Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021

Văn hóa nông nghiệp trong tục ngữ ca dao về lao động sản xuất

Văn hóa nông nghiệp trong tục ngữ
ca dao về lao động sản xuất

1. Tục ngữ, ca dao Việt Nam về lao động sản xuất là những câu nói, những lời ca của người Việt được lưu truyền trong dân gian, phản ánh và đúc kết những kinh nghiệm, nhận thức, đánh giá của cha ông ta trong quá trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và khí hậu tiêu biểu của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều, có hai mùa rõ rệt, mạng lưới sông ngòi dày đặc và những vùng đồng bằng màu mỡ, rộng lớn. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây lúa nước. “Điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Đông Nam Á và chính nó đã góp phần tạo nên đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á - nền văn minh thực vật hay nền văn minh lúa nước.” [2, 17]. Vì vậy, văn hóa nông nghiệp lúa nước chính là một đặc trưng văn hóa nổi trội của văn hóa Việt Nam. Nét văn hóa này để lại dấu ấn sâu đậm trong nhiều lĩnh vực lao động sản xuất của cha ông ta, từ trồng trọt, chăn nuôi, đến làm nghề thủ công,… Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những nét tiêu biểu thể hiện đặc trưng văn hóa nông nghiệp trong tục ngữ ca dao Việt Nam về trồng trọt.
2. Người Việt xưa kia sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, trong đó lúa nước được coi là cây trồng chủ đạo. Điều này được thể hiện trong ca dao tục ngữ về lao động sản xuất. Khảo sát, thống kê Kho tàng tục ngữ người Việt [7] và Kho tàng ca dao người Việt [9] ta thấy ca dao tục ngữ với chủ đề trồng trọt xuất hiện 786 lần, trong đó tục ngữ ca dao nói về trồng lúa xuất hiện 396 lần (chiếm 50,38%), tục ngữ ca dao nói về trồng màu và các loại cây khác xuất hiện 189 lần (chiếm 24,05%) và tục ngữ ca dao nói về trồng trọt nói chung xuất hiện 201 lần (chiếm 25,57%).
Hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp ở nước ta xưa kia, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển vốn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Con người luôn có ý thức tôn trọng thiên nhiên và luôn muốn sống hòa hợp với thiên nhiên, với trời, coi trời là chỗ dựa, thậm chí còn có tư tưởng sùng bái trời như một đấng tối cao:
– Lạy trời mưa thuận gió hòa
Để cho chiêm tốt, mùa tươi em mừng
Ngô khoai chẳng được thì đừng
Có nếp có tẻ trông chừng có ăn. [9, 1.369]
– Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu... [9, 1.881]
Nghề nông phụ thuộc vào nhiều hiện tượng thiên nhiên cùng một lúc (trời, đất, mây, gió,…). Muốn nắm bắt được tình hình thời tiết, phục vụ cho công việc nhà nông, người nông dân không chỉ quan sát một, hai hiện tượng riêng lẻ, họ luôn có ý thức quan sát mọi hiện tượng ở xung quanh:
– … Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới êm tấm lòng. [9, 1.709]
Từ những kinh nghiệm về thời tiết, người nông dân đã biết tận dụng thiên nhiên để gieo cấy cho hợp thời vụ, sao cho gieo trồng đạt năng suất cao:
– Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng… [9, 2.099]
– Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ, tua rua bằng mặt, cất bát cơm chăm. [7, 1.083]
– Đói thì ăn ráy ăn khoai, chớ thấy lúa giỗ tháng hai mà mừng. [7, 1.080]
– v.v...
Và họ cũng dựa vào thiên nhiên để đoán định mùa vụ:
– Muốn ăn lúa chiêm xem trăng rằm tháng tám. [7, 1.885]
– Muốn ăn lúa dé, xem trăng rằm tháng giêng. [7, 1.885]
– Muốn ăn lúa tháng mười, trông trăng mồng tám tháng tư. [7, 1.885]
– Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm. [9, 2.288]
– Trời mưa dông được đồng lúa trổ. [7, 2.787]
– Trăng sáng được ruộng su, trăng lu được ruộng cạn. [7, 2.716]
– Trăng tròn thiên hạ lệch, trăng chếch thiên hạ bình. [7, 2.716]
(Khi mặt trăng tròn và trong thì sau đó trời thường hạn hán, ít mưa, ruộng xấu, mất mùa, dân sẽ đói, thiên hạ lệch. Nếu mặt trăng chếch nghĩa là trăng méo thì trời sẽ có mưa nhiều, ruộng đủ nước, lúa tốt, dân chúng sẽ no đủ, thiên hạ bình yên).
