, khi nghĩa vụ chỉ còn có một ý nghĩa, và không còn ngôi nhà an toàn nào nữa.
    Cuối cùng tôi cũng đi trên một chiếc máy bay bay trên bờ phía đông của châu lục, trước khi trực chỉ phía bắc. Chuyến bay dừng lại ở sân bay của chúng tôi. Tôi không phải đến tận thủ đô để đi nó. Thế là mãi cho đến giờ tôi vẫn chưa hề biết thủ đô.
    Tôi ngủ trong cái đêm bay đến châu Âu. Một người đàn bà ngồi ở cái ghế cạnh cửa sổ, đi ra đường đi, dẫm vào chân tôi và đánh thức tôi dậy. Tôi nghĩ: nhưng đó là Yvette mà. Nàng đang ở cùng với tôi. Tôi chờ đến khi nàng trở lại. Và đang tỉnh thức, tôi đợi mười hay mười lăm giây. Rồi tôi hiểu đó chỉ là một giấc mơ. Thật là đau khổ khi hiểu là tôi đang cô độc, và đang bay đến một số phận khác lạ đến thế.
Trước đây chưa bao giờ tôi đi máy bay. Tôi còn nhớ lơ mơ điều Indar từng nói trước đây về chuyện đi máy bay, hình như anh đã nói, máy bay giúp anh điều chỉnh sự nhớ nhà của anh. Tôi bắt đầu hiểu anh định nói gì.
    Hôm nay tôi đang ở châu Phi, sáng hôm sau tôi đã đến châu Âu rồi. Còn hơn là chuyến đi nhanh. Tôi giống như đang ở cùng một lúc hai nơi. Tôi thức dậy ở London với một chút châu Phi trên người – chẳng hạn chiếc vé taxi sân bay, do một nhân viên mà tôi quen đưa cho, giữa một đám đông, giữa một toà nhà khác, giữa một khí hậu khác. Cả hai nơi đều thực, cả hai nơi đều không thực. Bạn có thể lấy cái này chọi lại cái kia, và bạn sẽ không có cảm giác đang có một quyết định cuối cùng, như là chuyến đi cuối cùng vĩ đại. Chuyến đi đó, theo cách nào đó, là cái đang xảy đến với tôi, dù tôi chỉ có một chiếc vé tham quan, thị thực, và tôi phải trở về sau sáu tuần nữa.
    Châu Âu mà chiếc máy bay đưa tôi đến không phải châu Âu tôi từng biết. Khi tôi còn nhỏ, châu Âu thống trị thế giới của tôi. Nó đánh bật người A rập ở châu Phi và điều khiển toàn bộ cái bên trong của châu lục. Nó điều khỉên bờ biển và tất cả các vùng đất của Ấn Độ dương mà chúng tôi vẫn làm ăn, nó cung cấp hàng hóa cho chúng tôi. Chúng tôi biết chúng tôi là ai và từ đâu đến. Nhưng chính châu Âu đã cho chúng tôi những cái tem bưu thiếp giúp chúng tôi khám phá ra vẻ đẹp của chính bản thân. Nó cũng cho chúng tôi một ngôn ngữ mới.
    Châu Âu không còn cai quản nữa. Nhưng nó vẫn còn cung cấp cho chúng tôi theo hàng trăm cách với ngôn ngữ của nó và vẫn không ngừng cung cấp những thứ hàng hoá tuyệt diệu cho chúng tôi, những thứ hàng năm ở vùng cây bụi của châu Phi vẫn chấn chỉnh ý tưởng của chúng tôi về bản thân mình, cho chúng tôi biết sự hiện đại và phát triển của mình đang ở đâu, và làm chúng tôi ý thức về một châu Âu khác – châu Âu của những thành phố khổng lồ, những nhà kho khổng lồ, những toà nhà khổng lồ, những trường đại học khổng lồ. Chỉ những người được ưu tiên hoặc được thiên phú mới đến được châu Âu đó. Đó là châu Âu mà Indar đã đến để học ở trường đại học của mình. Đó là cái châu Âu mà ai đó như Shoba thường nhắc đến khi cô nói đến chuyện đi du lịch.
    Nhưng châu Âu mà tôi đến – và biết từ cái khung cảnh tôi rơi vào – không phải là châu Âu cũ cũng không phải châu Âu mới. Nó là cái gì đó say sưa, lấp lóa và đầy cấm đoán. Đó là châu Âu nơi Indar, sau khi ở ngôi trường lừng danh, đã chịu đựng và cố đạt tới một giải pháp cho vi .trí của mình trong thế giới, nơi Nazruddin và gia đình ông đang trốn tránh, nơi hàng trăm nghìn người như tôi từ khắp nơi trên thế giới như tôi, đang tự buộc mình đến, làm việc và sống.
    Về châu Âu này tôi không thể dựng lên một bức tranh tinh thần nào. Nhưng bức tranh London vẫn ở nguyên chỗ đó, không có bí ẩn gì cả. Hiệu ứng do những quầy hàng, trạm điện thoại, ki ốt và những cửa hàng bán hàng khô buồn tẻ gây ra – do những người như tôi điều hành – trên thực tế là hiệu ứng của chính những người dồn đến đây. Họ buôn bán giữa London như là đang buôn bán giữa châu Phi vậy. Hàng hoá trao đổi ở một khoảng cách ngắn hơn, nhưng mối quan hệ của thương gia với hàng hoá thì vẫn thế. Trên các đường phố London tôi thấy những người cũng giống như tôi đó, như thể đang ở cách xa. Tôi thấy những người trẻ tuổi, bán những bao thuốc lá vào nửa đêm, như thể bị cầm tù torng ki ốt của mình, giống như những con búp bê trên sân khấu múa rối. Họ bị đè bẹp trong cuộc sống của một thành phố khổng lồ nơi họ đã đến sống, và tôi tự hỏi về tính vô mục đích của cuộc sống nhọc nhằn và chuyến đi khó nhọc của họ.
    Châu Phi dành cho những người rời bỏ nó những ảo tưởng mới hay ho làm sao! Tại châu Phi tôi từng nghĩ đến bản năng và khả năng làm việc của mình, ngay cả trong những điều kiện khác thường và sáng tạo. Tôi đã đối lập nó với sự thờ ơ và việc rời khỏi cái làng châu Phi. Nhưng giờ đây ở London rồi, đã ở trong sự tất bật này rồi, tôi lại thấy cái cảm giác nổi loạn xâm chiếm lấy mình, mạnh hơn bất kỳ lúc nào khác trong tuổi thơ. Thêm vào đó là một sự cảm thông với cuộc nổi loạn mà Indar từng nói với tôi, cuộc nổi loạn anh đã khám phá khi đi dọc bờ sông ở London và quyết định vứt bỏ ý nghĩ của mình về quê nhà và lòng thương yêu tổ tiên, sự thờ cúng không suy nghĩ những con người vĩ đại, sự suy sụp đã đến cùng với sự cầu nguyện và những ý nghĩ đó, và để dúi anh vào một thế giới lớn hơn, khó nhọc hơn. Đó là cách duy nhất tôi có thể sống ở đây và tôi phải sống ở đây.
    Tôi đã trải qua cuộc nổi loạn của mình, ở châu Phi. Tôi đã mang nó đi xa đến hết mức có thể được. Và tôi đã đến London để khuây khoả và cứu rỗi, bám vào cái còn lại của cuộc sống được sắp xếp của chúng tôi.
    Nazruddin không ngạc nhiên với cuộc đính hôn của tôi với cô con gái Kareisha của ông. Tôi chán nản nhận ra, ông vẫn luôn tin tưởng về lòng thành thực mà nhiều năm trước ông từng nhìn thấy trên tay tôi. Kareisha cũng không ngạc nhiên. Quả thật, người duy nhất hơi ngạc nhiên lại là chính tôi, kẻ đã kinh ngạc vì bước ngoặt của cuộc đời lại diễn ra nhẹ nhàng đến thế.
    Đính hôn xong thì tôi cũng sắp phải rời khỏi London. Nhưng điều đó lại được coi như là một sự bắt đầu. và quả thật dễ chịu, trong cái thành phố to lớn lạ lùng này, sau chuyến đi nhanh đến thế, được Kareisha ôm ấp, được cô gọi tôi bằng tên, được cô dẫn đi khắp London, cô – người hiểu biết (Uganda và Canada sau lưng), tôi – người nguyên thuỷ (cư xử hệt như thế).
    Cô là một dược sĩ. Điều này là do Nazruddin sắp đặt. với kinh nghiệm về đổi thay và những xáo động bất ngờ, rất lâu trước đó ông đã không còn tin quyền lực của tài sản và công việc buôn bán có thể bảo vệ con người ta, và ông đã hướng con cái vào việc chiếm lĩnh những kỹ năng có thể thực hành được ở mọi nơi. Có vẻ như công việc đó mang lại cho Kareisha sự thanh thản, điều rất đối với với một người phụ nữ ba mươi tuổi từ cộng đồng của chúng tôi , hoặc nó có thể là toàn bộ cuộc sống gia đình của cô, với tấm gương Nazruddin, người vẫn rất chắc chắn với những kinh nghiệm của mình và luôn tìm kiếm những dấu hiệu mới. Nhưng tôi ngày càng cảm thấy rằng ở một mức độ nào đó trong những hành trình trước đây của Kareisha hẳn từng phải có gì đó lãng mạn. Một lúc nào đó ý nghĩ này đã làm tôi không chịu nổi. Giờ đây tôi không còn để ý nữa. Người đàn ông hẳn phải khá lắm. Vì anh ta đã bỏ Kareisha theo cách đàn ông. Điều này là mới mẻ với tôi, kinh nghiệm về đàn bà của tôi khá hạn chế. Tôi đắm chìm trong sự trìu mến của Kareisha, và vào vai người đàn ông của mình một chút. Thật là êm ái dịu dàng.
    Đóng vai tôi vào thời gian đó – có hàng đống vai. Vì tôi vẫn ở khách sạn (không xa căn hộ của họ lắm), tại đó tôi đối mặt với nỗi cô đơn của mình, một người đàn ông khác trong tôi. Tôi căm ghét cái phòng khách sạn đó. Nó làm tôi cảm thấy mình không ở đâu hết cả. Nó gợi lại những nỗi lo lắng cũ trong tôi và thêm vào những lo lắng mới, về London, về cái thế giới rộng lớn hơn nhiều mà tôi phải tự tìm kiếm con đường cho mình. Tôi có thể bắt đầu từ đâu đây? Khi tôi bật tivi lên, chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Cần phải nhận thức được sự khác lạ to lớn bên ngoài, và tự hỏi làm sao những người trên màn hình đó lại được nhấc ra từ đám đông. Và trong óc tôi luôn ám ảnh ý muốn được "trở về", được đi một chiếc máy bay khác, hoặc chí ít là không phải ở đây. Mọi quyết định và sự hài lòng của ngày và đầu buổi tối thường xuyên bị tôi đình lại vào buổi đêm.

Indar đã nói về những người như tôi, rằng khi chúng tôi đến một thành phố lớn chúng tôi nhắm mắt vào, chúng tôi chỉ còn quan tâm đến việc tỏ ra là mình không ngạc nhiên gì hết cả. Tôi cũng hơi giống như thế, thậm chí cả với Kareisha, người dẫn tôi đi các nơi. Tôi có thể nói rằng tôi ở London nhưng tôi không thực sự biết mình đang ở đâu. Tôi không có cách nào nắm bắt được thành phố này. Tôi chỉ biết rằng tôi đang ở trên phố Gloucester. Khách sạn của tôi ở đó, căn hộ của Nazruddin ở đó. Tôi đi khắp nơi bằng xe điện ngầm, chui vào trong lòng đất t.ai một địa điểm, chui lên từ một chỗ khác, không thể nào gắn nơi này với nơi kia, và đôi lúc tự phức tạp hóa những hành trình ngắn.
    Đường phố duy nhất tôi biết rõ là Gloucester Road. Nếu đi bộ theo một hướng tôi sẽ đến nhiều toà nhà và đại lộ hơn, và sẽ bị lạc. Nếu đi về hướng kia tôi sẽ đi qua rất nhiều chỗ ăn của khách du lịch, một vài nhà hàng A rập, và tới công viên. Tại đó có một đại lộ rộng, dốc trong công viên với bọn trẻ con đi patin. Trên đầu dốc có một cái ao lớn, một bên bờ lát đá. Trông nó thật nhân tạo, nhưng nó đầy những con chim, thiên nga thật và nhiều loại vịt, và tôi luôn thấy lạ, rằng những con chim đó không hề nghĩ chúng đang ở đây. Những con chim nhân tạo, giống như những thứ cellular dễ thương của tuổi thơ tôi, không thể ra khỏi chỗ đó. Đằng xa, xung quanh, trên những cái cây là những toà nhà. Tại đó bạn thực sự biết về thành phố như là cái gì đó do con người làm ra, chứ không phải là cái gì đó tự mọc lên và chỉ đơn giản là ở đó. Indar cũng đã nói về điều này, anh nói đúng. Thật dễ dàng cho những người như chúng tôi, những người nghĩ rằng các thành phố khổng lồ như thể này mọc lên từ thiên nhiên. Nó hoà giải chúng tôi với những thành phố tồi tàn của mình. Chúng tôi đi đến kết luận rằng nơi này là một cái gì đó và nơi kia là một cái khác.
    Trong công viên, vào những buổi chiều đẹp trời, người ta đến thả diều, và đôi khi những người A rập từ các sứ quán đến chơi đá bóng dưới các tán cây. Luôn có nhiều người Arập ở đó, những người da mịn, thực sự là A rập, không phải nửa A rập, nửa châu Phi như tại bờ biển của chúng tôi, một trong số những quầy báo bên ngoài bến Gloucester Road đầy báo và tạp chí A rập. không phải tất cả người A rập đều giàu có và sạch sẽ. Đôi khi tôi thấy những nhóm nhỏ người Arập nghèo khổ trong trang phục cáu bẩn đi lại trên thảm cỏ trong công viên, trên hè phố hay những đường phố bên cạnh. Tôi nghĩ hịo là những người hầu và điều đó đối với tôi thật là đáng hổ thẹn. Nhưng rồi một hôm tôi trông thấy một quý bà Arập cùng với người nô lệ của mình.
    Tôi chú ý ngay đến người đi cùng với người đàn bà. Anh ta đội chiếc mũ nhỏ màu trắng và cái tạp dề nhẵn cũng màu trắng, thông báo thân phận của anh ta với mọi người và anh ta đang xách trên tay hai túi đi chợ to toàn đồ hàng khô từ siêu thị Waitrose trên đường Gloucester. Anh ta đi đều bước, cách chủ khoảng mười bước chân, bà chủ to béo theo lối của đàn bà Arập, với những vệt tô xanh trên khuôn mặt nhợt nhạt dưới chiếc khăn trùm đen mỏng tang. Bà ta có vẻ tự hài lòng với bản thân lắm, bạn có thể thấy rằng ở London và đi mua sắm đúng kiểu thời thượng với người hầu ở siêu thị Waitrose đã làm bà ta phấn khích. Thoáng qua bà ta nghĩ tôi là người Arập và bà ta nhìn tôi qua làn khăn voan mỏngtang, điều đó có nghĩa là để nhận lại từ phía tôi một cái nhìn ngưỡng mộ.
    Còn người đi cùng đang xách đồ là một thanh niên gầy, da nhẵn, và tôi có thể nói anh ta sinh ra trong nhà chủ. Anh ta có những câu nói trống rỗng, khúm núm mà những người nô lệ sinh ra trong nhà chủ như tôi còn nhớ, vẫn thích nói khi họ ở chỗ đông người với chủ và đang làm một công việc đơn giản nào đó. Người đi cùng này đang làm bộ như những túi đồ hàng khô Waitrose là cái gì đó nặng nề lắm, nhưng đó chỉ là một trò diễn, để thu hút sự chú ý đến anh ta và quý bà anh ta đang phục vụ. Anh ta cũng lầm tưởng tôi là một người Arập và khi tôi đi ngang qua anh ta liền tung ra một lời than về món đồ nặng và nhìn tôi với sự tìm kiếm mong mỏi, như một con rối muốn được diễn kịch nhưng bị buộc phải hiểu đây không phải là lúc diễn trò.
    Tôi đang đi đến chỗ Waitrose để mua chai rượu làm quà cho Nazruddin. Ông vẫn chưa mất đi thú uống rượu và ăn đồ ngon. Ông hạnh phúc được làm người hướng dẫn tôi trong những vấn đề đó, và quả thật, sau nhiều năm uống thứ đồ uống Bồ Đào Nha ở châu Phi, những thứ rượu trắng hoặc đỏ vớ vẩn thì những thứ rượu ở London là cả một sự phấn khích hàng ngày đối với tôi. Bữa tối ở căn hộ (và trước máy tivi, mỗi tối ông xem vài tiếng đồng hồ) tôi nói với Nazruddin về người nô lệ mặc đồ trắng. Ông nói, ông không ngạc nhiên về điều đó, đó là một nét mới của cuộc sống tại Gloucester Road, vài tuần trước ông đã trông thấy một người hầu bẩn thỉu da nâu.
    Nazruddin nói "Ngày xưa người ta gây khó dễ ghê lắm nếu bắt được anh gửi vài người hầu đến xứ Arập bằng đường biển. Giờ thì những người này có hộ chiếu, thị thực giống như mọi người khác, và đi di cư như mọi người khác, chẳng ai phàn nàn hết cả.
    "Bác khá mê tín về người Arâp. Họ sinh ra chúng ta và cho chúng ta một nửa thế giới tôn giáo của chúng ta, nhưng bác không thể không nghĩ rằng khi rời khỏi Arập họ đã gây ra những chuyện thật khủng khiếp ở khắp nời. Anh chỉ cần nghĩ chúng ta từ đâu đến thôi. Ba Tư, Ân Độ, châu Phi. Hãy nghĩ về việc đã diễn ra ở đó. Giờ đây là châu Âu. Họ bơm dầu vào và hút tiền ra. Bơm dầu vào để giúp toàn bộ hệ thống vận hành, rút tiền ra để gửi đi tiêu xài. Họ cần châu Âu. Họ muốn có hàng hoá và các tài sản và cùng lúc họ mùi ncó một nơi an toàn với tiền của mình. Những đật nước của họ thì thật khủng khiếp. Nhưng họ đã phá tán hết tiền. Họ sẽ giết hết những con ngỗng đẻ trứng vàng đó.
