Thứ Hai, 25 tháng 11, 2024

 

Có hay không, việc hai vua Trần đóng đại bản doanh ở Thiên Long uyển xã Yên Đức, Đông Triều, để chỉ huy trận đánh Bạch Đằng năm 1288?

Tôi đã thường xuyên qua lại nơi này 4 năm, vì tôi dạy môn sử học trường phổ thông ở gần Thiên Long uyển, và 3 năm tiếp theo, sống trực tiếp ở sát Thiên Long uyển cả ngày lẫn đêm, vì tôi được chuyển về dạy sử học ở luôn nơi này. Tôi đã rất nhiều lần vào sâu trong di tích.

Tháng 12 năm 2021, tại TP Uông Bí tỉnh Quảng Ninh, đã diễn ra một hội thảo khoa học cấp Quốc gia: “ Vị trí vai trò của Thiên Long uyển trong chiến thắng Bạch Đằng năm 1288”, nhằm xây dựng hồ sơ đề nghị cấp thẩm quyền công nhận Thiên Long uyển là Di tích Quốc gia đặc biệt. 22 tham luận được xuất bản thành tập Kỷ yếu 284 trang. Trong đó, điều tôi quan tâm nhất là vấn đề “Hai vua Trần  đã đóng đại bản doanh ở Thiên Long uyển xã Yên Đức huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh để trực tiếp chỉ huy tác chiến trận đánh Bạch Đằng năm 1288”. Vì đây là một vấn đề hoàn toàn mới, được coi là thành công quan trọng nhất của hội thảo này, như một số báo đã loan tin, và nếu điều đó là có thật, thì tôi rất mừng, dù lịch sử thời Trần và diễn biến của trận đánh vĩ đại này, lịch sử và sách giáo khoa hiện hành sẽ phải viết lại.

