Thứ Hai, 23 tháng 8, 2021

Cổ học tinh hoa 4

Cổ học tinh hoa 4

122. CÓ CHỊU LO, CHỊU LÀM MỚI SỐNG ĐƯỢC
Ở đời, chết vì thuốc độc, muôn người họa mới phải một người, chớ chết vì ăn không ngồi rồi, thì thật nhiều. Cái độc "ăn không ngồi rồi” rất thảm rất hại. Nay ta hãy xem một vài sự đáng sợ để thí dụ mà nghe.
Xe đi trên mặt đất, đi chỗ gập ghềnh, thường được chắc chắn hơn chỗ phẳng phiu. Thuyền đi trên mặt nước, đi chỗ ghềnh thác, thường được vững vàng hơn đi giữa dòng sông. Tại sao vậy? Tại vì, biết là khó khăn mà giữ gìn thì được yên, cho là dễ dàng, mà khinh thường thì phải hỏng (bại vong).
164
Người đời thường sống về những khi lo lắng, cần khổ, mà chết về những lúc sung sướng yên nhàn. Lẽ ấy rất rõ, mà người đời không biết sợ, là bởi không chịu xét đến nơi.
Những lúc thư nhàn, thử nghĩ mà coi. Vì đâu mà chí khí ta phải suy kém? Vì đâu mà công việc ta phải hư hỏng? Vì đâu mà uổng mất một đời rồi cùng nát với cỏ cây? Vì đâu mà hóa ra hôn mê, không biết quay đầu lại, rồi lại đeo thêm cái tiếng xấu về sau? Vì đâu thành chểnh mảng không biết lo xa rồi đến nỗi mắc vào tội vạ? Ấy rút lại mấy điều là chỉ bởi ăn không ngồi rồi mà ra cả. Sự ăn không ngồi rồi quả là cái cửa những điều ác. Cửa ấy người giỏi vào, đến lúc ra thì dở, người tỉnh vào, đến lúc ra thì mê, người cương trực vào, đến lúc ra thì liệt nhược, người thanh khiết vào, đến lúc ra thì ô uế, sự ăn không ngồi rồi hại thân, hại nhà, hại nước nghĩ chẳng đáng sợ lắm ru!
Lã Đông Lai
GIẢI NGHĨA
Lã Đông Lai: tức Lã Tổ Khiêm, làm quan đời nhà Tống, học rộng biện bác giỏi, cùng với Chu Hạ và Trương Thúc gọi là Tam Hiển, học trò xưng là Đông Lai tiên sinh về làm bộ sách tên là Đông Lai tập.
LỜI BÀN
Không lo, không làm thực làm hại người ta hơn là thuốc độc. Chẳng nói gì, không lo không làm thì không có cơm ăn áo mặc, tiền tiêu, không giữ được phẩm giá, không làm hết bổn phận. Không lo, không làm, thân thể yếu đi, tâm chí cùn lại, và thường hay sinh ra làm càn, làm bậy, hại đến thân, đến nhà, đến nước. Quả vậy, câu trong bài: “Ăn không ngồi rồi là cái cửa của những điều ác” và bao nhiêu câu như: “Sự ăn nhưng ở rỗi là mẹ đẻ ra các nết xấu. –Cái chìa khóa không dùng thành gỉ hoen. – Nhàn cư vi bất thiện” cũng cùng có một nghĩa nói đến cái tai họa của sự không lo, không làm cả. Cho nên người ta bất cứ nghèo hèn hay giàu sang, ai cũng phải có lo, có làm mới đáng sống và mới sống được. “Sinh ư ưu cần, tử ư dật lạc”, nghĩa là sống là do ở ưu hoạn cần lao, chết là do ở yên nhàn dật lạc. Câu cổ nhân nói thật không sai chút nào.
123. CHÍNH DANH
Vua Cảnh Công nước Tề hỏi Đức Khổng Tử về việc chính sự.
Đức Khổng Tử thưa rằng: Cội rễ việc chính sự là cốt nhất phải làm cho sáng rõ luân thường đạo lý. Ở chốn triều đình, vua hết đạo làm vua, tôi hết đạo làm tôi; ở trong gia đình, cha hết đạo làm cha, con hết đạo làm con. Vua tôi, cha con ai nấy đều hết đạo của mình, thì chính sự mới có thể làm hay được.
Vua Cảnh Công nói: Phải lắm! Câu nói ấy thật là thiết yếu. Mà quả thế thật, nếu vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, thì cương kỷ rối loạn mà nước phải diệt vong. Thóc gạo tuy có nhiều, liệu có ở yên mà ăn được chăng.
Luận Ngữ
GIẢI NGHĨA
Luận Ngữ: là một sách mà do Khổng Tử và những đệ tử của mình biên soạn. Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Luận Ngữ là một quyển sách trong bốn sách gọi là Tứ Thư. Ngoài Luận Ngữ, Tứ Thư cũng gồm có Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung. Luận Ngữ được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán, và là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi triều đình Trung Hoa Khoa bảng (hay là "Khoa Cử"). (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Luận Ngữ trong Phụ Lục D, Tăng Tử trong Phụ Lục C).
Tề Cảnh Công: xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C.
165
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Vua Cảnh Công hỏi về chính sự mà Đức Khổng Tử đáp là chính danh là ngài nói đúng ngay vào cái bệnh của vua đối với quốc gia làm mất chủ quyền, đối với gia đình dung túng con cái, mà lại giảng được cái học thuyết chính danh của ngài. Tiếc thay vua Cảnh Công biết là phải mà không liệu cách mau mau thực hành để đến nỗi về sau nước Tề quả có tai vạ, vua thì bị giết, đất thì mất về tay người.
Như nói đến chính sự thời nay, thì chắc còn bao nhiêu sự khó khăn, phiền phức có phải là dễ đâu. Song sự cốt yếu cũng không ra được ngoài câu nói rất giản dị của Đức Khổng phu tử. Ta thử ngẫm mà xem, suốt xưa nay, khắp đông tây có nước nào vua (hoặc người cầm quyền, hay lãnh đạo mà gọi tên khác) kém sáng suốt, thần hạ gian nịnh mà nước không nguy vong, có nhà nào cha mẹ bạc ác bất nhân, con cái ngỗ nghịch bất hiếu mà nhà không suy bại không?
124. NÊN XỬ THẾ NÀO
Thầy Mạnh Tử hỏi vua Tuyên Vương nước Tề rằng:
- Giả thử có người bầy tôi nhà vua, đem y thực của vợ con ký thác cho người bạn thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc; kịp đến lúc về, mới biết bạn để cho vợ con đói rét thì người ấy nên xử với bạn thế nào?
Vua nói: Nên tuyệt giao.
Thầy Mạnh Tử lại hỏi:
- Giả sử có người làm quan sĩ sư không trông nom nổi được thuộc viên, để cho hình ngục sai lầm, công việc phế khoáng, thì nhà vua nên xử thế nào với viên quan ấy? Vua nói: Nên bãi đi.
Thầy Mạnh Tử nhân đấy hỏi luôn câu nữa:
- Thế thời làm vua một nước mà không sửa sang việc chính sự, việc giáo dục để đến nỗi trong nước không được bình trị, thì trách nhiệm tại ai và nên xử trí thế nào?
Vua nghe nói ngoảnh ngay sang bên tả, bên hữu, nói lảng sang chuyện khác, có ý vừa chữa thẹn, vừa tránh không trả lời.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết của ông cốt ở điều “Nhân nghĩa”, “Tính thiện”, đời sau tôn ông là Á thánh. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Châu: hay Chu là một nước chư hầu cổ thời Xuân Thu, lãnh thổ nằm trong địa giới của nhà Chu.
Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. (Xin xem thêm Xuân Thu ở Phụ Lục A).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Thầy Mạnh Tử đây chỉ vì việc nước mà khuyên can vua Tuyên Vương nước Tề. Hai
166
đoạn trên câu hỏi của thầy hữu tâm mà câu trả lời của vua vô tâm. Đoạn thứ nhất nói về “tình bạn”, kể nghĩa cũ cũng đáng tiếc, song đã nhận lời ký thác của anh em mà ra lòng phụ bạc, thì thật là người bạn đáng tuyệt giao. Đoạn thứ nhì nói về “phép nước”, kể thực buộc vào tội chưa có gì là nặng, song làm quan mà đến nổi không trông nom được kẻ dưới để phế khoáng việc công, thì thật là viên quan không nên dụng.
Còn đoạn thứ ba, tuy ông nói qua, mà đã ngụ sẵn cái ý thuế má quá nặng để dân đói rét, hình phạt sai lầm để dân oan khổ; làm vua mà đối với dân, với nước như vậy, thì cái tội to biết chừng nào. Thế mới tiếc thay vua Tề Tuyên Vương gặp được người chính trực cảm ngôn như thế mà lại không chịu rộng hỏi để sửa lỗi của mình, thật là mất một dịp tốt.
125. CHIẾC THUYỀN ĐỤNG CHIẾC ĐÒ
Một chiếc đò sang sông. Có chiếc thuyền không có người, đâu trôi đến, đâm phải. Người lái đò tuy hẹp bụng đến đâu cũng không lấy làm giận. Giả sử trên chiếc thuyền có người ngồi, thì người lái đò tất phải phùng mang trợn mắt, tru tréo một lần không nghe tiếng, tất tru tréo đến hai lần, hai lần không nghe tiếng, tất tru tréo đến ba bốn lần, rồi đến buông lời chửi rủa thậm tệ nữa,
Một việc xảy ra cũng giống nhau, mà như lúc trước không giận, như lúc sau lại giận là tại làm sao?
- Tại lúc trước chiếc thuyền không có người mà lúc sau chiếc thuyền có người. Người ta mà cứ thản nhiên không có chút tư ý gì thì ở đời còn có ai hại mình nữa. Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
126. RẮN DỜI CHỖ Ở
Trời nắng, ao cạn, hai con rắn muốn rời đi ở chỗ khác.
Rắn con bảo rắn lớn:
“Anh đi trước, tôi theo sau, người ta biết là rắn kéo nhau đi tìm chỗ, thì thế nào cũng tìm cách giết chết. Sao bằng anh để tôi ngậm vào mình anh, còn anh thì cõng tôi mà đi, người ta tất nhiên cho là Rắn Thần, không dám đụng đến”.
Nói xong, hai con rắng làm y như thế mà đi qua đường cái. Quả nhiên người ta trông thấy ai cũng tránh sợ, bảo nhau là “Rắn Thần”.
Những kẻ nương tựa nhau, thông đồng với nhau để làm điều gian giảo, lừa dối đời, mê hoặc người, thì có khác gì hai con rắn cõng nhau đây mà giả làm Rắn Thần không?
LỜI BÀN
Những quân gian giảo định đánh lừa thiên hạ, khi chỉ có một mình, thiên hạ cũng mắc lừa chán, huống chi là chúng kết bè, kết đảng, đồng tâm bày mưu mà lừa gạt thiên hạ, thì ai dù khôn ngoan đến đâu dễ đã tránh cho được. Đoàn kết với nhau để làm điều lành, hay cho thiên hạ bao nhiêu, thì bè đảng với nhau để làm điều ác, nguy cho thiên hạ bấy nhiêu. Vậy ta thấy những điều gì lạ tai, lạ mắt, trái hẳn nhân tình thì một là đánh lừa, hai là lợi dụng, ta trước nên suy xét kỹ đã, rồi sau hãy tin theo.
127. NHƯỜNG THIÊN HẠ
Vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do, có nói rằng:
167
- Khi mặt trời mặt trăng đã mọc mà cứ cầm đóm đuốc, soi sáng như thế, chẳng cũng khó lắm ru! Khi đang mong mưa, trời đã mưa mà cứ còn dội nước tắm tưới như thế, chẳng cũng nhọc lắm ru! Nay có ngài ra đời, đức thịnh tài cao, thiên hạ tự khắc cảm hóa bình trị, thế mà tôi còn cứ giữ lấy thiên hạ, thì tôi tự nghĩ lấy làm kém lắm. Xin nhường thiên hạ cho ngài.
Hứa Do nói:
- Nhà ngươi trị thiên hạ đã được bình trị, mà ta còn thay nhà ngươi, như thế chẳng là ta không có cái “thực” làm cho thiên hạ bình trị mà ta lại nhận lấy cái “danh” bình trị thiên hạ ư? Vả cái “danh” là người khách của cái “thực”, nếu không có thực mà lại đương lấy danh, thì hóa ra ta làm người khách không có chủ ư? Con chim làm tổ ở rừng chẳng qua chỉ một cành cây, con chuột uống nước ở sông chẳng qua chỉ đến no bụng. Thôi, xin nhà ngươi cứ về mà trị lấy thiên hạ, ta có dùng thiên hạ làm gì! Người nhà bếp mà chẳng trông nom việc bếp, thì người giữ việc tế tự cũng chẳng có thể bỏ đèn hương mà làm thay cho được.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Nghiêu: tên một bậc thánh đế đời nhà Đào Đường. (Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C)
Hứa Do: một bậc cao sĩ đời thượng cổ, ẩn ở núi Cơ Sơn. (Xin xem thêm Hứa Do ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Ý vua Nghiêu nghĩ thiên hạ là của chung của cả thiên hạ, cho nên vua mới tìm người hiền tài để truyền ngôi, miễn là thiên hạ được bình trị là mình được sung sướng.
Ý Hứa Do nghĩ mình không có tài mà nhận lấy cái tài của người làm của mình thì không gì xấu bằng. Vả ông lại có cái thú vô danh hơn là hữu danh, nên ông lấy việc có thiên hạ làm phiền, chứ không phải là sướng.
Một bên quên lợi, một bên quên danh đáng quí thay.
Thời buổi ngày nay giá được những bậc tài giỏi không có lòng tư, không cậy công, cậy của, không hiếu lợi hiếu danh, thì lo gì thiên hạ chẳng bình trị.
128. RỬA TAI
Đời thượng cổ có ông Hứa Do là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái Trạch.
Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
Sau, vua Ngiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chín châu, Hứa Do thấy vậy không muốn nghe chuyện nữa, ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do hỏi:
Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?
Hứa Do thuật lại chuyện. Sào Phủ liền gò cổ trâu lại mà nói rằng:
Ta toan cho trâu uống nước ở đây, lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên cho trâu uống nước.
Cao Sĩ Truyện
GIẢI NGHĨA
Cao Sĩ Truyện: sách của Hoàng Phủ Mật đời nhà Tấn soạn kể chuyện những bậc cao sĩ ẩn dật thời xưa bên Tàu.
Hứa Do: một bậc cao sĩ đời thượng cổ, ẩn ở núi Cơ Sơn. (Xin xem thêm Hứa Do ở Phụ Lục C).
168
Chín châu: thời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín châu để cai trị (Duyên, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương).
Sào Phủ: bậc cao sĩ đời thượng cổ không ưa thế lợi, ẩn ở trong núi, lấy cây làm tổ nằm ở trên cây cho nên mới gọi là Sào Phủ (Sào nghĩa là tổ).
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
LỜI BÀN
Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người là lạ. Người nhường thiên hạ cho, mà không nhận cũng là lạ. Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ cho làm chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống cái nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu càng lạ quá nữa.
Ôi! Đọc bài này, tưởng như Hứa Do với Sào Phủ là hai người, nếu chẳng ngông cuồng thì cũng gàn dở. Nhưng vì Hứa Do và Sào Phủ hiểu thấu danh lợi nó hãm hại người ta để làm cho mất hết cả liêm sỉ, cho nên hai ông không muốn để cái danh lợi bận đến cái thân, chỉ ưa chuộng sự sống thiên nhiên làm vui sướng, thì cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái chủ nghĩa cao quý vậy. Chả bù cho những phường tham danh, trục lợi thường say mê danh lợi, thậm chí đến chết vẫn chưa tỉnh cho!
129. CHẾT ĐÓI ĐẦU NÚI
Khi Vũ Vương đem quân đi đánh vua Trụ, Bá Di, Thúc Tề nghe thấy, ra nắm dây cương ngựa, cản lại và nói rằng:
-Cha chết chưa chôn mà đã chăm việc chinh chiến, thế có gọi là “hiếu” được không? Bầy tôi giết vua để cướp nước, thế có gọi là “nhân” được không?
Những người thân cận của Vũ Vương tức giận toan giết Bá Di và Thúc Tề. Thái Công can, nói rằng:
-Không nên, hai ông là “người nghĩa”. Rồi bảo quân lính ôm hai ông mà đẩy ra.
Đến khi Vũ Vương đã lấy được thiên hạ của vua Trụ, thiên hạ ai cũng tôn nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề lấy việc mất nước làm xấu hổ, đến nỗi coi thóc gạo cũng là tài sản của nhà Chu, buồn bực không ăn nữa.
Hai ông lên ẩn ở núi Thú Dương làm bài ca Thái Vi rằng:
Ta lên núi Tây Sơn,
Ta hái khóm rau vi.
Kẻ bạo thay kẻ bạo,
Còn biết phải trái gì!
Đời cổ thoáng qua rồi,
Biết đâu mà quy y.
Than ôi! Đành chết vậy.
Thật vận mệnh ta suy.
(Chính chữ Hán là:
Đăng bỉ Tây Sơn hề, thái kỳ vi hĩ,
Dĩ bạo dịch bạo hề, bất tri kỳ phi hĩ.
Thần nông, Ngu, Hạ, hốt yên một bề, ngã an thích quy hĩ.
Vua ta tồ hề, mệnh chi suy hĩ)
Rồi hai ông nhịn ăn, đành chết đói ở trên núi.
Chu Sử
GIẢI NGHĨA
Vũ Vương: xin xem Chu Vũ Vương ở Phụ Lục C.
Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương. (Xin xem thêm Bá Di, Thúc Tề ở Phụ Lục C).
Thái Công: tức Lã Vọng, một hiền thần nhà Chu, trước câu cá ở sông Vỵ, sau gặp
169
vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng. (Xin xem thêm Tề Thái Công ở Phụ Lục C).
Thú Dương: tức cũng là Tây Sơn, tên núi ở về huyện Vĩnh Thanh tỉnh Sơn Tây bây giờ.
Kẻ bạo thay kẻ bạo: đây nói vua Trụ bạo ngược, vua Vũ thay vua Trụ cũng là bạo ngược.
Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt, Trụ ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Xem bài này, hoặc có nói “Bá Di, Thúc Tề nắm ngựa mà can Vũ Vương là phải. Song can, mà người ta không nghe sao không thí thân chết theo với nước, lại đi lên núi Thú Dương hái rau vi. Than ôi! Sau ngày Giáp tý (là ngày vua Trụ mất thiên hạ), Vũ Vương đã đánh được nhà Thương, núi Thú Dương có còn là đất của nhà Thương, rau vi ở núi Thú Dương có còn là đồ ăn của nhà Thương nữa hay không? Bá Di, Thúc Tề lầm rồi!”. Nói như thế nghe kể cũng có lý, nhưng có phần quá về nghiêm khắc. Ta chỉ biết Bá Di, Thúc Tề thân cô mà dám ngăn cả thiên binh vạn mã, thế là trong lòng rất can đảm, biết vua Trụ là người không tốt mà cũng giữ một niềm thủy chung, thế là nghĩa, bất sự nhị quân, đáng tôn trọng quý báu biết chừng nào. Vả chăng hăng hái mà liều chết, việc ấy còn dễ; chớ chung thủy mà làm điều nghĩa, việc ấy mới là khó. Bá Di, Thúc Tề lên ẩn trên núi mà còn để lại bài ca Thái Vi còn lưu lại hai tiếng “Hiếu, Nhân” lúc ra can Vũ Vương, thật là những bậc có thể phù thực được cương thường muôn đời khiến cho người đời sau ai xem chuyện, ngu ngoan cũng thành có tri thức, liệt nhược cũng hóa ra cương cường mà có chí tự lập vậy.
130. ĐỜI NGƯỜI
Sống bảy mươi năm đã mấy người!
Trước thì tuổi trẻ, sau già lão.
Thì giờ quãng giữa được bao lâu?
Lại còn viêm lương cùng phiền não.
Hoa quá mùa xuân, hoa kém tươi,
Trăng quá mùa thu, trăng kém sang.
Hoa tươi trăng sáng, ta ngâm nga.
Rượu năm, ba chén say chuếnh choáng.
Tiền của càng nhiều, càng oán to.
Quan chức càng cao, càng nhọc xác.
Quan to tiền nhiều, lòng những lo,
Chỉ tổ làm cho đầu chóng bạc.
Xuân đi, hạ lại, thu sang đông,
Chóng như thoi đưa, như nước chảy.
Vừa tiễn buổi chiều, chuông chùa kêu,
Đã báo rạng đông, gà sáng gáy.
Ta thử tính xem người nhãn tiền,
Một năm đã thấy khuất vô số.
Lô nhô nắm đất cánh đồng hoang,
Quá nửa không ai người tảo mộ.
Đường Bá Hổ
GIẢI NGHĨA
Đường Bá Hổ: người thời Tống tên là Trường Nhụ ở Đan Lang, chuyên học kinh Dịch, kinh Xuân Thu, trị gia rất có phép, ông có bài ca nhân sinh mà đây dịch ra. (Xin xem thêm Đường Bá Hổ ở Phụ Lục C).
170
LỜI BÀN
Đời người trăm năm sống được sáu bảy mươi năm đã hiếm. Trong khoảng sảu, bảy mươi năm ấy, trừ lúc tuổi chưa khôn, tuổi già hết khỏe, quãng giữa còn được vài ba mươi năm có là bao, mà lại còn gặp biết bao nhiêu những sự đau đớn phiền não! Ôi đời người rút lại như thế có mấy lúc là sống cho ra sống.