    "Và họ cũng không phải là duy nhất. Trên cả thế giới này tiền đang bay. Người ta nạo sạch cái thế giới này, sạch như người châu Phi cạo sân của mình ấy, và bây giờ thì người ta muốn chạy khỏi những nơi khủng khiếp, nơi họ đã kiếm ra tiền, và tìm một đất nước tươi đẹp an toàn. Cả một đống người, người Đại Hàn, Philippine, người từ Hồng Kông, Đài Loan, Nam Phi, người Italia, Hy Lạp, Nam Mỹ, Achentina, Colombia, Venezuela, Bolivia, cả một đống người da đen đổ dồn đến những nơi mà anh chưa bao giờ nghe thấy đâu, người Trung Quốc từ mọi nơi. Tất cả họ đều đang chạy cuống cuồng. Họ bị lửa thúc vào đít. Anh không được nghĩ chỉ có người châu Phi đang chạy cuống đâu.
    "Ngày nay, kể từ khi Thuỵ Sĩ đóng cửa, hầu hết họ sang Mỹ và Canada. Tại đó đã có người chờ sẵn để làm thủ tục. Tại đó họ gặp các chuyên gia. Những người Nam Mỹ chờ đợi người Nam Mỹ, người châu Á chờ người châu Á, người Hy Lạp chờ người Hy Lạp. Và nó nta đưa họ đến chỗ những người làm thủ tục. Taị Toronto, Vancouver, California. Chẳng hạn ở Miami có một trung tâm rất lớn.
    "Bác biết về điều đó trước khi đến Canada. Bác đã không mua một ngôi biệt thự một triệu đô la ở California hoặc một vườn cam ở miền Trung Mỹ hoặc một đầm lầy ở Florida. Anh có biết thay vào đó bác làm gì không? Anh không tin nổi đâu. Bác mua một giếng dầu, một phần thôi. Đó là một nhà địa chất học. Advani giới thiệu bọn bác với nhau. Họ nói họ muốn mười người bọn bác thành lập một công ty dầu mỏ tư nhân. Họ muốn có được một trăm nghìn đô la, mỗi người bỏ vào dó mười nghìn. Tiền vốn pháp định, dù sao cũng cao hơn thế, và có thoả thuận rằng nếu bọn bác tìm được dầu nhà địa chất sè bán phần còn lại của các cổ phiếu theo lãi suất danh nghĩa. Như thế là hợp lý. Đó là phần của ông ta, công việc của ông ta.
    "Mọi chuyện đều hợp lệ, đất thì ở đó. Tại Canada anh có thể thoải mái đi đâu đó khoanh đất. Anh có thể thuê một đội nhân viên, và không tốn tiền nhiều lắm đâu. Ba mươi nghìn cho một chuyến, phụ thuộc vào c anh muốn đào ở đâu. Và người ta không có cái loại luật tài sản đất đai mà anh phải chịu tại nơi anh sống. Bác đã kiểm tra lại toàn bộ. Đó là một sự liều lĩnh, nhưng bác nghĩ đó chỉ là sự liều lĩnh của một mình nhà địa chất mà thôi. Bác bỏ vào đó mười nghìn. Và chờ đợi. Bọn bác vớ được dầu. Suốt đêm, rồi, mười nghìn của bác biến ra hai trăm nghìn – chà, cứ cho là một trăm nghìn thôi. Nhưng với bọn bác, một công ty tư nhân, lãi chỉ là lãi trên giấy mà thôi. Bọn bác chỉ có thể bán lại cho nhau, và không ai trong bọn bác nhìn thấy tiền cả.
    "Nhà địa chất học thực hiện các lệnh mua và mua lại toàn bộ cổ phiếu của công ty bằng cái giá bèo bọt. Thế rồi ông ta chiếm quyền kiểm sóat công ty – nhưng tất cả những cái đó đều có trong thoả thuận. Rồi ông ta mua một công ty mỏ sắp phá sản. Bọn bác băn khoăn về điều đó, nhưng giờ đây bọn bác không hỏi về sự thông thái của ông ta nữa. Rồi ông ta biến đi tới một hòn đảo nhỏ. Ông ta đã kết nối hai công ty lại theo cách sao cho một triệu đô la tiền vay cho công ty của bọn bác để tìm dầu tự động chuyển sang công ty riêng của ông ta. Ông ta bỏ bọn bác lại với nợ nần. Trò cổ xưa nhất trong sách, và chín trong số bọn bác đứng đờ ra nhìn trong khi điềU đó xảy ra như thể bọn bác đang nhìn một kẻ đào hố trên đường. Thêm vào sự nhục nhã đó, bọn bác thấy rồi lúc đầu ông ta không có đến mười nghìn. Ông ta đã làm tất cả điều đó với tiền của bọn bác. Bây giờ bác cho rằng ông ta đang đi đi lại lại giữa thiên đường và mặt đất để chuyển một triệu đô la của mình vào an toàn. Dù thế nào đi nữa, đó là cách bác đã làm được cái không thể, biến mười nghìn thành món nợ một trăm nghìn.
    "Lúc đó thật ra nợ chưa phải trả. Dầu còn ở đó. Thậm chí bác rút được mười nghìn của mình về. Điều rắc rô;i với những người như bác, chạy khắp thế giới để cât giấu tiền, là bọn bác chỉ làm tốt công việc tại chỗ của mình. Vẫn như vậy mà dầu mỏ chỉ là một phi vụ. Rồi sau đó điều hành một rạp chiếu phim, một rạp dành cho người nhập cư. Anh có biết loại rạp đó không? Có nghĩa là chiếu phim cho tất cả các nhóm dân tộc ở một địa điểm. Có rất nhiều sắc tộc nơi bác từng ở, nhưng bác cho rằng mình có ý tưởng đó chỉ bởi vì có một cái rạp đang được rao bán, và có vẻ như nó khá đẹp, ở ngay trung tâm thành phố.
    "Moị việc đều trôi chảy khi bác đến tận chỗ rạp hát , nhưng khi việc mua bán xong xuôi, bác nhận ra rằng mọi thứ trên màn ảnh cứ lờ mờ thế nào ấy. Thoạt tiên bác nghĩ mắt mình có vấn đề. Rồi bác nhận ra rồi người bán cho bác chỗ này đã đổi dụng cụ. Bác đến gặp ông ta và nói "Ông không thể làm thế được", ông ta nói "Ông là ai? Tôi không biết ông". Thế đấy. Thế là bọn bác quẳng những máy chiếu cũ đi, nâng cấp chỗ ngồi và tiếp tục chiếu phim. Công việc không được tốt lắm. Một rạp chiếu phim cho người nhập cư ở trung tâm không phải là một ý tưởng hay lắm. Chẳng qua là họ phải làm việc nhiều quá. Họ chỉ muốn nhanh nhanh về nhà. Những phim hay là phim Ấn độ. Có rất nhiều người Hy lạp tới xem. Người Hy lạp thích xem phim Ân độ. Anh biết điều đó không? Dù sao bác cũng qua được mùa hè. Mùa lạnh tới. Nhưng không có hệ thống sưởi. Hoặc cái ở đó đã bị dỡ mang đi.
    "Bác lại đến chỗ người đàn ông kia. Bác nói "Ông bán cho tôi cái rạp chiếu phim như của nợ ấy". Ông ta nói "Ông là ai?" Bác nói "Gia đình tôi từng là thương nhân buôn bán khắp Ấn độ dương hàng thế kỷ nay, dưới bất kỳ loại chính phủ nào. Có một lý do tại sao chúng tôi tồn tại lâu được như thế. Chúng tôi kiếm lời khó khăn, nhưng chúng tôi thực hiện đầy đủ những gì đã cam kết. Tất cả các hợp đồng của chúng tôi đều bằng miệng ,nhưng chúng tôi luôn thực hiện những gì chúng tôi đã hứa. Không phải bởi vì chúng tôi là thánh thần gì. Chỉ vì tất cả đều tồi tệ nếu khác đi". Ông ta nói "Ông có thể quay về Ấn độ dương".
    "Khi rời khỏi chỗ ông ta bác bước đi rất nhanh. Trên đường bác bị ngã và bị dập mắt cá. Bác coi đó là một điềm báo. Vận may của bác đã đi mất rồi. Bác biết chắc điều đó. Bác không cảm thấy mình có thể ở lại đất nước này nữa. Bác cảm thấy nơi này như một trò chơi khăm. Họ nghĩ họ là người phương Tây, nhưng thực ra họ đang chạy đến chỗ họ tìm sự an toàn. Họ giống như những người ở rất xa, sống nhờ vào đất đai và trí tuệ người khác, và đó là tất cả những gì họ có thể làm. Đó là lý do tại sao họ lại buôn tẻ và ngu ngốc đến thế. Bác nghĩ bác có thể chết nếu phải ở lại cùng họ.
    "khi đến Anh toàn bộ linh cảm của bác hướng vào ngành năng lượng. Một đất nước nhỏ, đường bộ và đường sắt rất tốt, năng lượng, công nghiệp phát triển. Bác nghĩ rằng nếu anh có địa điểm, cơ sở vật chất, và thuê nhân cônng châu Á, anh không thể thua lỗ được. Người châu Âu chán ngán với máy móc và nhà máy rồi. Người châu Á thích chúng, họ bí mật thích máy móc hơn cuộc sống gia đình của mình. Nhưng sau khi đến Canada bác đã bớt nóng nảy rồi. Bác nghĩ mình phải làm thế nào cho an toàn. Bác nghĩ bác có thể kiếm được tiền. Đó là lý do tại sao bác đến Gloucester Road.
    "Đó là một torng những trung tâm kinh doanh du lịch ở London, anh cũng biết rồi đấy. London đang tự tiêu huỷ mình trong việc kinh doanh du lịch - ở đây anh có thể thấy điều đó. Hàng trăm ngôi nhà, hàng nghìn căn hộ đã được biến thành khách sạn, nhà nghỉ và hàng ăn cho khách du lịch. Chỗ ở ngày càng hiếm đi. Bác nghĩ bác không thể thua được. Bác mua sáu căn hộ ở một chung cư. Bác mua đúng lúc đang sốt nhà. Giá giờ đã giảm mất hai nhăm phần trăm, và lãi suất đã tăng lên đến hai mươi, thậm chí hai mươi tư phần trăm. Anh có nhớ vụ bê bối ở bờ biển khi người nhà Indar cho vay tiền với lãi suất mười và mười hai phần trăm không? Bác cảm thấy mình không còn hiểu nỏi tiền nữa. Và người Arập thì ở ngay ngoài đường kia.
    "Bác phải cho chịu tiền thuê nhà. Và khi đã cho chịu rồi thì anh lại hấp dẫn những người lạ. Đấy là một món đỗ lưu niệm của bác. Thẻ cá cược của một cửa hàng đánh cược ở Gloucester Road. Bác vẫn nhớ một cô gái đến từ phía bắc. Cô nhập vào đám người Arập. Cô trở thành người Arập, nhóm người nghèo khổ từ Algeria đến. Cô ta có thói vứt rác ra ngoài cửa. Người Algeria hay đánh cược ngựa. Chính vì thế họ có những lúc lên bổng xuống trầm.
    "Họ thắng, và họ lại thua. Họ không thể trả được tiền nhà. Bác giảm tiền xuống. Họ vẫn không trả nổi. Có những phàn nàn về rác và những cuộc cãi cọ, và người Algeria đó có thói quen đái vào thang máy khi ở trong đó. Bác yêu cầu họ dọn đi. Họ từ chối và luật pháp đứng về phía họ. một hôm, khi họ đi khỏi bác bèn thay khóa mới. Khi quay về họ gọi cảnh sát và cảnh sát mở cửa cho họ. Để ngăn bác làm điều đó một lần nữa, họ lắp khóa của họ vào. Hồi đó, trên cánh cửa này, lỗ khóa và những vòng tròn trông giống như hàng nút áo sơ mi. Bác bỏ cuộc.
    "Tất cả các loại hoá đơn thanh toán đều không được trả tiền. Một buổi sáng bác lên và gõ cửa. Phòng đầy tiếng thì thầm, nhưng cửa vẫn không mở. Thang máy ngay cạnh cửa căn hộ. Bác mở cửa thang máy và đóng lại. Họ nghĩ bác đã đi và để chắc chắn họ mở cửa ra để nhìn. Bác thò chân chặn cửa và bước vào. Căn hộ nhỏ đầy những người Arập nghèo khổ mặc đồ lót xấu xí. Họ nằm la liệt khắp nơi. Cô gái không ở cùng với họ. Họ đã tống cô ta, hoặc cô ta đã bỏ đi. Cứ thế khoảng hai tháng, khi bác trả hai mươi phần trăm lãi và những thứ tiền khác,.bác phải cung cấp một chỗ trú ngụ miễn phí cho một tá người Arập rách rưới này. Họ là một loại người rất lạ. Một trong số họ có tóc đỏ rực. Họ làm gì ở London này? Anh có nghĩ được là họ làm gì không? Họ sống được bằng cách nào? Có quá nhiều những người như họ.
    "Một cô gái khác làm bác cháy túi. Cô ta đến từ Đông Âu. Tị nạn? Nhưng cô ta là đàn bà. Cô ta phải tiêu một ít tiền để in những tấm card. Trong ảnh cô ta thò mỗi cái cổ lên khỏi mặt nước, bác không biết tại sao cô ta nghĩ cô ta có thể in hình đó lên card của mình. Trong ảnh cô ta giơ tay lên, để lộ một khoảng ngực. Còn tại đây cô ta đội chiếc mũ quả dưa màu đen rất to và đôi giày da màu đen và thò ra ở một góc. "Erika. Người mẫu – Diễn viên – Ca sĩ – Vũ nữ. Tóc đỏ. Mắt xanh xám. Chuyên môn: Mẫu – mốt – Đồ trang sức – giày dép-Tay-Chân-Răng-Tóc. 5 9 , 32-25-33". Tất cả những cái đó chẳng ai muốn mua cả. Rồi cô ta có bầu, chịu một hoá đơn điện thoại 1200 bảng – một nghìn hai trăm bảng – và một đêm cô ta trốn đi, để lại những tấm card có hình của cô ta. Một đống lớn. Bác không thể chịu đựng được tất cả những cái đó. Bác cảm thấy mình phải giữ lại một cái vì cô ta.
    "Điều gì đã xảy đến với những người đó? Họ đi đâu bây giờ? Họ sống thế nào bây giờ? Họ có về nhà không? Họ có nhà để về không? Anh đã nói nhiều, Salim ạ, về những cô gái từ Đông Phi đến những kiốt bán thuốc lá, bán thuốc lá vào những giờ khuya khoắt ban đêm. Điều đó làm anh thấy chán nản. Anh nói họ không có tương lai và rằng họ thậm chí không biết mình là ai. Bác tự hỏi liệu đó lại chẳng phải là vận may của họ. Họ cho rằng làm những việc đó rất nhàm chán, họ làm. Những người mà bác nói tới cũng có những dự định và họ biết họ đã lạc lối ở London. Bác cho rằng hẳn là phải khủng khiếp với họ lắm khi họ phải quay về nhà. Nơi này đầy những người như họ. Họ đến trung tâm bởi vì đó là tất cả những gì họ biết và bởi vì họ nghĩ đó là giải pháp khôn ngoan, và thử làm điều gì đó. anh không thể kết án họ. Họ đang làm điều mà họ thấy những người vĩ đại đang làm.
    "Nơi này rộng lớn và luôn luôn bận rộn, anh phải bỏ thời gian để xem từng cái nhỏ nhặt diễn ra. Nó chỉ đơn giản là vẫn tiếp tục vận động. Nhiều người đã bị thổi bay. Không có tiền mới, không có tiền thật, và điều đó làm cho mọi người trở nên tuyệt vọng hơn. Chúng ta đến đây vào một thời điểm sai lầm. Nhưng đừng để ý đến điều đó. Chúng ta cũng đến sai thời điểm ở mọi chỗ khác thôi. Ngày xưa khi chúng ta ở châu Phi xem những catalog, đặt hàng và nhìn tàu thuỷ dỡ hàng dưới bến, bác không cho rằng mình nghĩ nó giống như châu Âu, hoặc những cái hộ chiếu Anh bác đã lấy làm cái để bảo vệ những người châu Phi hiện đang mang chúng ta đến đây, và rằng những người Arập đó lại ở ngoài đường phố"
    Đó là Nazruddin. Kareisha nói "Em hy vọng anh biết anh đã nghe chuyện của một người hạnh phúc." Cô không cần nói với tôi.
    Nazruddin nói đúng. Ông đã biến Gloucester Road thành nhà ông. Khung cảnh châu Âu thật lạ lùng, nhưng nhìn Nazruddin thì thấy cứ như là ông vẫn luôn ở đây từ trước. Ông sắp bước sang tuổi sáu mươi, nhưng trông ông không có vẻ già đi. Ông vẫn mặc những bộ đồ theo kiểu cũ, và những ve áo rộng (với những mẩu phồng lên) mà tôi đã quen là mốt lâu lắm rồi. Tôi không nghĩ ông nghi ngờ tính đúng đắn của công việc kinh doanh của mình. Điều đẽ nặng lên ông (và làm ông nói về chuyện vận may đã rời khỏi ông ) là sự bất động của ông. Nhưng ông đã tìm thấy nơi nghỉ ngơi hoàn hảo của mình. Đó là một địa điểm giữa bến xe điện ngầm và công viên, trên đường Gloucester.
    Ông mua báo ở một cửa hiệu, và đọc nó khi uống cà phê buổi sáng trong quán cà phê nhỏ cũng có những bức tranh cổ bằng màu nước để bán, dạo quanh công viên một vòng, đi mua sắm cho mười ngày trong nhiều cửa hàng lương thực khác nhau. Đôi khi ông tự cho mình cái thói xa xỉ là ly trà hoặc một thứ đồ uống trong cái buồng to, cổ lỗ của khách sạn tường đỏ gần trạm xe điện ngầm. Đôi khi ông đến "phòng nhảy" của người Arập hoặc Ba Tư. Và đêm thì trong căn hộ có tivi. Những người ở Gloucester Road rất cởi mở, luôn nồng nhiệt với những người ở mọi lứa tuổi. Đó là một nơi thật thân thiện, đầy không khí hội hè, và những ngày của Nazruddin đầy những gặp gỡ và quan sát mới. Ông nói đó là phố đẹp nhất trên thế giới, ông có ý định ở lại đó lâu nhất có thể được.