Đầu tiên chúng ta cần biết Thiên Long uyển cụ thể như thế nào? Tôi đã  thường xuyên qua lại nơi này 4 năm, vì tôi dạy môn sử học trường phổ thông ở  gần Thiên Long uyển, và 3 năm tiếp theo, sống trực tiếp ở sát Thiên Long uyển cả ngày lẫn đêm, vì tôi được chuyển về dạy sử học ở luôn nơi này. Tôi đã rất nhiều lần vào sâu trong di tích. Thời ấy, từ làng Chí Linh, xã Yên Đức, nơi tôi dạy môn sử học, sang làng Đức Sơn, nơi có Thiên Long uyển, cách nhau một cái lạch nước rộng khoảng 60 đến 70 mét, phải đi bằng thuyền nan nhẹ hay bè chuối. Khi nước triều rút thì lội sang được, nước chỉ cao từ đầu gối đến ngang ngực là cùng. Các cụ cao niên đã từng học chữ thánh hiền, lần lượt đưa tôi đi từng góc rừng, dưới tán cây rất cao có thể đến 100 tuổi, các cửa hang ẩm ướt đầy lá mục, không sót một chỗ nào, rất nhiều lần trong 7 năm. Không có một cụ nào nói với tôi là hai vua Trần đã “đóng đại bản doanh ở đây để chỉ huy tác chiến đánh trận Bạch Đằng”. Tuyệt đối không. Các cụ chỉ nói, ở thời Trần, đây là đất của ông Tể tướng Trần Khắc Chung giao cho em nuôi làm chùa để thờ cúng. Điều cần chú ý là ông Chung nhận đất này rất lâu sau trận Bạch Đằng 8.3 âm lịch năm 1288  (bia đá khắc việc này vào ngày 4.3/ âm lịch năm 1348, tức là tròn 60 năm sau – Kỷ yếu, trang 25), vì sau khi thắng giặc nhiều năm, vua Trần mới trả đất này cho Bảo Hoàn, con một vị tôn thất hàng giặc mà bị tịch thu, Bảo Hoàn là vợ ông Trần Khắc Chung. Nếu hai vua Trần đã đóng đại bản doanh ở đây để trực tiếp chỉ huy trận Bạch Đằng vang dội vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc, nếu có điều ấy, bia đá trên phải ghi chứ? Sao lại không? Nhất là ông Chung đã từng có công lớn trong cuộc kháng chiến đó, từng đến trại giặc “luận chiến” với chúng, khiến chúng phải nể phục. Đến đây có một điều đặt ra, cũng cần phải xác minh ba chữ “Thiên Long uyển”  khắc vào đá núi, cách mặt đất 2,6 mét, chỉ cách khoảng 100 mét, nơi khắc 3 chữ “Tam Bảo địa”  ở sát mặt đất, chân núi, cả hai có thể được khắc cùng một thời gian vào tháng 3 âm lịch năm 1348? Nghĩa là cùng tròn 60 năm sau chiến thắng Bạch Đằng 1288. Các cụ cho tôi biết ở thời Nguyễn đánh Pháp, ông Đốc Tít đã đóng quân ở đây, trong hang còn tìm thấy một cái mâm đồng của nghĩa quân. Tôi nghe thế chứ chưa trông thấy cái mâm đồng ấy và lúc ấy, cũng không biết cái mâm đồng ấy có còn ở trong hang hay đã ở đâu. Ngoài điều đó, suốt 7 năm ở đây, từ 1962 đến 1969, tôi tuyệt đối không thấy có một ai nói một điều gì hơn. Các cụ đưa tôi đến nơi có 3 chữ “Thiên Long uyển” với chữ thiên là một nghìn, không phải thiên là trời để ngụ ý nói nhà vua,vì thế, không một cụ nào nói đây là vườn thượng uyển của vua Trần. TS Nguyễn Văn Anh, trưởng khoa Lịch sử, trường Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội, nhân vật mà tôi nghĩ là chủ chốt nhất của công trình khoa học này, nói, khi trả lời phỏng vấn của báo Quảng Ninh: “Vườn nghìn rồng cũng giống như vườn thượng uyển của vua vậy”. Khác hẳn nhau lắm lắm chứ, sao lại “giống như” được, ông TS ơi! Vì ông TS coi hai loại vườn đẳng cấp hoàn toàn khác xa nhau này là một, là vườn của vua, chính ông nói, ông coi đây là “điểm xuất phát” của ông, mà tôi coi là của tư duy khoa học của ông. (TS Nguyễn Văn Anh, “Thiên Long Uyển, xứng đáng là Di tích Quốc gia đặc biệt”, báo Quảng Ninh cuối tuần, số 1029 (1077) –  Phan Hằng thực hiện (phỏng vấn), ngày 2.12022, tr.5), nên ông kéo vua về đây đóng quân cho hợp lý chăng?