– v.v...
Công việc đồng áng không chỉ phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, thời tiết, mà nó còn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nữa như đất đai, giống, kỹ thuật cày cấy, chăm bón, làm cỏ, gieo trồng, gặt hái,… Đặc biệt là trong quá trình trồng cây lúa nước, là cây trồng đặc trưng ở Việt Nam, thì việc đòi hỏi các kỹ thuật trong các khâu chăm bón càng phải kỹ lưỡng.
a) Làm đất, cày bừa
Người nông dân Việt Nam luôn nhận thức, đánh giá được vai trò của đất trong trồng trọt có ý nghĩa vô cùng quan trọng “Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” [7, 49], vì vậy họ rất coi trọng việc làm đất, chăm sóc, cải tạo đất:
– Cày ải hơn rải phân. [7, 385]
– Cày gãi bừa chùi lúa thui bông lép, cày sâu bừa kép lúa đẹp bông sây. [7, 386]
Họ cũng đã rút ra được những kinh nghiệm trong khâu làm đất, cày bừa:
– Ải bở chồng con ở, ải sượng chồng con đi. [7, 52]
(Cầy cho đất tơi (ải bở) thì trồng lúa mới tốt, nếu đất chưa khô kỹ, vẫn còn nước (ải sượng) thì lúa xấu).
– Ải thâm không bằng dầm ngấu. [7, 52]
(Làm đất chưa khô kỹ đã có nước (ải thâm) sẽ không tốt bằng để đất cày ngâm nước từ đầu (dầm ngấu)).
– Cày chạm vó, bừa mó kheo. [7, 386]
– Đất trồng lên, nèn vạc phẳng, ải trắng băng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm. [7, 991-992]
(Đây là kinh nghiệm làm đất trồng lúa của người nông dân. Muốn làm ải thì điều đầu tiên phải phơi cho đất khô trắng. Muốn đất chóng khô, người ta xếp vữa cày thành từng luống dài song song nhau theo hướng mặt trời mọc để nắng soi vào cho đều. Sau khi xếp ải rồi thì giẫy phần nền giữa các luống ải cho phẳng. Gặp thời tiết thuận lợi, ải trắng đẹp. Khi tháo nước đổ ải rồi bừa tơi thì dù cấy sáng trăng, người nông dân cũng vui, quên cả mệt nhọc).
Tùy từng loại giống, loại cây trồng mà người nông dân có kỹ thuật làm đất, cày bừa cho phù hợp:
– Chiêm thối cỏ, mùa nỏ đất. [7, 503]
(Đất cấy lúa chiêm phải có nước ngâm cho thối cỏ, đất cấy lúa mùa phải phơi khô).
– Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen. [7, 1.439]
– Khoai bén tay, sắn bay bụi. [7, 1.436]
(Đất để trồng khoai phải dính, đất trồng sắn thì không cần).
– Đất đen, đất nạc, cát pha, ta trồng sắn, chuối thì ra củ nhiều. [7, 994]
– v.v...
b) Chọn giống, gieo mạ
Ngoài đất tốt thì để có cây trồng tốt, có lúa tốt, giống cũng rất quan trọng bởi “Làm hay không bằng thay giống” [7, 1.519]; “Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa” [7, 2.664], “Mạ già ruộng ngấu cấy đâu được đấy” [25, 1.687]. Do đó các kỹ thuật về chọn giống mạ, gieo mạ, chăm sóc được người nông dân thực hiện kỹ càng, cẩn thận:
– Chiêm cút mùa di, sống để dạ chết mang đi. [7, 499]
– Mạ úa cấy lúa chóng xanh. [7, 1.689]
– Mạ mùa sướng cao, mạ chiêm ao thấp. [7, 1.688]
(Thời gian gieo mạ mùa vào tháng mưa nhiều nên phải gieo ở ruộng cao, đất khô để mạ không bị ngập nước; thời gian gieo mạ chiêm vào lúc hanh khô nên gieo ở những chân ruộng thấp trũng để có nước dưỡng mạ)
– v.v...