    Lại thêm một lần nữa ông lựa chọn đúng. Đó luôn là biệt tài của ông. Vào lúc tôi thấy lo lắng tìm kiếm trong thế giới mà ông đã tìm được. Tấm gương Nazruddin, hay cách mà tôi ngầm diễn giải từ đó, dù sao cũng giúp để định hướng cuộc đời tôi. Giờ đây ở London, dù ít khi tôi thấy ông ở trạng thái tinh thần thoải mái, khả năng này của ông làm tôi cảm thấy nặng nề. Nó làm tôi c một sau tất cả những năm đó tôi chưa hề đạt được đến tầm của ông, và không bao giờ có thể hết cả, rằng cuộc đời thật luôn luôn không được thoả mãn. Tôi phải đi về căn phòng khách sạn của mình trong một sự hấp hối của cô đơn và sợ hãi.
    Đôi khi đang lơ mơ ngủ tôi choàng tỉnh giấc vì một hình ảnh nào đó về cái thị trấn châu Phi của chúng tôi vừa chợt đến – cực kỳ thật (và cái máy bay có thể đưa tôi về vào ngày mai), nhưng những liên tưởng khiến nó giống như một giấc mơ. Rồi tôi nhớ đến sự bừng tỉnh của mình, về nhu cầu của con người chỉ để sống, về ảo tưởng về nỗi đau. Tôi lấy London đối chọi lại châu Phi cho đến khi cả hai trở nên không thực, và tôi lại có thể ngủ tiếp. Sau đó một lúc tôi phải viện đến sự bừng tỉnh, tâm trạng của buổi sáng châu Phi này.Nó ở đó, bên cạnh tôi, cái viễn cảnh của hành tinh, của những con người lạc lối trong không gian và thời gian, nhưng thật khủng khiếp, bận rộn đến không còn hướng đi nào.
    Chính trong trạng thái dửng dưng và vô trách nhiệm – giống như những người ở Gloucester Road mà Nazruddin đã kể - mà tôi đã đính hôn với Kareisha.
    Một hôm, khi tôi sắp rời khỏi London, Kareisha hỏi "Anh có gặp Indar không? Anh có đi gặp anh ấy không?"
    Indar! Tên của anh thường đến trong những cuộc nói chuyện của chúng tôi, nhưng tôi không biết anh đang ở London.
    Kareisha nói "Đúng là thế đấy. Em không khuyên anh đến thăm. Có lẽ anh ấy đang gặp khó khăn và nóng nảy, và không vui vẻ lắm. Anh ấy vẫn thế kể từ khi công việc của anh ấy bị ngừng lại".
    "Công việc bị ngừng lại à?"
    "Cách đây khoảng hai năm".
    "Nhưng anh ấy biết sẽ như thế mà. Anh ấy nói như là anh ấy biết trước vậy. Các giảng viên, trường đại học, chương trình trao đổi ở châu Phi – anh ấy biết sự phấn khích không thể kéo dài, rằng không một chính quyền địa phương nào thực sự quan tâm đến người khác. Nhưng anh ấy nghĩ anh ấy có kế hoạch của mình. Anh ấy nói anh ấy có thể tự khám phá mình theo nhiều cách khác nhau".
    Kareisha nói "Mọi cái khác đi khi thời điểm đến. Anh ấy quan tâm nhiều đến công việc hơn là anh ấy tỏ ra. Tất nhiên, có nhiều điều anh ấy có thể làm. Nhưng anh ấy quyết không chịu làm. Anh ấy có công việc ở một trường đại học, tất nhiên ở bên Mỹ. Anh ấy có những mối quan hệ. Anh ấy có thể viết bài cho báo. Giờ đây, khi gặp anh ấy chúng em không nói về chuyện đó nữa. Nazruddin nói là Indar sẽ trở thành trợ giảng. vấn đề rắc rối là anh ấy đã đầu tư quá nhiều vào cái công việc đó của anh ta. Và sau khi nó bị ngừng, anh ấy trở nên căm ghét nước Mỹ. Căm ghét chính mình nữa.
    "Anh biết Indar mà. Anh biết rằng khi còn trẻ điều quan trọng nhất với anh ấy là gia đình anh ấy rất giàu có. Anh còn nhớ ngôi nhà chúng ta từng sống không. Khi sống ở trong một ngôi nhà như thế, em cho là anh sẽ nghĩ đến mười hay mười hai hay hai mươi lần một ngày rằng anh rất giàu, hoặc anh giãu hơn tất cả những người khác. Và anh nhớ anh đã luôn sống như thế. Không nói đến chuyện tiền, nhưng nó luôn ở đó. Anh có thể nói rằng anh ấy cảm thấy rằng tiền đã làm anh ấy trở nên đáng kính. Mọi người giầu có đều như thế cả, em nghĩ vậy. Và đó là ý niệm về bản thân mình mà Indar chưa bao giờ mất đi cả. Công việc của anh ấy không mang lại cho anh ấy tiền bạc, nhưng lại làm cho anh ấy trở nên cao quý. Nó lại nâng anh ấy lên trên những người khác và làm anh ấy tương đương với những kẻ quan trọng khác ở châu Phi, trở thành khách của chính phủ ở chỗ này, chỗ kia, gặp gỡ các bộ trưởng và Tổng thống nước ngoài. Thế nên thật thảm hoạ khi cái công việc đó bị ngừng lại, khi người Mỹ quyết định ở đó không có gì cho họ hết.
    "Indar đến Mỹ, đến New York. Theo phong cách của bản thân, anh ấy đã ở khách sạn đắt tiền. Anh ấy gặp những người Mỹ của mình. Họ đều rất đẹp. Nhưng anh ấy không thích hướng mà họ đẩy anh ấy vào. Anh ấy cảm thấy họ đang đẩy anh ấy vào những điều nhỏ bé hơn và anh vờ như không nhận ra. Em không biết Indar trông chờ gì ở những người này. Không, có lẽ em biết. Anh ấy hy vọng được biến thành một người trong số họ, tiếp tục như cũ. Anh ấy nghĩ điều đó là trách nhiệm của mình. Anh ấy đã tiêu rất nhiều tiền, và tiền đã hết. Rồi đến khi, rất không như anh ấy mong muốn, anh ấy phải chuỷên đến những khách sạn rẻ hơn. Anh ấy không muốn làm điều đó bởi vì anh ấy nghĩ rằng chỉ nhìn vào những khách sạn rẻ tiền hơn cũng đã là chấp nhận rằng không sớm thì muộn nó sẽ dành cho mình. Anh ấy kinh hoàng khi phải ở những khách sạn rẻ tiền hơn. Tại New York mọi người tuột dốc nhanh lắm, anh ấy nói.
    "Có một người đàn ông đặc biệt mà anh ấy thường giao du. Anh ấy đã gặp người đó ở London ngay từ lúc đầu và họ đã trở thành bạn. Không luôn như vậy đâu. Thoạt đầu anh ấy từng nghĩ người đàn ông thật điên rồ và thật nóng tính với anh ấy. Điều này thường làm Indar bối rối , bởi vì chính người này đã cứu anh ấy thoát khỏi sự nhùng nhằng anh ấy dính phải hồi đầu ở London. Người đàn ông này đã đem sự tự tin trở lại cho Indar rồi làm anh ấy nghĩ tốt về châu Phi và về chính bản thân anh ấy. Chính người đàn ông đó đã khiến Indar có những ý nghĩ tốt đẹp. Indar ngày càng phụ thuộc vào người đó. Anh ấy nghĩ anh ấy là ngang hàng, và anh có thể biết như thế có nghĩa là thế nào.
    "Họ thường gặp nhau ở New York. Ăn trưa, uống rượu, gặp gỡ ở văn phòng. Nhưng không có gì xảy ra cả. luôn luôn chỉ là trở về khách sạn, và chờ đợi.Indar ngày càng xuống thấp hơn. Một tối người đàn ông mời Indar đến nhà ông ăn tối. Đó là một toà nhà rất đắt tiền. Indar đưa tên ở tầng dưới và đi thang máy lên. Người coi thang máy chờ đợi và nhìn theo cho đến khi cửa căn hộ mở ra và Indar bước vào. Khi bước vào, Indar cảm thấy kinh ngạc.
    "Anh vẫn nghĩ con người đó ngang hàng với anh, là bạn của anh. Anh ấy cởi mở với người đàn ông đó. Giờ đây anh ấy phát hiện người đàn ông cực kỳ giàu có. Anh ấy chưa từng ở trong một căn phòng nào sang trọng hơn thế. Anh hoặc em có thể thấy điều này là hấp dẫn, tiền ấy, Indar hoang mang. Chỉ ở đó, trong căn hộ giàu sang với những đồ vật và tranh đắt tiền. Indar mới hiểu rằng trong khi anh cởi mở với người đàn ông và nói mọi điều dù là nhỏ nhặt nhất làm anh lo lắng thì anh chỉ nhận về cho mình rất ít ỏi. Người đàn ông này cao quý hơn, hơn rất nhiều. Còn hơn cả Indar có thể chịu đựng. Anh cảm thấy anh đã bị lừa và bị chế giễu. Anh ngày càng phụ thuộc vào người đàn ông đó. Anh ấy gắn những ý nghĩ của mình theo thước đo của ông ta, anh tìm ở ông ta chỗ dựa tinh thần. Anh ấy nghĩ người đàn ông đó gần như chính là bản thân anh. Anh cảm thấy mình bị dắt mũi bao nhiêu năm trời, và bị bóc lột theo cách tồi tệ nhất. Toàn bộ sự lạc quan đó làm anh đau đớn, sau khi anh đã mất nhiều đến thế. Tất cả những ý tưởng xây dựng châu Phi ở căn hộ này hết cả, hoặc trong bữa tiệc tối này. Không có nguy hiểm, không có mất mát. Cuộc sống riêng tư, cuộc sống với bạn bè, khá là khác với cuộc sống bên ngoài. Em không biết Indar dự định gì.
    "Trong bữa tối ấy anh ấy tập trung quan sát một người phụ nữ trẻ. Cô ấy là vợ một nhà báo rất già đã viết nhiều sách kiếm được nhiều tiền một thời. Indar ghét cô ta. Tại sao cô ta lại lấy người đàn ông đó? Trò đùa là ở đâu? Bởi vì có vẻ như là cô ta và người đàn ông mà cô ta có công chuyện làm ăn là trung tâm của bữa tối. Họ không bí mật lắm, và ông già kia cũng tỏ ra không biết. Ông ấy chỉ nói một chút về chính sách của nước Pháp những năm 1930, vẫn giữ mình ở trung tâm mọi vấn đề, nói về những người quan trọng ông ấy gặp và những điều người ta nói riêng với ông. Không ai mảy may chú ý đến ông ta, nhưng ông ta không hề quan tâm.
    "Ông ta vẫn là một người nổi tiếng. Indar nghĩ rằng nhiều về điều đó. Anh ấy cố đặt mình vào địa vị ông già, để căm ghét hơn những người khác. Rồi ông già nhận ra Indar là ai, và bắt đầu nói về Ấn độ ngày xưa và cuộc gặp của ông ta với Gandhi tại một cái lều trát bùn lừng danh nào đó. Anh biết đấy, Gandhi và Nehru không phải là chủ đề ưa thích của Indar. Đêm đó anh ấy quyết định không giao tiếp với ai, và đã rất ác nghiệt với ông già, ác nghiệt hơn bất kỳ ai trước đó.
    "Thế là đến cuối bữa ăn Indar trở nên rất nghiêm trang. Anh ấy nghĩ về những khách sạn rẻ tiền anh ấy phải sống, khi đang đi xuống thang máy anh ấy cảm thấy sợ hãi kinh khủng. Anh ấy nghĩ mình đã đi quá đà. Nhưng anh ấy tự cho mình đúng, và do đó anh ấy bình tĩnh lại. Anh ấy chỉ có một ý nghĩ đơn giản rằng đã đến lúc, đi khỏi nơi này và về nhà.
    "Đó là những chuyện xảy ra với Indar. Thời gian trôi đi và cũng đến thời điểm Indar nhận ra rằng anh ấy nên quay trở vê` nhà. Trong đầu anh ấy có thể co một ngôi làng mơ ước nào đó. Anh ấy biết mình được học hành để làm những việc quan trọng hơn, nhưng anh ấy không muốn làm chúng. Anh ấy tin là anh ấy thoả mãn khi được nói là anh có thể làm tốt hơn. Giờ đây chúng ta đã bỏ rơi anh ấy. Anh ấy không muốn lại mạo hiểm một cái gì đó nữa. Ý nghĩ về hy sinh là an toàn hơn, và anh ấy thích hành động. Nhưng tự anh sẽ thấy, khi anh quay trở về".
 

Khi nói về Indar, Kareisha làm tôi xúc động hơn là cô tưởng. Ý tưởng trở về nhà, bỏ đi, ý tưởng về nơi khác - tôi đã sống với những dạng thức khác nhau đó trong nhiều năm. Tại châu Phi nó vẫn luôn như thế đối với tôi. Tại London, trong phòng khách sạn của mình, tôi đã cho phép nó chiếm lĩnh mình vài đêm. Đó là một sự lừa dối. Giờ đây tôi đã biết nó chỉ làm con người ta suy yếu và tiêu diệt người ta.
    Sự bừng tỉnh này, tính thống nhất của kinh nghiệm và ảo tưởng của sự đau đớn, là một phần của cùng một cách cảm giác đó. Chúng tôi cảm thấy rơi vào trong đó – những người giống như Indar và tôi – bởi vì nó là nền tảng của cách sống cũ của chúng tôi. Nhưng tôi đã vứt bỏ lối sống đó – và vừa kịp lúc. Dù có những người con gái ở các kiốt bán thuốc lá, kiểu sống đó không còn tồn tại nữa, ở London cũng như ở châu Phi. Có thể có cái gì đó không trở lại, không có gì trở lại hết cả. Chúng ta đã trở nên cái mà thế giới bên ngoài biến chúng ta trở thành" chúng ta phải sống trong thế giới như là nó đang tồn tại. Hồi trẻ hơn Indar khôn ngoan hơj. Sử dụng máy bay, dẫm lên quá khứ, như Indar từng nói anh dẫm lên quá khứ. Thoát khỏi ý nghĩ về quá khứ đó, biến những cảnh mất mát giống như trong mơ thành thường ngày.
    Đó là tâm trạng của tôi khi rời khỏi London và Kareisha, để quay trở lại châu Phi, hiện thực hoá nhiều nhất có thể được các ý tưởng. Và để làm lại một sự bắt đầu mới ở một nơi khác.
    Tôi đến Brussels vào một buổi chiều muộn. Chuyến bay đến châu Phi sẽ cất cánh lúc nửa đêm. Tôi lại cảm thấy sự thú vị của chuyến bay, London biến mất , châu Phi sắp đến, còn giờ là Brussels. Tôi ăn tối và sau đó đến quán bar, một nơi có đàn bà. Toàn bộ sự phấn khích nằm ở ý tưởng địa điểm hơn là chính bản thân địa điểm. Những gì diễn ra sau đó rất ngắn ngủi, không nghĩa lý gì và khá yên tâm. Nó không làm giảm bớt giá trị của cái mà tôi đã có ở châu Phi. Không có ảo tưởng nào hết cả, nó đúng là như thế. Và nó đã làm mất đi sự nghi ngờ đặc biệt tôi cảm thấy về cuộc đính hôn của mình với Kareisha, người mà tôi thậm chí còn chưa hôn lần nào.
    Người đàn bà, khoả thân, không quần áo, đứng trước một tấm gương dài và nhìn ngắm mình. Đôi chân to, bụng tròn ung ủng, ngực độn lên. Cô ta nói "Em tập yoga với một nhóm bạn. Chúng em có một giáo viên, anh có tập yoga không?"
    "Anh chơi squash"
    Cô không mảy may để ý. "Thầy giáo của chúng em nói rằng thứ nước tâm linh của người đàn ông có thể chế ngự người đàn bà. Thầy giáo của chúng em nói rằng sau cuộc gặp gỡ nguy hiểm người đàn bà có thể trở lại là mình bằng cách đập mạnh hai bàn tay hoặc thở ra một hơi thật sâu. Anh khuyên em nên chọn cách nào?"
    "Vỗ tay đi"
    Cô đứng đối diện với tôi như thể cô đang đứng đối diện với giáo viên tập yoga của mình, đứng thẳng lên, hơi nhắm mắt, vòng tay ra sau, và đập mạnh hai tay vào nhau. Trong tiếng động, vang lên trong căn phòng nhỏ rất nhiều đồ đạc, cô ta mở mắt ra, vẻ ngạc nhiên, mỉm cười như thể đã đùa cợt, và nói "Đi nào!" Khi đi ra ngoài phố, tôi hít thở một hơi dài, và đi thẳng đến sân bay để đón chuyến bay vào lúc nửa đêm.
Bình minh chợt đến, trong cái nhợt nhạt của phía tây, ở phía đông đỏ lên với những gợn mây đen. Cứ như thế trong nhiều phút. Độ cao, rất tuyệt – cách mặt đất sáu dặm! chúng tôi hạ dần xuống, rời khỏi ánh sáng phía trên. Bên dưới đám mây nặng nề, châu Phi hiện ra như một mảnh đất xanh đen chào đón. Chúng tôi có thể nhìn thấy bình minh châu Phi, những khu rừng và ruộng đồng dường như vẫn đang còn ở trong bóng tối. Cánh rừng hiện dần ra. Mặt trời hạ xuống đám mây, trời đã sáng khi chúng tôi hạ cánh.
    Cuối cùng thì tôi cũng đến thủ đô. Thật là một hành trình lạ lùng để đến đây, sau một chuyến đi vòng vèo đến thế. Nếu từ thị trấn ở thượng nguồn tôi đến thẳng đây thì thủ đô có vẻ như là mênh mông ,giàu có. Nhưng sau khi đã ở châu Âu, và London thì nó dường như là rất nhạt nhoà dù cho tầm vóc của nó, một mô phỏng châu Âu ở cuối khu rừng đó.
    Những người khách châu Âu có kinh nghiệm không để ý đến những bức ảnh Tổng thống với chiếc gậy chỉ huy của mình, gây áp lực ở chỗ những nhân viên nhập cảnh và hải quan để được đi qua nhanh. Tôi tự hỏi sự tự tin của họ, nhưng họ chủ yếu là những người được bảo vệ - nhân viên sứ quán, những người làm việc trong các dự án, những người làm việc trong các công ty lớn. Chuyến đi của tôi không cao cấp được như vậy. Khi tôi đã đi qua, văn phòng gần như trống không. Những chiếc ảnh máy bay và ảnh Tổng thống không được ai ngó đến. Hầu hết các quan chức đều đã biến mất. Và đã sáng rõ rồi.