Điều gọi là “truyền thuyết dân gian địa phương” mà vài trang kỷ yếu đưa ra (mới “từ năm 2008” – như ông TS Anh viết trong kỷ yếu ở bài báo trên, dù không nêu văn bản nào in) về vua Trần đóng quân ở đây, tức là từ đó, các nhà doanh nghiệp mới có ý định nghiêm chỉnh là biến nơi này – Thiên Long uyển với núi Mèo, ở gần nhau, cùng một xã – thành một Trung tâm du lịch văn hóa, lịch sử và tâm linh cấp quốc gia về các vua Trần, kết nối với các Di tích nhà Trần đã xây dựng hoàn chỉnh và rất khang trang ở Đông Triều. Còn từ trước, có lẽ đến khoảng 50-60 năm, chỉ có người nói  rằng  vua Trần Nhân Tông đi thuyền qua đây, thấy núi Mèo đẹp thì lên thăm, rồi đề thơ và cho khắc vào vách đá mà thôi. Tôi đã có mặt trước bài thơ này từ cuối năm 1962. Thực tình khi  đó, tôi cũng nghĩ là thơ của vua Trần thật,  sau tôi nghiên cứu  thơ Nôm  thời Trần và thơ Trần Nhân Tông thì càng ngày càng nhận ra  là không phải. Đây chỉ là 1 trong các bài thơ “ngụy tạo” của các quan thời Nguyễn, Từ đó,  tôi đã vài lần viết bài, rất hoan nghênh các nhà doanh nghiệp, và rất ủng hộ dự án này, nhưng nói là nơi vua Trần đóng quân, vua Trần làm thơ khắc lên đá… ở đây, thì tôi can, vì không có căn cứ. Theo sự khảo sát thực địa của tôi, thì bài thơ này viết và khắc vào vách đá núi Mèo, ước đoán là khoảng từ năm 1915 đến năm 1935, tác giả, là một vị quan huyện, quan phủ nào đó, ở trong vùng Hải Dương – Hưng Yên đã qua đây. Đây là bài thơ đặc Nguyễn, gán cho vua Trần Nhân Tông, cũng như  một số bài thơ khác đã từng gán cho  các danh sĩ  Hàn Thuyên, Trần Khánh Dư ở thời Trần … Tôi không lấy làm lạ khi ông Hoàng Giáp, lại cho là thơ thời Trần. Ông  đã vài lần viết bài, làm sách, rằng “nhiều học giả cho đây là thơ ngự đề của vua Trần Nhân Tông” (?). Vậy mà hàng chục học giả dự Hội thảo khoa học quốc gia vừa mới qua đây thôi, mắt săm soi từng chữ ở núi Thiên Liêu, ở núi Mèo, nhưng không có một ai, nói một câu, viết một chữ, công nhận bài thơ “ngự đề”, năm 1292, khắc vào vách đá núi Mèo là thơ của vua Trần Nhân Tông. Vì  “Lịch sử Văn học  Việt Nam” ở thời Trần và các tập “Toàn tập Thơ Trần Nhân Tông” do nhiều học giả biên soạn trong vòng 200 năm nay, không có  1 lần nào nhắc đến bài thơ này. Vậy, việc  bác bỏ bài thơ này không phải của  vua Trần Nhân Tông là ý chung của cả nền văn học, còn tôi chỉ là người  đầu tiên nêu ra ý kiến này mà thôi. Việc các học giả chuyên sâu nghiên cứu riêng biệt về núi Thiên Liêu và núi Mèo, với  mục đích tìm kiếm các dấu vết liên quan đến hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông) tại nơi này, để xác nhận giá trị của di tích, mà không nói 1 câu, không  viết 1 chữ về điều đó, theo tôi là kết quả nghiêm túc, quan trọng  và khoa học của Hội thảo này. Bài thơ có 2 cặp đối chặt chẽ, cấu trúc thực luận phân minh, nhịp thơ 4/3 và ngôn ngữ trau chuốt hiện đại, chắc chắn được viết sau năm 1841, vì kiêng húy vua Thiệu Trị nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Miên Tông mà chữ Tông phải viết thành Tôn (*).