Nên chi, hằng năm, hễ gặp được thắng cảnh, lương thời, thì ra kíp nên vui chơi cho sung sướng thỏa thích, hơi đâu mà cứ mài miệt theo đuổi lấy cái sang giàu giả dối chốc lát để là lụy đến tấm thân.
Lúc sống thì người chóng già, khó giữ lâu được cái thân, lúc chết thì thiên hạ chóng quên khó giữ lâu được mồ mả. Thời giờ mau chóng, thói đời viêm lương, vậy người ta lúc sống, mà tự khổ thân quá, tưởng cũng là khờ vậy! Đối với cái thời gian, không gian vô cùng vô hạn thì một người và một đời người kể có thấm vào đâu?
Reply With Quote
16-08-2011 08:23 PM #34 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
131. BA ĐIỀU KHÓ HỌC
Thầy Tăng Tử nói với Đức Khổng Tử:
Tôi biết thầy có ba điều, tôi học mãi mà chưa làm được. Thầy:
-Thấy người ta có một điều phải mà quên cả trăm điều trái của người ta, thế là thầy dễ tính.
-Thấy người có điều gì phải, thì vui vẻ như là mình có, thế là thầy không ghen tị. -Nghe thấy điều gì phải, nhất quyết làm rồi sau mới nói, thế là thầy chịu khó thực hành.
Thầy là người dễ tính, là người không ghen tị, là người chịu khó, tôi học mãi ba điều ấy của thầy mà chưa thể làm được.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học trò giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Lấy một điều phải mà quên trăm điều trái, thế là có bụng khoan dung người ta, lại có ý gây cho người làm nên điều phải. Thấy người làm phải cũng vui như chính mình làm điều phải, thế là có lòng vô ngã muốn giục cho người phải ưa làm điều phải. Thấy điều phải làm ngay rồi mới nói, thế là vụ cái thực làm chớ không chỉ có một cái nói giỏi mà thôi. Ba điều này mới nghe tưởng dễ, mà làm thực khó!. Thói thường,
171
người đời chỉ hay bới xấu nhau, ghen tị nhau, nói giỏi mà làm càn, cho nên mới ghét bỏ nhau, lừa dối nhau, hãm hại nhau, đưa nhau đến tử vong mà không gỡ ra được.

132. BA ĐIỀU VUI
Người quân tử có ba điều vui, tuy cho làm vua cả thiên hạ là sướng mà cũng không kể vào trong ba điều vui ấy được.
Cha mẹ còn sống, anh em bình yên là một điều vui.
Ngửa lên không tủi thẹn với trời, cúi xuống không xấu hổ với người là hai điều vui. Được những bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ, gây dựng cho ra người là ba điều vui.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
133. THƯƠNG MẸ GIÀ YẾU
Hàn Bá Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu. Những khi có lỗi, mẹ thường đánh đòn. Một hôm Bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:
Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai thế?
Bá Du thưa:
Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.
Ôi! Con ăn ở với cha mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở, cũng không dám oán như Bá Du trong chuyện này, không những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ thế mới thật là thâm thiết.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Hàn Bá Du: người đất Lương đời nhà Hán.
Hiếu: đạo ăn ở hết lòng với cha mẹ.
134. ÁO ĐƠN MÙA RÉT
Mẫn Tử Khiêm mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử Khiêm.
Mùa đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử Khiêm mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử Khiêm đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử Khiêm nín không dám nói. Cha giận đánh, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.
Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình liền muốn đuổi đi.
Tử Khiêm khóc mà van rằng:
- Dì con mà ở lại thì chỉ mình con rét; dì con mà phải đuổi đi, thì ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả.
Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có lòng thương yêu Tử Khiêm như con đẻ vậy.
Thuyết Uyển
172
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
135. DÂNG THƯ CỨU CHA
Thuần Vu Ý làm quan ở Tề Trung phải tội sắp đem hành hình, giải đến Trường An. Ông không có con trai, chỉ sinh được năm con gái. Lúc bị bắt đi, ông mắng con rằng: - Đẻ con chẳng đẻ con trai, những khi nguy cấp thật không có ai đỡ đần công việc. Người con gái út tên là Đề Oanh thương khóc theo cha đến Trường An, dâng tờ thư, đại ý nói:
-...Cha tôi làm quan, cả miền Tề Trung ai cũng ca tụng là thanh liêm công bình, nay bất hạnh phải tội, thật là oan quá. Vả chăng tôi trộm nghĩ người đã chết thì không sống lại được, đã chém thì không liền lại được. Nên dù có muốn đổi lỗi, theo điều phải trở nên hay, nên tốt, cũng không có cách nào nữa. Tôi xin bán mình làm đứa ở chỗ quan phủ, chuộc tội cho cha để cho cha tôi được tự tân.
Thư tâu lên vua. Vua xem, tha cho Thuần Vu Ý. Rồi xuống chiếu, trừ các nhục hình. Sử Ký Hán Vân Đế
LỜI BÀN
Bên Phương Đông ta, thường tình cha mẹ vẫn quý con trai hơn con gái, vì kể cứ trong nhà, con trai bao giờ vẫn được việc hơn con gái, nhất là những khi nguy cấp. Nên Thuần Vu ý đây tức mình mà gắt như thế cũng là phải. Nhưng Thuần Vu ý biết đâu là được người con gái như Đề Oanh thực là hết lòng với cha, cứu cha được ra ngoài vòng tội hình, lại có phần giúp đỡ được cho cả nhân dân trong nước, vì vua bỏ các nhục hình.
Thế mới hay con gái hay con trai cũng vậy mà thôi, quí hồ là ăn ở hết đạo với cha mẹ, giúp đỡ có ích cho xã hội, thì cũng là quý giá không bên nào khinh, bên nào trọng. Cổ ngữ có câu:
“Gái mà chi, trai mà chi,
Con nào có nghĩa, có nghì là hơn”.
Thực là phải lắm.
136. NUÔI MẸ BẰNG ĐIỀU PHẢI
Roãn Thuần lúc nhỏ học ông Trình Di, thường chỉ cốt theo nghề khoa cử.
Có một khoa thi Tiến sĩ, ông đã vào đến kỳ văn sách, đầu bài ra có câu: “Chu Nguyên Hựu chư thần” nghĩa là giết các bầy tôi đời Nguyên Hựu. Ông bỏ bài không làm, đi ra.
Khi về, ông thưa với thầy là ông Trình Di rằng: Từ nay con không đi thi Tiến sĩ nữa. Ông Trình Di nói: Ngươi còn có mẹ già kia mà.
Roãn Thuần về thưa chuyện thi cử với mẹ và nhắc lại cả câu thầy học bảo.
Bà mẹ nói:
- Ta muốn con lấy “điều phải” mà nuôi ta hơn là lấy “bổng lộc không ra gì” mà nuôi ta.
Ông Trình Di nghe thấy câu ấy, khen rằng: “Giỏi thay một người mẹ như thế!”
Tống Sử Roãn Thuần Truyện
GIẢI NGHĨA
Roãn Thuần: người đời Tống, học giỏi nết tốt, mấy lần vua triệu, từ chối không ra làm quan.
Trình Di: tức là Trình Y Xuyên một bậc danh nho đời Tống.
LỜI BÀN
Như Roãn Thuần đây sở dĩ mà không muốn đi thi, là vì đầu bài ra trái ngược hẳn với
173
lẽ phải. Bầy tôi đời Nguyên Hựu vốn là người giỏi mà lại bảo đem giết, đầu bài mà ra như thế là có ý muốn cho bọn đi thi đỗ, mà sau này là bọn quan trường, phải bác đời Tống Triết Tôn đi để nâng cái đời bấy giờ là đời Tĩnh Khang lên.
Còn như Trình Di ở đây sở dĩ như có ý khuyên bảo nên đi thi, là vì bụng nghĩ Roãn Thuần còn mẹ già phải phụng dưỡng. Thói thường cha mẹ cho con ăn học, ai là người không muốn cho con đi thi lấy đỗ, đã kiếm được chút lương bổng nuôi nấng mình, lại còn làm nên chút công danh vẻ vang cho cả nhà cả họ.
Kịp đến bà mẹ, sở dĩ bảo Roãn Thuần như thế, là bà biết trọng việc nghĩa hơn là danh lợi. Một câu bà dạy con khiến một nhà hiền triết như Trình Di còn phải phục, phải khen, thì há chẳng đáng làm cho những cha mẹ có con thi đỗ, chỉ mong cho con được chút danh phận, bất phân danh phận ấy thật hay giả, hay hay dở, phải suy xét cân nhắc rồi hãy đặt để cho con ru!
137. SAY BẮN CHẾT TRÂU
Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, hai anh em ở chung với nhau.
Bật có tính hay chén, mà hễ chén vào thì thường khi nát rượu.
Một hôm, anh đi vắng, Bật ở nhà uống say túy lúy, bắn chết mất con trâu của anh. Kịp lúc anh về, người vợ đón cửa, xăm xăm bảo rằng:
- Này này! Chú nó ở nhà bắn chết trâu rồi!
Hoằng nói: Trâu chết thì phải cho đem làm thịt.
Hoằng vào nhà, vừa ngồi yên, vợ lại chạy đến hăm hở nói:
- Chú nó bắn chết trâu là việc to lắm, có phải việc thường đâu.
Hoằng nét mặt vẫn hòa nhã tự nhiên nói:
- Phải, tôi đã biết rồi mà. – Rồi lấy sách giở xem như không có chuyện gì cả.
Vợ thấy thế nguôi cơn giận, không giám nói gì nữa.
Tùy Kỷ
GIẢI NGHĨA
Tùy kỷ: sách chép việc đời nhà Tùy.
Ngưu Hoằng: người đời nhà Tùy làm quan đến Lại bộ thượng thư, đời bấy giờ xưng là “Đại nhã quân tử”.
LỜI BÀN
Anh em một nhà mà ghét bỏ xa lánh nhau phần nhiều chỉ là tại chị em dâu. Không phải chị em dâu có bạc ác gì đâu; tại thường tình đàn bà, phần thì suy hơn tính thiệt, tí chút cũng so kè, làm cho chữ “Lợi” đè mất chữ “Nghĩa”, phần thì đêm ngày trò chuyện, bao nhiêu cái hay như muốn vơ cả vào mình, thành ra anh em hóa dở, làm cho chữ “Tình” lấn được chữ “Thân”. Đám nam nhi ta muốn ăn ở cho trọn vẹn nghĩa anh em, tình vợ chồng, tưởng cũng khi khó.
Ngưu Hoằng đây lấy thái độ ôn hòa, trầm tĩnh đối với vợ khi vợ đang bực tức căm giận, thật là biết đường lửa cháy cất dầu, cơm sôi bớt lửa mà biết đâu Hoằng lại chả nghiêm trách em mà không ai biết. Vì thế mà vợ mất giận, em được toàn, thế chẳng phải là biết cách ăn ở rất khéo trong chốn gia đình ư!
138. TÊN TÙ NƯỚC SỞ
Chung Nghi là người nước Sở bị nước Trịnh bắt nộp sang nước Tấn. Nước Tấn đem bỏ vào tù. Một hôm vua Cảnh Công đòi ra, cho cởi trói, gọi đến tận nơi ủy lạo, rồi hỏi:
- Ông cha nhà ngươi xưa nay làm nghề gì?
Chung Nghi thưa: Ông tôi xưa nay làm nhạc quan.
- Thế ngươi có biết nhạc không?
- Cha tôi xưa làm chức ấy, tôi nay vẫn giữ nghiệp nhà, đâu dám sao lãng.
174
Cảnh Công đưa cho đàn cầm, bảo gảy một khúc. Chung Nghi gảy thuần tiếng Nam, tức là tiếng nước Sở. Nghe xong Cảnh Công hỏi:
- Vua Sở là người thế nào?
Chung Nghi thưa: Tôi trí khôn hèn kém không đủ biết được thịnh đức của quân vương nước tôi.
Cảnh Công hỏi đi, hỏi lại hai ba lần.
Sau Chung Nghi phải thưa:
- Quân vương nước tôi khi làm thái tử, nghe lời quan Sư, quan Bảo dạy dỗ, buổi sáng đến chơi với Anh Tề, buổi chiều đến chơi với Tử Phản. Tôi biết có thế, còn việc khác tôi không được rõ.
Cảnh Công đem chuyện ấy nói cho Phạm Văn Tử nghe. Văn Tử thưa:
- Tên tù nước Sở như thế thật là một bậc quân tử. Chức nghiệp vẫn giữ nước nhà, là người không quên gốc âm nhạc vẫn giữ tiếng Nam, là người không quên nước; khen vua Sở mà khen tính tự nhiên là vô tư; nói với nhà vua đây, mà gọi hẳn tên hai quan khanh là tôn quân. Không quên gốc là “nhân”, không quên nước là “tín”, vô tư là “trung”, tôn quân là “mẫn”. Nhân thì xử được việc; tín thì giữ được việc; trung thì nên được việc; mẫn thì xong được việc. Có bốn đức ấy, việc to đến đâu cũng phải xuôi, sao nhà vua không giao trả tên tù cho nước Sở, để hắn về yêu kết việc hòa hiếu cho nước Tấn, nước Sở với nhau?
Cảnh Công theo lời Văn Tử, hậu đãi Chung Nghi, đưa về Sở đề cầu việc hòa hiếu. Tả truyện
GIẢI NGHĨA
Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
LỜI BÀN
Tên tù này không phải vì phạm tội thường mà bị tù, nhưng vì việc nước mà bị nước khác bắt tù. Khi đã bị bắt, người ta tra hỏi mà không rối trí, cứ ung dung đối đáp rất thông hoạt, và có ý vị khiến cho vua tôi nước ngoài nghe thấy phải khen, phải phục, như thế chẳng là vì một cái trí lự khí khái của mình, mà mình được thoát nạn, nước mình cũng được nhân đấy mà tôn lên ru! Ôi! Một nước được một tên tù giỏi mà kiến trọng, huống chi là có bao nhiêu hiền tào thì nước được mong cậy biết là bao. “Quốc hữu nhân tắc thực” nghĩa là nước có người giỏi thì nước mới đầy đủ vững chắc, câu trong sách dạy quả là đúng lắm.
139. BỆNH QUÊN
Nước Tống có anh đứng tuổi, tự nhiên mắc phải bệnh quên; buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên; ngày nay cho ai cái gì, ngày mai đã quên; ra đường quên cả đi, ở nhà quên cả ngồi, trước có làm những gì, bây giờ quên hết, bây giờ đang làm gì thì sau này cũng quên hết.
Cả nhà anh lấy làm lo. Xem bói không tốt, đi cúng không đỡ, đón thầy thuốc chữa cũng không khỏi.
175
Sau có ông đồ người nước Lỗ đến xin đám, nói rằng chữa được.
Vợ người có bệnh hứa với ông đồ hễ chữa khỏi thì chia cho nửa cơ nghiệp.
Ông đồ nói:
- Bệnh này bói không ra được, cúng không khỏi được, thuốc không chữa được. Nay tôi thử hóa cái tâm tính, biến cái trí lự của anh ta, may mà khỏi chăng.
Nói đoạn ông đồ liền sai lột áo để cho rét, thì thấy anh ta xin áo, sai cấm ăn, để cho đói, thì thấy anh ta xin ăn, sai đem vào chỗ tối, thì thấy anh ta xin ra chỗ sáng.
Ông đồ hớn hở bảo con anh ta rằng:
- Bệnh chữa được, song môn thuốc của tôi bí truyền không thể nói cho ai biết.
Rồi ông đuổi cả người chung quanh đi, chỉ một mình ông với người có bệnh trong bảy ngày. Chẳng ai biết ông đồ chữa chạy thế nào, mà cái bệnh lâu năm thế nhất đán khỏi phăng.
Khi anh có bệnh đã tỉnh như thường, anh liền nổi cơn giận, chửi vợ đánh con, cầm giáo đuổi ông đồ.
Người ta bắt anh hỏi, vì cớ gì mà anh giận như vậy, thì anh ta nói:
- Lúc trước ta có bệnh quên, thì trong lòng ta thản nhiên khoan khoái, trời đất có hay không, ta cũng chẳng biết. Nay ta hết bệnh, ta nhớ lại cả những việc vài mươi năm về trước, việc còn, việc mất, việc được, việc hỏng, việc thương, việc vui, việc yêu, việc ghét, trong lòng lại muôn mối ngổn ngang bời bời nổi lên vậy. Ta e sau này, những việc còn mất, được hỏng, thương, vui, yêu, ghét ấy cứ vướng vít trong lòng ta mãi mãi, thì bấy giờ dù muốn quên cả đi một phút, một lát liệu còn có được nữa chăng.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Ông đồ người nước Lỗ: đây ám chỉ Khổng phu tử.
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
LỜI BÀN
Lòng người đen trắng, việc đời đảo điên, lắm nỗi ngang tai, trái mắt, làm cho người ta không muốn trông, muốn nghe, thậm chí đến không muốn biết đến, chỉ muốn quên sạch. Bởi thế, Liệt Tử thành ra chán đời, mới đặt ra câu chuyện này để tỏ hết cái nỗi bực tức đau thương trong lòng. Ôi! Chẳng gì cái đời cổ tự Liệt Tử cũng còn chất phác, mà đã khắt khe đáng chán như thế, huống chi cái đời bây giờ là cái đời mỗi ngày gian trá quái ác thêm sinh, thì phỏng còn có gì làm cho người biết nghĩ đáng yêu, đáng quí nữa:
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!
140. BỆNH MÊ
Nước Tần có con nhà học Bàng, lúc nhỏ thông minh khôn ngoan sớm, đến lúc lớn tự nhiên mắc phải bệnh mê; nghe hát cho là khóc, trông trắng hóa ra đen, ngửi thơm cho là thối, ăn ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh dở mà cứ cho là phải, bao nhiêu những cái anh ta nghĩ đến, trời, đất, bốn phương, nước, lửa, nực, rét, không cái gì là không đảo ngược sai lầm cả.
Có người bảo cha anh rằng:
176
Bậc quân tử nước Lỗ có lắm thuật, nhiều nghề họa may chữa được chăng, sao không đưa đi mà hỏi.
Người cha sang nước Lỗ. Khi qua nước Tần gặp ông Lão Đam, nhân nói chuyện chứng bệnh của con.
Lão Đam nói:
Nhà ngươi há biết được cái bệnh mê của con nhà ngươi đâu. Nay thiên hạ ai ai cũng ù ờ phải trái, mờ mịt, về lợi hại, kẻ mắc phải bệnh mê như con nhà ngươi rất nhiều, chẳng có ai tỉnh cả.
Vả lại, một mình mê không đủ làm lụy một nhà, một nhà mê không đủ làm lụy một nước, một nước mê không đủ làm lụy cả thiên hạ. Thiên hạ ai ai cũng mê cả, thì còn ai làm lụy ai được nữa.
Giả sử thiên hạ ai cũng mê như con nhà ngươi mà chỉ nhà ngươi muốn chữa bệnh mê, thế thì chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất.
Ở đời những sự thương, vui, lẽ phải trái, những cái mắt trông, tai nghe, mồm nếm, mũi ngửi, ai nấy là người chắc cứ cho như thế mới là phải. Này ngay như lời nói ta đây, vị tất đã khỏi mê, huống chí người quân tử nước Lỗ lại là người quá ư mê, thì chữa sao được bệnh mê của người.
Nhà ngươi đem bao nhiêu tiền đi tìm thầy chữa chạy, chẳng bằng nghe ta trở về ngay còn hơn.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ. Quân tử nước Lỗ: tức là ám chỉ Đức Khổng Tử.
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Lắm thuật nhiều nghề: lắm cách nhiều lối.
Lão Đam: tức Lão Tử, họ Lý tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lão. (Xin xem thêm Lão Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Bài ngày cũng như bài trên có ý chê Đức Khổng Tử, bác hẳn cái nếp đã thành ở đời, xưa nay ai nấy, tự lúc biết đời cũng cứ cho như thế mới là phải. Nhưng xét đến nơi, cái nếp ấy chẳng qua cũng chỉ là ước định mà thôi. Ấy là không nói ở đời lắm kẻ lợi dụng cái nếp ấy làm điều giả dối để ngu hoặc người ta, lắm khi đến nỗi chỉ còn có danh mà không có thực. Giả sử bây giờ ta thử đổi cái trắng là đen, cái đen là trắng, cái ngọt là đắng, cái đắng là ngọt, nếu lâu ngày quen nếp đi, thì tất thiên hạ lại cho thế mới là thuận mà chính như bây giờ là nghịch vậy. Ôi! Cái thanh, sắc, khứu, vị rõ rệt như thế, người đời cho ngược hẳn lại được, thì cái nhân tâm, thế đạo là cái vô hình, vô trạng người đời há lại không dám ngược lại hay sao! Này những đời loạn, càn dỡ thì cho là tòng quyền, hà hiếp thì gọi là bênh vực, cái phận trên dưới không phân minh, đến cả cha con cũng bình đẳng, cái mối luân thường đã rối loạn, đến cả vợ chồng cũng tự do, mà cứ càng ngày càng đắm đuối mãi vào, thì có gọi đời là tỉnh được hay không! Hay chính là mê, mê quá không biết nữa vậy. Bệnh mê thực làm hại người ta, hầu hết cả một nước, cả loại người như điên, như cuồng, ai chữa cho khỏi, mà ai là kẻ có cách chữa được khỏi. Than ôi biết làm thế nào?