    Phải đi khá lâu mới về được thị trấn. Nó giống như chuyến đi, ở thị trấn của tôi, t` từ Khu đến trung tâm thị trấn. Nhưng vùng đất này cao hơn ở đây và mọi thứ có tỉ lệ lớn hơn. Những thị trấn và cité nghèo đói (với những ruộng ngô giữa các ngôi nhà) lớn hơn, có xe buýt, thậm chí cả một đường sắt với những toa mở kiểu cũ, có những nhà máy. Dọc theo con đường những tấm bảng lớn cao chừng mười feet, được bôi vẽ không đồng nhất, mỗi cái có một câu trích dẫn từ danh ngôn của Tổng thống . một số chân dung vễ Tổng thống lớn đúng bằng một ngôi nhà. Ở thị trấn không có cái gì tương tự như thế. Mọi thứ ở thị trấn của chúng tôi, như tôi nhận thấy, đều có tỉ lệ nhỏ hơn.
    Những tấm chân dung, những bức tượng mẹ đồng trinh châu Phi dựng tạm – chúng tiếp tục bằng mọi con đường đến tới được khách sạn. Nếu tôi từng đến thủ đô thẳng từ thị trấn của chúng tôi tôi có thể đã bị sốc. Nhưng sau khi đã đến châu Âu, và sau khi tôi đã nhìn thấy cả đất nước từ trên không trung, và vẫn còn có cảm giác về sự mù mờ của thủ đô, thái độ của tôi đã khác, và tôi ngạc nhiên về điều này. Với tôi có một nhân tố chết chóc nào đó trong những câu châm ngôn, chân dung và tượng, trong ý muốn của một người đàn ông của cây bụi muốn biến mình thành vĩ đại, và đạt đến điều đó bằng một cách thô thiển đến vậy. Tôi thậm chí còn cảm thấy thông cảm chút ít với người đã trưng bày chính mình như thế.
    Giờ đây tôi đã hiểu tại sao nhiều người khách mới đây của chúng tôi tại Khu lại thấy đất nước của chúng tôi, và sự kính sợ của chúng tôi đối với Tổng thống , là nực cười. Tuy nhiên điều tôi nhìn thấy trên đường từ sân bay về không có vẻ gì là nực cười hết. Tôi cảm thấy nó là một tiếng thét thì đúng hơn. Tôi vừa từ châu Âu về, tôi đã nhìn thấy sự ganh đua thật sự.
    Qua đêm tôi đã từ một châu lục đến một châu lục khác, và sự cảm thông bất chợt với Tổng thống , nhìn nhận về sự bất khả của cái mà tôi nghĩ ông ta đang cố làm, chỉ đến vào thời điểm đặt chân đến sân bay. Sự cảm thông biến mất khi thành phố dần trở nên quen thuộc hơn và tôi bắt đầu coi nó là một phiên bản lớn hơn của thị trấn của tôi. sự thông cảm, thực thế, bắt đầu mất đi khi tôi vào cái khách sạn lớn (có điều hoà nhiệt độ, cửa hiệu trong hành lang, một bể bơi không ai sử dụng) và thấy nó đầy cảnh sát chìm. Tôi không thể tưởng tượng họ lại làm như thế ở đó. Họ có ở đó để chứng tỏ chính mình với khách khứa. Và cũng bởi vì họ muốn ở trong cái khách sạn mới sang trọngm, họ muốn hiện ra trước mặt khách khứa trong khung cảnh hiện đại đó. Thật là lâm ly, bạn có thể đùa cợt về điều đó. Nhưng những người đàn ông này không phải luôn luôn buồn cười. Những căng thẳng của châu Phi giờ đã quay về với tôi.
    Đó chính là thành phố của Tổng thống . Đó là nơi ông ta đã lớn lên và nơi mẹ ông ta đã làm việc ở khách sạn. Đó là nơi, thời còn thuộc địa, ông đã có ý tưởng về châu Âu riêng. Thành phố thời thực dân, rộng lớn hơn thành phố của chúng tôi, nhiều khu dân cư giàu có với những cái cây giờ đây đã lớn, vẫn còn đó. Chính với cái châu Âu này mà, trong những toà nhà của mình, Tổng thống muốn ganh đua. Thành phố, trong tình trạng suy tàn ở trung tâm, với những con đường bẩn thỉu và những đống rác ở ngay sau những đại lộ lớn thời thuộc địa, vẫn đầy người làm việc. Những khu vực rộng gần sông đã chuyển thành sở hữu của Tổng thống – những nơi có tường cao, có sân, nhà của chính phủ nhiều dạng khác nhau.
    Trong những khu vườn của Tổng thống gần ghềnh nước (ghềnh nước ở đây khá giống với chỗ chúng tôi, cách đó một nghìn dặm về phía thượng nguồn), bức tượng người thám hiểm châu Âu đã đến dòng sông và sử dụng chiếc tàu thuỷ đầu tiên đã bị thay thế bằng một bức tượng khổng lồ của một thủ lĩnh bộ lạc của châu Phi với dáo và khiên được làm theo phong chách châu Phi hiện đại, cha Huismans chắc sẽ dành thời gian cho nó. Bên cạnh bức tượng là một bức tượng nhỏ hơn hình đức mẹ đồng trinh với đâu cúi xuống, che mạng. Gần đó là những chữ viết của những người châu Âu đầu tiên, một khung cảnh chết, ngoài đó tất cả đã lớn lên, ngoài đó thị trấn của chúng tôi đã được gieo mầm. Những người đơn giản, với những hoạt động buôn bán đơn giản và những hàng hoá đơn giản, nhưng là các nhân viên của châu Âu. Giống như những người giờ đây đến, giống như những người trên máy bay .
    Ghênh nước tạo ra một âm thanh đều đều, không đổi. Những cây dạ lan hương nước, "vật thể mới ở dòng sông", bắt đầu cuộc hành trình từ nơi rất xa, tại trung tâm lục địa, nhảy đến từ quá khứ trong những bước nặng nề và lộn xộn và những cây nho, ở đây gần như đã đạt đến điểm cuối cùng của chuyến đi.
    
    Sáng hôm sau tôi quay lại sân bay để bay tuyến nội địa. Giờ đây tôi đã quen với nơi này, và sự trải dài của thủ đô tao ra một cảm giác mạnh hơn. Luôn luôn, bên cạnh đường băng, có một khung cảnh gì đó mới. Tất cả những người đó sống thế nào? Khu đất đồi trải dài trống trơn, nứt nẻ, xói mòn, cạn khô. Có rừng ở đó không? Những cái chân đỡ các châm ngôn của Tổng thống vẫn thường được làm bằng đất sét. Và bản thân những tấm bảng được bôi lem nhem bằng bùn từ đường và đầy bụi nâu ở cuối, không tươi mới như buổi sáng hôm trước, là một phần của sự quạnh hiu.
    Tại sân bay, tại khu bay nội địa, bảng báo cất cánh thông báo chuyến bay của tôi và một chuyến khác. Tấm bảng hoạt động bằng điện được làm ở Italia. Nó là một dụng cụ hiện đại, nó giống như những tấm bảng tôi từng nhìn thấy ở các sân bay London và Brussels. Nhưng bên dưới chúng, quanh các bàn kiêm tra và những máy móc nặng nề là sự tranh cướp thông thường, và những thứ đồ đạc đã được kiểm tra, với rất nhiều tiếng gào, trông giống như các kiện hàng trên xe buýt hạng rẻ tiền, những đai sắt, hộp vuông, bó vải, những đống đồ, những chậu men lớn buộc vào vải.
    Tôi có vé và nó hợp lệ, nhưng tên tôi không có trong danh sách hành khách. Mất vài franc để qua được. Và rồi, ngay khi tôi chuẩn bị ra máy bay, một nhân viên anh ninh mặc đồ dân sự đang ăn gì đó hỏi giấy tờ của tôi và cho rằng cần phải kiểm tra nó cụ thể hơn. Anh ta trông thật thù địch và bắt tôi phải đợi trong một căn phòng nhỏ trống trơn. Đó là thủ tục. Trong căn phòng riêng người bị nhốt bị ngó nghiêng suốt – đó là cách các nhân viên bậc trung cho bạn biết rằng họ sẽ lấy của bạn một ít tiền.
    Nhưng người này không lấy gì, bởi vì anh ta đang trêu tức và bắt tôi đợi trong căn phòng nhỏ đó rất lâu, không buồn quay lại xem, nói anh ta đã hoãn chuyến bay và bị một nhân viên hàng không mắng, người này rõ ràng là biết tôi bị tìm thấy ở đâu, đang bị nhốt trong căn phòng nhỏ, gào lên với tôi là hãy ra ngoài ngay lập tức, và anh ta đưa tôi đi ra qua đường băng lên máy bay, người cuối cùng, nhưng lại may mắn.
    Ở hàng ghế đầu là một trong số các phi công người châu Âu, một người đàn ông trung niên nhỏ bé, bên cạnh ông là một cậu bé người Mỹ, nhưng thật khó để nói họ có liên hệ gì không. Vài hàng ghế đằng sau là một nhóm sáu hoặc tám người châu Phi, những người ở độ tuổi ba mươi, với những chiếc áo khoác cũ và áo sơ mi cài kín chổ, đang nói chuyện rất to. Họ đang uống whisky, uống thẳng bằng chai – và mới chín giờ sáng. Whisky ở đây rất đắt, và những người đó muốn tất cả biết rằng họ đang uống whisky. Cái chai được chuyền cho những người lạ, thậm chí nó còn được chuyển đến cho tôi. Những người đó không giống người ở vùng tôi. Họ to béo hơn, với những vẻ dáng khác hẳn. Tôi không thể hiểu được khuôn mặt họ, tôi chỉ nhìn thấy sự cao ngạo và vẻ say sưa tại đó. Họ toàn tâng bốc, họ muốn những người còn lại biết rằng họ là những người sở hữu các đồn điền. Họ giống như những người với mới có tiền, và tất cả làm tôi thấy thật điên khùng.
    Đó là một chuyến bay đơn giản, hai tiếng đồng hồ một lần dừng giữa chừng. Và tôi thấy dường như, với kinh nghiệm bay quốc tế, rằng chúng tôi vừa mới lao lên trên những đám mây trắng thì đã lại đâm xuống để dừng lại. Chúng tôi thấy rằng mình đang bay dọc theo sông – màu nâu, gợn sóng, chao đảo và thành vệt từ trên độ cao này, với những dòng kênh giữa những hòn đảo màu xanh nhỏ và thuôn. Bóng máy bay dịch chuỷên trên đỉnh khu rừng. Cái đỉnh này trở nên kém bằng phẳng và ken sít hơn khi bóng máy bay trở nên lớn hơn, khu rừng chúng tôi đang lao xuống khá là xơ xác.
    Sau khi hạ cánh chúng tôi phải rời khỏi máy bay. Chúng tôi vào một toà nhà nhỏ bên cạnh đường băng ,và trong khi ở đó chúng tôi thấy máy bay quay đầu, đi và bay mất. Nó được trưng dụng cho một nhu cầu nào đó của Tổng thống , nó có thể quay về khi đã làm xong việc đó. Chúng tôi phải đợi. Lúc đó mới khoảng mười giờ. Cho đến khoảng giữa trưa, trong khi trời ngày càng nóng, chúng tôi rất bức bối. rồi chúng tôi đi nghỉ - tất cả chúng tôi, cả những người uống whisky – để chờ đợi.
    Chúng tôi đang ở giữa vùng cây bụi. Cây bụi bao quanh khu đất quang quẻ của đường băng. Xa xa, cây cối đậm đặc dọc theo lòng sông. Máy bay to lớn thế mà cũng dễ dàng lạc lối đến thế, cũng mất hàng giờ để đi ngược dòng sông chính. Cách sống không xa lắm, người ta có thể sống trong những ngôi làng họ đã sống hàng thế kỷ nay. Không đến bốn mươi tám giờ trước đó, tôi đã từng ở Gloucester Road náo nhiệt, nơi cả thế giới gặp nhau. Giờ đây, tôi đang nhìn chằm chằm vào cây bụi hàng giờ liền. Tôi cách thủ đô bao nhiêu dặm đường, cách thị trấn bao nhiêu bao xa? Đi đường bộ hay đường sông mất bao nhiêu thời gian mới qua được khoảng cách đó? Mất bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng, và phải gặp những hiểm nguy nào?
    Trời đầy mây. Những đám mây ngày càng dầy và cây bụi ngày càng tối lại. Bầu trời bắt đầu tung xuống sấm chớp, và rồi mưa và gió chợt đến, đẩy chúng tôi ra khỏi hàng hiên của toà nhà nhỏ. Mưa và bão tố. Cây bụi biến mất trong mưa. Cơn mưa như thể lao xuống những cánh rừng, ném xuống cỏ và những hạt giống màu xanh quanh toà nhà sân bay to lớn. Cơn mưa uể oải, mây cao lên một chút. Cây buị lại hiện ra, một hàng cây sau một đường khác, hàng gần nhất tối hơn, những hàng xa hơn mờ đi thành màu xám xịt của bầu trời.
    Những chai bia rỗng không đầy trên cái bàn bằng kim loại. không có nhiều người đi lại lắm, gần như tất cả đều tìm được chỗ ngồi. Không ai nói nhiều. Người đàn bà Bỉ trạc trung niên mà tôi đã thấy ở trong phòng chờ đợi đi cùng máy bay chúng tôi vẫn đắm vào quyển sách tên là Peyton Place bìa giấy tiếng Pháp. Bạn có thể thấy rằng bà ta đã bắt cây bụi và thời tiết bên ngoài im tiếng để sống ở một nơi nào đó khác.
    Mặt trời hiện ra và trượt đi trên cỏ cao, ẩm ướt. Mặt đường nhựa bốc hơi, và trong một lúc tôi nhìn những cái đó. Muộn hơn vào buổi chiều một nửa bầu trời trở nên tối đen, trong khi nửa kia vẫn còn sáng. Cơn bão bắt đầu với tia chớp chói loà, vùng đất trở nên tối, lạnh và rất ẩm ướt. Rừng trở thành một vùng tối mờ. Không có phấn khích gì trong trận bão thứ hai này.
    Một trong số hành khách người Phi, một ông già, đội chiếc mũ màu ghi, choàng một chiếc khăn tắm màu xanh trên quần áo của mình. Không ai để ý nhiều đến ông. Tôi chỉ nhận thấy sự ngớ ngẩn của ông già và nghĩ, ông ta đang sử dụng một vật xa lạ với cách thông thường của mình. Và điều gì đó giống thế đi qua đầu tôi khi một người đàn ông đi chân trần quay sang đội một chiếc mũ bảo hiểm của lính cứu hoả với phần che mặt trong suốt được kéo xuống. Ông ta là một ông già với bộ mặt teo tóp, chiếc quần sọoc màu nâu và chiếc áo màu ghi cũ rích và ướt đẫm. Tôi nghĩ, ông ta đã tìm được một cái mặt nạ vũ hội thực sự. Ông đi từ bàn này đến bàn khác, tìm kiếm những chai bia. Khi ông ta quyết định rằng một cái chai nào đó đáng để uống ông bèn nâng cao cái mặt che lên và uống.
    Đã thôi mưa, nhưng vẫn còn tối, bóng tối của buổi chiều muộn. Máy bay, thoạt tiên chỉ là một vệt khói mờ màu nâu trên trời, đã hiện ra. Khi chúng tôi đi ra đường bay ẩm ướt để lên máy bay tôi nhìn thấy người đàn ông với chiếc mũ thợ hàn, và một người đi cùng, cũng đội mũ bảo hiểm, đứng sững bên cạnh đoàn người. Hoá ra ông ta là một người thợ hàn.
     Khi cất cánh chúng tôi nhìn thấy dòng sông, hiện ra trong những tia sáng cuối cùng. Ánh sáng đó có màu đỏ vàng, rồi chuyển thành đỏ. Chúng tôi theo dòng sông nhiều dặm và trong nhiều phút, cho đến khi nó trở thành một sự lấp lánh nhỏ bé, một sự mềm mại, cái gì đó rất trắng giữa những cánh rừng tối đen. Rồi toàn bộ đều màu đen. Qua màu đen này chúng tôi bay đến đích của mình. Chuyến đi, hồi sáng còn có vẻ đơn giản, đã mang một tính chất khác hẳn. Khoảng cách và thời gian đã khác đi. Tôi cảm thấy mình đã đi mất nhiều ngày, và khi chúng tôi bắt đầu lại hạ cánh lần nữa, tôi biết rằng mình đã đi xa, và tôi tự hỏi bằng cách nào tôi lại có sự dũng cảm để sống lâu đến thế trong một nơi xa xôi đến thế này.
    Và rồi đột nhiên tất cả trở nên thật dễ dàng. Một toà nhà thân quen, các quan chức tôi biết và có thể tán đóc được, những người mà khuôn mặt tôi quá rành, một trong những chiếc taxi cổ lỗ của chúng tôi, con đường gập ghềnh biết quá rõ của thị trấn, thoạt tiên đi ngang qua vùng cây bụi mà nó chia ra làm nhiều phần, rồi đi qua những đám lều. Sau sự lạ lẫm của ngày, giờ lại là cuộc sống có tổ chức.
    Chúng tôi đi qua một ngôi nhà bị cháy, một đống đổ nát mới. Nó từng là một ngôi trường tiểu hịoc, chưa bao giờ là một địa điểm thật sự, giống một cái nhà kho thấp hơn, và tôi có thể quên nó trong bóng tối nếu người lái xe không chỉ nó cho tôi, nó làm anh ta phấn khích. Sự nổi loạn, Quân đội tự do vẫn còn tiếp tục. Nó không làm giảm bớt ấn tượng mạnh của tôi về việc được về thị trấn, nhìn thấy những nhóm người trên vỉa hè buổi đêm, và tìm thấy chính mình, nhanh chóng thế sau khi đến nơi, là cái gì đó của sự u tối của khu rừng vẫn còn trong tôi, tại cái phố của tôi - tất cả những cái đó thật và bình thường như mọi khi.
    Thật là một cú sốc khi thấy Metty lạnh lùng đến vậy. Tôi đã đi một chuyến đi như thế. Tôi muốn nó biết, tôi nghĩ mình phải nhận được từ nó một sự đón tiếp nồng nhiệt nhất. Nhẽ ra nó phải nghe tiếng cửa taxi đóng lại và cuộc tròn chuyện ngắn của tôi với người tài xế. Nhưng Metty không đi xuống. Và tất cả những gì nó nói khi tôi đi lên cầu thang lộ thiên, và thấy nó đang đứng ở cửa phòng là "Cháu không nghĩ là chú quay trở lại, patron". Toàn bộ chuyến đi dường như trở thành nực cười.