TS Nguyễn Văn Anh, ngay mở đầu ở trang 3 kỷ yếu, đã khẳng định: “Kết quả đề tài đã làm rõ phạm vi của chiến trường, đồng thời chỉ rõ Thiên Long uyển là đại bản doanh của hai vua Trần trong trận Bạch Đằng năm 1288”. Vậy mà đọc hết toàn bài của ông và cả tập kỷ yếu 284 trang, không thấy có một chứng cứ nào có thể tin cậy được, để chỉ rõ điều đó. Tôi nghĩ, ông nên “nói có sách, mách có chứng”, và, chỉ rõ các căn cứ ra, trong sách nào, cho mọi người thấy những căn cứ nào có thể tin được, chứng tỏ hai vua Trần đã đóng đại bản doanh ở đây, nơi có cái vườn mà ông cho là vườn thượng uyển của nhà vua, mà trong toàn tập kỷ yếu này, tôi không thấy có. Cùng với ông, còn có hai ba nhà khác, cũng như ông, chỉ nói khơi khơi (để “chiều lòng người mến mộ”) vậy thôi, mà không qua bất cứ một căn cứ nào rõ ràng trong sách cổ (dù là sách ở trong nước hay ở nước ngoài – các tập Nguyên sử của nhà Nguyên ởTrung Quốc chẳng hạn…), hoặc một bằng chứng nào rõ ràng qua các cuộc khai quật khảo cổ học mà các ông đã làm trong nhiều năm. Đóng đại bản doanh để chỉ huy một trận đánh rất lớn, ắt phải có hàng ngàn quân thủy bộ và ở đây không chỉ một sớm một chiều. Vậy mà qua 5 bài viết, dài đến 26 trang in (Kỷ yếu, từ trang 258 đến 284) về “kết quả nghiên cứu điều tra và khai quật” ở đây, của 5 nhóm tác giả, với diện tích đào bới khá rộng, trong nhiều năm, mà TS Anh tham gia 2 nhóm, không thấy công bố có một di vật nào tìm kiếm được của quân đội nhà Trần, có thể làm bằng chứng, chứ chưa nói đến vũ khí của quân lính hay đồ dùng của các vua Trần. Đặc biệt trong 5 bài đó, có bài “Kết quả khai quật di tích Thiên Long uyển ”… của nhóm tác giả, gồm 6 người trong đó có TS Anh, ở trang 268, có đoạn: “… nhưng các bằng chứng này, không đủ cơ sở để kết nối các di tích thời Trần tìm thấy ở đây, với các hoạt động của vua Trần trên vùng đất này”. Tôi nghĩ, đó là câu trung thực nhất về mặt khoa học lịch sử có trong kỷ yếu này. Dù nó trái với ý muốn của người này, người nọ. Có lẽ vì thế, sau khi đã chỉ rõ (nghĩa là có hẳn hoi rồi) ở trang 3, thì ngay ở trang 4, TS Anh lại viết: “Thiên Long uyển có thể là nơi đóng đại bản doanh của hai vua Trần” (?). Đã khẳng định là chỉ rõ rồi, sao sau đó lại có thể, nghĩa là chưa rõ? GSTS, NGND Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội) trang 37 kỷ yếu, viết: “Có lẽ hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã thêm một lần chuyển sở chỉ huy hay đại bản doanh về khu vực núi Thiên Liêu, thuộc thôn Đức Sơn, xã Yên Đức, huyện Đông Triều để trực tiếp chỉ huy các lực lượng tác chiến…” Thêm một lần, là nói đại bản doanh hai vua Trần đã đóng ở núi Dương Nham, lại phải chuyển về Thiên Liêu. Chưa bàn việc hai vua Trần đã đóng đại bản doanh ở núi Dương Nham, vậy thì vì sao lại phải chuyển cấp tốc đại bản doanh từ đó về Thiên Liêu, mà ta biết điều đó trong chiến tranh tổng lực ác liệt, mật thám giặc như rươi, là điều không thể manh động, tùy tiện. Tôi muốn ông GS chỉ rõ, vì sao lại phải làm thế, khi mà 2 địa điểm theo kỷ yếu là cùng ở một huyện, là huyện Giáp Sơn, châu Đông Triều, cách nhau chỉ khoảng 10 km, cùng sát bên một dòng sông. Trong khi cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ ba này, chỉ diễn ra vẻn vẹn trong khoảng 3 tháng? Chứng cứ nào cho biết có sự chuyển đổi vội vàng, chứng tỏ sự lúng túng và bất ổn về mặt chiến lược quân sự của hai vua Trần và Hưng Đạo vương, Quốc công Tiết chế. Chưa kể điều đó rất khó giữ được bí mật khi chiến tranh đã xảy ra. Luận điểm này của GS Ngọc rất khó tin. Tôi đã một lần trực tiếp nghe GS phát biểu trong hội thảo khoa học về Hoàng Cần tại Tiên Yên, là hai vua Trần từ Thăng Long bí mật về Ba Chẽ để gặp Hoàng Cần (nhiều khả