c) Cấy lúa
Có được các kỹ thuật về làm đất, chọn giống, gieo mạ rồi thì việc cấy lúa cũng đòi hỏi phải có tri thức nhất định. Từ lao động thực tiễn, cha ông ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm về cày cấy, từ tuổi mạ để cấy sao cho phù hợp “Mạ chiêm ba tháng chưa già, mạ mùa tháng rưỡi ắt là chẳng non.” [7, 1.686-1.687] và kĩ thuật cấy cũng phải tùy vào từng loại mạ:
– Cấy lúa ruộng lạ, gieo mạ ruộng quen. [7, 416]
– Mạ chiêm đào sâu chôn chặt, mạ mùa vừa đặt vừa đi. [7, 1.687] (Lúa chiêm phải cấy sâu, lúa mùa cấy nông).
– Cấy thưa hơn bừa kỹ. [7, 417]
– Chiêm cấy to tẽ, mùa cấy nhẻ con. [7, 499]
– Cho nhặt hàng sông, cho đông hàng con, cho tròn bụi lúa. [7, 527]
– Thừa mạ thì bán, chớ có cấy rậm ăn rơm. [7, 2.609]
– v.v...
Trong khâu cấy lúa, không chỉ đòi hỏi kỹ thuật mà thời điểm cấy cũng rất quan trọng:
– Sài đường, lúa tép vụ năm, hin, dâu, tám, dự thì chăm vụ mười. [7, 2.356] (Mỗi giống lúa có thời vụ cấy khác nhau).
– Cấy tháng sáu máu rồng, cấy tháng chạp đạp không ra. [25, 417] (Cấy lúa mùa tháng sáu, cấy lúa chiêm tháng chạp là hợp thời vụ).
– Bao giờ mang hiện đến ngày, cày bừa cho chín mạ này đem gieo. [7, 216]
– Chiêm ba vải, mùa phải thời. [7, 498]
(Lúa mùa phải cấy đúng ngày, đúng thời vụ; lúa chiêm có thể sớm muộn một chút cũng được).
– Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu. [7, 414-415]
(Sao tua là chòm sao nhỏ có bảy ngôi sao liền nhau. Đây là cách tính thời vụ dựa vào trăng sao: khi sao tua rua ngang mặt thì cấy, tua rua trên đỉnh đầu thì gặt).
– Tháng mười coi cái sao Tua
  Khi nằm, khi dậy làm mùa mới nên. [9, 2.108]
– Tua rua đi rắc mạ mùa
Tiểu thử đi bừa, cấy ruộng đất sâu
Hàn lộ lúa trổ bằng đầu
Lập đông ta quyết về mau gặt mùa. [9, 2.484]
(Tiểu thử: đầu tháng bảy dương lịch, Hàn lộ: đầu tháng mười dương lịch, Lập đông: đầu tháng mười một dương lịch)
– Tháng mười có sấm, cấy trên nấm cũng được ăn. [7, 2.481]
– Tháng sáu gọi cấy rào rào
  Tháng mười lúa chín, mõ rao cấm đồng. [9, 2.109]
– Tua rua một tháng mười ngày
Cấy trốc vừng cày cũng được lúa xơi
Bao giờ nắng rữa bèo trôi
Tua rua qua ngọ, thì thôi cấy mùa
Tua rua thì mặc tua rua
Mạ già ruộng ngấu chẳng thua bạn hiền. [9, 2.484]
– v.v...