    Mọi thứ trong căn hộ đều trật tự. Nhưng về phòng khách và đặc biệt phòng ngủ đã có một cái gì đó – có lẽ là quá trật tự, một sự vắng mặt của tình trạng cũ – điều này làmtg cảm thấy dường như trongkhi tôi đi vắng Metty đã mở rộng sự hiện hữu của nó trong căn hộ. Bức điện tôi gởi cho nó từ London nhẽ ra phải làm nó tự thu bớt lại chứ. Nó có cảm thấy điều đó không? Metty? Nhưng nó đã lớn lên trong gia đình chúng tôi, nó không biết một cuộc sống nào khác. Nó luôn ở với gia đình hoặc với tôi. Nó chưa bao giờ biết đến cuộc đời riêng của nó, trừ chuyến đi của nó từ bờ biển, và bây giờ.
    Nó mang cà phê đến cho tôi vào buổi sáng.
    Nó nói "Cháu cho là chú biết tại sao chú quay về, patron"
    "Mày đã nói đến điều đó tối hôm qua rồi"
    "Bởi vì chú chẳng có gì để trở về hết cả. Chú không biết à? Không ai nói với chú ở London à? Chú không đọc báo à? Chú chẳng biết gì cả. Họ đã lấy cửa hiệu của chú rồi. Họ đã chuỷên nó cho Citizen Théotime. Hai hôm trước Tổng thống đã đọc một bài diễn văn. Ông ấy nói đang quốc hữu hoá và lấy đi mọi thứ của mọi người. tất cả những người nước ngoài. Ngày hôm sau họ niêm phong cửa. Một vài cửa hiệu khác nữa. Chú không đọc điều đó ở London à? Chú không còn gì nữa cả, cháu không còn gì nữa cả. Cháu không biết tại sao chú quay về. Cháu không nghĩ chú về đây là vì cháu".
    Metty đang ở trong tâm trạng tồi tệ. Nó đã bị ở một mình. Hẳn nó phải nóng lòng chờ tôi về lắm. Nó đang cố gợi lên một câu trả lời tức giận của tôi. Nó đang cố làm tôi phác một cử chỉ phòng vệ. Nhưng tôi cũng lạc lối y như nó vậy.
    Quốc hữu hóa, hai hôm trước, tôi đã thấy từ này trong một dòng tin nóng hổi trên báo, nhưng tôi không để ý. Tôi đã nghĩ đó chỉ là một từ nào đó, chúng ta có hàng đống từ như thế. Tôi – và những người khác – đã bị quốc hữu hóa. Công việc buôn bán của chúng tôi đã không còn thuộc về chúng tôi nữa, do một sắc lệnh, và đã được chuyển giao cho những chủ nhân mới theo lệnh của Tổng thống . Những chủ nhân đó gọi là "các công ty nhà nước". Công dân Théotime đã trở thành chủ công ty nhà nước với tài sản của tôi, và Metty nói là tuần trước ông ta đã ở cửa hiệu vài ngày.
    "Ông ta làm gì?"
    "Làm gì? Ông ta đợi chú. Ông ấy sẽ thuê chú làm quản lý. Đó chính là điều chờ đợi chú đấy, patron. Nhưng chú sẽ thấy. Không việc gì phải vội hết. Théo không đến làm việc sớm thế này đâu".
    Khi đến cửa hiệu tôi thấy nhà kho, đã xuống cấp trong sáu tuần, hiện ra như cũ. Théo không chạm vào đó. Nhưng bàn của tôi đã được chuỷên từ chỗ cũ gần cái cột ở đằng trước cửa hiệu đến phòng kho ở đàng sau. Metty nói là điều đó đã được làm vào ngày đầu tiên. Công dân Théo dã quyết định phòng kho sẽ là văn phòng của ông ta, ông ta thích có được sự riêng tư.
    Trong ngăn kéo trên của bàn (nơi tôi thường để ảnh Yvette, cái đã từng biến đổi khung cảnh quảng trường đối với tôi) nhiều cuốn truyện - ảnh Phi-Pháp và truyện cười, những người châu Phi cho thấy mình đang sống rất hiện đại, và trong những cuốn sách châm biếm họ chẳng khác gì những người châu Âu – hai ba năm nay ở đây có rất nhiều những thứ vớ vẩn làm ở Pháp. Các thứ đồ đạc của tôi – tạp chí và các tài liệu của cửa hiệu tôi từng nghĩ Metty cần đến – nằm ở hai ngăn kéo dưới. Chúng đã được giữ cẩn thận. Théo đã có nhã ý đó. Quốc hữu hoá – nó từng là một từ. Nó làm người ta bị sốc khi phải đối diện thực sự với nó.
    Tôi chờ Théo.
    Và khi người đàn ông đó đến tôi có thể thấy là ông ta đang lúng túng và cử chỉ đầu tiên của ông ta, khi nhìn thấy tôi qua cửa kính, là bước qua cửa. Tôi biết ông nhiều năm trước là một thợ máy, ông ta thường chăm lo xe cộ cho sở y tế. Rồi, vì ông ta có chút quan hệ với các bộ lạc, ông ta nổi lên về mặt chính trị, nhưng không cao lắm. Ông ta không biết cả đến ký tên. Ông ta trạc bốn mươi tuổi, vẻ ngoài không có gì đặc biệt, với một khuôn mặt to bè, màu nâu tối nhàu nát xốp lên vì rượu. Bây giờ ông ta cũng đã uống rồi. Nhưng chỉ uống bia thôi, ông ta chưa chuỷên sang uống whisky. Ông ta chưa chuỷên sang mặc đồ quan chức chính thứacáo khoác vạt ngắn và đeo ca vát. Ông ta mặc quần và áo sơ mi. Thực sự ông ta là một người rất khiêm tốn.
    Tôi đứng tại nơi từng kê bàn của mình. Và tôi nhận thấy chiếc áo sơ mi trắng của Théo ướt đẫm mồ hôi và đầy bụi bặm, rằng giống như thời những thằng nhóc học sinh trường trung học, đã đến lừa tôi để ăn cắp tiền của tôi theo những cách đơn giản nhất. Théo toát mồ hôi ra những cánh mũi của ông. Tôi không tin ông ta đã rửa mặt sáng hôm đó. Trông ông ta nhàu nhĩ bẩn thỉu tệ hại.
    Ông ta nói "Mis Salim. Salim. Công dân. Anh không được coi điều này là chuyện cá nhân nhé. Tôi hoàn toàn không muốn thế đâu. Anh biết rằng tôi rất coi trọng anh. Nhưng anh cũng biết rằng tình thế nó vậy" ông ta lóng ngóng tìm từ - un pré pourrie. Hơi mục ruỗng. Những người trẻ của chúng ta tỏ ra không kiên nhẫn được. Điều này là cần thiết", - cố tìm đúng từ, trông ông ta rất bối rối, vặn vẹo nắm tay và làm một cử chỉ đấm vào không khí – "rất cần thiết làm triệt để hoá. Chúng ta nhất định phải triệt để. Chúng ta đã chờ đợi điều đó rất nhiều từ Tổng thống . Không ai sẵn sàng cho trách nhiệm mới cả. Giờ đây trách nhiệm đã được giao cho mọi người. Nhưng anh không có gì phải chịu đựng cả. Anh sẽ được bồi thường đúng mức. Anh chuẩn bị kiểm kê đi. Và anh sẽ tiếp tục làm quản lý. Công việc buôn bán vẫn sẽ như trước thôi. Không ai phải chịu đựng hết cả. Lương của anh sẽ rất khá. Ngay khi người trung gian đến, giấy tờ sẽ được làm xong thôi".
    Sau khi khởi đầu ngập ngừng, ông nói rất nghiêm trang, như thể đã chuẩn bị từ trước rồi. Cuối cùng ông lại trở nên bối rối. Ông đang chờ tôi nói gì đó. Nhưng rồi ông ta thay đổi ý kiến và đi vào phòng kho, văn phòng của ông. Và tôi đi, đi và gặp Mahesh ở Bigburger.
    Công việc ở đó vẫn bình thường. Mahesh, hơi nhợt nhạt hơn, đang rót cà phê, và Ildephonse đang nhảy quanh phục vụ những bữa sáng muộn. Tôi rất ngạc nhiên.
    Mahesh nói "Nó đã là một công ty châu Phi hàng năm nay rồi. Nó không thể được quốc hữu hoá hơn nữa. Tôi chỉ điều hành cho Phonse và một vài người khác mà thôi. Họ thành lập công ty châu Phi đó và cho tôi dự một phần trong đó, với tư cách là quản lý, và rồi họ mua lại của tôi một giấy phép. Nó đã diễn ra trong thời bùng nổ. Họ nợ ngân hàng nhiều lắm. Anh có thể không tin khi anh nhìn Phonse. Nhưng đúng là thế đấy. Điều này xảy đến với nhiều nơi sau khi Noimon bán tháo cho chính phủ. Điều này cho chúng ta một ý tưởng về cách gió thổi, và một vài chúng ta quyết định tự bồi thường mình trước. Khi đó khá là dễ dàng. Các ngân hàng đầy tiền".
    "Không ai nói với tôi cả"
    "Không phải là cái mà người ta có thể nói nhiều đâu. Và những ý nghĩ của anh thì lại ở nơi khác".
    Điều này thì đúng. Thời gian đó đã từng có một sự lạnh lùng giữa chúng tôi, cả hai chúng tôi đều rối tinh sau khi Noimon bỏ đi.
    Tôi nói "Thế còn Tivoli thì như thế nào? Toàn bộ những thứ đồ đạc mới đó, họ đã đầu tư rất nhiều".
    "Họ nợ đầy ra đấy. Không người châu Phi bình thường nào muốn thành chủ sở hữu của nó. Nhưng họ xếp hàng để đoạt được cửa hiệu của anh. Thế mà anh không làm gì cả. Théotime và một người khác đã tới Bigburger này nói về chuyện đó. Có rất nhiều cuộc đấu như thế. Nó giống như vũ hội hoá trang sau khi Tổng thống tuyên bố các biện pháp. Rất nhiều người mới đến các chỗ khác nhau, không nói gì với những người cũ, chỉ ghi tên mới trên cửa hoặc ném quần áo cũ treo trên mắc xuống sàn, đơn giản như mua thịt ngoài chợ ấy. Mấy ngày đầu thật tệ hại. Một người Hy lạp đốt tiêu đồn điền cà phê của mình. Giờ thì ổn định hơn rồi. Tổng thống đã ra tuyên bố, cho mọi người biết rằng Người Đàn Ông Vĩ Đại dã cho thì Người Đàn Ông Vĩ Đại cũng có thể lấy đi. Đó là cách biện hộ của Người Đàn Ông Vĩ Đại. Ông cho đi và ông lấy về".
    tôi ngồi cả phần lớn còn lại của buổi sáng đó ở Bigburger. Thật lạ cho tôi, nhìn người ra vào Bigburger và Van der Weyden bên kia đường, và trong toàn bộ thời gian đó tôi cảm thấy mình tách biệt khỏi cuộc sống của thị trấn.
    mahesh không có nhiều điều để nói với tôi về Shoba. Không có gì thay đổi ở cô cả. Cô vẫn lẩn trốn với sự biến dạng của mình ở căn hộ. Nhưng Mahehs không còn đấu tranh chống lại cái tình trạng đó hoặc là tức tối về điều đó nữa. Nó không làm anh cảm thấy bất hạnh – như tôi đã sợ là có thể - khi nghe về London và những chuyến đi của tôi – anh chẳng như thế tí nào. Với Mahesh nó đã trở nên đơn giản như vậy thôi.
    
    Tôi trở thành quản lý cho Théotime. Dường như ông ta hồi sinh và rất sung sướng , và đồng ý với mức lương tôi đề nghị. Tôi mua một cái bàn, một cái ghế và ngồi gần cột, để cho giống nhất với ngày trước có thể. Tôi bỏ ra rất nhiều ngày tập hợp các hoá đơn cũ, kiểm tra kho và chuẩn bị kiểm kê. Đó là một mớ tài liệu rất phức tạp. Nhưng Théotime đồng ý rất nhanh với chúng (bảo tôi ra khỏi phòng kho trong khi ông cố ký tên Cit:Theot: ) và tôi cảm thấy Mahesh đã đúng, rằng sẽ không có bồi thường gì đâu, rằng điều khá nhất mà tôi có thể trông chờ, nếu tất cả mọi người đều nhớ, là những trái phiếu của chính phủ.
    Cuộc kiểm kê chỉ gợi cho tôi nhớ lại những gì tôi đã mất. còn lại gì? Trong một ngân hàng châu Âu tôi có khoảng tám nghìn đô la, có được từ những chuyến buôn vàng ngày xưa của tôi, số tiền đó nằm ở đó và mục ruỗng, mất dần đi giá trị. Có một căn hộ tại thị trấn, mà sẽ chẳng có ai mua cả, nhưng cái xe thì có thể bán được với giá vài chục nghìn đô la. Và tôi có khoảng nửa triệu franc tiền địa phương tại nhiều ngân hàng – khoảng mười bốn nghìn đô la theo tỉ giá hối đoái chính thức, và một nửa số đó trên thị trường tự do. Đó là tất cả, không nhiều nhặn gì. Tôi phải kiếm nhiều hơn, nhanh nhất có thể, có ít tiền đông nghĩa với việc tôi phải rời khỏi đất nước này.
    Là quản lý tại cửa hiệu tôi có nhiều cơ hội, nhưng cũng không lớn lao gì lắm. Và như thế tôi bắt đầu sống một cách nguy hỉêm. Tôi bắt đầu buôn vàng và ngà voi. Tôi mua, cất giữ và bán, hoặc làm như những nhà buôn bán lớn (những người thanh toán trực tiếp cho ngân hàng của tôi ở châu Âu), tôi trữ lại và gửi nó đi, với một phần trăm nào đó. Những người cung cấp cho tôi, và đôi khi những người săn trộm, là các quan chức hoặc người của quân đội, v à những người đó luôn rất nguy hiểm để làm ăn. Phần kiếm được không lớn lắm. Vàng chỉ có vẻ đắt đỏ thôi, bạn phải có hàng ký lô cho tỉ lệ phần trăm. Ngà voi thì khá hơn, nhưng ngà voi khó cất giữ (tôi tiếp tục sử dụng cái hố ở chân cầu thang vườn nhà tôi) và đòi hỏi khéo léo hơn trong chuyên chở. Để gửi hàng tôi sử dụng một trong những chiếc xe tải bình thường hoặc xe buýt rẻ tiền của chợ, gửi hàng đi (những cái ngà giấu trong những lô hàng nệm, những mẩu nhỏ hơn trong các bao sắn bột) với những thứ hàng hoá khác, thường xuyên giờ đây được gửi đi dưới cái tên của công dân Théotime, và đôi khi chính Théotime thể hiện đẳng cấp chính trị và nói chuyện với người lái xe ngay ở chỗ đông người.
    Tiền có thể kiếm được . Nhưng đưa chúng ra khỏi đất nước là một việc khó hơn. Chỉ có thể đưa tiền ra theo những khoản lớn và điều này có thể làm các quan chức cấ[ cao hoặc các bộ trưởng quan tâm. Giờ đây không có nhiều hoạt động, và tôi phải phụ thuộc vào những người khác với nhiều lý do khác nhau cần đến tiền địa phương. Không có cách nào khác. Và tôi phải tin những người đó sẽ trả tiền khi họ quay về châu Âu hoặc Mỹ.
    Đó là một kiểu làm ăn chậm rãi, giống như phe vé, và đầy nhục nhã. Tôi cho rằng mình đã khám phá một vài quy luật của cách cư xử của con người. Tôi cho rằng mình có thể nói rằng những người ở một tầng lớp hoặc một đất nước nào đó cần được tin tưởng và những người ở một tầng lớp và đất nước khác không thể tin được. Điều này có thể làm cho chuyện đó đơn giản hơn. Đó là một cuộc đánh bạc thường kỳ. Tôi đã mất hai phần ba tiền của mình theo cách đó, tôi đã cho những người lạ tiền.
    Tôi đi ra đi vào Khu trong những vụ làm tiền đó, ở đó tôi có nhiều mối liên lạc nhất. Thoạt đầu tôi không cảm thấy thoải mái khi ở đó, nhưng rồi tôi bắt đầu cảm thấy Indar từng nói về việc đắm chìm vào quá khứ. Khu nhanh chóng không còn là cái gì đó từng thuộc về tôi như trước nữa. Nó trở thành nơi những con người đáng kính – nhiều người trong số đó là những kẻ lần đầu tiên phạm luật, sau đó sử dụng sự hiểu biết luật pháp của mình để lừa tôi – cố có được tỷ lệ phần trăm cao hơn những người chúng tôi đã đồng ý/ Điều đã trở thành điểm chung ở những người này là sự nóng nảy và sự quan tâm của họ - quan tâm đến tôi, quan tâm đến đất nước. Tôi đồng ý với họ một nửa, tôi ghen tị với họ vì sự dễ dàng cảm thấy mối quan tâm đó.
    Một chiều tôi nhìn thấy ngôi nhà của Raymond và Yvette có một chủ mới, một người châu Phi. Ngôi nhà đã bị đóng cửa kể từ khi tôi quay lại, Raymond và Yvette đã ra đi, không ai, kể cả Mahesh, có thể nói cho tôi biết họ đi đâu hoặc trong hoàn cảnh nào. Những cửa ra vào và cửa sổ của ngôi nhà đã được mở ra lại, và điều đó nhấn mạnh thêm sự xấu xí của ngôi nhà.

Người đàn ông mới đến, rậm râu, đang cuốc xới trước cửa nhà, và tôi dừng lại để nóI chuyện. Ông đến từ nơi nào đó dưới vùng hạ lưu, và rất thân thiện. Ông nói cho tôi biết là đã trồn ngô và sắn. Những người châu Phi không hiểu lắm về nông nghiệp quy mô lớn, nhưng họ rất say mê với các loại cây cối theo cách nhỏ hơn, trồng thực phẩm cho nhà và thích trồng thật sát nhà mình. Ông nhận ra xe của tôi, ông nhớ hình dáng đàng sau của nó. Ông nói ông làm việc cho một hãng chính phủ điều hành dịch vụ tàu hơi nước. Và để cho tôi có được một ý tưởng về vị thế của mình, ông nói bất cứ khi nào ông đi bằng tàu thuỷ ông đều đi ở hạng nhất và không phải trả tiền. Công việc chính phủ quan trọng này, ngôi nhà chính phủ lớn này tại cái Khu nổi tiếng – ông là một người hạnh phúc, sung sướng với những gì đã được cho, và không đòi hỏi gì hết nữa cả.