năng là nhân vật truyền thuyết, không có thật – TNM), chỉ đạo Hoàng Cần đánh giặc Nguyên (trong khi giặc Nguyên và các giặc phương Bắc, từ thượng cổ đến nay, chưa bao giờ đánh vào Việt Nam, qua đường bộ Ba Chẽ, hay đánh vào kinh đô Thăng Long, qua bất cứ nơi nào thuộc biên giới trên bộ ở Quảng Ninh hiện nay). Về việc này, “Đại Việt sử ký toàn thư ” (ĐVSKTT), tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1971, trang 58- 59, ghi nguyên văn rõ ràng như sau (bản dịch): “Thế quân giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ, đến nguồn Tam Trĩ, sai người chở thuyền ngự ra Ngọc Sơn (tức là Móng Cái – TNM chua thêm) để đánh lừa quân giặc. Lúc ấy xa giá nhà vua xiêu dạt, mà Quốc Tuấn vốn tự phụ kỳ tài…” Việc ghi vào quốc sử ấy, xảy ra vào tháng 2 năm Ất Dậu, 1285. Như vậy, do bị giặc truy sát, có Quốc Tuấn tháp tùng, hai vua phải lừa giặc, bí mật chạy ra đây, rồi bí mật lên bộ đi tắt về phía sau… Tôi đã căn cứ vào đó, viết bài, bác bỏ luận điểm này của GS và cho rằng, đây là nhà khoa học rất yêu Quảng Ninh tưởng tượng và “sáng tác” ra, để “tri ân” Quảng Ninh đã kính trọng ông mà thôi. Vậy ta xem ĐVSKTT, bộ quốc sử cổ nhất (1497) và đáng tin cậy nhất của nước ta về trận Bạch Đằng ấy, đã  viết về điều ta suy đoán ấy như thế nào. Sau đây là nguyên văn: “Mậu Tý, tháng 4 (1288), mùa xuân tháng Giêng, Ô Mã Nhi đánh vào phủ Long Hưng” [Thái Bình – đất phát tích và đặt lăng miếu của nhà Trần – rõ ràng là hai vua và Hưng Đạo vương phải đánh giặc tại đây – TNM ghi thêm]. “Ngày 8, quan quân họp đánh ở ngoài biển Đại Bàng, bắt được 300 chiếc thuyền đi tuần của giặc và chém được 10 thủ cấp. Quân Nguyên bị chết đuối rất nhiều”. Tại trang 294 sách này, chú thích: “Đại Bàng thuộc huyện Nghi Dương”, Kiến An. Tiếp liền sau đó: “Tháng 2, ngày 19, Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng. Tháng 3 ngày 8, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền của bọn Trương Văn Hổ nhưng không gặp. Hưng Đạo vương đem quân đánh, giặc bị thua.” (ĐVSKTT, tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1971, trang 67). Như vậy, rõ ràng là hai vua Trần do Hưng Đạo vương tháp tùng, vào trận Bạch Đằng là cất quân về từ cửa Đại Bàng, nay là Kiến An, về Thủy Đường, nay là Thủy Nguyên, và đánh xuống Bạch Đằng là từ bên kia sông, thuộc Hải Phòng hiện nay. Đến đây lại thấy một “sáng tác mới” của ông TS sử học Nguyễn Văn Anh, là tách hai cánh quân xa hẳn nhau, cách nhau đến trên dưới 100 km, lại có 3 hay 4 con sông chia cắt, để dẫn đến kết luận là Hưng Đạo vương vào trận Bạch Đằng là từ Kiến An (bên kia sông), còn hai vua Trần vào trận Bạch Đằng là từ “đại bản doanh Thiên Long uyển”, ở bờ sông bên này, và đánh xuống từ đây, chân núi Thiên Liêu – bên này sông. Sự kiện đó chưa từng ghi trong lịch sử, bởi Hưng Đạo vương luôn tháp tùng hai vua Trần, không để hai vua chạy giặc một mình, đánh giặc một mình, sự an nguy của xã tắc không thể lường được, nên sử chỉ ghi có một cánh quân từ sau phía Kiến An về mà thôi. Điều này hoàn toàn phù hợp với các di tích còn lưu lại của trận Bạch Đằng, với núi Voi, và các địa danh Lưu Kỳ, Lưu Kiếm… , nơi hai vua Trần và Hưng Đạo vương đã đi qua. Sau này, bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục ” của Quốc sử quán triều Nguyễn, và vài chục năm gần đây, tập sách khoa học đáng tin cậy nhất “Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông…” của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm… đến tập “Nguyên sử”,” Tân Nguyên sử “ của Trung Quốc, “An Nam chí lược” của Lê Tắc, sử gia giặc trong quân đội nhà Nguyên, ghi ngay tại chiến trận (1288), từ việc Trấn Nam vương Thoát Hoan lập 2 kho lương ở Vạn Kiếp, đến việc Hữu