Reply With Quote
177
17-08-2011 08:37 PM #35 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
141. VỢ LẼ PHẢI ĐÒN
Xưa có người đi làm quan xa. Vợ ở nhà có ngoại tình ít lâu, có tin người chồng sắp về, đứa gian phụ lấy làm lo. Đứa gian phụ bảo rằng:
Không việc gì mà sợ. Tôi đã làm sẵn thứ rượu thuốc để đãi nó đây rồi.
Hai hôm sau chồng về tới nhà, đang khi chuyện trò vui vẻ, người vợ sai người thiếp rót chén rượu dân chồng, bảo cố mời uống. Người thiếp biết rõ chén rượu ấy có thuốc độc, nghĩ trong bụng rằng:
Ta mà dâng chén rượu này thì ta là người giết chồng, ta mà nói ra, thì ta lại làm cho vợ cả ghét ta.
Bèn giả cách ngã, làm cho chén rượu đổ xuống đất.
Chống thấy vậy giận lắm, đánh cho người thiếp mấy chục roi.
Than ôi! Người thiếp này đánh đổ chén rượu, phần thì làm cho chồng được còn sống, phần thì làm cho vợ cả được khỏi tội. Trung tín đến như thế mà chẳng khỏi đòn, mà phải chịu tội.
Chiến Quốc Sách
GIẢI NGHĨ
Chiến Quốc sách: bộ sách này còn được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
LỜI BÀN
Thân danh được là bà quan mà có ngoại tình là rất xấu xa đã nên tội. Đã ngoại tình lại còn những toan giết chồng, cái tội càng nặng biết để vào đâu cho hết. Ngoan thay! Thế mà vẫn chẳng ai biết, vẫn ra ngoài vòng pháp luật.
Phận hèn tiểu thiếp mà biết giữ cho chồng khỏi chết, vợ cả khỏi tội, hết lòng ủy khúc, chỉ cốt giữ cho gia đình được êm thấm, khỏi ô uế, không quản gì đến thân, cái chí cao như thế, cái đức dày như thế mà lại đến nỗi vừa phải đòn, vừa bị người ghét. Than ôi! Tình cảnh khắt khe, nỗi oan ai tỏ.
Trong gia đình nhà ông quan này, có một câu chuyện như thế, nhưng trong cả nước, cả thiên hạ, còn có bao nhiêu câu chuyện cũng như thế. Xưa nay đã có biết bao nhiêu chí sĩ nhân nhân, trung thần liệt nữ chỉ vì chân lý, chỉ vì cứu người mà phải ngục tù oan ức đau khổ đến thân. Khổ nhục, oan ức, những bậc ấy có coi vào đâu, miễn là đạt được mục đích, dù không ai biết, cũng lấy làm vui, có sá kể chi thế thái nhân tình của thế tục. Tấm lòng trung nghĩa tinh thành của những bậc ấy đáng quý, đáng trọng biết là nhường nào.
142. KHOÉT MẮT
Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh là người tuyệt đẹp và có đức hạnh.
178
Ông lúc trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lư thị đến bảo rằng:
-Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.
Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng không chí lấy ai nữa.
Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh.
Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy người tì thiếp nào nữa.
Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.
Chính vua Đường Thái Tôn, muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho Hoàng Hậu gọi vào bảo:
-Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một người mỹ nhân.
Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng rằng:
-Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết. Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén rượu độc, phán rằng: “ Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này”.
Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén uống hết ngay.
Vua thấy thế nói:
-Ta cũng phải sợ nữa là Huyền Linh
Lư Phu Nhân Truyện
GIẢI NGHĨA
Phòng Huyền Linh: danh tướng thời nhà Đường.
LỜI BÀN
Tưởng mình sắp chết, thấy vợ trẻ trung, không muốn để cho vợ ở vậy, thế là quá thương yêu vợ, thể tất cho vợ lắm. Sợ chồng tiếc đẹp, chết đi không dứt, mà khoét mắt để tỏ ra thành tật cho yên lòng chồng, thế là chí tình và nhất tâm với chồng lắm. May khỏi bệnh, sau lại làm đến Tể tướng, ông chỉ biết có bà mắt khoét, không biết gì đến tì thiếp xinh đẹp, thế là ông muốn giữ cho được trọn vẹn cái tình đối với bà. Còn bà không muốn để cho ông có tì thiếp, tuy gọi là thói quen thường tình, nhưng cũng là vì chung tình với ông, không muốn cùng ai san sẻ mối tình nữa. Quý thay! Đôi vợ chồng này, chân tình và chí tình, suốt đời kính yêu nhau, vợ chỉ biết có chồng, chồng cũng chỉ biết có vợ, chồng một vợ một, không những thoát khỏi cái nạn đa nhân duyên nhiều đường phiền não mà còn gây được cái phúc lâu dài cho thân, cho gia đình, cho con cháu sau nữa.
143. VỢ XẤU
Vợ Hứa Doãn là Nguyễn Thị nhan sắc kém lắm. Khi Hứa Doãn mới lấy về, làm lễ cưới xong, trông thấy vợ xấu muốn lập tức bỏ đi thẳng, bèn hỏi Nguyễn Thị rằng: -Đàn bà có “ tứ đức”, nàng được mấy đức?
Nguyễn Thị thưa: “Thiếp đây chỉ kém có “dung” mà thôi”. Rồi liền hỏi:
-Kẻ sĩ có “bách hạnh”, dám hỏi chàng được mấy hạnh?
Hứa Doãn đáp: “Ta đây đủ cả bách hạnh”.
Nguyễn Thị nói:
Bách hạnh thì “ đức” là đầu, chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ bách hạnh được?
Hứa Doãn nghe nói, có sắc thẹn. Tự bây giờ hai vợ chồng bèn yêu mến, kính trọng nhau suốt đời.
Thế Thuyết
179
GIẢI NGHĨA
Thế Thuyết: pho sách của Lưu Nghĩa Thánh đời nhà Tống soạn nói những chuyện vụn vặt từ đời Hậu Hán đến Đổng Tấn.
Hứa Doãn: người đời Tống có tài văn chương thi đỗ Tiến sĩ, làm quan chính sách rất hay, lòng dân cảm phục.
LỜI BÀN
Thường tình người ta tự xưa đến nay, ai cũng thích đẹp, chuộng đẹp. Xem như câu Đức Khổng Tử nói: “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã” thì đủ rõ. Tuy vậy, cái đẹp có hạn, cái nết vô cùng. Thế gian, những kẻ đem cái đẹp mà thờ người, mua chuộc lòng người, đến khi cái đẹp kém xuân, thường phải người ta cư xử ra tình phụ bạc. Đến như cái nết thì êm đềm thấm thía, cảm hóa được người, khả dĩ làm cho người ta càng biết, càng thân yêu, càng thân yêu càng kính phục, vì thế mà thường được trọn vẹn suốt đời.
Vợ Hứa Doãn đây lanh trí khôn lắm thật. Chỉ một câu nói mà làm cho tan hết được nỗi bất bình của chồng và khiến cho chồng suốt đời phải yêu vì cái duyên lặn vào trong. Thế chẳng phải là “ cái nết đánh chết được cái đẹp” là gì.
Nhưng được những người như vợ Hứa Doãn rất là hiếm vậy. Ở đời kể đã được mấy tay có thể lấy đức mà thay sắc hay thường khi đã xấu người lại thêm xấu cả nết nữa.
144. GHEN CŨNG PHẢI YÊU
Hoàn Ôn trước đã có vợ là Nam Khang công chúa, con gái vua Minh Đế nhà Hán. Sau Hoàn Ôn sang đánh dẹp được nước Thục lại lấy con gái của Lý Thế là một nhà quyền quý nước Thục mang về làm thiếp.
Lúc về nhà, công chúa biết chuyện nổi cơn ghen, liền cầm gươm và đem theo mấy người nàng hầu, xăm xăm đến, chực chém chết Lý Thị. Lúc đến nơi, công chúa thấy Lý Thị ngồi trước cửa sổ chải đầu, tóc rũ chấm đất, dung nhan tư mạo đoan trang tươi đẹp. Lý Thị thong thả vấn tóc, lượm tay, đến trước công chúa thưa rằng:
-Nước tôi mất, nhà tôi tan, tôi quả vô tâm mà hóa ra đến đây. Được bà chém cho, thật cũng thỏa lòng tôi mong mỏi.
Lý Thị, khi nói, mặt trông nghiêm chính ung dung, tiếng nghe êm đềm thấm thía. Công chúa thấy vậy, ném gươm xuống đất, ôm lấy nàng mà nói rằng:
-Này em ơi! Chị đây thấy em còn phải yêu, phải thương, huống chi là lão già nhà ta. Rồi tự đây, công chúa rất trọng đãi Lý Thị.
Thế Thuyết
GIẢI NGHĨA
Thế Thuyết: pho sách của Lưu Nghĩa Thánh đời nhà Tống soạn nói những chuyện vụn vặt từ đời Hậu Hán đến Đổng Tấn.
Hoàn Ôn: người đời nhà Tấn, làm quan đến chức Đại tư mã, uy quyền lừng lẫy thường hay nói câu: “ Tài trai chẳng có thể để tiếng thơm trăm đời cũng nên để tiếng xấu muôn năm” – “Nam tử bất năng lưu phương bách thế, diệc đương di khứu vạn niên”. (Xin xem thêm Hoàn Ôn ở Phụ Lục C).
Thục: nước ở vào vùng Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay.
LỜI BÀN
Phận hồng nhan số bạc mệnh, đã phải cảnh nước phá, nhà tan, quân cừu địch bắt hiếp về làm tỳ thiếp, mà nào đã yên, lại còn nỗi gặp tay vợ cả phũ phàng, xăm xăm đến những chực mổ mề, móc gan, róc xương, lột xác. Đau đớn thay phận đàn bà thật! Thương thay! Lý Thị nào phần thù riêng, nào phần nghĩa công lo phiền uất ức, trăm mối bên lòng, sống cũng là thừa người yêu ta xấu, thì thà rằng chết trẻ còn hơn. Cho nên câu Lý Thị nói với công chúa khí khái ràn ra ngoài lời nói, tưởng một liều, ba bảy cũng liều cho xong. Nào ngờ, vì chính câu nói khí khái mà mềm dẻo ấy
180
lại thêm được cái vẻ nghiêm nghị mà khiến cho người đang giận dữ phải dẹp ngay nỗi bất bình, đang ghét lại hóa ngay ra chiều thân ái.
Ta chắc xem câu chuyện này, chẳng những các bà có tính ghen với cây, hờn cùng bóng, thành ra có lượng bao dung rộng rãi, mà nam nhi ta, những phường giá áo túi cơm, bội gốc, quên nguồn, cũng phải sinh lòng khảng khái vậy.
145. LỜI CON CAN CHA
Điền Văn là con Điền Anh, ít tuổi mà cực khôn ngoan, thấy cha làm quan hay vụ lợi riêng, một hôm thừa nhàn, hỏi cha:
-Con đứa con gọi là gì?
Cha nói:
-Gọi là cháu.
-Cháu đứa cháu gọi là gì?
-Gọi là chút.
-Chút đứa chút gọi là gì?
-Ai biết gọi là gì được...
-Cha làm tướng một nước Tề này đến nay đã trải ba đời vua, giàu có hàng ức vạn mà môn hạ không có một người nào là hiền tài cả. Con nghe nhà quan tướng võ, tất có quan tướng võ giỏi, cửa quan tướng văn, tất cả quan tướng văn giỏi. Nay cha áo mặc gấm vóc mà người giỏi trong nước vẫn rách rưới, tôi tớ thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát. Cha quên hết cả việc công ích hiện thời của dân, của nước, chỉ chăm chăm súc tích của cải muốn để dành cho những kẻ sau này không biết gọi nó là gì! Con trộm nghĩ như thế thì thật là quái lạ lắm...
Sử Ký Mạnh Thường Quân Truyện
GIẢI NGHĨA
Sử Ký: còn được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Ký trong Phụ Lục D, Tư Mã Thiên trong Phụ Lục C).
Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Người ta ai là chẳng vì con vì cháu mà cố sức làm ăn, mà súc tích tiền của. Cái sự lo cho mình xong đến lo cho con cái cháu chắt họ hàng là cái tôi đi rất có thứ tự tự nhiên. Tuy vậy, ai cũng nên biết có nhà, có họ, nhưng lại còn có nước, có xã hội nữa. Cho nên cái sự mưu cho nhà, cho họ cũng có chế hạn để còn có tâm, có sức mưu cho người cùng giống, cùng nòi, cùng ở chung một nước, cùng sống trong một thời với mình. “ Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào” ta lo quá xa mà cứ đem thân làm trâu ngựa giúp cho đến mấy đứa cháu mấy mươi đời về sau này, sao cho bằng ta lo ngay cho bao nhiêu sinh linh mắt ta trông thấy khốn khổ hàng ngày. Để của lại sau này, sâu xuống không biết đến đâu là đáy, mà của ấy thường một hai đời đã hết, so với làm ơn rộng ra ngay hiện thời, ơn ấy đến đâu thấm đến đấy, thì đằng nào hơn. Câu Điền Văn vặn hỏi cha rồi giảng giải như bài này thực là một bài học hay cho những người có tính cách cá nhân chỉ biết có người máu mủ trong một nhà mà không có độ lượng biết đến những người trong cả làng, cả nước, cả xã hội, nhân loại vậy.
181
146. MỘT CÁCH ĐỂ LẠI CHO CON CHÁU
Bàng Công tính điềm đạm, không mấy khi bước chân tới chốn tỉnh thành. Hai vợ chồng ở nhà làm ăn và thường kính nhau như khách vậy.
Một hôm Lưu Biểu tìm đến chơi. Bàng Công đang cày dưới ruộng, bỏ cày lên bờ nói chuyện, còn vợ con vẫn cứ ở dưới đồng.
Lưu Biểu thấy thế, hỏi rằng:
- Sao tiên sinh khổ thân cày cuốc, chẳng chịu ra kiếm chút quan lộc, sau này lấy gì để lại cho con cháu?
Bàng Công nói:
- Người đời ai cũng lấy “nguy” để lại cho con cháu, duy chỉ tôi là lấy “an” để cho con cháu mà thôi. Cách ấy để lại cho con cháu, tuy khác nhau, nhưng thực thì đàng nào cũng gọi là để cả.
Lưu Biểu nghe nói, than thở rồi đi.
Hậu Hán Thư
GIẢI NGHĨA
Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
Bàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đời Đông Hán không chịu ra làm quan vào ẩn núi Lộc Môn, hái thuốc và làm ruộng kiếm ăn với vợ con.
Lưu Biểu: người đất Cao Bình đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu có bụng yêu dân, trọng người tài giỏi.
147. MỘT CÁCH LO XA CHO CON CHÁU
Sơ Quảng đời nhà Hán, làm quan tri sĩ về, được vua ban cho nhiều vàng lụa.
Con cháu cụ thấy thế, bèn nhờ cậy những người già cả trong họ đến nói với cụ lập nhiều cơ nghiệp và mua ruộng đất.
Một hôm, nhân lúc thư nhàn, những người già cả đem câu chuyện làm giàu cho con cháu thưa lại để cụ nghe, thì cụ nói rằng:
“Ta tuy già lão, há lại không nghĩ đến con cháu hay sao. Hiện ta cũng đã có ít ruộng nương, cửa nhà cũ của tiền nhân để lại. Con cháu ta mà chăm chỉ vào đấy thì cũng đủ ăn đủ mặc bằng người được rồi. Nếu bây giờ, ta lại làm giàu thêm cho chúng để cho thừa thãi dồi dào, thì là ta chỉ làm cho chúng lười biếng thêm ra thôi. Người giỏi mà sẵn có nhiều của, thì kém mất chí hay; người ngu mà sẵn có nhiều của thì càng thêm tội lỗi. Vả chăng của cải mà chứa nhiều thì chỉ tổ làm cho người ta oán. Ta đã không có gì giáo hóa được con cháu ta thì ta cũng không nên làm cho chúng có nhiều tội lỗi và để thiên hạ ai oán chúng cho thêm phiền.
Những của cải ta đang có đây là ơn của vua trên hậu đãi người bầy tôi già lão, ta chỉ muốn cùng cả anh em, bà con, họ hàng, làng nước cùng hưởng chung cái ơn ấy để trọn tuổi trời, chẳng cũng là phải ư?”
Người trong họ nghe nói thế, ai nấy đều cảm phục.
Hán Thư Sơ Quảng Truyện
GIẢI NGHĨA
Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ
182
Lục D; xem thêm Hán thư trong Phụ Lục D).
Sơ Quảng: Quyển 41 trong Hán thư; xin xem Hán thư trong Phụ Lục D.
148. THẦY TRÒ DẠY NHAU
Thường Tung yếu.
Lão Tử đến thăm, hỏi rằng:
- Tôi xem ra tiên sinh mệt nặng. Dám hỏi tiên sinh còn có câu gì để dạy đệ tử chúng con nữa không?
Thường Tung nói: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, ngươi đã biết điều ấy chưa? Lão Tử thưa: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, có phải nghĩa là không quên nơi quê cha đất tổ không?
- Ừ, phải đấy. Thế qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, ngươi đã biết điều ấy chưa? - Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, có phải là kính những bậc già cả không?
- Ừ, phải đấy.
Thường Tung há miệng ra cho Lão Tử coi và hỏi rằng:
- Lưỡi ta còn không?
Lão Tử thưa: Còn.
Thường Tung lại há miệng cho Lão Tử coi nữa và hỏi rằng:
- Răng ta còn không?
Lão Tử thưa: Rụng hết cả.
- Thế ngươi có rõ cái lí do ấy không?
- Ôi! Lưỡi mà còn lại, có phải tại lưỡi mềm không? Răng mà rụng hết, có phải tại răng cứng không?
- Ừ, phải đấy. Việc đời đại để như thế cả. Ta không còn gì để nói cùng các ngươi nữa.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Lão Tử: tức Lão Đam, họ Lý tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lão. (Xin xem thêm Lão Tử ở Phụ Lục C).

149. LƯỠI VẪN CÒN
Trương Nghi lúc hàn vi, thường hay hầu rượu tướng nước Sở.
Một hôm, tướng nước Sở mất ngọc bích, môn hạ ai nấy đều ngờ cho Trương Nghi, và đánh đập Trương Nghi tàn nhẫn. Trương Nghi không phục tình. Lúc được tha trở về, vợ thấy thế bảo rằng:
- Than ôi! Giá chàng học hành biết du thuyết, thì không đến nỗi nhục nhằn như thế này!
Trương Nghi há mồm to, hỏi vợ rằng:
- Nàng thử xem cái lưỡi của ta có còn không?
Vợ cười, nói: Lưỡi vẫn còn.
Trương Nghi bảo: Thế thì được.
Rồi sau Trương Nghi quả nhiên thành ra một nhà du thuyết giỏi có tiếng thời bấy giờ. Trương Nghi Truyện
GIẢI NGHĨA
Trương Nghi: người nước Ngụy là một nhà du thuyết giỏi thời Chiến Quốc.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
183
Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
LỜI BÀN
Phàm người ta thường có bị sỉ nhục, thì mới phẫn chí. Khi đang phẫn chí mà có ai khích cho một câu, thì tất phải cố công, gắng sức làm cho rửa được cái nhục và nên công, nên việc mới nghe.
Trương Nghi đây sở dĩ mà thành được một nhà du thuyết giỏi, tuy là tự tài mình làm nên, nhưng cũng vì có kẻ làm nhục, lại nhờ có vợ khuyến khích thêm cho nữa. Vậy nên ở đời những kẻ thù nghịch sỉ nhục mình thường có khi lại chính là kẻ giúp cho mình làm nên vậy.
150. KHÔNG CHỊU NHỤC
Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ đêm nằm thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm tự dưng vào tận nhà mắng, rồi nhổ vào mặt.
Chàng ta giật mình, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, chàng ta vẫn tức, ngồi suốt đêm, lấy làm bực dọc khó chịu lắm.
Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng:
- Bác ơi! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã sáu mươi tuổi, chưa hề phải đứa nào tỏa nhục bao giờ. Thế mà đêm qua phải một đứa nó làm nhục. Tôi định tìm kỳ được đứa ấy để báo thù mới nghe. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, nếu không tìm thấy, thì tôi chết mất.
Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà không thấy đâu, chàng ta về nhà uất lên mà chết.
Như câu chuyện này mà ta cho là phải thì chưa chắc đã là phải. Tuy vậy, cứ xem một cái tâm không chịu nhục ở trong chuyện, thì đã có cái gì hơn được thế chưa!
Lã Thị Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
Lã Thị Xuân Thu: sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lã Bất Vi ở Phụ Lục C).
Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. (Xin xem thêm Xuân Thu ở Phụ Lục A).
Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Tề Trang công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Tác giả kể chuyện rồi bàn một câu ở dưới như thế cũng là đủ.
Quả vậy, xem chuyện này, không cho là phải được, là vì tức ai, chớ tức một người gặp trong lúc chiêm bao mơ ngủ thì là tức hão huyền, tức cái không đáng tức. Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một điều thật đáng phục là chính thâm ý câu chuyện muốn nâng cao cái lòng biết nhục, biết lấy liêm sỉ làm trọng. Ôi! Trong khi giấc ngủ mơ màng, bị người ta làm nhục, còn không chịu được, thì trong khi thật tỉnh táo rõ ràng mà bị người ta làm nhục, thì đáng như thế nào?... Thế mà lạ thay ở đời có lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi, hoặc quen thói tôi đòi, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết
184
mọi nỗi nhục nhằn đè nén, không bút nào tả cho xiết được mà vẫn giữ hớn hở như không. Đối với những hạng không biết nhục, Tân Ti Tụ đây thực đáng là một cái gương soi sáng sâu vào đến tâm não họ vậy.