    Giờ đây đã có nhiều nhà như thế hơn ở trong Khu. Trường bách khoa vẫn còn ở đó, nhưng Khu đã mất đi tính chất hiện đại, "trưng bày" của mình. Nó đã xấu xí đi nhiều, sau mỗi tuần nó lại càng giống hơn với kiểu nhà của châu Phi. Bắp ngô, mà khí hậu và đất rất tốt, mọc lên ở nhiều nơi, và những chiếc lá xanh ghi của sắn, mọc lên dễ dàng đến mức nếu bạn cắm ngược đầu cây nó vẫn sẽ mọc lên bình thường, tạo ra hiệu ứng của một cái vườn cây bụi. Cái phần của trái đất này – biết bao nhiêu đổi thay đã đến với nó! Rừng ở bên khúc quanh của dòng sông, một nơi gặp gỡ, một khung cảnh A rập, một tiền đồn của châu Âu, một ngoại ô của châu Âu, một sự đổ nát giống như là sự đổ nát của một nền văn minh đã chết, cái Khu lấp lánh của châu Phi mới, và giờ thì như thế.
    Trong khi chúng tôi nói chuyện, trẻ con bắt đầu xuất hiện từ sau nhà – những đứa trẻ vẫn còn quê mùa, cúi gập xuống trước cái nhìn của người lớn, trước khi đến gần, rụt rè nghe và nhìn. Và rồi một con chó Doberman to lớn nhảy đến trước tôi.
    Người đàn ông với chiếc hái nói "Đừng lo. Nó không cắn anh được đâu. Nó nhìn không rõ. Con chó của một người nước ngoài. Ông ấy cho tôi khi tôi đi".
    Sự việc xảy ra đúng như ông ta nói. Con chó cắn hụt tôi chừng một foot, rồi chạy vào một con đường nhỏ, dừng lại, lùi lại, và rồi khi tất cả đã qua, nó vẫy đuôi, bên cạnh nó với sự vui mừng với mùi nước ngoài của tôi, chắc hẳn đang tạm thời nhầm tôi với một người nào đó khác.
    Tôi vui mừng cho Raymond vì ông đã đi. Ông không thể an toàn ở Khu hoặc ở thị trấn vào lúc này. Danh tiếng đáng tò mò đã đến với ông vào lúc cuối – trở thành người đàn ông da trắng đi trước Tổng thống , và đã đẩy ông vào những điều tồi tệ có thể rơi lên Tổng thống – cái danh tiếng này có thể khiến Đôi Quân tự do giết ông, đặc biệt vào bây giờ , khi Tổng thống đã nói đến việc lên kế hoạch đến thăm thị trấn, và thị trấn vẫn đang chuẩn bị cho cuộc viếng thăm đó.
    Những ngọn đồi đầy cây bụi ở trung tâm đã được phát quang. Những con đường gập ghềnh đã được làm phẳng và nâng cấp. Và sơn lại! Khắp nơi ở trung tâm, vỗ vào bê tông trát vữa và gỗ, dựng lên trên hè phố. Một ai đó đang dọn kho – màu hồng mau vôi màu đỏ màu tím màu xanh. Cây bụi đang chiến tranh, thị trấn đang ở vào tình trạng cuộc nổi loạn, với những bất ổn vào ban đêm. Nhưng đột nhiên ở trung tâm dường như có một buổi dạ hội hóa trang.
Công dân Théotime đến vào buổi sáng, mắt đỏ mọng và trông như bị tra tấn, lơ lửng với ly bia uống vào bữa sáng, với vài quyển truyện cười hoặc tiểu thuyết minh hoạ bằng ảnh để giết thời gian ở văn phòng. Có một hệ thống trao đổi tạp chí không chính thức ở thị trấn. Théo luôn luôn có cái gì mới để xem. Và thật lạ, những truyện cười hoặc tiểu thuyết – ảnh của ông ta, lăn lóc, đã khiến ông ta có cái vẻ bận rộn, giống như những thương gia khi ông ta đến cửa hiệu. Ông ta đi thẳng vào phòng kho, và có thể ở lại đó không hề đi ra suốt cả buổi sáng. Thoạt tiên tôi nghĩ bởi vì ông ta muốn không bị quấy rầy.
    Nhưng rồi tôi hiểu không phải vậy. Ông ta thích ở trong phòng kho tối tăm chẳng làm việc gì cụ thể, chỉ nhìn vào những quyển tạp chi của mình trong khi tâm trạng say sưa lan toả con người ông ta.
    Sau đó khi ông ta đã thoải mái và bớt rụt rè hơn với tôi , cuộc sống trong căn phòng kho trở nên phong phú hơn. Ông bắt đầu có đàn bà đến viếng thăm. Ông thích họ nhìn thấy ông thực sự là một directeur – giám đốc – với một nhân viên và một văn phòng, và điều đó cũng làm những người đàn bà thích thú. Một chuyến viếng thăm có thể mất cả một buổi chiều, mà chỉ là Théotime và người đàn bà chuyện gẫu theo cách người ta vẫn chuyện gẫu khi đang trú mưa – với những lần dừng lại rằng lâu và những cái nhìn thôi miên dài theo những hướng khác nhau.
    Đó là một cuộc sống dễ dàng với Théotime, dễ dàng hơn bất cứ gì ông ta có thể tưởng tượng khi còn là một thợ máy ở sở y tế. Nhưng khi ông ta có được sự tự tin, và không còn sợ hãi việc Tổng thống lại sẽ tước mất cửa hiệu từ tay ông ta, ông ta trở nên khó tính.
    Ông ta bắt đầu nghĩ rằng là một directeur ( Giám đốc )mà không có xe thì không thể được. Có lẽ một người đàn bà nào đó đã khiến ông ta nghĩ vậy, hoặc có thể là tấm gương từ những người chủ Nhà nước khác, hoặc có thể là điều gì đó ông ta rút được từ những cuốn truyện cười. Tôi có một chiếc xe, ông ta bắt đầu hỏi mượn tôi, và rồi đòi tôi chở ông ta đi đây đó khỏi nhà và về nhà. Tôi có thể từ chối. Nhưng tôi tự nhủ đó là một việc nhỏ để làm ông ta trật tự. Những lần đầu tiên ông ta ngồi hàng ghế trên, rồi ông ta chuỷên xuống ngồi hàng ghế sau. Đó là công việc bốn-lần-một-ngày.
    Ông ta không im lặng được lâu. Có thể là do tôi tỏ ra thoải mái, chỉ mong muốn không bị làm nhục. Théotime tìm thấy những cách mới để tự thể hiện mình. Giờ đây điều rắc rối là ông ta không biết phải làm gì. Ông ta có thể thích sống bên ngoài vai trò thực của mình – chiếm đoạt sự điều hành của cửa hiệu, hoặc cảm thấy (trong khi vẫn vui thú với cuộc sống trong nhà kho) rằng ông ta đang điều hành cửa hiệu. Dù vậy ông ta cũng biết rằng ông ta chẳng biết gì cả, ông ta biết rằng tôi biết ông ta không biết gì cả, và ông ta giống như một người giận dữ với sự không biết gì của mình. Ông ta lặp đi lặp lại một vài trò. Ông ta say sưa, tức tối và đe doa, và là một kiểu tức tối có tính toán như là một quan chức đã quyết định phải malin.
    Thật là lạ. Ông ta muốn tôi công nhận ông ta là chủ. Và cùng lúc ông ta lại muốn tôi phải đoái hoài đến ông ta, một người đàn ông không được giáo dục. Ông ta muốn có cả sự kính trọng lẫn sự bao dung của tôi, thậm chí cả lòng thương xót của tôi. Nhất là khi ông ta muốn tôi cư xử như một thuộc hạ và ủng hộ ông ta. Nếu như đáp lại, tôi làm vậy, nếu tôi mang một thứ giấy tờ đơn giản nào đó của cửa hiệu đến cho ông ta, quyền lực của ông ta hẳn là sẽ có thật lắm. Ông ta thêm điều đó vào ý tưởng về vai trò của mình, và ông ta có thể sử dụng quyền lực đó sau này để nặn ra một sự nhượng bộ. Như là ông ta đã làm với chiếc xe.
    Còn tệ hơn là làm việc với một quan chức malin. Vị quan chức vờ như bị xúc phạm – và gào vào bạn, chẳng hạn, rụt tay khỏi bàn ông ta – chỉ đơn giản là đòi tiền mà thôi. Théotime, nhanh chóng chuỷên từ một sự tự tin đơn giản vào vai trò của mình đến chỗ hiểu ra sự vô dụng của mình, muốn bạn phải vờ coi ông ta là một kiểu người khác. Điều này không có gì đáng buồn cười. Tôi đã giải quyết nó để được yên tĩnh với việc riêng của mình, để đặt đầu óc vào mục tiêu riêng của mình. Nhưng thật không dễ để có thể được yên ổn. Cửa hiệu trở thành một nơi thật đáng ghét với tôi.
    Còn tệ hơn với Metty. Những công việc nhỏ nhặt nó làm cho Théotime thoạt tiên đã trở thành những việc nó bị đòi hỏi phải làm và bị nhân lên rất nhiều. Théotime bắt đầu bắt Metty đi làm những công việc lặt vặt rất đáng ngán.
    Buổi tối muộn, khi nó trở về nhà sau khi ở chỗ gia đình nó, Metty vào phòng tôi và nói "Cháu không chịu được nữa rồi, patron. Rồi một ngày cháu sẽ làm điều gì đó khủng khiếp. nếu Théo không chịu dừng lại, cháu sẽ giết lão. Cháu thà cày cuốc ở ngoài đồng còn hơn là làm người hầu cho lão".
    Tôi nói "Sẽ không còn lâu đâu"
    Khuôn mặt Metty cau lại sự tức giận, và nó dí chân một lúc trong im lặng. Nó sắp khóc. Nó nói "Chú muốn nói gì? Chú muốn nói gì?" và đi ra khỏi phòng.
    Buổi sáng tôi đến đón Théotime để đưa ông ta đến cửa hiệu. Như một người nhiều quyền lực và ảnh hưởng ở địa phương, Théotime có ba hoặc bốn gia đình ở khắp nơi trong thị trấn. Nhưng từ khi trở thành ông chủ của một công ty Nhà nước (giống như những người chủ khác) ông ta đã có thêm một số đàn bà mới, và ông ta sống với một người trong số họ trong một ngôi nhà nhỏ ở một cái sân cíté – nền nhà đỏ trần xen lẫn với những cái cống đen bóng một bên, đất cầy xới và rác rưởi vứt bên cạnh, xoài và những cây khác mọc rải rác chung quanh, sắn và ngô và những lùm chuối giữa những ngôi nhà.
    Khi tôi bấm còi, trẻ con và đàn bà từ nhiều ngôi nhà chạy ra nhìn trong khi Théotime lên xe, với cuốn truyện cười cuộn lại. Ông ta vờ như không biết đến những người đang nhìn và khạc nhổ lung tung ra đất một hoặc hai lần. Đôi mắt ông ta đỏ tấy vì bia và ông ta cố trông như là bị xúc phạm ghê lắm.
    Chúng tôi lái xe ra khỏi cái ngõ cité mấp mô để ra đến con lộ chính màu đỏ, nơi những toà nhà vừa được sơn lại để đón Tổng thống – mỗi toà nhà được sơn một màu (tường, khung cửa sổ, cửa ra vào) và một toà nhà khác với màu của nhà bên cạnh.
    Tôi nói "Tôi muốn nói với ông về các công việc của công dân Metty tại công ty chúng ta, thưa công dân. Công dân Metty là trợ lý quản lý. Anh ta không phải là người tạp vụ".
    Théotime hẳn là đã chờ đợi điều này. Ông ta có một bài nói chuẩn bị trước. Ông nói "Anh làm tôi ngạc nhiên đấy, công dân ạ. Tôi là chủ công ty nhà nước, được chỉ định bởi Tổng thống . Công dân Metty là một người làm công của công ty nhà nước. chỉ có tôi quyết định sử dụng anh ta như thế nào" Ông ta sử dụng từ métis, để nhay lại cái tên mà Metty đã từng rất tự hào.
    Những màu sắc rực rỡ của các toà nhà trở nên còn không thực hơn với tôi. Chúng trở thành màu của cơn giận dữ và điên cuồng của tôi.
     Tôi ngày càng trở nên nhỏ bé và nhỏ bé hơn trong mắt Metty, và giờ đây tôi đã biến mất hoàn toàn rồi. Tôi không còn có thể cho nó dù là một sự bảo vệ nhỏ nhất mà nó đòi hỏi – Théotime nói thẳng điều đó trong ngày. Thế là hợp đồng cũ giữa tôi và Metty, cái hợp đồng giữa gia đình nó và gia đình tôi, đã chấm dứt. Thậm chí nếu tôi có thể cho nó vào một công ty khác trong thị trấn – mà tôi có thể làm ngày xưa – thì cũng chỉ có nghĩa là hợp đồng đặc biệt của chúng tôi đã hết. Nó dường như đã hiểu điều đó, và điều này làm nó mất thăng bằng.
    Nó bắt đầu nói "Cháu sẽ làm điều gì đó khủng khiếp, Salim ạ. Chú phải cho cháu tiền. Cho cháu tiền và để cháu đi. Cháu cảm thấy mình sắp làm một việc gì đó khủng khiếp".
    Tôi cảm thấy nỗi đau đớn và sức ép khủng khiếp của nó. Tôi cũng thêm vào đó về mặt tinh thần sự đau đớn của nó vào sự đau đớn của tôi, và biến nó thành một phần của tôi. Tôi hẳn đã nghĩ nhiều hơn đến nó. Tôi có thể bảo nó tránh xa khỏi cửa hiệu, và cho nó tiền từ tiền lương của tôi, khi còn tiếp tục được. Quả thật đó là điều nó muốn. Nhưng nó không nói ra. Nó gắn điều đó với cái ý nghĩ hoang dã là bỏ đi, điều chỉ làm tôi hoảng sợ và làm tôi nghĩ, nó sẽ đi đâu được?
    Thế là nó tiếp tục đến cửa hiệu và ngày càng trở nên đau khổ. Khi nó nói với tôi vào một buổi tối "Cho cháu một ít tiền, cháu sẽ đi", tôi nói, nghĩ đến tình hình ở cửa hiệu, và thử tìm cách trấn an "Không tiếp tục như thế này mãi đâu, Metty", Điều này làm nó gào lên "Salim!" Và sáng hôm sau, lần đầu tiên, nó không mang cà phê đến cho tôi.
     Điều đó xảy ra vào đầu tuần. Vào buổi chiều thứ sáu, sau khi đóng cửa hiệu và lái xe đưa Théotime về cái sân của ông ta, tôi quay về căn hộ. giờ đây với tôi đó là một nơi an ủi. Tôi không còn nghĩ nó là chỗ ở của mình nữa. Kể tư buổi sáng hôm đó trên xe với Théotime tôi đã cảm thấy buồn nôn với những màu sắc tươi sáng của thị trấn. Chúng là những màu sắc của một nơi đã trở nên xa lạ và cảm thấy xa với mọi thứ khác. Cảm giác về sự xa lạ đó mở rộng đến mọi thứ trong căn hộ. Tôi nghĩ đến việc tới câu lạc bộ Hellenic – hoặc những gì còn lại của nó – thì tôi nghe tiếng cửa sập.
    Tôi đi ra tầng đệm và thấy cảnh sát trong sân. Có một sĩ quan – tên anh ta là Prosper, tôi biết anh ta. Một trong số những người đi cùng anh ta cầm một cái hái, một người khác cầm một cái xẻng. Họ biết họ đến tìm gì, và họ biết chính xác phải đào ở đâu – bên dưới cái thang lộ thiên. Tôi có bốn cái ngà voi ở đó.
    Tâm trí tôi rối loạn, tạo thành những mối liên hệ. Metty! Tôi nghĩ! Ôi Ali! Mày đã làm gì tao thế này? Lúc này tôi biết là rất cần báo tin cho ai đó. Mahesh – không còn ai khác nữa. Anh ta có thể đang ở nhà vào giờ này. Tôi vào phòng ngủ và gọi điện. Mahesh trả lời, và tôi chỉ có thời gian để nói "Ở đây mọi chuyện tệ lắm" thì nghe tiếng bước chân đi lên. Tôi bỏ điện thoại xuống, di vào phòng tắm, kéo dây nước xuống, và đi ra để đối mặt với Prosper đã lên một mình, đang mỉm cười.
    Khuôn mặt này hiện ra, mỉm cười, tôi đáp lại, và không nói gì, chúng tôi đi xuống lối đi trước khi tôi quay lại và dẫn Prosper vào phòng khách màu trắng. Anh ta không giấu giếm sự thoả mãn của mình. Mắt anh ta long lanh. Anh ta chưa quyết định được sẽ cư xử như thế nào. Anh ta chưa quyết định được nên đòi bao nhiêu tiền.
    Anh ta nói "Tổng thống sẽ đến đây vào tuần sau. Anh có biết không? Tổng thống quan tâm đến bảo tồn. Chính vì thế việc này rất nghiêm trọng với anh. Mọi việc đều có thể xảy đến với anh nếu tôi viết vào báo cáo. Chắc sẽ tốn của anh chừng vài nghìn đấy".
    Với tôi như thế là khả dĩ lắm rồi.
    Anh ta nhận ra sự nhẹ nhõm của tôi. Anh ta nói "Tôi không nói tiền franc, tôi muốn nói đô la. Phải, anh sẽ phải chi ra ba hoặc bốn nghìn".
    Thật là quá quắt. Prosper biết là quá quắt. Ngày trước năm đô la được coi là một món khá rồi, và thậm chí ngay cả trong cuộc bùng nổ bạn cũng có thể mua được rất nhiều thứ với hai mươi lăm đô la. Mọi chuyện đã thay đổi kể từ cuộc nổi loạn, dĩ nhiên, và đã thành ra rất tồi tệ với cuộc làm triệt để hoá. Mọi người đều trở nên tham lam và tuyệt vọng hơn. Có cảm giác đó về tất cả mọi điều đang xuống rất nhanh, với một sự hỗn loạn đang tới, và vài người có thể cư xử như là tiền đã mất giá trị rồi. Nhưng ngay cả như thế, các quan chức như Prosper vẫn chỉ mới bắt đầu nói đến con số hàng trăm mà thôi.