thừa tướng Trình Bằng (Phi) cùng các đại tướng khác của nhà Nguyên về đóng quân tại Đông Triều, để hộ tống đoàn thuyền của Ô Mã Nhi… bị Trần Tung đánh DU KÍCH, thường cho quân lẻn vào trại giặc quấy nhiễu hay đánh lẻ tẻ, quân Nguyên mệt mỏi, tự rút lui từ chợ Đông Hồ (Đông Triều) theo đường tắt về Bắc Giang, ngày 3.3 năm Mậu Tý, trước trận Bạch Đằng chỉ có 4-5 ngày… (Tôi đã khảo sát rất kỹ chiến trận này từ năm 1968 đến 1988, sau đó đã viết bài đăng báo, công bố địa điểm “chợ Đông Hồ” hiện nay là ở chỗ nào trong tập sách khảo cứu “Thời gian lên tiếng ” năm 2013. Sau này một vài nhà nghiên cứu dường như lấy lại ý kiến của tôi nhưng không nêu xuất xứ) . GS Tấn đã khai thác rất triệt để các tư liệu cổ, ở Việt Nam và ở Trung Quốc, tuyệt không có một chữ nào liên quan đến việc các nhà khoa học họp ở Uông Bí, muốn khẳng định đại bản doanh của hai vua Trần đã đóng ở núi Thiên Liêu, cách chợ Đông Hồ khoảng 10 km, để trực tiếp chỉ huy tác chiến trận Bạch Đằng, ngày 8.3 năm Mậu Tý, trong khi không đưa ra được bất cứ một bằng chứng hay một căn cứ khoa học nào có thể tin cậy được. Nếu ngay lúc đó, tại đó, đại bản doanh (nghĩa là hàng ngàn quân thủy bộ) hai vua Trần đang đóng ở núi Thiên Liêu – Yên Đức sát đó, thì phải có giao tranh lớn chứ (như Chương Dương, Hàm Tử… chẳng hạn), thắng thua tại trận rõ ràng chứ – bên nhà Trần cũng phải cử tướng lĩnh ngang sức với đại tướng giặc là Hữu thừa tướng Trình Bằng (Phi) và các đại tướng cộng sự của y, trong khi, với tốc độ của kỵ binh, từ chợ Đông Hồ đến Yên Đức, và ngược lại, chỉ khoảng hơn 10 phút sau là đã đến nơi. Làm sao có thể tin được, trong tình huống sống còn ngặt nghèo đến như thế, hai vua Trần và Quốc công Tiết chế lại chỉ giao việc hệ trọng đó – bảo vệ đại bản doanh của hai vua Trần – cho một cư sĩ (- nhà sư – tu tại gia từ năm 13 tuổi –  là Trần Tung, anh Quốc Tuấn) làm tướng, để đánh du kích, quấy nhiễu giặc là chính, khiến chúng mỏi mệt, phải tự rút đi (theo Lê Tắc, sử gia nhà Nguyên ghi tại trận). Vì thế, ĐVSKTT không ghi một chữ nào về chiến trận này. Chỉ riêng điều ấy thôi, đã chứng tỏ hai vua Trần không đóng đại bản doanh ở Yên Đức. Xin nhớ, Trần Tung được phong Hưng Ninh vương không phải do thưởng công, vì có công, sau trận thắng quân Nguyên (năm 1289) như các tướng lĩnh khác. Ông được phong vương năm 1251, trong tang lễ cha ông là Trần Liễu, do Thượng hoàng đến dự tang, thương ông mà phong cho ông mà thôi. Khi ấy ông là một cư sĩ, tu tại gia. Đây là một vấn đề rất lớn, không chỉ đối với một vùng đất, không chỉ phục vụ một yêu cầu là mở ra khu du lịch văn hóa, lịch sử và tâm linh, mà còn là lịch sử của cả một dân tộc, và trách nhiềm trước mọi thế hệ hôm nay và mai sau. Vì thế, chúng ta còn phải tiếp tục kiếm tìm thêm, với một tâm trí thật trong sạch, khách quan, thực sự vì khoa học, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn nữa, thu thập các bằng chứng đáng tin cậy, đối chiếu rõ ràng, minh bạch… không nên kết luận vội vàng “Qua nghiên cứu, đã khẳng định Thiên Long uyển là nơi hai vua Trần đã đóng đại bản doanh để chỉ huy tác chiến trận Bạch Đằng năm 1288, nên đã đủ điều kiện để công nhận Thiên Long uyển là Di tích Quốc gia đặc biệt…” như TS Nguyễn Văn Anh, đã công bố trên báo Quảng Ninh cuối tuần, số 1029, ngày 2.1.2022, và một hai báo khác đã công bố, theo lời ông, sau hội thảo. Vì kinh nghiệm đã quá nhiều, cho biết rằng, sai lầm về lịch sử là vô cùng nguy hại, hậu quả khôn lường, vì nó sẽ làm cho việc giáo dục truyền thống, nhất là với các thế hệ trẻ – không còn trung thực nữa – và nói chung, trong không ít trường hợp đã xảy ra, nhưng sai lầm đó là không có khả năng, hoặc hoàn toàn không có khả năng sửa chữa.