Reply With Quote
18-08-2011 08:52 PM #36 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
151. CÂU NÓI CỦA NGƯỜI ĐÁNH CÁ
Vua Văn Công nước Tấn đi săn ham đuổi một con thú mải theo quá chân, thành lạc vào trong cái chầm lớn không biết lối ra.
Vua gặp một người đánh cá, bèn bảo rằng:
- Ta là vua đây. Ta lạc đường, nhà nươi chỉ lối cho ta ra rồi ta hậu thưởng.
Người đánh cá nói: Bầy tôi muốn dâng nhà vua một câu.
Vua bảo: Cứ đưa ra khỏi chầm đã, rồi muốn nói gì thì hãy nói.
Khi người đánh cá đưa vua ra khỏi chầm, vua phán rằng:
- Nào câu gì nhà ngươi muốn nói với quả nhân lúc nãy thì nói nghe đi.
Người đánh cá thưa: Chim hồng chim hộc ở bờ sông bờ biển, chán sông biển mà vào đầm tất mắc phải dò bẫy. Thuồng luồng ba ba ở đáy vực sâu, chán vực sâu mà ra chỗ bãi nông, thời tất bị phải chài lưới. Nay nhà vua đi săn, sao quá chân vào đến tận đây như thế?
Vua Văn Công bảo: Người nói phải lắm.
Đoạn, ngoảnh lại truyền quan hầu ghi tên người đánh cá để sau ban thưởng.
Người đánh cá nói:
- Nhà vua bảo ghi tên bầy tôi làm gì. Xin nhà vua cứ tôn kính thiên địa, xã tắc, phòng giữ biên thùy, thương yêu muôn dân, đánh nhẹ thuế má, tự khắc là bầy tôi được hưởng ân huệ của nhà vua rồi. Nếu nhà vua chẳng tôn kính thiên địa, xã tắc chẳng phòng giữ biên thùy, chẳng chăm công việc, bên ngoài không khéo xử với các nước, bên trong mất cả lòng muôn dân, để đến nước mất dân khổ, thì dù bầy tôi có được hậu thưởng, cũng không thể sao giữ mà hưởng một mình được.
Người đánh cá cố từ, xong rồi lại nói:
- Xin vua mau mau về nước, tôi đây cũng về chỗ kiếm cá của tôi thôi.
Tân Tự
GIẢI NGHĨA
Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán soạn.
Văn Công: vua giỏi nước Tấn về đời Xuân Thu.
Tấn: nước to thời Xuân Thu ở vào tỉnh Sơn Tây ngày nay.
LỜI BÀN
Người đánh cá đây là người hiền muốn khuyên vua Văn Công hai điều là: không nên say mê chơi bời săn bắn quá độ mà có khi hại đến tính mạng, hết đạo làm vua cho dân được nhờ và nước khỏi mất.
Còn người đánh cá từ chối không nhận thưởng nói cái lẽ như thế cũng là lo xa nghĩ
185
sâu và phải lắm vậy. Quả thế khi tổ chim đã đổ thì trong còn có cái trứng nào lành; nước đã bị phá tan hay xâm chiếm thì nhà toàn vẹn sao được để mình còn hòng riêng hưởng cuộc yên vui; đời được thái bình thì quý bằng bao nhiên ân thưởng, tâm không phiền lụy thì sung sường bằng bao nhiêu công danh.
152. VUA TÔI BÀN VIỆC
Vũ Hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc, việc gì vua bàn cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng.
Lúc lui chầu, Ngụy Hầu ra dáng hớn hở lắm.
Ngô Khởi bèn tiến lên nói:
-Cận thần đã ai đem câu chuyện Sở Trang Vương nói cho nhà vua nghe chưa?
Vũ Hầu hỏi:
-Câu chuyện Sở Trang Vương thế nào?
Ngô khởi thưa:
-Khi Sở Trang Vương mà bàn việc phải hơn quần thần, thì lúc lui chầu lo lắm. Có người hỏi: Sao vua lại lo? – Sở Trang Vương nói: Ta làm việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lo. Cổ nhân có câu: “ Các vua chư hầu, ai có thầy giỏi, thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì làm được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực, thì còn nước, ai bàn việc không còn ai bằng mình, thì mất nước”. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần không ai bằng thì nước ta có lẽ mất. Bởi thế ta lo...
Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang Vương thì lo mà nhà vua thì mừng.
Vũ Hầu nghe nói áy náy vái tạ và nói rằng:
-Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.
Tử Tuân
GIẢI NGHĨA
Ngô Khởi: người nước Vệ thời Chiến quốc trước làm tướng vua nước Ngụy, sau làm tướng vua nước Sở, là một nhà dùng binh giỏi có tiếng.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
LỜI BÀN
Người làm chúa tể một nước tất là người tài giỏi hơn người, sáng công việc hơn người. Tuy vậy, khi đã dùng quần thần, là mong muốn cậy quần thần, còn có nhiều khi giúp được mình như người ngoài giúp nước cờ vậy. Nếu mà quần thần không có ai hơn mình cả, thì là bọn a dua ăn hại còn mong cậy gì được mà chẳng đáng lo. Nên lời Ngô Khởi nói đây rất là phải. Đã hay rằng người ta ở đời phải cầu ở mình hơn nhờ ở người, nhưng lắm lúc cũng phải có tả phụ hữu bậc mới lo toan được công việc lớn. Những bậc vua chúa cần phải có thầy giỏi, tôi hay là vì cái lẽ ấy. Truyện này cũng giống câu trong “ Quốc Sách” có nói: “Đế giả cùng ở với thầy, vương giả cùng ở với bạn, bá giả cùng ở với bầy tôi, vua vong quốc chỉ cùng ở với hạng đầy tớ”.
153. KHÓ ĐƯỢC YẾT KIẾN
Tô Tần sang nước Sở, chầu chực suốt ba ngày mới được yết kiến vua Sở.
Đến khi được yết kiến, nói xong câu chuyện là xin cáo biệt ngay.
Vua bảo:
Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc cổ nhân. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa:
186
Tôi xem ra bên nước Sở ta đồ ăn đắt hơn ngọc, củi thổi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nhà vua muốn bắt tôi ở lại ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma để thấy trời sao?
Vua nói:
Xin mời tiên sinh cứ ở lại. Quả nhân nghe đã hiểu ra rồi.
Chiến Quốc sách
GIẢI NGHĨA
Chiến Quốc sách: bộ sách này còn được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
Tô Tần: Một nhà du thuyết giỏi thới Chiến Quốc đi nói sáu nước đồng minh để kháng cự nước Tần.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
LỜI BÀN
Lắm người có được chút quyền chức khiến cho người khác phải cầu đến mình thì tự làm ra khó khăn hình như không muốn cùng ai xúc tiếp nữa. Họ làm như thế, tưởng là nâng giá trị mình cho cao lên, có biết đâu lại là làm cho quyền chức mình kém vì vậy. Vì khi đã làm khó, ít cho người đến gần, tức là lấp đường không cho chân lý, không cho điều khuyết điểm của chức vụ mình đạt được đến mình nữa. Ôi! Như Tô Tần là bậc tài giỏi mà vua Sở làm cho khó yết kiến thì chỉ có phần thiệt cho vua, chớ hại gì cho Tô Tần. Thế mới hay người chúa tể một quốc gia, lãnh đạo một dân tộc, cần phải tôn hiền hạ sĩ, trọng dụng nhân tài để đồng tâm hợp tác thì mới mong thành công được, nếu thông minh tự dụng thì chỉ hại cho dân cho nước mà thôi.
154. KHÔNG PHỤC NƯỚC TẦN
Nước Tần đánh nước Ngụy.
Vua Ngụy sợ, sai Tân Viên Diễn sang nói với vua Triệu, ý muốn cùng tôn nước Tần lên làm đế để đỡ việc chiến tranh.
Lỗ Trọng Liên được tin ấy, đến bảo Diễn rằng:
Nước Tần là nước bỏ hết cả lễ nghĩa, chỉ chăm dùng võ lực chinh chiến, như thế mà tôn làm đế, thì thực là không còn ra sao nữa. Tần sau này mà thắng thế, có làm được đế, thì Liên đây đành bước ra biển đông mà chết chứ không chịu làm dân nước Tần.
Diễn đứng dậy nói rằng:
Tôi nay mới biết tiên sinh là bậc thiên hạ sĩ. Từ nay tôi không dám nói tôn nước Tần làm đế nữa.
Chu Thư
GIẢI NGHĨA
Chu Thư: hay còn gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) thì hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ. Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
187
Triệu: một nước thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Trực Lệ và Sơn Tây bây giờ.
Tân Viên Diễn: tướng quân nước Ngụy về thời Chiến Quốc.
Lỗ Trọng Liên: người nước Tề về thời Chiến Quốc, tính khẳng khái, cao thượng, thích vì người bài phân, giải nạn, vua Tề phong tước ông không nhận, khi Tần nhất thống, ông ra ẩn ở biển Đông.
LỜI BÀN
Khi thấy một nước mạnh hơn nước mình mà mình cần giao hiếu, thì cũng là thường tình, vì như thế tức là vừa giữ cho mình còn lại, vừa được thêm vây cánh nữa. Nhưng mình phải biết khi giao hiếu với nước tàn bạo mà chiều họ tức là như mình muốn xúi giục cho họ càng tàn bạo thêm lên. Điều ấy rất không nên, vì như thế chẳng những không lợi gì cho mình mà lại thường nguy cho mình nữa. Họ đã tàn bạo, tất họ không để mình yên, mà dù cho họ có để mình yên nữa, thì cái trò tàn bạo không bền được lâu, chẳng bao lâu họ đổ thì mình tất cũng phải đổ theo.
Lỗ Trọng Liên nói trong bài đây, dù sau có phải tự đem thân ra ẩn biển Đông, thế nhà Tần quả cũng như lời Trọng Liên đã nói, không được bền lâu, chỉ qua hai đời trong vòng bốn mươi năm là mất.
155. CẬY NGƯỜI KHÔNG BẰNG CHẮC Ở MÌNH
Văn Công nước Đằng hỏi thầy Mạnh Tử rằng:
Nước Đằng ta là một nước nhỏ ở vào khoảng giữa nước Tề và nước Sở là hai nước lớn. Kể phận thì phải chiểu cả hai nước, nhưng kể sức thì không thể chiều được cả. Chiều nước Tề chăng? Chiều nước Sở chăng? Ta thực không biết nên nương tựa vào nước nào để cho nước ta được yên ổn, thầy mưu tính hộ cho ta.
Thầy Mạnh Tử thưa:
-Phàm việc mà cứ trông cậy vào người thì không thể chắc được. Chiều Tề thì Sở giận, chiều Sở thì Tề giận; mưu ấy chúng tôi không thể nghĩ kịp. Xin nói chỉ có một cách là tự giữ lấy nước, đào hào cho sâu, đắp thành cho cao, cai trị một cách cố kết lòng dân, cùng dân giữ nước. Hoặc như có biến cố gì xảy ra, vua đã liều chết để giữ nước, thì chắc dân cũng liều chết để giữ nước, không thể bỏ vua. Thế là ta dùng cái lòng dân để giữ lấy đất nước, tự cường mà lo toan lấy việc nước. Còn chiều Tề hay chiều Sở thì tôi không thể quyết được.
Mạnh Tử
GIẢI NGHĨA
Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Đằng: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc tức là huyện Đằng tỉnh Sơn Đông bây giờ. Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
156. PHẨM TRẬT ÔNG QUAN, PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Phẩm trật ông quan là phẩm trật có một đời, phận có, khắc có. Phẩm giá con người là phẩm giá lưu truyền trăm đời, tự mình không cố gây dựng cho mình, thì không bao giờ có.
Sĩ quân tử ta trông thấy cái trời ở ngoài trời, biết rõ cái người ở trong người, hiểu thấu đến cái vật ngoài vật ở đời, nghĩ xa đến cái thân sau thân hiện tại, thì biết đằng
188
nào ngắn, đằng nào dài, đằng nào còn, đằng nào mất, chắc không ham mê cái này mà quên bỏ cái kia.
Chúc Tử
157. BÀI TRÂM CỦA NGƯỜI LÀM QUAN
1. Sĩ, đại phu nên vì đời mình mà tiếc danh, không nên vì đời mình mà mua danh. Có học thức, chuộng khí tiết, thủ dữ (lấy hay cho) phải cẩn thận, uy nghi phải trang trọng, ấy thế là tiếc danh.
Tâng bốc lẫn nhau, a dua những kẻ quyền quý, làm ra kiểu cách khác thường, lờ mờ hai mặt, ấy thế là mua danh.
Người tiếc danh thì yên lặng mà hay, kẻ mua danh thì rực rỡ mà dở.
2. Sĩ, đại phu nên vì con cháu gây phúc, không nên vì con cháu cầu phúc.
Nghiêm giữ phép nhà, chuộng sự tiết kiệm, chất phác, dạy cho chúng biết chữ, cho chúng có nghề, chứa nhiều âm đức, ấy thế là gây phúc.
Mua nhiều cửa nhà, ruộng đất, giao kết với những người quyền thế, tranh lợi nhỏ mọn với dân, mua công danh cho con cháu, ấy thế là cầu phúc.
Người gây phúc thì thanh đạm mà lâu dài, kẻ cầu phúc thì nồng nàn mà ngắn ngủi. 3. Sĩ, đại phu nên vì một nhà mà dùng của, không nên vì một nhà mà hại của.
Giúp cho họ hàng, làng nước, tiêu rộng rãi về việc học, cứu kẻ khốn cùng, chăm làm việc nghĩa, ấy thế là dùng của.
Ăn mặc hoang, xướng hát nhiều, yến hội luôn, tụ tập lắm đồ châu báu, ấy thế là hại của.
Người biết dùng của tuy thiệt mà vẫn có thừa, kẻ không biết dùng của thì tuy thừa mà vẫn thiếu.
4. Sĩ, đại phu nên vì thiên hạ nuôi thân, không nên vì thiên hạ tiếc thân.
Bớt thị dục, giảm lo phiền, ít phẫn nộ, tiếc ẩm thực, ấy thế là nuôi thân.
So kè lợi hại, xa tránh khó nhọc, tham quyền cố vị chỉ chăm chăm việc vợ con, nhà cửa, ấy thế là tiếc thân.
Người nuôi thân thì im lặng mà to, kẻ tiếc thân thì thỏa thê mà nhỏ.
Trương Động Sơ
GIẢI NGHĨA
Trâm: lời nói hay thể văn dùng để khuyên răn người ta.
LỜI BÀN
Bồn đoạn bài này dạy người làm quan muốn vì thân mình, vì con mình, vì nhà mình, vì thiên hạ nên làm thế nào là phải. Mỗi đoạn cân nhắc tách bạch lợi hại, rồi lại bày tỏ tinh tường sự kết quả của cả đôi đường hay dở, thực là xác đáng lắm. Ta tưởng bài trâm này chẳng những riêng cho người làm quan mà ai nấy đã có chút công danh của cải, muốn cho được yên vui sung sướng cũng nên ngầm đọc, hay viết ra mà treo luôn bên mình, mà soi ngắm hắng ngày để cố mà thực hành, tưởng cũng nên lắm.
158. CƯỜI NGƯỜI TA KHÓC
Cảnh Công nước Tề đi chơi núi Ngưu Sơn, trèo lên mặt thành, đứng ngắm trông rồi tràn nước mắt vừa khóc vừa nói:
- Đẹp quá chừng là nước ta! Thật là sầm uất, thịnh vượng! Thế mà nỡ nào một tuổi một già bỏ nước này mà chết đi. Giả sử xưa nay, người ta cứ sống mãi, quả nhân quyết không bỏ nước Tề mà đi nơi khác.
Lã Sử Không, Lương Khưu Cứ thấy vua khóc cũng khóc và nói rằng:
- Chúng tôi đội ơn vua có cơm rau mà ăn, có ngựa hèn, xe xấu mà cưỡi, cũng còn chẳng muốn chết, huống chi là nhà vua.
189
Một mình Án Tử đứng bên cạnh cười.
Cảnh Công gạt nước mắt, ngoảnh lại hỏi Án Tử rằng:
- Quả nhân hôm nay đi chơi thấy cảnh mà buồn. Không và Cứ đều theo quả nhân mà khóc, một mình nhà ngươi cười là cớ làm sao?
Án Tử thưa:
- Nếu người giỏi mà giữ mãi được nước này thì Thái Công, Hoàn Công đã giữ mãi. Nếu người mạnh mà giữ được nước này, thì Linh Công, Trang Công đã giữ mãi. Mấy vua ấy mà giữ mãi thì vua nay chắc cũng mặc áo tơi, đội nón lá đứng giữa cánh đống lo việc làm ruộng, có được đâu chỗ này đứng, còn rỗi đâu mà lo đến cái chết. Chỉ vì hết đời này đến đời kia, thay đổi mãi mới đến lượt nhà vua mà nhà vua lại than khóc thì thật là bất nhân. Nay tôi thấy vua bất nhân, lại thấy bầy tôi siểm nịnh nên tôi cười.
Cảnh Công nghe nói lấy làm thẹn, rót chén rượu tự phạt rồi phạt Không, Cứ mỗi người một chén.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Ngưu Sơn: tên núi ở huyện Lâm Chí, tỉnh Sơn Đông ngày nay.
Lã Sử Không, Lương Khưu Cứ: cận thần của Cảnh Công.
Án Tử: người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng vua Cảnh Công, ông là người kiệm phác, trung thành, giỏi việc chính sự có tiếng thời bấy giờ.
Thái Công, Hoàn Công, Linh Công, Trang Công: các bậc tiền quân của Cảnh Công. Tề Thái Công: xin xem Tề Thái Công ở Phụ Lục C.
Tề Hoàn Công: xin xem Hoàn Công ở Phụ Lục C.
Tề Linh Công: xin xem Tề Linh Công ở Phụ Lục C.
Tề Cảnh Công: xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C.
Tề Trang Công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
LỜI BÀN
Tham sinh là cái thói thường người đời. Nhưng cứ mong sống ở đời mãi, tiếc đời đến nỗi than thở khóc lóc như Cảnh Công đây cũng là tham quá. Trong vũ trụ, cái gì là cái có sinh mà không có diệt. Vậy đời người cũng phải chịu luật chung ấy, bé rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, thấm thoắt có là bao. Lẽ đó mà không hiểu, lại phải chả ngu lắm ư! Nên Án Tử cười Cảnh Công rất là phải lắm. Án Tử bác cả Sử Không và Lương Khưu Cứ lại là phải lắm nữa.
Thảm thương thay! Xưa nay những nước gặp phải vua ngu và bầy tôi a dua siểm nịnh!
159. HIẾU TỬ, TRUNG THẦN
Vương Tôn được bổ làm Thứ sử châu Ích.
Quan Thứ sử trước ở đây là Vương Dương, lúc đi kinh lược trong hàng châu, qua một con đường núi rất cheo leo, than rằng:
- Thân ta là thân của cha mẹ ta. Ta nỡ nào xông pha vào những nơi nguy hiểm này. Bèn quay lại, không đi, rồi cáo bệnh về nhà.
Lúc Vương Tôn đến thay Vương Dương, đi tuần phòng, cũng phải qua con đường ấy, hỏi nha lại rằng:
- Có phải con đường này là con đường quan Thứ sử trước sợ không dám đi không?
190
Nha lại thưa: Phải.
Vương Tôn bảo xe cứ đi và nói rằng:
- Vương Dương trước là người hiếu tử, Vương Tôn đây là người trung thần.
Hán Thư Vương Tôn Truyện
GIẢI NGHĨA
Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hán thư trong Phụ Lục D).
Vương Tôn: Quyển 46 trong Hán thư; xin xem Hán thư trong Phụ Lục D.
Thứ sử: chức quan cai trị một châu một quận đời cổ.
Ích: tên một châu, tức là Tứ Xuyên đời nay.
Kinh lược: đi xét qua việc trị an trong hạt mình cai trị.
Nguy hiểm: cheo leo, không được yên ổn vững vàng.
Cáo bệnh: có bệnh không làm được việc quan xin về nghỉ để chữa.
Tuần phòng: đi tuần để phòng bị sự xảy ra.
Nha lại: những người theo làm việc tại dinh các quan.
Hiếu tử: người con ăn ở hết lòng với cha mẹ.
Trung thần: bầy tôi hết lòng đem thân giúp vua, giúp nước.
LỜI BÀN
Đối với gia tộc, Hiếu là trọng; đối với quốc gia, Trung là quý. Người ta ở đời, đáng lẽ ai cũng phải cố giữ cho trọn cả Trung lẫn Hiếu. Nhưng khốn nỗi, có lắm cảnh ngộ khiến người ta khó mà giữ cho cả Trung lẫn Hiếu được lưỡng toàn; được Hiếu thì mất Trung, được Trung thì mất Hiếu.