    Tôi nói "Tôi không có nhiều tiền như thế"
    "Tôi nghĩ anh sẽ nói thế mà. Tổng thống sẽ đến vào tuần sau. Chúng tôi sẽ mang một số người nhốt vào tù. Có thể là anh lắm đấy. Chúng tôi sẽ quên những cái ngà đó thời gian ở đây. Anh sẽ ở lại cho đến khi Tổng thống đi khỏi. Anh phải quyết định khi đó rằng anh có tiền hay không".
    tôi gói ghém các thứ đồ vào một cái túi đồ to và Prosper chở tôi trên băng ghế sau chiếc Land Rover của anh ta qua cái thị trấn loè loẹt đến trụ sở cảnh sát. Tại đó tôi phải đợi. Tại đó tôi quyết định sẽ nói toạc ra những suy nghĩ của chúng tôi về thị trấn và không nghĩ gì đến thời gian nữa, rằng cho đến nay tôi đã có khả năng làm rỗng đầu óc của mình.
    Toà nhà có nhiều tầng và tôi bắt đầu coi Prosper là người dẫn đường cho tôi đến cái địa ngục đó. Anh ta để tôi lại rất lâu, ngồi tại phòng chờ và các hành làng, đầy mùi sơn dầu mới. Gần như là một sự nhẹ nhõm được thấy anh ta trở lại với tôi với đôi má béo núc ních và chiếc cặp tài liệu rất phong cách của mình.
    Gần đến khi mặt trời lặn thì anh ta dẫn tôi vào khu phụ của một cái sân ở đàng sau, nơi tôi đã từng một lần đến cứu Metty, và nơi giờ đây tôi phải lăn tay vào, trước khi bi .giải tới nhà tù của thị trấn. Những bức tường nó màu màu xanh bẩn, tôi còn nhớ. Bây giờ chúng có màu vàng sáng, và câu khẩu hiệu Discipline Avant Tout – kỷ luật là trên hết – đã được sơn lại bằng những dòng chữ lớn. Tôi chìm đắm ngắm nhìn những chữ cái xấu xí, không bằng nhau, sự nổi bật của bức ảnh Tổng thống , bề mặt không bằng phẳng của bức tường màu vàng, màu sơn vàng vung vãi khắp sàn nhà.
    Căn phòng đầy những người trẻ tuổi đã bị tóm đến. Tôi phải chờ rất lâu trước khi được lăn tay. Người đàn ông ngồi ở bàn cư xử như một người phải làm việc quá sức. Ông ta không thèm nhìn vào mặt những người tới lấy dấu tay.
    Tôi hỏi xem có được chùi mực khỏi tay không. Đó không phải ý muốn được sạch sẽ, sau khi hỏi tôi nghĩ thế. Đúng hơn là một mong muốn được tỏ ra bình tĩnh, không bị nhục mạ, để cảm thấy mọi việc vẫn bình thường. Người đàn ông ngồi ở bàn nói là có, và từ một ngăn kéo lấy ra một cục xà phòng xốp màu hồng cùng hộp đựng có những đường kẻ đen. Xà phòng khá khô. Ông ta bảo tôi có thể ra ngoài và dùng vòi nước bên ngoài.
    Tôi đi ra sân. Trời đã đổ tối. Quanh tôi là cây cối, ánh sáng, mùi nấu nướng, những âm thanh của buổi tối. vòi nước gần chỗ gara xe. Mực, thật đáng ngạc nhiên, rửa đi rất dễ. Một sự điên giận bắt đầu xâm chiếm lấy tôi khi tôi trở về và đưa cho người đàn ông cục xà phòng và thấy những người khác đang ngồi chờ với tôi trong căn phòng màu vàng đó.
    Nếu có một kế hoạch, thì hẳn những sự kiện này phải có nghĩa. Nếu có một quy luật, những sự kiện này hẳn phải có nghĩa. Nhưng không có kế hoạch, không có quy luật nào, đó chỉ là một sự làm tin, một sự lãng phí thời gian của con người trên thế giới. Và thường xuyên làm sao ở đây, thậm chí vào những ngày ở vùng cây bụi, nó hẳn đã xảy ra trước đó, cái trò chơi của những kẻ cai tù và tù nhân trong đó người ta bị tiêu diệt không vì lý do gì hết. Tôi còn nhớ điều Raymond vẫn thường nói – về những sự kiện bị lãng quên, bị biến mất, bị nuốt mất.
    Nhà tù nằm trên đường đến Khu. Nó nằm ở một chỗ khuất, và trong khoảng không gian đằng trước đã mọc lên một cái chợ và một khu. Nó được đăng ký – cái chợ và toà nhà – khi anh lái xe qua. Nhà tù bằng bê tông, kgcáo hơn bảy hoặc tám feet, nền màu trắng. Nó chưa bao giờ có vẻ là một nhà tù thật sự. Có cái gì đó rất nhân đạo và thậm chí cổ kính ở nó; nhà tù mới ở một nơi mới mẻ này, tất cả đều thô mộc và trông tạm bợ đến thế, trong một vùng cây bụi được phát quang. Bạn cảm thấy những người đã xây nó lên – những người dân làng, xây dựng ở một thị trấn lần đầu tiên – đã chơi đùa với cộng đồng và các quy tắc. Họ đã dựng lên một bức tường cao hơn đầu người và đẩy người ta vào đó, và bởi vì họ là người làng, kiểu nhà tù như thế là đủ với họ. Tại chỗ khác nhà tù hẳn phải là một cái gì đó tinh vi hơn. Nó chỉ đơn giản vậy thôi, bạn cảm thấy là cái ở đàng sau bức tường thấp hợp với cuộc sống chợ bẩn thỉu bên ngoài.
    Giờ đây, cuối con hẻm, sau những ánh sáng và đài radio của những túp lều và túi ngủ nhỏ và những quầy hàng và bốt uống rượu, nhà tù này đã mở ra cho tôi vào. Một bức tường cao hơn đầu người là một bức tường cao. Những ngọn đèn điện bên dưới bức tường bên ngoài lập loè với màu sơn trắng mới, và lại nữa, nhưng là với những chữ đen cao chừng hai feet, là Discipline Avant Tout. Tôi cảm thấy bị nguyền rủa và bị chế nhạo bởi những chữ này. Nhưng đó là cách tôi đang trông chờ để cảm thấy. thật là một lời nói dối đầy đủ trong dòng chữ này! Nó sẽ còn quay lại bao lâu nữa, giữa tất cả những lời dối trá dồn ép lại, để đến cái đơn giản và thật?
    Bên trong, sau những cánh cửa nhà tù, có một sự yên lặng và có không gian, một cái sân mở rộng, nhẵn, đầy bụi với những toà nhà thô mộc thấp bằng bê tông và sắt khấp khểnh trong các ô vuông.
    Cửa sổ có chấn song cửa của phòng giam tôi nhìn ra một cái sân trần trụi, được chiếu sáng bởi những ngọn đèn điện trên những cái cột cao. Mọi thứ đều thô, nhưng mọi thứ đều tồn tại. Đó là tối thứ Sáu. Và dĩ nhiên thứ sáu là ngày buộc mọi người chờ đợi, sẽ không có gì diễn ra trong kỳ nghỉ cuối tuần. Tôi phải học cách chờ đợi, trong một nhà tù chợt thành rất thật, và giờ đây đe doạ về tính đơn giản của nó.
    Trong một phòng giam như của tôi bạn có thể nhanh chóng ý thức được về cơ thể của mình. Bạn có thể ngày càng căm ghét cơ thể của mình. Và cơ thể bạn là toàn bộ những gì bạn có, thật là một ý nghĩ kỳ cục trôi nổi qua sự giận dữ của tôi.
    Nhà tù đã đầy người. Tôi thấy là buổi sáng đã qua. Một lúc trước, tôi đã nghe Zabeth và những người khác nói về những chiến dịch bắt cóc tại các ngôi làng. Nhưng tôi chưa bao giờ ngờ rằng nhiều người trẻ tuổi và trẻ con bị bắt đến thế./ Tệ hơn, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng họ đã bị bắt vào nhà tù mà tôi thường lái xe đến. Trên báo không có tin gì về cuộc nổi loạn và về Đội Quân Tự do. Nhưng đó là toàn bộ nhà tù – hoặc một phần mà tôi đang ở trong. Và thật là khủng khiếp.
    Buổi sáng thật ầm ĩ, thật sáng sủa và thật sớm, giống như một lớp học vậy, người ta được các thày giáo dạy những bài thơ. Những người dạy là các cai tù với những đôi giày và gậy to tướng, những bài thơ là các khúc ca ca ngợi Tổng thống và đức mẹ đồng trinh châu Phi, mọi người bị bắt phải nhắc lại những dòng đó là những thanh niên và trẻ con từ những ngôi làng, nhiều người trong số họ đã bị trói gô và vứt vào sân và bị ngược đãi theo những cách tôi không muốn kể ra.
    Những cái đó tạo ra những âm thanh kinh khủng vào sáng sớm. Những con người khốn khổ đó đã bị sập bẫy và bị những dòng chữ ghi trên bức tường trắng của nhà tù nguyền rủa. Nhưng bạn có thể nói, từ các khuôn mặt của họ, rằng trong tâm trí và trái tim, tâm hồn họ, họ đã đi rất xa. Những người cai ngục điên rồ, những người châu Phi, dường như đã hiểu điều đó, dường như đã biết rằng không thể chạm đến các nạn nhân của mình.
     Những khuôn mặt của châu Phi! Những cái mặt nạ của sự bình tĩnh như trẻ con đó đã hạ những làn gió của thế giới xuống, và cả của những người châu Phi nữa, giờ đây đang ở trong tù. Tôi cảm thấy trước đó mình chưa từng bao giờ thấy họ rõ ràng hơn. Thờ ơ không thèm nhìn, thờ ơ với sự cảm thông hoặc nhìn ngắm, những khuôn mặt đó lại không trống vắng, thụ động hoặc cam chịu. Cùng với các tù nhân cũng như với những kẻ tra tấn tích cực, có một sự điên rồ. Nhưng sự điên rồ của các tù nhân nằm ở bên trong, nó đã kéo họ đi rất xa khỏi lý do hoặc thậm chí hiểu biết của họ về nguyên do của mình, cao hơn ý nghĩ nhiều. Họ đã tự chuẩn bị cho cái chết mà không phải vì họ là những người tuẫn vì đạo, mà bởi vì cái họ là và cái họ biết họ là ai là tất cả những gì họ có. Họ là những kẻ dở người với ý tưởng về mình là ai. Tôi chưa bao giờ thấy gần gũi hơn với họ, và cũng chưa bao giờ thấy xa xôi hơn.
    Cả ngày, qua cái nóng tăng lên và giảm xuống của mặt trời, những âm thanh đó tiếp tục. Bên trên bức tường trắng là chợ, là thế giới bên ngoài. Mọi hình ảnh tôi có về thế giới bên ngoài đã bị đầu độc bởi những cái đang bao quanh tôi. Và nhà tù khá là cổ kính. Tôi đã nghĩ là cuộc sống nhà tù có thể hợp với cuộc sống bên ngoài. Một buổi chiều Yvette và tôi đã dừng lại ở một quầy hàn để mua khoai tây tẩm đường. Tại quầy hàng kế bên một người đàn ông đang bán những con sâu màu da cam đầy lông lá – anh ta có cả một chậu màu trắng. Yvette đã tỏ ra rất kinh hoàng. Còn anh ta, người bán hàng, cười phá lên, đẩy cái chậu của mình ra, và đẩy nó vào cửa xe, tặng tất cả đống đó, sau đó, anh ta cầm lên một con sâu ngoe nguẩy để vào mồm và chuẩn bị nhai.
    Toàn bộ cuộc sống trôi đi ở bên ngoài. Trong khi ở đây những người trẻ tuổi và những thằng bé đang học nội quy và những bài ngợi ca Tổng thống . Có một lý do cho sự điên rồ của những kẻ cai ngục, những kẻ dạy dỗ. Tôi đã nghe nói rằng một cuộc hành hình quan trọng sẽ được thực hiện, rằng đích thân Tổng thống sẽ đến dự khi ông đến thị trấn, và rằng ông ta có thể nghe những bài hát ca ngợ/i do những kẻ thù của mình hát. Vì cuộc viếng thăm này thị trấn đã nổ tung trong một màu sắc sáng tươi.
    Tôi cảm thấy rằng gần như không có gì tách tôi khỏi những người đang ở trong sân đó, rằng không có lý do gì để tôi không bị đối xử như họ đang phải chịu. Tôi cố giữ và chứng tỏ vị thế của mình như một người tách biệt, một người đang chờ đợi để được chuộc ra. Tôi cho là rất quan trọng việc không bị một kẻ cai ngục nào chạm vào người. Bị chạm vào theo một cách nào đó có thể dẫn tới những chuyện khủng khiếp hơn. Tôi quyết định không làm gì để gợi lên một đụng chạm về thể xác dù là nhỏ đến đâu. Tôi trở nên hợp tác. Tôi vâng lời các mệnh lệnh gần như trước khi chúng được truyền xuống. Thế là đến cuối kỳ nghỉ cuối tuần, với sự điên giận và vâng lời của tôi, vị thế của tôi với những hình ảnh và âm thanh của cái sân, tôi đã trở thành một con chim bị nhốt trong lồng.
    
    Prosper đến gặp tôi vào sáng thứ Hai. Tôi đã đoán sẽ có ai đó tới. Nhưng tôi không chờ Prosper, và anh ta trông không có vẻ gì là sung sướng cả. cái nhìn lấp lánh đã biến khỏi đôi mắt anh. Tôi ngồi bên cạnh anh trong chiếc Land-Rover và anh nói, gần như theo lối bạn bè, khi chúng tôi lái ra khỏi cổng trại giam. "Việc này nhẽ ra nên định ngày thứ sáu. Nhưng anh đã làm nó tồi tệ hơn cho anh thôi. Ông đại diện đã quyết định xem trường hợp của anh là một trường hợp đặc biệt. Tất cả những gì tôi có thể nói là cầu cho anh được may mắn".
    Tôi không biết liệu đó là tin xấu hay là tin tốt. Viên đại diện hẳn là Ferdinand. Sự chỉ định nó đã được thông báo trước đây một chút, nhưng cho đến giờ nó chưa hề xuất hiện ở thị trấn, và có thể là sự chỉ định đó đã bị đình lại. nếu đó là Ferdinand, tuy vậy, cũng không phải là cách tốt nhất để gặp lại nó.
    Ferdinand, đã tiến bộ qua thế giới. tôi còn nhớ, đóng các vai của mình, và sống với chúng, học sinh trường trung học, sinh viên trường bách khoa, con người mới của châu Phi, hành khách hạng nhất trên tàu thuỷ. Sau bốn năm, sau khoảng thời gian tập sự hành chính ở thủ đô vốn nằm trong sự thống trị của Tổng thống , nơi đó có thể trở nên thế nào? Nó đã học được gì? Nó đã có ý tưởng nào về chính nó với tư cách một quan chức của Tổng thống ? Trong mắt nó ông ta có thể đã lớn lên, tôi có thể đã nhỏ đi. Điều này làm tôi bất an đôi chút, tôi hrg khoảng cách giữa chúng tôi có thể lớn hơn khi nó lớn lên. Tôi thường nghĩ thế giới với nó mới dễ dàng và sẵn sàng đến thế nào, thằng bé ở làng, bắt đầu từ tay trắng.
    Prosper chở tôi đến chỗ những người ở vă phòng nằm trước phòng thư ký. Một hàng hiên rộng chạy vòng quanh sân trong, ở ba phía nó được che chắn khỏi ánh mặt trời bởi những bức mành lớn bằng sậy. Nó tạo ra cảm giác lạ lùng, khi đi qua những hàng ánh sáng và bóng râm nhỏ, nhìn chúng hiện ra và chuyển động trên bạn trong khi bạn chuỷên động. Lệnh cho tôi vào phòng, nơi sau cái rèm rút lên được của hàng hiên, những đốm sáng nhảy nhót đôi khi trước mắt tôi, và rồi tôi được đưa vào văn phòng bên trong.
    Chính là Ferdinand, lạ lẫm trong chiếc ca vát nịt chặt có đốm và chiếc áo khoác vạt ngắn, và trông thông thường một cách không thể đoán trước. Tôi có thể đoán trước được phong cách, một sự thân tình nào đấy, một sự cao ngạo nào đấy, một sự thể hiện nào đấy. Nhưng Ferdinand trông thu kín và ốm yếu, như một người vừa sốt dậy. Nó không quan tâm đến việc làm tôi bị ấn tượng/
    Trên bức tường trắng mới sơn là một bức ảnh Tổng thống – to hơn người thật, chỉ có khuôn mặt – đó là một khuôn mặt đầy sự sống. Dưới khuôn mặt đó, Ferdinand dường như co lại, và không có chút tính cách nào trong bộ đồng phục thường trực làm nó trông như tất cả các quan chức khác hiện ra trong những bức ảnh chung trên báo. Dù sao, nó vẫn giống những quan chức cấp cao khác. Tôi tự hỏi tại sao tôi lại nghĩ nó có thể khác được. Những người đó, phụ thuộc mọi thứ vào ân sủng của Tổng thống , đều là một nắm những sợi dây thần kinh. Quyền lực lớn của họ luôn đi cùng với một nỗi sợ thường trực bị tiêu diệt. Và họ không cân bằng, đã chết một nửa.
    Ferdinand nói "Mẹ cháu nói với cháu là chú đã đi xa. Cháu ngạc nhiên thấy chú vẫn còn ở đây".
    "Tôi đến London sáu tuần. Tôi đã không gặp mẹ cậu từ khi tôi về".
    "Mẹ cháu đã phải bỏ việc làm ăn. Và chú cũng phải làm thế thôi. Chú phải đi. Chú phải đi hẳn. Ở đây không còn gì cho chú đâu. Bây giờ người ta tống chú vào tù. Trước đây họ chưa làm thế thôi. Chú có biết điều đó nghĩa là gì không? Có nghĩa là họ sẽ lại bắt chú một lần nữa. Và cháu không luôn ở đây để gỡ rối cho chú đâu. Cháu không biết về Prosper nhiều lắm, cũng không biết những người khác muốn gì ở chú. Nhưng lần sau sẽ nhiều hơn đấy. Đó là tất cả những gì về tình hình hiện tại. Chú biết điều đó mà. Họ đã không làm gì chú trong tù. Đó là chỉ vì họ chưa có dịp thôi. Họ vẫn nghĩ chú không thuộc loại người đó. Chú là một người nước ngoài, họ không quan tâm đến chú theo cách đó, họ chỉ đánh người ở vùng cây bụi thôi. Nhưng đến một ngày họ sẽ làm hại chú và rồi họ sẽ phát hiện ra rằng chú giống với mọi người khác, và rồi mọi điều rất tồi tệ sẽ xảy đến với chú. Chú phải đi. Hãy quên mọi thứ và đi đi. không có máy bay đâu. Tất cả các chỗ đã được đặt trước cho các quan chức đến dự cuộc viếng thăm của Tổng thống rồi. Đó là tiêu chuẩn cho những cuộc thăm như thế. Nhưng có một chuyến tàu thuỷ vào thứ Ba. Nghĩa là ngày mai. Hãy đi chuyến đó. có thể là chuyến cuối cùng đấy. Đừng mang nhiều hành lý quá. Đừng nói với ai. Cháu sẽ bắt Prosper bận rộn ở sân bay".