Dĩ nhiên hội thảo, với nhiều trang kỷ yếu đã in, có những thành công đáng ghi nhận ở nội dung khác, nhưng đó không thuộc về bài viết của tôi.

Chú thích:

(*) Đây là thơ  Nôm“ được coi” là của vua Trần Nhân Tông, viết và khắc đá năm 1292. Tôi chép từ năm 1962. Chữ  Nhân Tôn  là miếu hiệu do quần thần dâng lên, sau khi vua đã mất được 1 năm. Do tránh húy vua Thiệu Trị nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Miên Tông, từ 1841 – 1945, chữ Tông phải viết là Tôn.

“Trần triều Nhân Tôn hoàng đế ngự đề”:

“Đứng thốc trên sông/ một đọi đèo

Vặn hình ra thể/ dáng con Mèo

Đá xương đất thịt/ da không mốc

Cỏ vện hoa vằn/ dạ chẳng meo

Cáo thỏ kinh hơi/ rừng vắng ngắt

Kình nghê tăm bặt/ nước trong veo

Xanh trì vũ trụ/ chân ngoèo vững

Ắt hẳn nghìn năm/ kín chẳng nghèo.”

Xin bạn đọc đối chiếu với thơ của hai nhà thơ thiên tài là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông,  sau “Trần Nhân Tôn” khoảng 200 năm.

Thơ Nguyễn Trãi (mất năm 1442):

“Góc thành Nam/ lều một gian

No nước uống/ thiếu cơm ăn

Con đòi trốn/ dường ai quyến

Bà ngựa gầy/ thiếu kẻ chăn 

Ao bởi hẹp hòi/ khôn thả cá

Nhà quen thú thứa/ ngại nuôi vằn 

Triều quan chẳng phải/ ẩn chẳng phải

Góc thành Nam/ lều một gian.

Và thơ Lê Thánh Tông (mất năm 1497),  sinh sau Nguyễn Trãi 62 năm:

“Lòng vì thiên hạ/ những lo âu

Thay việc trời/ dám trễ đâu

Trống dời canh/ còn đọc sách

Chiêng xế bóng/ chửa thôi chầu

Nhân khi cơ biến / xem người biết

Chứa thủa kinh quyền/ xét nhẽ màu

Mựa bảo áo vàng/ chăng có việc

Để muôn sự/ trước vào tâu.. ”.

Tôi tin là các bạn sẽ  nhận ra đâu là thật, đâu là giả.

Trong các giá trị lịch sử và tinh thần, sự gian dối thực đáng sợ, luôn luôn phải được xem xét và cảnh tỉnh.

16/2/2023

Trần Nhuận Minh

Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...