Kể như bài này, Vương Dương vì gia tộc mà giữ thân cũng là phải, nhưng so với Vương Tôn, thì Vương Tôn phải hơn. Vì cứ theo cái chủ nghĩa “ở đời thân ta không phải của riêng ta, lúc nhỏ là thân của cha mẹ, lúc lớn là thân của quốc gia, lúc già là thân của thiên hạ, hậu thế trông mong vào đấy” thì lúc ta đã ra làm việc nước, chính là lúc thân ta thuộc về quốc gia, ta há lại còn tiếc mà không làm cho trọn vẹn nghĩa vụ của ta đối với quốc gia hay sao! Đã đem thân phụng sự tổ quốc, thì tổ quốc phải để trên hết, chính thế cũng là hiếu lắm, vì cha mẹ ta cũng kỳ vọng cho ta phải thế kia mà.
160. ĐỌC SÁCH CỔ
Vua Hoàn Công đọc sách ở nhà trên. Có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng đọc, bỏ chàng, đục chạy lên thưa vua rằng:
- Cả dám hỏi nhà vua đọc những câu gì thế?
Hoàn Công nói: Những câu của Thánh nhân.
- Thánh nhân hiện nay còn sống không?
- Đã chết rồi.
- Thế thì những câu nhà vua học chỉ là những tao phách của cổ nhân đấy thôi.
- À anh thợ! Ta đang đọc sách, sao dám được nghị luận? Hễ nói có lý thì ta tha, không có lý thì ta bắt tội.
Người thợ mộc nói:
- Tôi đây cứ lấy việc tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng thì mộng cho vào dễ, nhưng không chặt; để hẹp, thì mộng cho vào khó, và không ăn. Còn làm không rộng, không hẹp, vừa vặn đúng mực thì thật tự tâm tôi liệu mà nẩy ra tay tôi làm, như đã có cái phép nhất định, chớ miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy tôi không có thể dạy được cho con tôi, con tôi cũng không thể học được tôi. Bởi thế
191
tôi năm nay đã bảy mươi tuổi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe.
Người đời cổ đã chết, thì cái hay của người đời cổ khó truyền lại được, tưởng cũng đã chết cả rồi. Thế thì những câu nhà vua học thật chỉ là những tao phách của cổ nhân mà thôi.
Vua cho người thợ mộc nói là phải.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Hoàn Công: vua giỏi nước Tề thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Đọc sách cũng như xem người, xem người mà cứ câu nệ hình, sắc, danh, thanh thì không bao giờ biết rõ được “tình” người, mà có khi lại phải người ta làm cho ngu nữa. Ta học mà cứ bo bo ở ngôn ngữ, văn tự thì bao giờ biết hết được ý sách, vì cái hay nhiều khi miệng không thể nói ra được, bút không thể tả hết được. Ta đọc sách mà tâm ta không lĩnh hội được cái ý ở ngoài câu nói của cổ nhân, thì ta không thể tu kỷ, không thể trì nhân được, chẳng qua chỉ làm cho loạn cái tính của ta mà thôi. Những kẻ hay mượn bã giả của cổ nhân để buông ra những học thuyết dông dài làm ra sách vở để dạy đời, ta tưởng cũng lầm lắm.
Trong bài này, ý Trang Tử cũng như ý Tuân Tử, muốn phản kháng lại cái lối học của đời bấy giờ, chỉ biết lấy “cổ” làm cốt mà bỏ quên mất cái “kim” chỉ biết cho những thánh nhân như Nghiêu, Thuấn...tự đời nào là phải, chứ không cho người chính thời nay còn được địa vị nào nữa. Như thế không khỏi gọi là thiên vậy. Câu nói của người lao công này chính xác và thực tế lắm. Người đi học chỉ chuộng hư văn, không có thực học tưởng cũng thẹn lắm thay!
Reply With Quote
19-08-2011 08:38 PM #37 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
161. MẤT DÊ
Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, đã sai hết cả người nhà đi tìm, lại sang nói với Dương Chu mượn người nhà cho đi tìm hộ.
Dương Chu nói: Ôi! Sao có mất một con dê mà cho những bao nhiêu người đi tìm? Người láng giềng đáp: Vì đường có lắm “ngã ba”.
Khi các người đi tìm dê đã về, Dương Chu hỏi:
- Có tìm thấy dê không?
Người láng giềng đáp:
192
- Không.
- Sao lại không tìm thấy?
- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã ba khác. Thành không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về không cả.
Ấy đường cái, chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì dễ mê muội mà mất cả lương tâm.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị ngã” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Người đi học mà không suy xét cho tinh, cứ cái gì cũng tham muốn cả, thì không bao giờ học cho thực đến nơi đến chốn được! Vì cái tâm con người có một, cái sức hoạt động của người cũng có hạn nên phân tán ra nhiều nơi, dùng sự hoạt động vào nhiều loại, tuy rằng học nhiều biết nhiều thật, nhưng chẳng qua chỉ hời hợt trên mặt, gọi là biết qua loa chút ít thôi. Sao cho bằng chỉ chuyên tâm học về một mặt nào, mà học cho đến cùng kỳ sự học, sự biết mới là chắc chắn sâu xa và có giá trị vậy. Sự học cũng như nhiều sự khác quí hồ tinh bất quí hồ đa.
162. THỰC HỌC
Hết thảy mọi việc, việc gì cũng có tình hình thực sự. Làm thì làm thực sự, chớ vụ hư danh.
Hết thảy câu nói, câu gì cũng có điểm mầu nhiệm. Nói thì nói cho ra nói, chớ có vọng ngôn.
Hết thảy mọi vật, mỗi vật có một lý rất phải. Nếu không hiểu rõ lý ấy, thì nhận xét dễ sai lầm mà thành mê muội.
Hết thảy mọi người, mỗi người, ta có một cách để cư xử đối phó, nếu không biết xử thì dễ sinh ra bất hòa, rồi chán ghét nhau.
Người ta đi học cần cái gì, chỉ cần học làm cho có sự thật, học nói cho khỏi vọng ngôn, học biết mọi vật cho tinh, học xử với mọi người cho phải...Học chỉ học thế thôi. Không chỗ nào không phải là chỗ học, không lúc nào không phải là lúc học, không tâm niệm nào không phải là tâm niệm để học. Cố học cho được hiểu trọn vẹn, chớ hiểu dở dang, cố học cho kỳ được, học cho đến nơi đến chốn, chớ có tự mãn tự túc. Thế mới đáng gọi là người học giả.
Khuyết Danh
LỜI BÀN
Thực học là lối học thực tế, học cho mở mang trí thức, học cho dầy dặn năng lực, để thành tài để ra người, để làm người hữu dụng: Nhỏ thì hữu dụng cho xã hội, to thì hữu dụng cho quốc gia, cho thiên hạ.
Thực học trái người với lối học hư văn là lối tục học, phù hoa khinh bạc, lòe đời, nịnh đời, chỉ tổ tự hại và hại tha, tuyệt không có gì là hữu dụng cả. Thế cho nên người đi học thì nhiều, người hữu dụng thì ít; đời mới than phiền: “hiếm nhân tài!”.
163. ĐÂY MỚI THẬT LÀ THẦY
Từ Tuân Minh, người ở Hoa Âm, thân thể to lớn, mồ côi từ thuở nhỏ, tính hiếu học, mười bảy tuổi theo Mao Linh Hòa sang học Vương Thông ở Sơn Đông. Học một năm thì từ biệt. Rồi sang Yên, Triệu lại học ông Trương Ngô Quý. Học trò ông Ngô
193
Quý rất đông. Tuân Minh dụng tâm học vài tháng sau nói chuyện riêng với bạn học rằng:
- Thầy ta đây danh tiếng tuy lẫy lừng, song nghĩa lý không được quán triệt. Phàm những câu ngài giảng thuyết, phần nhiều nghe chẳng được thỏa tâm ta. Ta muốn tìm thầy khác.
Rồi bèn cùng Điền Mãnh Lược sang Phạm Dương thụ nghiệp ông Tôn Mãi Đức. Nhưng học vừa được một năm, lại muốn bỏ đi, Mãnh Lược bảo Tuân Minh rằng:
- Anh tuổi còn trẻ, theo thầy học hành, chẳng chịu chuyên học một thầy, cứ nay thầy này, mai thầy khác, nay đến tìm, mai bỏ đi, nghìn dặm xa xôi, sách vở mang cắp, học hành như vậy, sợ không thành được.
Tuân Minh nói: Ta nay mới biết chỗ ở của ông thầy đích thật là ông thầy.
Mãnh Lược hỏi: Ở đâu?
Tuân Minh chỉ vào “tâm” nói: Đây, chính ở chỗ này.
Rồi tự bấy giờ Tuân Minh học lấy một mình, hết sức suy nghĩ, sáu năm không ra khỏi nhà. Khi mỏi mệt thường đàn địch để di dưỡng tính tình. Sau thành một bậc đại nho.
Ngụy Thư Từ Tuân Minh Truyện
GIẢI NGHĨA
Từ Tuân Minh: một bậc đại nho đời Hậu Ngụy.
Mao Linh Hòa, Vương Thông, Trương Ngô Quý, Điền Mãnh Lược, Tôn Mãi Đức: cũng là mấy bực đại nho thời bấy giờ.
Yên: một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ). Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, ở vào phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây bây giờ.
LỜI BÀN
Học cần phải có thầy, cần phải có sách, đó là lẽ thường, ai đi học cũng khó vượt được hai điểm ấy. Song khi học đã cao, nhất là về mặt tâm học, bảo muốn tìm cho thực có thấy giỏi để thụ nghiệp, không phải là dễ. Bấy giờ tất nhiên phải như Từ Tuân Minh đây, lấy “tâm” làm thầy là hơn cả. Vì cội rễ muôn nghìn điều phải, điều lành đều do ở tâm. Đem tâm chính trực trị tâm gian tà, đem tâm trung hậu trị tâm bạc ác, đem tâm ôn hoà trị tâm táo bạo, đem tâm cần lao trị tâm lười biếng...v.v.
Học thế nào cho tâm được thư thái, tâm được yên thỏa, tâm được quang minh như gương sáng trong, như nước im lặng, ngoại vật lại chẳng loạn được tâm, ngoại vật đi chẳng lưu lại ở tâm thế mới gọi là có tâm học vậy.

164. BỎ QUÊN CON SINH
Họ Công Sách sắp tế. Trong các lễ vật bỏ quên không đặt con sinh. Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện nói rằng:
Trong hai năm nữa, họ Công Sách thế nào cũng mất quan.
Năm sau, họ Công Sách quả nhiên mất quan thật.
Môn nhân hỏi rằng:
Trước họ Công Sách sắp tế bỏ quên con sinh mà thầy nói trong hai năm nữa thì mất quan, nay sự quả nhiên. Dám hỏi vì lẽ gì mà thầy biết trước như vậy?
Đức Khổng Tử nói:
Việc tế là việc người con có hiếu tỏ hết lòng thương nhớ cha mẹ mà lúc sắp tế, bỏ quên con sinh thì các công việc khác bỏ quên, bỏ sót chắc nhiều lắm. Như thế mà không mất quan thì không có lý.
Gia Ngữ
194
GIẢI NGHĨA
Công Sách: học trò một ông quan đời Xuân Thu.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Việc tế lễ là việc rất thận trọng, tức là việc giao tế thần minh. Chỉ có người tận tâm và tận thành thì mới cảm cách được, con sinh là lễ vất rất thiết yếu, mà đến lúc tế, lại bỏ quên cả con sinh thì sự sơ suất không phải là nhỏ vậy. Người như thế không thành tâm, công việc như thế là công việc không chu đáo. Xét một sự mà suy ra muôn sự. Đức Khổng Tử suy xét mà biết, há có phải là tiên tri đâu. Nhưng suy xét chắc chắn mà phán đoán trúng việc thì có khác gì tiên tri.
165. CHỌN NGƯỜI RỒI SAU HÃY GÂY DỰNG
Dương Hổ làm tướng nước Vệ, phải tội, chạy trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Triệu Giản Tử nói rằng:
-Tự nay trở đi, ta nhất quyết không gây dựng cho ai nữa.
Triệu Giản Tử hỏi:
Vì cớ gì mà ông lại nói thế?
Dương Hổ nói:
-Khi tôi ở nước tôi, các quan hầu cận nhà vua, tôi gây dựng cho quá nửa, các quan ở triều đình, tôi cũng gây dựng cho quá nửa, đến cả các quan ở biên thùy tôi cũng gây dựng cho nữa. Thế mà bây giờ các quan hầu cận nhà vua thì gièm pha tôi, các quan triều đình thì đem pháp luật trị tôi, các quan biên thùy thì dùng binh khí hiếp tôi. Thế cho nên từ nay trở đi, tôi nhất quyết không gây dựng cho ai nữa.
Triệu Giản Tử bảo:
-Ông nói câu ấy thì lầm. Ai trồng cây đào, cây mận thì mùa hè được bóng mát nghỉ, mùa thu được quả ngon ăn. Ai trồng cây tật lê, thì mùa hè bóng mát không có, mùa thu chỉ được những chông gai. Cứ như vậy, thì có phải là tại do cây mình trồng lúc trước không? Nay ông sở dĩ đến nỗi thế, là vì ông gây dựng toàn cho những kẻ không ra gì cả. Cho nên người quân tử phải chọn người trước, rồi sau mới gây dựng.
Hàn Thi Ngoại Truyện
GIẢI NGHĨA
Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi.
Dương Hổ: tức là Dương Hóa, người nước Lỗ thời Xuân Thu, làm quan nước Lỗ là người quyền thần chuyên chính.
Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Vệ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Triệu Giản Tử: một danh thần nước 6*9Triệu đời Xuân Thu.
LỜI BÀN
Dương Hổ gây dựng cho người ta, mà về sau lại bị người ta quay lại hại mình, thật chẳng khác nào nuôi ong tay áo, nuôi hổ để chịu vạ lây, đáng tức giận lắm thay. Cho nên Hổ phàn nàn với Triệu Giản Tử và có ý như thề rằng, thôi từ nay không làm ơn cho ai nữa, vì loài người đã bội bạc lại còn thêm độc ác. Triệu Giản Tử bác đi mà
195
giảng giải thế, là có ý quy cái tội cho Dương Hổ, tức là tội làm đại thần mà tham lam, mà ưa nịnh, chỉ thích gây dựng cho tiểu nhân để lo bè đảng thì khi thất thế, phải chịu lấy cái vạ của tiểu nhân.
Có người nói: làm ân mà phải chọn người trước, kể cũng hẹp hòi lắm. Nhưng làm ơn là một việc, vì tổ quốc mà chọn người, gây dựng cho người để giúp nước giúp dân là một việc. Như kéo bè kéo đảng, gây dựng cho cả kẻ gian ác có địa vị, có quyền thế để chúng làm mưa làm gió gieo tai gieo vạ cho nhân dân thì không những không được báo ơn mà còn hại đến thân đắc tội với tổ quốc nữa.
166. CƠ TÂM
Thầy Tử Cống đi qua đất Hán Âm thấy một ông lão làm vườn đang xuống giếng gánh từng thùng nước, đem lên tưới rau.
Thầy Tử Cống nói:
Kia có cái máy một ngày tưới được hàng trăm khu đất, sức dùng ít mà công hiệu nhiều. Cái máy ấy đằng sau nặng, đằng trước nhẹ, đem nước lên rất dễ và tên gọi là “ máy lấy nước”.
Ông lão làm vườn nói:
Máy tức là cơ giới, kẻ có cơ giới tất có cơ sự, kẻ có cơ sự tất có cơ tâm. Ta đây có phải không biết cái máy ấy đâu, chỉ nghĩ xấu hổ mà không muốn dùng vậy.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Tử Cống: học trò Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
Hán Âm: tên đất hiện ở vào phủ Hưng An tỉnh Thiểm Tây bây giờ.
167. KHÔNG ĐỢI TRÔNG CŨNG BIẾT
Hứa Kính Tôn có tính kiêu ngạo khinh người, tiếp ai xong, nhiều khi quên ngay, sau người ta có đến, lại không rõ là ai nữa.
Hoặc có kẻ chê Kinh Tôn là người không được thông minh.
Kính Tôn nói:
-Cái đó là tự người ta làm cho ta khó nhớ đấy thôi. Ví bằng ta gặp được những bậc tài giỏi như Hà, Lưu, Thẩm, Tạ, thì dù sờ trong xó tối, ta cũng có thể biết mà nhớ ra được.
Tùy Đường Nhai Thoại
GIẢI NGHĨA
Hứa Kính Tôn: người đời nhà Đường, đỗ tú tài, văn chương giỏi, làm quan đến Tể tướng.
LỜI BÀN
Kiêu ngạo là thói xấu, đến nỗi người ta có câu: “Ai mà kiêu ngạo là kẻ sắp đi đến bước cuối cùng”.Vậy người ta dù có thông minh tài giỏi cao quý đến đâu cũng không nên kiêu ngạo. Hứa Kính Tôn đây văn chương đã giỏi, quan chức lại to, giao tiếp nhiều người, nhớ sao cho xiết, mà chẳng quên. Nên ta cũng chưa thể cho cái quên ấy là thực khinh người. Xem ngay như câu nói của Hứa Kính Tôn, thì ta lại có thể cho là người biết người và có bụng trọng những người tài giỏi.
Vả chăng ở đời, cái thói khinh người tuy không nên có, nhưng cái cách biết phân biệt người đáng trọng, kẻ nên khinh, không nên rằng không có. Câu cổ: “ Tố nhân bất khả hữu ngạo thái, nhiên bất khả vô ngạo cốt” (Làm người không nên có cái dáng khinh ngạo, nhưng cũng không nên không có cái cốt khinh ngạo) cũng ám hợp với
196
câu của người Pháp:
“ Il ne faut pas mépsriser, mais il faut savoir dédaigner”.
168. KHINH NGƯỜI
Tử Kích là một bậc quyền quý, gặp Điền Tử Phương, là một hàn sĩ ở giữa đường, liền xuống xe chào. Tử Phương làm lơ không đáp lại.
Tử Kích giận, hỏi Tử Phương rằng:
-Kẻ phú quý hay khinh người đã đành, kẻ bần tiện có khinh người được không?
Tử Phương nói:
-Kẻ bần tiện mới có thể khinh người, kẻ phú quý sao dám khinh người. Vua nếu mà khinh người thì mất nước, quan nếu mà khinh người thì mất chức. Còn kẻ có học thức, xử cảnh bần tiện, đi đến đâu mà lời nói vua quan không dùng, việc làm vua quan không theo, thì xỏ chân vào giày, đi ngay lập tức, đến chỗ nào chẳng được bần tiện, còn có lo sợ gì, mà không dám khinh người?
Tử Kích nghe ra, bèn xin lỗi Tử Phương.
Chu Thư
GIẢI NGHĨA
Chu Thư: hay còn gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) thì hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
Tử Kích: một nhà quyền thế đời Chiến Quốc.
Bậc quyền quý: người có uy quyền thế lực thiên hạ phải kinh sợ.
Điền Tử Phương: người nước Ngụy về đời Chiến Quốc có tiếng là bậc hiền nhân. Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
LỜI BÀN
Tử Kích muốn lấy quyền thế, mà khinh người; Tử Phương muốn lấy học thức mà khinh người. Đến cùng, thì học thức khinh nổi được quyền thế. Mời hay ở đời nào cũng vậy, phú quý không bao giờ bằng được học thức. Có lẽ Tử Phương đây muốn chữa cái bệnh cho người quyền thế quá kiêu căng đời bấy giờ, cho nên nói những câu quá khích như thế. Ta cũng không nên quên cái cách phục thiện của Tử Kích đáng trọng và đáng yêu. Nay ta cứ bình tĩnh mà nói: Khinh người tức là “kiêu” mà chữ kiêu là cái nguồn gốc làm bại hoại cả đức tính. Phú quý chẳng nên kiêu, thì bần tiện dẫu có kiêu được, cũng không lấy gì làm phải. Kẻ sử sĩ đời Chiến Quốc phải coi phong khí nó chuyển đi, cho nên thường hay mắc phải cái thế kiêu như Tử Kích đây, không thoát khỏi tục, cũng là đáng tiếc. Người có học thức mà kiêu, là hạng người khinh thế ngạo vật, coi đời như không quan thiết gì đến mình. Ôi! Đã gọi là học thức mà có tính kiêu, thì vô bổ cho đời; đời có ngưới ấy cũng như không vậy.
169. HAI CÔ VỢ LẼ NGƯỜI CHỦ TRỌ
Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia.
Người chủ nhà trọ, có hai người thiếp, một người đẹp, một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý người thiếp xấu mà khinh người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn hỏi dò thằng trẻ con trong nhà trọ, thì nó trả lời rằng:
-Người thiếp đẹp tự lên là đẹp mà mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của họ nữa; người
197
thiếp xấu tự biết là xấu mà quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của họ nữa.
Dương Chu gọi học trò ra bảo:
-Các con nhớ lấy câu ấy. Người ta giỏi mà bỏ được cái nết “tự cho mình là giỏi: thì đi đến đâu ai cũng chẳng tôn trọng, chẳng thân yêu.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị ngã” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ Lục C).
Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
Thiếp: vợ lẽ, cô hầu.
LỜI BÀN
Đàn bà đẹp mà tự cậy mình lên đẹp, thì người ngoài chỉ thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét chớ không thấy còn gì là vẻ đẹp dáng yêu nữa. Đàn bà xấu, tự thẹn mình là xấu, thì chỉ thấy cái nết dịu dàng đáng thương, không còn thấy cái gì xấu xí đáng ghét nữa. Đấy người đẹp mà bị khinh, người xấu mà được quý là tại thế.