    "Chú sẽ làm những điều cháu nói. Cháu thế nào hả Ferdinand?"
    "Chú không cần phải hỏi. Chú không được nghĩ chỉ chú mới gặp chuyện tệ lậu. Tệ với tất cả mọi người. Đó là một điều khủng khiếp. Nó tệ với Prosper, với người đã lấy cửa hiệu của chú, với tất cả mọi người . Không ai được đi đâu hết. Chúng ta đều đi xuống địa ngục, và mọi người đều biết điều đó đến tận xương tuỷ. Chúng ta sẽ bị giết. Không gì có nghĩa hết. Đó là nguyên do tại sao mọi người điên rồ như thế. Mọi người muốn kiếm tiền và bỏ chạy. Nhưng đi đâu? Điều này làm mọi người phát điên. Họ cảm thấy mất đi chỗ mà mình có thể trở về. Cháu bắt đầu cảm thấy cùng điều đó khi cháu được giáo dục để không làm gì cả. Cháu cảm thấy cháu đã bị làm cho phát điên. Mọi thứ đều được cho cháu đều để tiêu diệt cháu. Cháu bắt đầu nghĩ cháu muốn trở lại là một đứa bé, để quên đi những quyển sách và mọi thứ liên quan đến quyển sách đó. Cây bụi có cách của nó. Nhưn gkg có chỗ nào mà đến cả. Cháu đã đi qua nhiều ngôi làng. Thật là một cơn ác mộng. Mọi đường băng đó con người đã xây dựng lên, những công ty nước ngoài đã xây dựng lên – giờ đây không còn chỗ nào an toàn hết cả".
    Lúc đầu mặt nó như một cái mặt nạ, bây giờ nó biểu lộ sự điên rồ.
    Tôi nói "Thế cháu định làm gì?"
    "Cháu không biết. Cháu sẽ làm điều cháu phải làm".
    Cách của nó vẫn luôn như thế.
    Trên bàn của nó có một cái chặn giấy bằng kính những bông hoa nhỏ đặt trong một hình bán cầu bằng pha lê. Nó đặt cái chặn giấy lên bàn tay trái và nhìn vào nó.
    Nó nói "Chú phải đi mua vé tàu. Cháu thường nghĩ về lần cuối chúng ta gặp nhau. Bốn người chúng ta trên tàu. Đó là giữa trưa. Chúng ta đã uống bia ở quầy bar. Đó là vợ của ông giám đốc – chú đã đi cùng cô ấy. Đó là thầy giáo là bạn của chú. Chú ấy đi xuôi dòng sông với cháu. Đó là khoảng thời gian đẹp nhất. Ngày cuối đó, cái ngày rời đi. Đó là một chuyến đi thật tuyệt. Đã khác đi vào lúc cuối. Cháu đã c ó một giấc mơ, Salim ạ. Cháu đã có một giấc mơ khủng khiếp".
    Nó cầm cái chặn giấy lên khỏi tay và đặt lại xuống bàn.
    Nó nói "Một cuộc hành quyết sẽ được tiến hành vào bảy giờ sáng. Chúng cháu sẽ gặp nhau để làm việc đó. Chúng cháu sẽ chứng kiến cuộc hành quyết. Một trong số chúng cháu sẽ bị hành quyết, nhưng người đó không biết. Anh ta vẫn đang nhìn ngó xung quanh. Chúng cháu sẽ gặp ở một chỗ cháu không nói được. Đó có thể là một chỗ của gia đình – cháu cảm thấy sự hiện diện của mẹ cháu. Cháu đang rất sợ. Cháu đã làm hỏng đi một số thứ theo những cách đáng xấu hổ và đang cố rất nhiều để rửa sạch nó hoặc để giấu nó đi, bởi vì cháu phải có mặt ở chỗ hành quyết vào lúc bảy giờ. Chúng cháu đang chờ người đó. Chúng cháu chào anh ta như thường lệ. Giờ đây, ở đây là vấn đề của giấc mơ. Chúng cháu có để người đàn ông lại một mình không, để được dẫn một mình đến nơi hành quyết anh ta không? Chúng cháu sẽ có dũng khí để ở đó với anh ta, để nói với anh ta theo lối thân tình lần cuối chứ? Liệu chúng cháu nên đi một xe hay đi hai xe?"
    "Cháu phải đi một xe. Nếu đi hai, điều đó có nghĩa các cháu đang sắp sửa đổi ý"
    "Chú đi mua vé tàu đi".
    Phòng bán vé rất nổi tiếng với giờ giấc bất thường của nó. Tôi ngồi trên một cái băng bằng gỗ bên ngoài cửa cho đến khi người đàn ông tới và mở cửa. Cabine de luxe vẫn còn trống, tôi đặt chỗ đó. Mất gần hết buổi sáng cho việc này. Chợ bên ngoài cầu tàu đã được dựng lên, tàu thuỷ sẽ đến vào buổi chiều. Tôi nghĩ nên đến chỗ Mahesh ở Bigburger nhưng rồi lại thôi. Chỗ đó quá náo nhiệt và quá trung tâm, và có quá nhiều quan chức ở đó vào giờ ăn trưa. Thật là lạ, khi nghĩ về thành phố theo cách đó.
    Tôi ăn nhẹ ở Tivoli. Những ngày này trông nó như đã mất tinh thần, như thể đang chờ đợi một sự triệt để hoá. Nhưng nó vẫn còn lại cái không khí châu Âu, và vẫn có các nghệ nhân châu Âu và gia đình của mình ở bàn ăn và những người uống bia ở quầy bar. Tôi nghĩ, điều gì sẽ xảy ra với những con người này? Nhưng họ được bảo vệ. Tôi mua một cái bánh, pho mát và vài lon đắt tiền – lần cuối tôi mua đồ ở thị trấn – và quyết định dành phần lại của thời gian ở căn hộ. Tôi không muốn làm gì khác cả. Thậm chí ý nghĩ gọi điện cho Mahesh cũng giống như một gánh nặng.
    Cuối buổi chiều có bước chân trên những bậc cầu thang lộ thiên. Metty. Tôi ngạc nhiên. Bình thường vào giờ này nó ở chỗ gia đình nó.
    Nó vào phòng khách và nói "Cháu nghe tiếng chú vào, Salim ạ".
    Trông nó thật khốn khổ và bối rối. Hẳn nó phải trải qua những ngày thật tồi tệ sau khi tố tôi cho Prosper. Đó là điều nó đang muốn nói với tôi. Nhưng tôi không muốn nói đến điều đó. Cú sốc của khoảnh khắc ba ngày trước đó đã tan biến. Đầu tôi đầy những thứ khác.
    Chúng tôi không nói gì. Và rất nhanh như thể chúng tôi không có gì để nói với nhau cả. Chưa từng bao giờ có sự im lặng giống như thế giữa chúng tôi trước đây. Nó đứng đó một lúc, đi vào phòng, rồi trở ra.
    Nó nói "Chú phải mang cháu đi theo, Salim".
    "Tao không đi đâu hết cả".
    "Chú không thể để cháu ở lại đây được".
    "Thế còn gia đình của mày thì thế nào? Và làm sao tao có thể mang mày theo được, hả Metty? Thế giới này giờ không còn như trước nữa. Cần visa và hộ chiếu. Những cái đó lo mình tao đã là rất khó rồi. Tao không biết tao có thể đi đâu và có thể làm gì. Tao không có tiền. Tao gần như không thể tự lo cho mình".
    "Mọi chuyện sẽ rất tồi tệ ở đây, Salim ạ. Chú không biết điều họ đang nói ở ngoài kia đâu. Tất cả sẽ rất tệ khi Tổng thống đến. Thoạt tiên sẽ giết những người trong chính quyền. Giờ đây Đội Quân tự do nói như thế là chưa đủ. Họ nói họ phải làm gì đó mà họ làm lần cuối, nhưng họ phải làm vào lúc thích hợp nhất. Đầu tiên họ sẽ dồn mọi người ra sân và bắn mọi người trên các quảng trường. Giờ đây họ sống họ phải giết thật nhiều hơn, và mỗi người sẽ phải nhúng tay vào máu. Họ sẽ giết mọi người biết đọc và biết viết, mọi người đã từng mặc áo khoác và đeo ca vát, mọi người từng mặc jacket de boy. Họ sẽ giết tất cả những người chủ và những người hầu. Khi đã kết thúc không ai có thể biết chỗ nào khác giống như ở đây. Họ sẽ giết và giết. Họ nói đó là cách duy nhất, để trở lại khởi đầu trước khi quá muộn. Sự giết chóc sẽ kéo dài hàng ngày trời. Họ nói sẽ tốt hơn là giết từ từ chứ không phải giết chết ngay. Tốt hơn là có những chuyện khủng khiếp khi Tổng thống tới."
    tôi cố làm nó bình tĩnh lại "Họ luôn nói như thế mà. Kể từ khi cuộc nổi loạn họ đã nói về buổi sáng khi toàn bộ đều rơi vào lửa. Họ nói như thế bởi vì đó là điều họ muốn làm. Nhưng không ai biết điều gì sẽ diễn ra. Còn Tổng thống thì khôn ngoan. Mày biết mà. Ông ấy hẳn biết cách chuẩn bị những việc cần thiết cho bản thân. Nên ông ấy sẽ rất phấn khích, và rồi ông ấy sẽ không đến. Mày biết Tổng thống mà. Mày biết ông ấy đối xử với người dân thế nào mà".
    "Đội Quân tự do không phải chỉ là những thằng nhóc ở bụi rậm đâu, Salim ạ. Mọi người đều ở trong đó. mọi người mà chú gặp. Làm thế nào cháu có thể ở một mình được?"
    "Mày phải thử vận may thôi. Đó là điều chúng ta thường xuyên làm. Mọi người đều làm như vậy ở đây. VÀ tao không nghĩ họ sẽ quấy rầy mày đâu – mày không làm gì họ mà. Dù vậy, hãy giấu cái xe đi. Đừng khiêu khích họ với cái đó. Mọi điều họ nói về việc trở về ban đầu, họ sẽ quan tâm đến cái xe. Nếu họ nhớ và hỏi mày về nó, hãy nói họ đến hỏi Prosper. Và luôn nhớ là đó là cái để bắt đầu lại."
    "Làm sao cháu có thể tiếp tục sống ở đây được? Khi mà không có cửa hiệu, và1 khi mà cháu không có tiền? Chú đã không cho cháu tiền. Chú quẳng tiền cho người khác, ngay cả khi cháu hỏi xin chú".
    Tôi nói "Ali, tao đã cho đi hết mất rồi. Mày nói đúng. Tao không biết tại sao tao lại làm như thế. Nhẽ ra tao cũng nên cho mày một ít. Tao không biết tại sao tao không làm thế. Tao chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Tao chưa bao giờ nghĩ về mày theo cách đó. Mày vừa làm tao nghĩ đến điều đó đấy. Hẳn là nó phải làm mày tức lắm nhỉ. Tại sao mày không nói với tao?"
    "Cháu nghĩ chú biết điều mình sẽ làm, Salim ạ".
    "Tao không biết đâu. Giờ thì tao không biết đâu. Nhưng sau khi tất cả đã trôi qua, mày sẽ có cái xe và căn hộ. Xe có thể bán được khá tiền đấy, nếu mày giữ được nó. Và tao sẽ gửi tiền cho mày qua Mahesh. Chắc là sẽ dễ để dàn xếp thôi"
    nó không cảm thấy thoải mái. Nhưng đó là những gì tôi có thể làm được vào lúc này. Nó nhận ra điều đó và không nằn nì tôi thêm nữa. rồi nó đ ivề chỗ gia đình mình.
    
    Cuối cùng tôi không gọi điện cho Mahesh, tôi nghĩ tôi có thể viết cho anh sau này. An ninh ở cầu tàu sáng hôm sau không có gì đặc biệt lắm. Nhưng các quan chức có vẻ căng thẳng. Họ giống như những người có một công việc phải làm, và đó là với lợi thế của tôi. Họ bớt chú ý tới một người nước ngoài đang rời đi trong số những người châu Phi xa lạ ở khu chợ quanh toà công trình và cầu tầu. Dù sao tôi vẫn thường xuyên bị chặn lại.
    Một nữ quan chức, khi đưa trả lại giấy tờ cho tôi, nói "Tại sao hôm nay ông lại đi? Tổng thống sẽ đến vào chiều nay. Ông không muốn nhìn thấy Tổng thống à?" Bà ta là một người đàn bà của Khu. Có gì mỉa mai trong giọng nói của bà ta không? Tôi cẩn thận bỏ ra ngoài tâm trí sự mỉa mai này. Tôi nói "Tôi muốn lắm chứ công dân. Nhưng tôi phải đi." Bà ta mỉm cười và vẫy tay cho tôi qua.
    Cuối cùng tôi cũng lên được boong tàu. Trong khoang cabine de luxe thật là nóng. Cửa chĩa ra sông chói loà, và mặt trời chiếu thẳng xuống cầu tàu. Tôi đi vòng sang bên có bóng râm, nhìn lên ke tàu. Thật không phải là một ý hay.
    Một người lính trên ke vẫy tay gọi tôi. Bốn mắt chúng tôi giao nhau, và anh ta bắt đầu trèo lên tàu. Tôi nghĩ, không thể ở một mình với anh ta được. Tôi phải có các nhân chứng.
    Tôi đi xuống quầy bar. Người đứng quầy bar đứng trước những cái giá trống rỗng của mình. Một người đàn ông to béo với những cánh tay to lớn, mềm mại, một quan chức của tàu đang uống tại bàn.
    Tôi ngồi ở bàn trung tâm, và người lính nhanh chóng hiện ra ở cửa ra vào. Anh ta đứng đó một lúc, bực bội với người đàn ông to béo. Nhưng rồi, đã qua được sự bực bội, anh ta đến bàn tôi ,cuối người xuống và thì thầm "C est moi qui a réglé votre affaire. Tôi đã giải quyết công việc cho ông"
    Đó là một nụ cười đòi tiền, từ một người sắp phải bước vào một cuộc chiến. Tôi không làm gì hết cả, người đàn ông to béo nhìn chằm chằm sang. Người lính cảm thấy người đàn ông nhìn sang và bắt đầu bước đi, mỉm cười, nói bằng cử chỉ rằng tôi sẽ hối tiếc về lời đòi hỏi của anh ta. Nhưng tôi đã cẩn thận không xuất hiện nữa.
    Chúng tôi rời đi vào khoảng giữa trưa. Chiếc xuồng hành khách không được buộc theo vào những ngày này – giờ đây nó đã bị coi là một cách thức của thời thuộc địa. Thay vào đó, cái thuyền được buộc vào đàng trước con tàu. Thị trấn nhanh chóng bị bỏ lại đàng sau. Nhưng cách vài dặm bờ đó, dù đã qua, vẫn còn trông thấy nơi vào thời thuộc địa người ta đã đặt ra những bất động sản và dựng lên những ngôi nhà lớn.
    Sau buổi sáng cái nóng đã trở nên kinh khủng, và trong ánh sáng màu bạc kinh hồn đang trôi qua, bờ sông đầy cây bụi xanh rực lên dưới bầu trời màu đen. Dưới màu xanh rực sáng đó, mặt đất trở nên đỏ rực. Gió lên, và thổi bay đi những phản chiếu từ mặt sông gần bờ. Nhưng cơn mưa tiếp theo đó không kéo dài lâu, chúng tôi ra đi trong hoàn cảnh đó. Chúng tôi sớm đi qua khu rừng đó. Mỗi khi chúng tôi đi qua một ngôi làng, và những chiếc xuồng độc mộc bán hàng lao đến gặp chúng tôi. Cứ như thế qua hết buổi chiều nặng nề.
    Bầu trời mù sương và mặt trời lặn có màu da cam và phản chiếu trong một đường màu vàng trên mặt nước đầy bùn. Rồi chúng tôi đi vào một ánh sáng rực rỡ màu vàng. Có một ngôi làng ở phía trước – bạn có thể đoán vậy từ những chiếc xuồng độc mộc ở xa. Trong ánh sáng đó những cái bóng của những chiếc xuồng độc mộc và những người trên đó mờ đi, không sắc nét. Nhưng những chiếc xuồng độc mộc đó, khi chúng tôi đến gần, không có gì để bán. Họ chỉ tuyệt vọng dính vào tàu chúng tôi. Đang có dánh nhau trên hai bên bờ sông. Họ ép chặt và chen lấn hai bên tàu và chiếc thuyền, và nhiều cái bị chìm. Những cây lan nước bị dồn vào những khoảng không gian hẹp giữa tàu và cái thuyền. Chúng tôi vẫn đi. Bóng tối đổ xuống.
    Chính trong bóng tối này mà đột ngột, với những tiếng động lớn, chúng tôi dừng lại. Có những tiếng hét trên chiếc thuyền, những chiếc xuồng độc mộc với chúng tôi và từ nhiều chỗ trên tàu. Những người thann niên với súng ống đã leo lên tàu và cố bắt nó dừng lại. Nhưng họ thất bại, một thanh niên máu ròng ròng trên cầu trên đầu chúng tôi. Người đàn ông to béo, thuyền trưởng, vẫn làm chủ được con tàu của mình. Chúng tôi sẽ biết được điều đó sau này.
    Vào lúc chúng tôi nhìn thấy con tàu ánh sáng, chơi vơi bên bờ sông, chiếu lên chiếc thuyền của hành khách, đã bị nới rộng và chuỷên vào một góc qua những bụi lan nước ở rìa dòng sông. Ánh sáng chiếu lên những hành khách trên thuyền, những người, đàng sau những thanh chắn và những bảo vệ bằng thép, dường như không hiểu nổi đang lênh đênh đi đâu. Rồi có những tiếng súng. Ánh sáng đã tắt, không còn thấy con thuyền đâu nữa. Con tàu lại tiếp tục đi không có ánh sáng xuôi dòng sông, xa khỏi vùng đang có đánh nhau. Không khí đầy bướm đêm và những loài côn trùng biết bay. Ánh đèn, trong khi còn bật, chiếu rõ ràng hàng nghìn những con vật đó, trắng toát trong ánh sáng trắng.
Cao Việt Dũng
Theo http://vanhoc.quehuong.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt

Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ đế...