Việc gieo trồng, cấy lúa đúng thời vụ được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng suất lúa khi thu hoạch “Nhất thì, nhì thục” [7, 2.070]. Bởi thế nếu gieo trồng không đúng thời điểm, thì công cấy lúa coi như bỏ công vô ích:
– Tháng sáu mà cấy mạ già
Thà rằng công cấy ở nhà ẵm con
Tháng chạp mà cấy mạ non
Thà rằng công cấy ẵm con ở nhà. [7, 2.110]
– Lập thu mới cấy lúa mùa
Khác nào hương khói lên chùa cầu con. [9, 1.376]
– v.v...
d) Chăm sóc, làm cỏ, tưới nước, bón phân
Để có vụ mùa tốt, ngoài các công việc làm đất, cày bừa, gieo mạ, cấy lúa, khâu chăm sóc như làm cỏ, tưới nước, bón phân,… cũng không kém phần quan trọng. Làm ruộng nếu chỉ cày cấy mà không chịu chăm bón thì cây sẽ kém phát triển, không được mùa, thậm chí còn mất trắng: “Ruộng cấy chay, ăn mày rỗng bị” [7, 2.338]. Chẳng những thế mà cha ông ta đã đánh giá nước và phân là hai yếu tố quan trọng nhất nhì trong công việc làm ruộng: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.” [2.063]. Ca dao tục ngữ về lao động sản xuất có nhiều đơn vị nói về vai trò của các công việc này:
– Có phân thời lúa mới xanh
Quần là áo lượt vì anh phân này. [9, 712]
– Công cấy công bỏ, công làm cỏ công ăn. [7, 774-775]
– Ăn cơm làm cỏ chẳng bỏ đi đâu. [7, 94]
– Nước đủ phân nhiều, chăm sóc sớm chiều lúa sẽ đầy bông. [7, 2167]
– Một lượt cỏ thêm giỏ thóc. [7, 1835]
– Nà nào mạ nấy, tốt rạ đổ phân. [7, 1919]
– Không nước không phân chuyên cần vô ích. [7, 1485]
– Không phân không vôi thì thôi làm ruộng. [7, 1.485]
– Ruộng không phân như thân không của. [7, 2.340]
– Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân. [7, 2.005]
– Một lượt tát, một bát cơm. [7, 1.836]
Công việc chăm sóc không chỉ đòi hỏi sự chuyên cần, mà còn phải có kinh nghiệm, kỹ thuật tốt:
– Một bụi cỏ một nắm phân. [7, 1.809]
– Phân không đủ ủ bèo. [7, 2.229]
– Phân đổ tran không bằng bèo dán cánh. [7, 2.228]
– Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì trấu tươi. [7, 2.599]
(Để vun bón cho lúa, dùng phân đã nát mềm là tốt nhất, nếu không thì dùng trấu tươi để bón vì nó có thể làm cho đất xốp và sau đó mục nát thành phân)
– Chiêm yên gốc, mùa trốc rễ. [25, 505]
(Làm cỏ cho lúa chiêm phải nhẹ nhàng, làm cỏ cho lúa mùa phải nhổ mạnh cho hết rễ cỏ.)
– Lúa xới ba lần, ải chần ba đêm. [7, 1.657]
(Xới cỏ cho lúa ba lần thì lúa cứng cây, tháo nước để ải vài ba ngày cho đất bở rồi mới bừa thì đất sẽ tơi xốp.)
– Phân tro không bằng no nước. [7, 2.229]
– Ruộng cao tát một gầu dai, ruộng thấp thì phải tát hai gầu sòng. [7, 2.338]
– Không thẳng tay gầu, nước đâu lên ruộng. [7, 1.486]
– Giữ nước thì phải be bờ. [7, 1.297]
– Đón đòng thứ hai như gái có thai được trai bồi dưỡng. [7, 1.085] (Bón phân cho lúa lần thứ hai khi lúa có đòng rất tốt).
– v.v...
đ) Thu hoạch, gặt hái
Muốn có được vụ mùa tốt, người nông dân phải làm việc luôn tay luôn chân, không ngơi nghỉ “Buông tay cày lại quay cuốc góc” mong cho đến ngày lúa trổ, lúa chín để thu hoạch, gặt hái. Trong công đoạn thu hoạch, họ cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về thời gian gặt lúa, cách gặt và phơi thóc,…:
– Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau. [7, 504]
(Lúa chiêm có đặc tính cấy trước thì lúa trỗ trước, cấy sau thì trỗ sau, trong khi đó với lúa mùa thì dù cấy sớm hay cấy muộn thì lúa vẫn trỗ vào cùng một thời gian).
– Chiêm gon ngâu bỏ đi đâu không gặt. [7, 501]
(Khi lúa chiêm có màu vàng như hoa ngâu là đã chín và phải gặt ngay để tránh mưa bão).