Ôi! Đẹp chỉ vì lên đẹp mà mất đẹp, xấu chỉ vì biết xấu mà quên xấu, thế thì những người giỏi mà tính tự lên là giỏi, thì sinh thời nào, đi đến đâu cũng không mong thiên hạ yêu kính được. Vì như thế tức là kiêu, mà kiêu thì không ai chịu được, sự khiêm nhã bao giờ vẫn là hơn vì thiên đạo, ích khiêm lưu khiêm, quỷ thân phúc khiêm, nhân đạo hiếu khiêm. Khiêm hay biết là dường nào! Dương Chu lấy câu chuyện ấy ra dạy học trò rất là phải lắm.
170. BA ĐIỀU PHẢI NGHĨ
Đức Khổng Tử nói:
- Người quân tử có ba điều phải nghĩ, ta chẳng nên chẳng xét đến:
1) Lúc nhỏ nếu mà chẳng học, thì đến lúc lớn ngu dốt không làm được việc gì.
2) Lúc già yếu mà không đem những điều mình biết để dạy người, thì sau đến lúc chết chẳng ai thương tiếc.
3) Lúc giàu có nếu mà chẳng bố thí, thì đến lúc khốn cùng chẳng ai cứu giúp.
Cho nên người quân tử lúc nhỏ nghĩ đến lúc lớn thì chăm học, lúc già nghĩ đến lúc chết thì chăm dạy, lúc có nghĩ đến lúc không thì chăm cứu giúp người nghèo khổ. Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Lúc nhỏ mà nghĩ đến lúc lớn, lúc già mà nghĩ đến lúc chết, đang giàu mà nghĩ đến nỗi nghèo khổ, ba điều lo xa. Phàm người ta có chịu trông xa như thế mà là biết phòng bị những cái ưu hoạn trước khi nó xảy ra vậy. Đức Khổng Tử còn có nói: “Người ta không nghĩ xa, tất có sự ưu hoạn gần”, (Câu chữ Hán là: Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu), cũng là có cái nghĩa dự phòng như lời nói trong bài này vậy.
Reply With Quote
20-08-2011 08:45 PM #38 Truc Vo
View Profile
198
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
171. LO, VUI
Thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử rằng:
- Người quân tử cũng lo sợ ư?
Đức Khổng Tử nói:
- Người quân tử chỉ cốt suy nghĩ định liệu công việc của mình, lúc chưa làm được thì vui rằng mình có ý định làm, lúc làm được thì lại vui rằng mình có trí làm được việc. Thế cho nên người quân tử có cái vui thú suốt đời, không có cái lo sợ một ngày nào cả.
Kẻ tiểu nhân thì không thế, lúc chưa làm được việc thì lo sợ rằng không được, lúc đã làm được việc thì lo sợ lỡ hỏng mất. Thế cho nên kẻ tiểu nhân có cái lo sợ suốt đời, không có cái vui thú nào cả.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.
Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
172. THẤY LỢI NGHĨ ĐẾN HẠI
Liệt Tử nghèo khổ, có khi đói khát không có gì mà ăn uống.
Có người nói với vua Tử Dương nước Trịnh rằng:
- Liệt Tử là một người cao thượng, nay ở nước nhà vua mà phải bần cùng, thì hóa ra nhà vua không biết quí trọng người giỏi ư?
Tử Dương nghe nói, sai sứ giả đưa cho Liệt Tử vài mươi xe thóc.
Liệt Tử ra yết kiến sứ giả, vái hai vái, xin từ không nhận.
Sứ giả đi, Liệt Tử vào nhà trong. Vợ ngóng trông bực tức, tự đập vào ngực mà nói rằng:
- Thiếp nghe vợ con những bậc đạo đức cao thượng đều được an nhàn vui vẻ, nay vợ con tiên sinh túng đói, vua đưa cho tiên sinh thóc gạo, tiên sinh lại từ. Thế chẳng phải là số mệnh xui ra vậy hay sao?
Liệt Tử cười, bảo vợ rằng: Vua mà biết ta, không phải là tự chính vua biết ta, tại nghe có người nói mới biết ta. Vua nghe người nói mới biết ta mà cho ta thóc, thì lúc bắt tội ta, tất vua cũng lại nghe người nói mà thôi. Vì thế mà ta không nhận thóc. Vả chăng chịu bổng lộc của người hoặc khi người mắc hoạn nạn, không liều chết giúp người là bất nghĩa. Mà nếu liều chết giúp kẻ vô đạo thì lại còn gọi là nghĩa thế nào được.
Tử Dương sau quả bị nạn chết.
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu
199
soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
Sứ giả: người thay mặt và nhận lời người trên để đi nói hay làm một việc gì đó với ai. Yết kiến: đi chào người trên.
Số mệnh: những sự hay dở, được, hỏng của đời người hình như định sẵn tự trời, không phải sức người làm nổi.
Vô đạo: ăn ở không theo lẽ phải.
LỜI BÀN
Đương lúc túng đói, gặp được vua chúa quý trọng, lại cho vài mươi xe thóc, người ta được thế chắc lấy làm vinh hạnh sung sướng, mà còn lên mặt với đời là khác. Liệt Tử đây khác hẳn, vái sứ giả hai vái, nói xin từ. Thái độ khiêm nhã thật đáng trọng! Xin từ mà không lộ vẻ tự ái, tự cao, không có một lời nghị luận đến thời sự, thậm chí phải vợ con giày vò mà Liệt Tử vẫn thản nhiên, chỉ ôn tồn nói qua mấy câu “ăn ở phải biết lui biết tới, biết ân biết nghĩa”. Người sao sáng suốt khôn ngoan mà như ngu dại, thật đáng phục lắm thay! Vì không thế không sống còn được ở đời loạn. Liệt Tử đây phần biết người hay dở, phần hiểu việc sâu xa. Thật là bực “minh triết bảo thân” vậy. (Câu chữ Hán là: Đã không ngoan lại sáng suốt để bảo toàn tấm thân.)
Ở đời, sẵn có máu tham, thấy của tối mắt, đỏ đâu bâu đấy, sống chết mặc bay, đó là bệnh thông thường. Anh em chúng ta như muốn tránh bệnh ấy, tưởng nên học Liệt Tử biết rõ nghĩa lợi, hiểu đường lui tới mới là hơn.
173. THỦY CHUNG VỚI VỢ
Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đến ăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ Án Tử hỏi:
- Phu nhân đấy phải không?
Án Tử thưa: Vâng, phải đấy.
Vua nói: Ôi! Người trông vừa già vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
Án Tử đứng dậy thưa rằng: Nội tử tôi nay thật già và xấu; nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy, cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay.
Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.
Án Tử
GIẢI NGHĨA
Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
Cảnh Công: vua hiền nước Tề đời Xuân Thu. (Xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C). Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Nội tử: tiếng để gọi vợ cả mình. Tiếng đời cổ dùng để gọi vợ các quan to.
Khanh: tiếng vua gọi một bậc quan to hay một vị đại thần.
LỜI BÀN
Vợ chồng là bạn trăm năm đã phải duyên phải lứa lấy nhau từ lúc còn trẻ, kính yêu nhau thì đến lúc già ai lại có nỡ phụ nhau. Ngán thay thói đời giàu hay quên bạn, sang hay phụ vợ. Lắm kẻ lúc còn hàn vi vợ nuôi cho ăn học, một mai được chút tiền của, chức tước đã phụ ngay vợ cũ mà kiếm vợ mới, hoặc kiếm vào chỗ giàu, hoặc
200
kiếm vào chỗ sang, hoặc kiếm người trẻ tuổi xinh đẹp hơn. Những kẻ như thế dù viện lẽ gì, tổng chi cũng là phụ bạc cả. Nào đã mấy người được như Án Tử đây: gặp cảnh giàu sang như nhà vua, trẻ đẹp như công chúa, lại như muốn lấy uy quyền bức bách mình, mà mình nhất định cố từ. Ông là người ăn ở thủy chung với vợ tấm cám thật!
Bạn quần thoa đọc truyện này cũng nên ngẫm nghĩ, chớ nên tham tài tham danh mà lấy những kẻ đã đem lòng phụ vợ tào khang. Vì rằng người vợ xưa, nuốt được nghèo khổ, chịu được đắng cay, ở với họ đã đã bao lâu mà họ còn phụ, thì họ có lấy ta hoặc vì lợi chăng, hoặc vì thế chăng, hoặc vì sắc chăng, một khi lợi kém, thế hết, sắc suy, thì cái tình vợ chồng lúc bấy giờ lại hóa ngay ra cảnh người dưng nước lã.
174. ĐÁNG SỢ GÌ HƠN CẢ
Tại lầu sách nhà kia, có con hồ tinh không hiện hình ra bao giờ, nhưng vẫn thường hay trò chuyện. Chuyện nói rất lí thú, ai nghe cũng phải phục.
Một hôm tân khách họp đông, có con hát mời rượu ước với nhau rằng:
“Ai sợ gì thì phải nói, mà nói vô lý thì phải phạt rượu”.
Bấy giờ, cử tọa lần lượt nói, nào sợ người học rộng, nào sợ người nhà giàu, nào sợ người quan to, nào sợ người nịnh giỏi, nào sợ người khiêm tốn quá, sợ người lễ phép câu nệ quá, nào sợ người thận trọng ít nói, sợ người hay nói nửa chừng...
Sau cùng hỏi đến hồ tinh, thì hồ tinh đáp: Ta chỉ sợ hồ tinh.
Ai nấy đều cười, bảo rằng: Người ta sợ hồ tinh mới phải, anh là đồng loại can gì mà sợ? Phạt anh một chén rượu.
Hồ tinh cười nói: Thiên hạ duy có đồng loại là sợ nhau. Con cùng cha mới tranh gia sản; gái cùng chồng mới hay ghen tuông; kẻ tranh quyền nhau, tất là quan lại đồng triều; kẻ tranh lợi nhau tất là lái buôn một chỗ. Bức nhau thì trở ngại nhau, trở ngại nhau thì khuynh loát nhau. Nay lại còn người bắn con trĩ thì dùng con trĩ làm mồi, không dùng con gà, con ngỗng; người săn hươu thì dùng con hươu làm mồi, không dùng con dê, con lợn. Phàm những việc phản gián đều là phải dùng đồng loại cả. Cứ thế mà suy thì tài nào mà hồ chẳng sợ hồ?
Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng.
Duyệt Vi
LỜI BÀN
Loài yếu sợ loài khỏe, kẻ dại sợ kẻ khôn như chó sợ hùm, mường mọi sợ người văn minh hoặc vẫn có. Những cái sợ ấy là cái sợ họa hoằn. Chớ cái sợ kẻ đồng loại, kẻ đồng nghiệp mới là cái sợ thường luôn có, cái sợ thực đáng sợ luôn vậy. Người phải sợ người hơn sợ hùm beo, sư tử, người đồng loại, kẻ đồng nghiệp sợ lẫn nhau hơn là sợ người ngoài? Tại sao? – Tại chỉ có cùng nhau một loài, cùng nhau một nghề mới cạnh tranh, đá chọi lẫn nhau. Mà đã cạnh tranh, tất hay dòm dỏ nhau, tìm cách hại lẫn nhau để cầu lợi cho mình, thậm chí tàn sát nhau đến chôn sống hàng vạn quân, giết chết hàng triệu người, mà vẫn không chán. Thảm thương thay! Người lại hại người!
175. CHỈ BIẾT CÓ MÌNH
Người ta sở dĩ đến nỗi phạm phải muôn nghìn tội lỗi là chỉ vì cái bệnh “chỉ biết có mình”. Vì cớ mình chỉ biết có mình, mình mới suy tính thiên phương bách kế, chỉ muốn cho mình giàu, chỉ muốn cho mình sang, chỉ muốn cho mình sống, chỉ muốn cho mình vui, chỉ muốn cho mình yên, chỉ muốn cho mình thọ, còn người ta nghèo hèn, nguy khổ, lụn bại, chết chóc, nhất thiết là chẳng nghĩ gì đến cả. Bởi thế mà sinh ý chẳng liên can, thiên lý đến tuyệt duyệt, tuy có hình người, kỳ thực không khác gì cầm thú.
201
Ví bằng trừ bỏ cái bệnh “chỉ biết có mình” tâm địa rộng rãi công minh, giàu, sang, nghèo, hèn, vui khổ, sống chết đều cùng chung với cả loài người, thì sinh ý quán triệt, ai nấy được hả lòng mà thiên lý giữ được trọn vẹn. Thế là thân ta cùng với muôn vật là nhất thể vậy.
Tiết Huyên
176. THỞ DÀI
Ông Hải Tiều Tử lúc thư công việc, thường hay thở dài.
Môn nhân hỏi:
Tiên sinh hay thở dài như vậy là cớ làm sao?
Ông nói:
Ta ước gì các nước trên mặt đất thân yêu nhau để cho bao nhiêu binh cách phải xếp bỏ cả một chỗ.
Ta ước gì người quân tử lại tiến dẫn quân tử để cho bao nhiêu quân tiểu nhân phải lui về hết sạch.
Ta ước gì những trai có vợ, gái có chồng ai nấy đều yên phận để cho giáo hóa được rõ ràng.
Ta ước gì nhân dân biết giữ gìn tính mệnh mà chăm làm ăn để cho hàng năm được mùa sung sướng.
Ta ước gì ai ai cũng biết con đường phải mà noi theo để không phụ cái chí Thánh hiền thời cổ.
Ta ước mãi mà chưa được, nên ta mới thở dài.
Hải Tiều Tử
GIẢI NGHĨA
Hải Tiều Tử: tức Vương Sùng Khánh người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Lại bộ thượng thư là một nhà trước thuật có tiếng đời bấy giờ.
LỜI BÀN
Các nước mà tàn bạo sát phạt lẫn nhau để tranh giành, cướp đất của nhau. Những quân gian ác mà cầm quyền giữ chính để cho những bậc hiền tài phải vùi dập. Nam nữ mà dâm ô mất hết liêm sỉ, làm cho phong hóa suy đồi. Nhân dân mà ngu dốt, lười biếng để đến nỗi phải đói rách. Học thuật mà sai lầm để đến nỗi đi vào con đường không hay. Cuộc hòa bình, sự kén nhân tài, nền phong hóa, việc dân sinh, sự giáo dục của loài người mà đồi bại đến nỗi như thế thì còn gì mà không khiến cho người ta phải chán ngán, phiền bực cho đời nữa! Ôi! Năm câu ước của Hải Tiều Tử đây bao giờ mới thành, để cho ông cùng cả bao nhiêu người có chút quan niệm đến quốc kế dân sinh, giáo hóa phong tục, không đến nỗi phải cất tiếng lên mà thở dài nữa?
177. THẰNG ĐIÊN
Các anh có trông thấy người phải bệnh điên bao giờ không?
Đương lúc hôn mê rồ dại, người điên lăn xuống nước, giẫm lên lửa, đâm vào chông gai, mặt hớn hở, miệng nghêu ngao, vẫn tự tin cho mình là phải.
Đến khi gặp thầy thuốc hay, hết cách chạy chữa, người điên khỏi dần và tỉnh lại. Bà con kể lại chuyện người ấy lắm lúc đang có bệnh điên, thì người ấy rùng mình lấy làm khổ. Bà con kể lại chuyện người ấy lúc uống thuốc tỉnh dần, thì người ấy vui vẻ lấy làm mừng và ân hận gặp thầy, gặp thuốc muộn quá.
Ấy người phải bệnh điên vừa còn chữa được thì như thế. Chớ nếu là người phải bệnh điên nặng không thể chữa được, thì người ấy không những không chịu phục thuốc lại còn mắng thầy thuốc làm cho mất tính thường của mình nữa.
Dương Minh Tử
202
LỜI BÀN
Bệnh điên nói trong bài đây tức là lòng tư dục nó làm cho con người mê lú như điên cuồng không còn biết phải trái là gì nữa. Nếu người mắc bệnh tư dục còn nhẹ, may nhờ có người dạy bảo cho, thì còn có thể hối ngộ sửa nết lại mà sửa dần tính xấu đi được. Nhưng nếu là người mắc bệnh tư dục nặng quá hoặc có ai muốn giáo hóa cho, thì người ấy chẳng những không hối ngộ sửa nết lại được mà lại còn trách oán cả người giáo hóa, bảo người ấy là làm mình mất cả tính thường đi. Ôi! Đáng sợ lắm thay! Lương tâm mất đi một vài phần, thì còn có thể cứu được, chớ lương tâm mà đã táng tận, thì còn gì là người mong hóa đi được nữa. Cho nên ta phải cố giữ lấy lương tâm. Chớ bảo một cái lỗi nhỏ có phạm vào cũng không can chi. Cái nết đã quen đi rồi, thì khác nào như xuống dốc, chỉ có phần lăn xuống, thụt sa lầy, chỉ có phần thụt xuống, chớ không tài nào lăn trở lại hay ngoi lên được nữa.

178. NGƯỜI XUẤT TỤC
Tiếng sấm, tiếng sét không làm thế nào làm cho nhỏ được tiếng để hòa với tiếng chuông, tiếng khánh. Mặt trời, mặt trăng không làm thế nào cho cong được ánh sáng để thấu đến ngõ hẻm, hang cùng. Sông to không làm thế nào mà thu bờ hẹp lại để vừa ý kẻ muốn lội qua. Núi cao không làm thế nào mà rút được ngọn thấp xuống để chiều lòng kẻ muốn trèo chơi.
Cho nên, cũng như cái xe to không thể thu nhỏ bánh để tạm đi qua đường hẹp, người cao sĩ không chịu khuất khúc để hòa đồng với thế tục.
Bão Phác Tử
GIẢI NGHĨA
Bão Phác Tử: tức ông Cát Hồng, người đời nhà Tấn, có làm pho sách nhan là Bão Phác Tử, vừa nói về thần tiên, vừa nói về chính trị.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
LỜI BÀN
Chính ý bài này cốt tỏ rõ thế nào là một người cao sĩ xuất tục. Nhưng tác giả không định nghĩa người xuất tục là gì, tác giả tìm mấy sự ở ngoài mà ví vào người, khiến cho ta đọc hiểu rõ ngay, tục với xuất tục đại để khác nhau như thế nào. Tiếng sấm vời tiếng chuông, ánh sáng mặt trời với ngõ hẻm, sông to với người muốn lội, núi cao với người muốn trèo, xe bánh rộng với đường hẹp, khác nhau xa làm sao, không dong được nhau thế nào, thì người xuất tục khác người tục và không hòa đồng với người tục cũng như thế.
179. VỢ THẦY KIỆN
Có một người thầy kiện rất giỏi. Mỗi khi thảo đơn kiện cho ai, định buộc tội gạt lỗi cho nhiều người mà ý nghĩ chưa được sâu sắc, lời nói chưa được chặt chẽ, thì cứ ngồi yên một chỗ để cấu tứ. Những lúc ấy, thường dặn người nhà, có khách hỏi, không được cho vào, cả đến vợ cũng phải lánh xa ở một buồng khác.
Vợ người thầy kiện trước kia vẫn đã cùng người láng giềng đầu mày cuối mắt chỉ vì không dịp, không chỗ cho nên dòm dỏ đã hơn một năm, mà chưa được thân cận với nhau. Bây giờ biết thế, mỗi khi gặp người thầy kiện cấu tứ thì người vợ bèn lại chuyện trò quấy rối để đến phải mắng, phải đuổi tránh đi chỗ khác.
Thành vì thế mà người vợ với người láng giềng được bao nhiêu cơ hội đi lại với nhau luôn, kể hàng bao nhiêu năm mà không ai biết.
Sau người thầy kiện vì cấu tứ mãi mà chết. Người vợ chửa hoang phải nhà chồng kiện.
Quan tra xét căn do việc đi lại với ai. Người vợ thầy kiện phải thú thực.
203
Quan vỗ bàn, thở dài nói:
Ngòi bút của người thầy kiện đã khéo, ai ngờ cơ trời còn khéo hơn!
Duyệt Vi
LỜI BÀN
Thầy kiện tức là luật sư. Luật sư là người hơn ai hết, hiểu thấu các tinh túy của luật pháp, biết rõ nỗi u ẩn của nhân dân. Chính phủ nhờ có luật sư mà thêm sáng việc, quần chúng nhờ có luật sư mà đỡ hàm oan. Vậy làm thầy kiện mà gỡ tội cho kẻ oan, đáng trọng biết bao nhiêu, thì buộc tội cho người ngay hay bênh vực kẻ gian ác, đáng khinh bấy nhiêu. Người thầy kiện nói trong bài này là một tay giảo hoạt chắc đã nhiều lần, lấy lý mà thắt người ngay vào tội ghê gớm lắm. Bởi vậy tác giả mới thuật lại chuyện này, nói người thầy kiện vừa tự hại mình, lại để cho vợ phản mình, có ý dạy người tuy khôn khéo đến đâu, cũng không lọt được vành Tạo vật. Tạo vật thường vẫn ghét người xảo, bao giờ cũng bắt sẵn cái cân để cân lại cho công bằng. Nhiều khi muốn hại người, người chẳng thấy đâu, lại chỉ thấy cái hại nó quay ngay vào chính mình trước.
180. ÁC NGẦM
Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích và yêu lắm.
Phu nhân là Trịnh Tụ biết thế, chính mình cũng yêu mến người con gái, có khi lại yêu mến hơn vua. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.
Vua khen: Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, mà đem lòng yêu mến tân nhân quá ta thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy.
Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng:
-Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãi đấy.
Tân nhân theo lời, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay mũi lại.
Vua thấy thế, bảo phu nhân rằng:
-Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao?
Phu nhân trước thưa: Tôi không được rõ.
Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa rằng:
-Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí nặng, lấy làm khó chịu.
Vua phát giận bảo: À nếu thế thì xẻo mũi nó đi.
Vua vừa nói đoạn, thì một viên quân hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân. Vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẳn đấy trước, hễ thầy vua phán gì, là làm ngay lập tức.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
LỜI BÀN
204
Phàm người đời cái gì đáng ghét mà lại yêu, cái gì muốn tranh mà lại nhường, làm trái hẳn thường tình, đều là những người dụng tâm một cách nham hiểm cả. Sự yêu ấy chính là cái giết ngầm, sự nhường ấy chính là cái cướp sạch. Đáng thương cho những kẻ ngu mê nông nổi dạ thật tin người để đến nỗi mắc vào lưới cạm mà không biết.
Trong chuyện này người con gái thì khờ dại, vua Kinh thì quá tin. Hai người có hai cái tật như thế, thì tránh sao cho khỏi sự dụng tâm độc ác của phu nhân. Than ôi! Người đang xinh đẹp mà bị cắt mất mũi, bụng đang yêu mến mà để hỏng mất của yêu, ghê gớm thay cho cái lòng nham hiểm, cái mưu thâm độc của Trịnh Tụ.
Reply With Quote
21-08-2011 07:53 PM #39 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
181. BẢY CÔ VỢ LẼ
Ông Phật Ấn là bạn thân của ông Tô Đông Pha, khi trò chuyện hai ông thường đùa bỡn cợt nhả.
Đông Pha có bảy người thiếp.
Một hôm, Phật Ấn đùa bảo Đông Pha rằng:
-Sao mà bác lấy nhiều thiếp thế? Bác có chịu bằng lòng tặng tôi được cô thiếp thứ bảy không?
Đông Pha cười nói:
-Sao lại không được?
Rồi Đông Pha về nhà đem chuyện nói vời người thiếp.
Người thiếp thưa:
-Đó là chuyện nói đùa nhau chứ gì.
Đông Pha nói:
-Ta đã hứa rằng cho, thì không nên sai lời. Bây giờ nàng cứ xem ra thế nào.
Chập tối. Tô Đông Pha cho xe người thiếp đến.
Phật Ấn đón người thiếp cho vào nằm trong buồng, rổi bỏ màn xuống. Trước buồng đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, bước qua hết một lượt, rồi lại bước lại cứ thế suốt đêm. Đến sáng ông cho xe người thiếp về trả.
Người thiếp về kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đông Pha chợi nghĩ ra, nói rằng:
-Bảy cái hỏa lò là chỉ vào bảy người thiếp của ta, giống như bảy cái hang lửa. Ông làm ra như thế, là ông có ý bảo ông đã vượt ra được ngoài sắc dục còn ta thì lại sa ngã đắm đuối vào đấy. Ông này ý muốn làm cho ta tỉnh ngộ chăng.
Dục Hải Từ Hàng
GIẢI NGHĨA
Phật Ấn: tên một vị cao tăng có tài hùng biện đời nhà Tống.
Tô Đông Pha: tức là Tô Thức là một nhà đại thi sĩ nước Tàu làm quan đời nhà Tống, văn hay chữ tốt, sách làm kể có hàng vài trăm quyển lưu truyền ở đời. (Xin xem
205
thêm Tô Thức ở Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Đông Pha là một bậc tài học phong lưu, Phật Ấn là một nhà tu hành đắc đạo. Người phong lưu thì chỉ cốt đời người cho sung sướng là thỏa lòng, nhà tu hành thì chỉ cốt trí tuệ cho cao minh là mãn nguyện. Cứ bình tĩnh mà nói, thì ai là người chẳng thích phong lưu. Nhưng có biết đâu, “ Phong lưu là cạm trên đời, hồng nhan đánh bả con người tài hoa”. Bao nhiêu thị dục thường hại cho người ta hết cả. Xưa nay kể sao cho xiết được những kẻ vì thị dục, mà mất hết cả tính thiêng liêng mầu nhiệm, mà hỏng hết cả phẩm giá, thanh danh. Trong các món thị dục, thì sắc dục có phần tệ nhất. Dâm là cái tội ở đầu muôn tội. Muốn tránh tội ác, cần phải giới dâm.
Phật Ấn đây thật có ý thương, có lòng yêu Đông Pha lắm. Chơi với anh em mà bày trò ra như thế để khuyên anh em. Cũng là một cách thuyết pháp thực tế mà cảm hóa được người ta sâu xa vậy.
182. GÕ NHỊP MÀ HÁT
Vợ Trang Tử chết.
Huệ Tử đến viếng, thấy Trang Tử đang ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn nước mà hát.
Huệ Tử bảo: Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta. Bây giờ người ta già, người ta chết, mình đã không khóc thì cũng là đủ, lại còn ngồi gõ bồn mà hát, chẳng là quá lắm ư!
Trang Tử nói: Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng, thì vốn là không có gì cả, chẳng những không có gì mà vốn lại không có hình, chẳng những không có hình mà vốn lại không có khí, cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc, thì chính ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.
Trang Tử
GIẢI NGHĨA
Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
Bồn: chậu nước rửa xác cho người chết.
LỜI BÀN
Vợ chết đáng là một nỗi đau đớn to, chồng nào mà cầm lòng không thương, không xót, không tiếc, không sụt sùi giọt ngắn giọt dài cho đậu. Thường tình như thế. Nên Huệ Tử trách Trang Tử là chỉ vì lẽ thường tình.
Còn Trang Tử đáp thế, là lại lấy một cái lẽ cao xa, siêu việt hẳn ra ngoài cái thường tình. Ta không rõ cái thuyết của Trang Tử cho người ta vốn từ chỗ không, do khí do hình mà sinh ra để đợi lại trở về chỗ không, có đúng với khoa học hay không. Nhưng rất giống thuyết nhà Phật. Ta chỉ lấy thường tình mà suy nghĩ thì có lẽ Trang Tử quá thương tiếc vợ nên đem cái đạt quan nói với Huệ Tử để vừa tự giải, vừa tự an ủi cho đỡ đau khổ chăng?
183. LIÊM, SỈ
206
Liêm, sỉ là tính rất hay của loài người, vì người mà không liêm thì cái gì cũng lấy, không sỉ thì việc gì cũng làm. Người mà đến thế là người bỏ đi, không khác gì giống vật. Nhất là những bậc đứng chủ trương việc nhà, việc nước mà vô liêm, vô sỉ thì nhà phải suy bại, nước phải suy vong.
Nghĩ cho kĩ, thì sỉ cần hơn liêm; người không liêm làm những việc bất nghĩa, căn nguyên cũng ở vô sỉ mà ra.
Đức Khổng nói: “Hành kỷ hữu sĩ” nghĩa là giữ mình biết làm xằng là xấu hổ. Thầy Mạnh nói: “Nhân bất khả vô sỉ” nghĩa là người ta không biết xấu hổ thì không được. Than ôi! Thế mà ngày nay, nhân tình phản trắc, phong tục suy đồi, người ta quên cả liêm, sỉ, không kể chi người thường, thậm chí đến bọn sĩ phu cũng chan chan như thế cả. Ôi! Nếu cho là sự xấu hổ chung cho cả nước cũng không phải là nói ngoa. Tuy vậy, mùa đông rét mướt, tùng, bách vẫn xanh; mưa gió tối tăm, gà trống vẫn gáy. Đời tuy hôn mê, vẫn có người tỉnh.
Ông Nhan Chi Thôi làm sách “gia huấn” có thuật câu chuyện rằng:
“Một viên quan nói với ông: Tôi có đứa con 17 tuổi học đã thông. Tôi cho nó học tiếng nước Tiên Ti, học gảy đàn tỳ bà, lớn lên theo hầu đám công khanh, thì thế nào rồi cũng được sung sướng.
Nhan Chi Thôi nghe nói, nín lặng không trả lời. Sau về nhà bảo con cháu rằng:
- Người này dạy con lạ thay. Như ta, nếu học cách ấy, thì dù cho được phú quý đến đâu, ta cũng không mong cho các con vậy”.
Những kẻ mất hết liêm, sĩ, chỉ biết chăm chăm xu thời hay nịnh đời, xem câu chuyện này, nghĩ chẳng đáng thẹn lắm ru!
Vô Danh
GIẢI NGHĨA
Nhan Chi Thôi: nhà văn tự giỏi có tiếng thời Nam Bắc triều. (Xin xem thêm Nhan Chi Thôi trong Phụ Lục C).
Đức Khổng tức Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
Thầy Mạnh tức Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học trò là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
Tiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận Nội Mông Cổ bây giờ, Tiên Ti vào chiếm nước Tàu, đặt tên nước Ngụy, tức là Bắc triều.
LỜI BÀN
Bài này thực đã là một tiếng than cho đời mà ngán cho người. Than ôi! Người đời bấy giờ có phải đa số là người “vô liêm sỉ”, “bất trí sĩ” không? Nếu quả vậy thì người ta ngậm ngùi than thở rất là phải. Vì “liêm”, “sỉ” là nền tảng của đạo làm người. Ở đời còn có sỉ thì hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm còn được, chớ liêm sỉ đã mất, nhất là sỉ, thì còn gì là luân thường đạo lý, và mong trông cậy vào đâu nữa. Con người mà đã đến vô sỉ thì tuy mặc áo, đội mũ mà như con chim, con muông, còn cái gì là kiêng nể mà không dám làm!
184. TIỄN NGƯỜI ĐI LÀM QUAN
Tiết Tôn Nghĩa, người Hà Đông sắp đi làm quan.
Ông Liễu Tôn Nguyên làm tiệc tiễn hành ở bờ sông, rót chén rượu mời Tôn Nghĩa mà nói rằng:
- Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làm việc cho dân, chớ không phải sai dân làm việc cho mình. Dân ở trong hạt đã chịu nộp thuế để
207
lấy tiền thuê quan giữ sự công bình cho dân, mà nay, ngán thay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân thì biết lấy cả, còn công việc của dân thì trễ biếng, thường khi lại dụng tâm ăn cắp của dân nữa.
Giả sử ta đây thuê một người làm việc trong nhà, nó đã lấy tiền thuê mà lười không làm việc, lại còn ăn cắp đồ thập vật trong nhà, thì tất ta phải giận mà trách phạt và đuổi nó đi. Bây giờ làm quan như thế nhiều, mà dân không dám nổi giận trách phạt và đuổi đi là tại làm sao? Chỉ tại thế lực khác không làm được mà thôi. Nhưng thế lực dù khác mà lý vẫn là một. Nên người làm quan nếu còn biết công lý, thì ai mà không chịu giữ gìn, cố làm thế nào cho đáng đồng tiền thuê của dân.
Này Tôn Nghĩa, ngươi trước đã làm quan huyện ở Linh Lăng hai năm, ngày ngày dậy sớm, đêm đêm thức khuya, chính sự siêng năng, xử kiện công bằng, thu thuế phải chăng, già trẻ không ai đem lòng thù ghét, ngươi thật là biết lo và giữ gìn lắm, cho nên ngươi lấy tiền thuê của dân rất là đáng vậy.
Ta đây chức nhỏ không được dự vào việc bàn bạc xét công cho ngươi đi làm quan, để thăng thưởng hay trách giáng. Ta chỉ biết ngươi đi làm quan, nên thưởng tiệc rượu này lấy lời trân trọng để tiễn hành.
Liễu Tôn Nguyên
GIẢI NGHĨA
Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh anh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng ở nước Tàu, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
Hà Đông: khu đất ở về phía đông sông Hoàng Hà trong tỉnh Sơn Tây bên Tàu.
Linh Lăng: tức là phủ Vĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam ngày nay.
Trách giáng: quở phạt và hạ chức xuống.
LỜI BÀN
Bài của Liễu Tôn Nguyên đây thực là hợp với cái ý tưởng tối tân ngày nay. Quan nay không phải là cha mẹ dân, chỉ là kẻ làm công, lấy tiền thuê của dân mà thôi! Ôi! Từ cái bực làm cha mẹ người ta đến cái bực làm kẻ thuê mướn của người ta xa cách nhau đến chừng nào! Tuy vậy, bình tĩnh mà nói, bỏ giọng quá khích, tôi tưởng người cầm vận mệnh dân chúng một địa phương mà thiếu tư cách, chỉ biết làm thuê, không nhận chân coi việc nước như việc nhà, coi dân chúng như con em. Hỏi việc làm có chu đáo và dân có được nhờ không? Cả quyết không. Nhất định người làm quan phải làm thế nào cho dân coi như phụ mẫu mới đáng là làm quan. Vì buổi mạt tục này, người làm quan phần nhiều quên cả thiên chức, tham ô tàn ác, cho nên người ta mới dùng hai chữ “công bộc” để cảnh tỉnh họ và cố đưa họ đến chỗ hiểu chức vụ. Vậy chính người làm quan nên vui lòng tự nhận là công bộc mà cố gắng sao cho dân chúng coi như cha mẹ, nha lại sợ như thần minh thì mới thật là làm quan vì dân vì nước vậy.
185. VIẾNG NGƯỜI ĐI LÀM QUAN
Tôn Thúc Ngao được làm lệnh roãn nước Sở.
Cả nước quan, dân đều lại mừng.
Sau cùng có một ông lão già mặc áo vải, đội mũ trắng, đến viếng.
Tôn Thúc Ngao thấy thế ăn mặc chỉnh tề ra tiếp kiến, thưa với ông lão rằng:
- Vua chúng tôi không biết tôi là người bất tài, quá tin mà cho làm quan để tôi làm lụy cho lại, cho dân. Ai ai cũng đến mừng, một mình lão đến viếng chắc là có ý kiến gì đây chăng.
Ông lão nói:
- Có. Thân đã sang mà khinh người thì dân không chuộng; chức đã cao mà chuyên quyền thì vua sinh ghét; lộc đã hậu mà không tri túc thì gặp phải tai vạ.
208
Tôn Thúc Ngao vừa vái, vừa nói: Xin kính vâng lời. Và nài ông lão dạy thêm cho mấy câu nữa.
Ông lão bảo:
- Chức đã cao, ý càng phải nghiêm cung; quan đã to, tâm càng phải tế nhị; lộc đã hậu, việc càng phải cẩn thận, chớ có lấy càn, làm bậy. Ông giữ được ba điều ấy là đủ trị dân.
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Tôn Thúc Ngao: quan tướng giỏi nước Sở thời Xuân Thu, ông là nhà cai trị, rất có giá, nước Sở nhờ ông mà được bình trị.
Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
Lệnh roãn: chức quan cầm quyền chính trong nước.
LỜI BÀN
Đầy mà không để ràn rụa, bố thí luôn mãi là cách giữ được giàu bền. Cao mà không dám ngông cuồng, tự nhiên như không giữ được sang mãi.
Ở đời nhiều người bần tiện biết tri đức mà được giàu sang; ít người giàu sang biết tri đức để được lâu dài hưởng thụ. Sao vậy? Vì xử cảnh giàu sang dễ sinh ra kiêu sa, phóng đãng mà đã kiêu sa phóng đãng là cái hoạn nạn tai vạ nằm sẵn ở đấy rồi. Cho nên lời ông lão dặn Tôn Thúc Ngao đây thực là có giá lắm. Chả những người làm quan nên tuân theo, ai may mà được xử vào cảnh thịnh vượng cũng nên nhớ câu khuyên răn này mà phục thiện như Tôn Thúc Ngao đây, thì mới mong trường cửu được.
186. ĐỨC UỐNG RƯỢU
Có một tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời mặt trăng làm cửa làm ngõ, lấy cả thiên hạ làm sân, làm đường, đi không thấy vết xe, ở không có nhà cửa, trời tức là màn, đất tức là chiếu, ý muốn thế nào thì thế. Lúc ở thì nâng chén, cầm bầu, lúc đi thì vác chai, xách nậm, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không còn biết đến việc gì nữa.
Có một vị công tử và một vị quan sang nghe tiếng tiên sinh như thế, bèn đến tận nơi, xắn tay vén áo, người thì trừng phạt nghiến răng, người thì trần lễ, thuyết pháp, những giọng thị phi đâu bấy giờ ầm ĩ xôn xao như đàn ong dậy.
Lúc đó tiên sinh mới ôm vò rượu, ghé vào thùng rượu, tợp cả chén rượu, phùng mồm những rượu, vểnh bộ râu lên, ngồi dạng hai chân, gối đầu vào men, lăn lưng vào bã, không nghĩ, không lo, hớn hở vui thú, ngất ngưởng say sưa, thoáng rồi lại tỉnh. Lắng tai cũng không nghe thấy tiếng sấm sét; nhìn kỹ cũng không trông thấy hình Thái Sơn; nực, rét thiết đến than, cũng không biết; lợi dục cảm đến tình, cũng không hay; cuối xuống trông vạn vật rối rít ở trước mắt khác nào như bèo nổi bồng bềnh trên sông Giang, sông Hán.
Hai vị kia đứng cạnh, tiên sinh bấy giờ xem cũng như con tò vò, con sâu róm mà thôi.
Lưu Linh
GIẢI NGHĨA
Lưu Linh: tên tự là Bá Luân, là người phóng đạt làm quan đời nhà Tần đến chức Kiến uy tướng quân. (Xin xem thêm Lưu Linh trong Phụ Lục C).
Tiên sinh đại nhân: nghĩa thẳng là ông thầy bực kẻ cả. Đây Lưu Linh dùng bốn chữ ấy để chỉ chính mình.
209
Thái Sơn: núi to và cao nhất ở tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Thiết: thấu đến.
Lợi dục: tiền của và lòng ham muốn.
Vạn vật: muôn vật ở trong trời đất.
Sông Giang: con sông rất to ở bên Tàu, hạ lưu tức là con sông Dương Tử Giang. Sông Hán: tức là sông Hán Thủy, phát nguyên ở Thiểm Tây và chảy vào sông Giang.
LỜI BÀN
Nói đến say rượu, thì ai cũng phải nhắc Lưu Linh mà Lưu Linh sở dĩ còn lưu danh lại cho ta biết là nhờ bài “Tửu đức tụng” ta dịch trên này.
Uống rượu say được như tiên sinh thực là hiếm có. Say mà đến lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, trút sạch được hết lợi, dục, quên bỏ được hết việc đời, kẻ sang giàu, người quyền thế trông chỉ còn như con sâu róm, con tò vò, thì quả là một cái say thú vị, làng say vị tất đã mấy ai hưởng được. Nên tưởng những kẻ chưa tới được cảnh say, chưa biết cái thú say như thế là gì, cũng chẳng nên nghị luận cái say, cười người say chưa thấy đâu, lại phải người say cười lại. Còn những hạng người say mà nói nhảm, làm càn, phạm vào những điều thương luân, bại lý mà vin Lưu Linh thì lại là tội nhân của Lưu Linh, chớ không phải đồ đệ của Lưu Linh. Nói rộng ra: Giới tửu mà không uống rượu theo đúng như Phật dạy cố nhiên là đáng trọng, nhưng uống rượu mà vui tươi tao nhã như thần tiên, thì cũng không có thể khinh được.
187. LÀNG SAY
Ngày trước, ta thường đến một làng kia, vừa bước chân vào thì chuếnh choáng, nghiêng ngả, mờ mịt, lu bù, trông trời như thấp, trông đất như cao, mặt trời mặt trăng như không có ánh sáng. Mắt ta mờ, tai ta ù, tâm thần ta mê hoặc, thân thể ta mệt nhọc. Ta mới hỏi người rằng: Đây là làng gì? Người nói: Đây là nơi vui say, sẵn của ngon bùi, tha hồ ăn uống, phóng phiếm. Tục truyền là “Làng say”.
Than ôi! Đây gọi là làng say? Cổ nhân nói dối ta thật. Ta thường than cho lũ Lưu Linh, Nguyễn Tịch, đương lúc trong nước lục trầm, bốn phương rối loạn, mà những tay giỏi giang, sinh ra chán đời, dông dài liều lĩnh, thất thểu rủ nhau vào làng say. Cứ như ý riêng ta, thì trong làng say, không có gì là vui cả...
Hoặc có kẻ nói: Đến đây cho nguôi những sự lo nghĩ. Ôi! Cái lo nghĩ mà còn có cách nguôi được, thì không phải là lo nghĩ. Nếu quả nhiên có điều gì đáng lo, thì bất tất phải tìm cách giải. Huống chi làng say này không thể giải được lo. Vậy thì người vào làng say đều là người vô lo, vô lự cả.
Than ôi! Tự đời Lưu Linh, Nguyễn Tịch đến bây giờ, khắp cả thiên hạ đâu cũng có làng say. Làng say càng đông, thì thiên hạ càng vắng. Mờ mịt, say sưa, ẻo lả, yếu đuối, ai đã vào làng say, không biết lối mà ra. Gián hoặc có người vào làng say mà không mê, thì lại phải những kẻ đã mê hoặc bại loạn, chê bai, nói cười, mai mỉa, thế mới thật là lũ say ở làng say.
Đái Danh Thế
GIẢI NGHĨA
Đái Danh Thế: người đời Khang Hi nhà Thanh đỗ Tiến sĩ, tài danh nổi tiếng, chuyên riêng về sử học, về sau bị nhà Thanh làm tội, vì ông làm sử có ý tôn nhà Minh.
Lưu Linh, Nguyễn Tịch: hai người đời nhà Tấn, tính phóng đạt hay rượu mà không thiết gì đến việc đời. (Xin xem thêm Lưu Linh trong Phụ Lục C).