– Chiêm gon tìm đòn mà gánh, mùa gon cõng con lên rừng. [7, 500]
(Lúa chiêm gon thì tốt và cũng là lúc gặt, lúa mùa gon thì hỏng).
– Chiêm khô mo, mùa co chân diều. [7, 501]
(Lúa chiêm có vỏ ngoài của hạt thóc khô (khô mo), bông lúa chín khô cong (co chân diều) là bắt đầu chín phải gặt về ngay; lúa mùa thì để chín kỹ cho già hạt mới gặt).
– Chiêm khô bầu, mùa sầu rơm. [7, 501]
(Lúa chiêm thu hoạch sớm, lúa mùa để chín kỹ).
– Chiêm lên vai thóc dài xuống đất. [7, 502]
(Lúa chiêm hay rụng nên khi gánh lên vai phải cẩn thận.)
– Chiêm xúc vào xúc ra, mùa hong qua vài nắng. [7, 504] (Thóc chiêm phải phơi kỹ, thóc mùa phơi qua)
– Chiêm liền giũ, mùa ủ vào. [7, 502]
(Lúa chiêm gặt về phải giũ ngay để trục; lúa mùa thì ủ kỹ rồi mới trục.)
– Chiêm trở đôi, mùa đôi trở. [7, 504]
(Lúa chiêm khi trục chỉ cần trở hai lần là sạch thóc, lúa mùa thì phải làm nhiều lần.)
– Chiêm đi đơn, mùa đi kép. [7, 500]
(Khi rắc lúa ra sân để trục lúa, lúa chiêm chóng rụng nên chỉ cần đi lần lượt từng lần một, nhưng lúa mùa lâu rụng nên phải đi theo vòng đan nhau).
– Lúa chiêm bóc vỏ, lúa mùa xỏ tay. [7, 1.646]
(Thời gian gặt lúa chiêm khoảng tháng 5, tháng 6, khi thời tiết nóng ẩm mưa nhiều nên phơi lúa phải bóc vỏ trấu ra kiểm tra xem hạt gạo bên trong đã khô chưa, lúa chưa khô mà cất đi sẽ bị ẩm mốc, mối mọt. Trong khi đó, thời gian gặt lúa mùa vào khoảng tháng 10, thường có gió bấc, khí hậu hanh khô nên phơi nhanh khô, đống thóc để qua đêm, khi luồn sâu cánh tay vào kiểm tra mà không còn hơi ẩm là được).
Có thể thấy, công việc trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố và trải qua nhiều quy trình. Từ thực tế lao động, cha ông ta đã đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu và lưu truyền lại cho đời sau và cho đến ngày nay nhiều bài học, nhiều kinh nghiệm chúng ta thấy vẫn còn nguyên giá trị.
3. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, văn hóa Việt Nam cũng xuất hiện những dấu ấn văn hóa đặc trưng chung, đó là văn hóa nông nghiệp. Đặc trưng văn hóa nông nghiệp được thể hiện đậm nét trong tục ngữ ca dao về lao động sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực trồng trọt, thể hiện kinh nghiệm của cha ông ta trong hoạt động trồng lúa và các cây hoa màu. Những kinh nghiệm này chủ yếu được đúc kết từ thực tiễn, trong quá trình lao động. Điều này thể hiện mối quan hệ và ứng xử rất gần gũi và hòa đồng của con người với thiên nhiên, rất coi trọng sức lao động và đề cao sản phẩm lao động.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
2. Mai Ngọc Chừ, Văn hóa Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999.
3. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
4. Phạm Đức Dương, Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000.
5. Trịnh Đức Hiển, Tri thức người Việt về tự nhiên và xã hội qua thành ngữ, tục ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
6. Kinh nghiệm sản xuất qua ca dao tục ngữ, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2006.
7. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002.
8. Nguyễn Xuân Kính, Con người, môi trường và văn hóa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.
9. Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (chủ biên), Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
10. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, 1996.
11. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
12. Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008.
13. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
14. Trần Quốc Vượng, Môi trường con người và văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005.
19/10/2019 
Hà Thị Quế Hương
Theo https://thanhdiavietnamhoc.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệt 2 Tháng Chín, 2022 Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là co...