LỜI BÀN
Làng say tức là chỉ tụi người say rượu. Mà phàm ai đã bước chân vào làng say cũng cho là gặp nơi vui thú cả. Thường lại viện những lẽ này lẽ khác, tưởng như là chính đáng nhất là cái lẽ đỡ lo, đỡ nghĩ. Ôi! Những đã gọi là việc đáng lo, đáng nghĩ, thì
210
tưởng càng phải nên tỉnh để mà lo nghĩ cho phân minh sáng suốt, chớ say thì lo nghĩ sao cho được. Cái say chính là cái làm cho bại hoại hết công việc. Việc to tày trời đến lúc say cũng còn bỏ, huống còn mong sao cho làm nên việc thường hàng ngày nữa.
188. TREO KIẾM TRÊN MỘ
Duyên Lăng Quý Tử sang sứ nước Tấn có đeo thanh bảo kiếm qua chơi với vua nước Từ.
Vua nước Từ ngắm thanh kiếm ra dáng thích muốn xin mà không nói ra.
Duyên Lăng Quý Tử, vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa dâng vua Từ được thanh kiếm ấy, nhưng trong tâm đã định cho.
Khi sang sứ Tấn xong, về qua Từ, thì vua Từ không may đã mất, đành tháo thanh kiếm đưa cho Tự quân. Các người theo hầu ngăn lại, nói:
-Thanh kiếm ấy là của báu của nước Ngô, không phải là thứ để tặng được.
Duyên Lăng Quý Tử nói:
-Không phải là ta tặng. Độ trước ta lại đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chẳng nói ra, mà như dáng muốn lấy. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy đã định cho. Nay vua Từ chết mà ta chẳng hiến thanh kiếm, thì ta tự dối tâm ta. Tiếc kiếm mà dối tâm, người liêm không chịu làm.
Nói xong bèn tháo kiếm đưa cho Tự quân.
Tự quân nói: Tiên quân tôi không có dặn lại việc ấy, tôi không dám nhận kiếm.
Quý Tử bèn treo thanh kiếm vào cái cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
Người nước Từ ai cũng khen Duyên Lăng Quý Tử không quên người thân cố, đem thanh gươm báu treo vào cây bên mộ.
Tân Tự
GIẢI NGHĨA
Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán soạn.
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Từ: tức quận Đông Hải ngày nay.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Thượng quốc: tiếng gọi tên một nước to mạnh hơn mà mình phụ thuộc vào.
Tự quân: vua mới lên ngôi.
Tiên quân: tiếng để gọi vua cha đã mất.
Thân cố: thân bằng cố cựu.
LỜI BÀN
Lúc vua Từ có ý lấy thanh kiếm, thì Quý Tử không tự ý đưa được, vì công việc phải làm còn chưa xong. Đến lúc Quý Tử có thể tặng thanh kiếm được, thì vua Từ không sao nhận được nữa, vì đã thác mất rồi. Giá phải người tầm thường, xử vào cái địa vị Quý Tử thì tuy trong bụng có điều hối hận, nhưng cũng tiếc thanh kiếm mà đem về nước. Nhưng Quý Tử vốn là người trong tâm đã nghĩ làm sao thì phải làm cho kì được như thế mới nghe, cứ đem thanh kiếm treo tại mộ vua Từ. Người ta tuy khuất, nhưng tâm mình vẫn còn, mà mình không muốn dối tâm mình thực là liêm lắm vậy. Chẳng bù với những kẻ đã tự dối mình lại đi dối cả thiên hạ, nhất là đối với người đã khuất tuy có hẳn lời hứa đinh ninh mà rồi nuốt ngay lời đi được.
189. CHẾT VÌ LỄ NGHĨA HAY VÌ TÌNH
Ngũ Tử Tư gặp phải nạn vua Sở giết cha, giết anh chạy trốn sang nước Ngô, định tìm cách báo thù. Giữa đường bị ốm và hết lương, phải ăn mày mà ăn. Tình cờ gặp
211
một cô con gái đang đập sợi ở bờ sông Lại Thủy, bên cạnh có giỏ cơm.
Tử Tư đến gần nói: Thưa cô, cô sẵn cơm đây, cô có làm phúc cho tôi được một bữa không?
Cô con gái đáp: Tôi ở một mình với mẹ, năm nay ba muơi tuổi, chưa có chồng. Ông đứng lui ra, cơm tôi, tôi ăn không thể cho được.
Tử Tư nói: Thưa cô, cô nhủ lòng thương cho kẻ cùng đồ này ít cơm, thì có ngại gì tai tiếng.
Cô con gái biết Tử Tư không phải người thường, bèn mở giỏ cơm cho với cả tương, dưa nữa. Tử Tư ăn no, cô con gái bảo:
-Quân tử đi xa, sao không ăn thêm cho rõ no nữa?
Tử Tư ăn xong lúc đứng lên đi, bảo cô con gái rằng:
-Cô che đậy giỏ cơm, bầu nước này đi, chớ để cho lộ chuyện.
Cô con gái thở dài, nói rằng:
Than ôi! Thiếp một mình ở với mẹ năm nay ba mươi tuổi, một lòng trinh bạch, không có tai tiếng gì. Nay đưa cơm cho trượng phu ăn, qua vượt cả lễ nghĩa, thiếp lấy làm khổ tâm lắm.
Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh lại trông thì cô con gái đã đâm đầu xuống sông rồi.
Tình Sử
GIẢI NGHĨA
Ngũ Tử Tư: tên là Viên, người nước Sở thời Xuân Thu vì cha, anh báo thù mà giết được vua Sở. (Xin xem thêm Ngũ Tử Tư trong Phụ Lục C).
Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
Lại Thủy: tên sông ở vào huyện Lật Dương, tỉnh Giang Tô ngày nay.
LỜI BÀN
Một người cùng đồ đang đói mà gặp một người có cơm cho ăn mà người ấy lại là một cô con gái nhan sắc, một cô con gái đã đứng tuổi, chưa chồng, mà cứu được một người dạng bộ trông rõ ra một đấng trượng phu không phải kẻ tầm thường, cái cảnh ngộ của đôi bên tuy là tình cờ gặp gỡ, nhưng biết đâu mà trai anh hung, gái thuyền quyên lại không bỗng dưng sinh ra lòng quyến luyến, yêu thương nhau. Mối tình nó thường khiến ra như thế. Nhưng chàng ăn xong chàng đi, thiếp ở lại còn một mình, chàng lại dặn thiếp đừng để lộ chuyện, chắc chàng đang tính đại sự, thiếp đâu lại dám để hại chàng. Vả chăng thiếp là con gái mà đã trò chuyện với trai, lại cho trai ăn cơm của mình, vượt qua cả lễ nghĩa quá nghiêm đời bấy giờ, đường kia nỗi nọ thật là khó tính. Chi cho bằng thiếp liều mình thiếp, vừa được trọn tình với chàng, bền chí cho chàng lại vừa giữ được nghĩa với đời chẳng là đôi đường vẹn đôi ư! Ôi! Tình như thế cũng là tình, một cái tình để thơm muôn thưở ai mà chẳng phải kính phục.
190. VÌ NGHĨA NÊN TÌNH
Một người thiếu nữ họ Trương ở nhà chồng tại Tô Thành về thăm cha mẹ đẻ. Có tên thị tỳ, mang hộp đồ nữ trang theo hầu, chẳng may giữa đường đánh rơi, lâu lâu mới biết, trở lại tìm, thì thấy có người ăn mày đang ngồi giữ hộp ấy. Tên thị tỳ hoảng hốt nói, thì người ăn mày liền trao trả và nói rằng:
-Ta đã cùng khổ đến thế này mà lại còn cuỗm thêm những của vô cớ, thì mong khá sao được.
Tên thị tỳ mừng lắm, lấy một chiếc thoa ra tạ. Người ăn mày cười nói:
-Bao nhiêu của chẳng lấy, lại lấy một chiếc thoa ư!
212
Tên thị tỳ nói:
-Tôi mà đánh mất cái hộp đồ nữ trang này, thì đến chết mất. May mà người được, người trả lại cho, thế là người cho tôi của, lại cứu cho tôi sống vậy. Dù người không màng báo, tôi cũng không dám quên ơn. Nhà tôi ở ngõ... từ nay về sau, sớm trưa tôi xin đợi người đến cửa, xẻ phần cơm của tôi để người ăn.
-Nhưng cô ở trong nhà, tôi làm thế nào mà thấy được?
-Trước của nhà tôi, có cây trúc cao, người cứ rung cây, là tôi khắc biết.
Người ăn mày sau cứ làm như lời.
Tên thị tỳ cũng cứ cho ăn mãi.
Lâu người nhà biết, mách chủ. Chủ ngờ có ngoại tình đem ra tra hỏi, tên thị tỳ phải thú thật.
Người chủ nhà thấy vậy, bèn gọi người ăn mày đến nhà nuôi, rồi gả tên thị tỳ cho. Sau hai người thành một đôi vợ chồng khá.
Tình Sử
LỜI BÀN
Của không đáng lấy thì một mảy cũng không lấy, anh ăn mày này liêm thật, cái số không giàu thì con mắt tráo trưng cũng vô ích, anh ăn mày này đạt thật. Hoài! Hạng ăn này mà có duyên may, mà gặp dịp tốt, thì thật là con người có ích cho xã hội lắm. Giả sử anh ăn mày này mà lại có cái bụng "ăn mày" như những hạng người đời nay quá xu hướng về vật chất, thì biết đâu vợ chồng nhà kia, không vì hộp nữ trang mà đến bỏ nhau, tớ thầy nhà kia, không vì hộp nữ trang mà đế có mạng, cả chính anh ăn mày kia không vì được hộp nữ trang mà đeo thêm muôn nghìn tội ác vào thân. Cùng khổ mà thích làm lành, tôi tớ mà biết trả nghĩa, sau thành vợ chồng, tuy là tình duyên, nhưng cũng là tự mình tạo nên vận mệnh cho mình vậy, đáng khen đáng quý lắm thay!
Reply With Quote
22-08-2011 08:35 PM #40 Truc Vo
View Profile
View Forum Posts
Thành Viên Join Date 11-08-2010 Posts
257
244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa
191. NGHĨA CÔNG NẶNG HƠN TÌNH RIÊNG
Quân nước Tề sang đánh nước Lỗ.
Khi đến chỗ giáp giới, trông thấy một người đàn bà một tay bồng một đứa bé, một tay dắt đứa nữa. Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống mà bồng đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trong núi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.
Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi:
-Đứa bé nàng bế chạy là con ai? Còn đứa trẻ nàng bỏ liều là con ai?
Người đàn bà thưa:
-Đứa tôi bế là con anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.
Viên tướng nước Tề nói: Con với mẹ kể tình thân yêu thì đau xót lắm. Nay bỏ con
213
mình lại mà chạy lấy con anh là cớ làm sao?
Người đàn bà nói:
Con tôi là “ tình riêng”, con anh tôi là “nghĩa công”. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà làm việc “nghĩa”. Tôi không thể nào chịu tiếng “vô nghĩa” mà vác mặt sống ở nước tôi được. Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai người tâu với vua Tề rằng:
-Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ cương giới, đã thấy con mụ đàn bà xó rừng còn biết làm điều “Nghĩa” chẳng chịu đem “Tình riêng” mà hại “Nghĩa công” huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu ở trong nước. Xin kéo quân về.
Vua Tề cho là phải.
Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người đàn bà một trăm tấm lụa và phong cho hai chữ “Nghĩa cô”.
Lưu Hương Liệt Nữ Truyện
GIẢI NGHĨA
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
LỜI BÀN
Tình với nghĩa cũng là quý, không quyết hẳn được bên nào nặng hơn bên nào. Cho nên ta phải cân nhắc cho cẩn thận, tình nặng hơn nghĩa, thì ta giữ tình, nghĩa nặng hơn tình, thì ta trọng nghĩa.
Như người đàn bà nói trong truyện đây so cái “tình riêng” đối với “ nghĩa công” thì không còn phải do dự gì nữa. Thế nào là tình riêng? Là cái lòng yêu riêng của một mình mình. Thế nào là nghĩa công? Là cái việc phải đối với nhà, với nước, với thiên hạ. Tình riêng cứ kể cũng là nặng, nhưng so với nghĩa công thì nghĩa công còn nặng gấp mấy muơi. Nghĩa công đã nặng, thì đến cái thân là yêu nhất của mình ở đời mình, còn có thể hi sinh để mà giữ nghĩa huống chi là những thứ ngoài thân. Nguời đàn bà đây hiểu thấu lẽ ấy nên mới đành đem nghĩa để đoạn tình, chẳng vì tình mà hại nghĩa để giữ lấy nòi giống ông cha nhà chồng. Ngờ đâu cái ảnh hưởng của việc nghĩa ấy còn làm quân ngoại xâm (Tề) phải kéo nhau về, vì chúng nghĩ: “nước người có thể cướp được, lòng dân có nghĩa không thể cướp được, về mới cao, sống chung sao được”. Thế mới hay, làm dân một nước mà không biết trọng “ nghĩa” là người dân tai hại cho tổ quốc vậy.
192. MẸ KHÔN CON GIỎI
Vương Lăng, người đất Bái là người hào trưởng trong huyện.
Cao Tổ nhà Hán, lúc còn hàn vi, quý Vương Lăng như anh. Khi Cao Tổ khởi binh, đánh dẹp, Vương Lăng có vài nghìn quân, đem đi phụ theo Cao Tổ.
Hạng Vũ thấy thế, bắt mẹ Vương Lăng giam ở trong quận. Sứ giả của Vương Lăng đến, Hạng Vũ bách mẹ Lăng phải dụ Lăng về với mình.
Bà mẹ Lăng, tiễn sứ giả ra một mình, khóc mà bảo rằng:
-Người nên vì thiếp già này nhắn bảo hộ Lăng một câu: “Cứ hết lòng mà theo thờ Hán Vương chớ vì có thiếp già đây mà sinh ra nhị tâm nhé”.
Nói đoạn, bà cầm gươm tự đâm chết, cốt ý để khuyến khích Vương Lăng giữ cho bền lòng.
Hán Sử
GIẢI NGHĨA
Cao Tổ: tức là Bái Công vua đầu nhà Tây Hán, phá nhà Tần, diệt nhà Sở mà có thiên hạ.
214
Nhà Hán: (203 TCN–220) nối tiếp sau nhà Tần và trước thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Người Trung Quốc coi thời gian trị vì của nhà Hán, kéo dài 400 năm, là một trong những giai đoạn vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử Trung Quốc. Vì thế, đa phần người Trung Quốc ngày nay vẫn tự cho mình là "người Hán", để vinh danh dòng họ Lưu và triều đại mà họ đã sáng lập ra. Giai đoạn đầu tiên trong hai giai đoạn của nhà Hán, được gọi là Tiền Hán hay triều Tây Hán 206 TCN–9 CN, đóng đô ở Trường An. Hậu Hán hay triều Đông Hán 25–220, đóng đô ở Lạc Dương. (Chú thích này được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt").
Tần: tên nước thời Xuân Thu (tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch khỏe mạnh và tài khá hơn người, tranh thiên hạ với Bái Công sau thua chết ở Cai Hạ.
LỜI BÀN
Đang lúc thiên hạ loạn lạc, quần hùng nổi lên, dù người có mắt tinh đời cũng chưa dễ đoán được sau này ai là vua, ai là giặc.
Như Bái Công và Hạng Vũ đây, đôi bên bấy giờ đang tranh đấu. Bái Công thua luôn, Hạng Vũ được luôn, lại càng khó biết sự thống nhất về tay ai hơn nữa. Thế mà khen thay, bà mẹ Vương Lăng biết con quy phục Bái Công là phải. Một khi bà đã hiểu rõ ai là người có chính nghĩa, trước bà liều thân để khuyên con, sau là thí thân để vững lòng con, thực là một bậc đàn bà khôn ngoan sáng suốt hiếm có vậy. Cho nên người đời trước có câu khen rằng: “Mẫu hề hà trí, tử hề hà trung, nhất môn mẫu tử, vạn cổ anh phong” nghĩa là “mẹ sao mà khôn như thế, con sao mà trung như thế, một nhà mẹ con tiếng thơm muôn đời”, thật là phải lắm.
193. TU TẠI GIA
Dương Phủ, lúc nhỏ nhà nghèo nhưng hết sức cày cấy đẻ phụng dưỡng song thân. Một hôm, ông nghe bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ, ông bèn nói với song thân xin từ biệt ít lâu để đến hầu bực Vô Tế.
Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
-Được gặp bực Vô Tế chẳng bằng được gặp Phật.
Ông hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng nói: Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này, thì chính là Phật đấy.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai như thế cả. Khi ông tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá, tức thì vội khoác chăn đi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bây giờ ông trông ra, thì hình dáng Phật, mà lão tăng đã nói chuyện cho nghe.
Từ đấy, ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải cầu kỳ đi mộ Phật đâu xa nữa.
Lý Nguyên Dương
GIẢI NGHĨA
Dương Phủ: người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ làm ngự sử có tiếng là một ông quan thẳng và liêm.
Thục: tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên bây giờ.
Vô Tế đại sĩ: một nhà tu hành đắc đạo vô cùng.
LỜI BÀN
Bài này cốt dạy ta về chữ “Hiếu” vì cha mẹ như Phật, con phải phụng thờ cha mẹ như phụng thờ Phật vậy. Phật là một vì tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thiên hạ thành kính thờ phụng rất phải. Nhưng cha mẹ là người sinh thành ra thân mình,
215
thì há mình lại không nên thờ phụng thành kính hay sao! Phật xa, cha mẹ gần, con cái hãy nên một niềm thành kính mà thờ phụng lấy mẹ cha trước.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu bằng tu tại gia,
Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu.
Nghĩa những câu cổ ấy thực là đúng với nghĩa trong bài này. Vả lại, hiếu là đầu cả trăm nét tốt, chỉ có người có hiếu mới trung với tổ quốc và nhân từ với nhân loại vậy.
194. NGƯỜI VỢ HIỀN MINH
Vợ Nhạc Dương Tử là một bậc hiền minh.
Dương Tử một hôm đi đường bắt được lọ vàng người ta đáng rơi, mừng rỡ đem về nhà đưa cho vợ.
Vợ nói: Thiếp trộm nghe người chí sĩ không ai uống nước suối “Đạo toàn”, người liêm khiết không nhận của ăn “Ta lai”. Chàng nay nhặt được của rơi đường đem về cầu lợi để ô uế phẩm hạnh, thử nghĩ có nên không?
Dương Tử nghe nói thẹn quá, liền đem lọ vàng bắt được bỏ ngoài đồng. Rồi đi xa, tìm thầy để học.
Đi học mới được một năm, Dương Tử về chơi nhà. Vợ quỳ xuống trước mặt, hỏi rằng:
- Chàng có việc gì mà về nhà?
Dương Tử nói:
- Ta đi lâu nhớ nhà thì về, chẳng có việc gì cả.
Vợ cầm con dao đến chỗ khung cửi nói rằng:
- Lụa đang dệt đây là phải làm từ lúc nuôi tằm ươm tơ cho đến lúc mắc lên được khung cửi. Nếu đánh đứt một sợi mà đứt mãi, thì đứt đến hàng tấc, đứt hàng tấc mà đứt mãi thì đứt đến hàng thước, hàng trượng, hàng cả tấm. Nếu bây giờ mà thiếp chặt đoạn đang dệt đây, thì bao nhiêu công phu ngày giờ từ trước đến nay đều mất hết cả. Chàng đi học là để trở nên một bậc tài giỏi, nếu đang học mà bỏ về, thì khác gì tấm lụa đang dệt đây mà chặt đi vậy.
Dương Tử thấy nói, cảm động lắm, đi học luôn bẩy năm đến tốt nghiệp mới về.
Vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trong bấy nhiêu năm, vừa nuôi nấng mẹ chồng, vừa nuôi cho chồng ăn học.
Nhạc Dương Tử nhờ có người vợ hiền như thế mà sau được quí hiển.
Hậu Hán Thư Nhạc Dương Tử Truyện
GIẢI NGHĨA
Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
Dương Tử: người thời Chiến quốc, tên tự là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự một mình cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”. Học thuyết ấy rất thịnh hành thời Chiến quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngã”.
Hiền minh: có tài, có nết, sáng suốt công việc.
Chí sĩ: người có khí tiết.
Đạo Toàn: tên một cái suối ở huyện Tứ Thủy tỉnh Sơn Đông, Đạo Toàn nghĩa đen là cái suối ăn trộm, tên nghe đáng ghét nên cho nên khát cũng không muốn uống nước ấy.
Ta lai: thương rằng cùng khổ đói khát mà gọi cho ăn và có ý khinh bỉ.
LỜI BÀN
Cứ theo lẽ thường, cái gì nên làm thế nào thì người tài trai phải biết tự chủ trương lấy, không cần người đàn bà dạy bảo rồi mới chịu làm. Tuy vậy lắm khi cũng phải có sự kích thích ở ngoài vào thì mới dễ khiến người ta phấn chấn lên mà cố sức làm cho nên việc, và nhất là sự khuyến khích của vợ.
Như vợ Dương Tử đây thật là khéo biết dạy chồng, làm cho chồng thành ra người được có khí lại có chí và sau quý hiển được. Đúng với những câu ngạn ngữ “giai khôn vì vợ, giá ngoan vì chồng”, “giàu vì bạn sang vì vợ” lắm.
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận thơ Nguyễn Hồng Linh

Cảm nhận thơ Nguyễn Hồng Linh Kể từ thi hào Nguyễn Du thắp ngọn đuốc lục bát soi sáng linh hồn thi ca Việt đầy chất triết lý của đời sống ...