Mô hình nghệ sĩ - Trí thức
Xét trên đại lượng lớn, mỗi thời đại sẽ sinh ra một/hơn
một mô hình nghệ sĩ (nhà văn, nhà thơ) tương ứng tiêu biểu. Tuy nhiên, do quyền
lực ý hệ, trong số một/hơn một mô hình đó, sẽ có một mô hình duy nhất được lựa
chọn làm đại diện, ở vị trí trung tâm, những mô hình còn lại trở thành thứ yếu,
ngoại biên. Nhưng rồi cũng lại do sự biến thiên của lịch sử, vai trò trung
tâm/ngoại biên có thể có sự đắp đổi, luân phiên, không thứ tự, và tùy thuộc.
Thực ra khi đặt vấn đề mô hình nghệ sĩ, chúng tôi vẫn nghĩ,
suy cho cùng, nghệ sĩ chính/chỉ là nghệ sĩ mà thôi với tất cả phẩm hạnh cần thiết
của nó. Tuy nhiên, khái niệm “nghệ sĩ” luôn mang tính lịch sử, không có
nghệ sĩ chung chung, đúng với mọi thời. Chính vì thế mới sinh ra khái niệm mô
hình nghệ sĩ mà ở đó mỗi mô hình mang một nội dung xã hội tương đối xác định.
Có thể nhìn lịch sử văn học Việt Nam nói chung, và nền thơ nói riêng qua các mô hình nghệ sĩ, từ đó sẽ gợi lên một số vấn đề thuộc về sự sáng tạo và chất lượng nghệ thuật.
1. Trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại, các tác giả văn
học, chủ yếu là các nhà thơ được hình dung theo một số kiểu tác giả như: nghệ
sĩ-thiền sư, nghệ sĩ –nhà Nho (được hình dung qua ba kiểu: hành đạo, ẩn dật,
tài tử[1]). Đến thời thơ văn yêu nước cuối XIX đầu XX, nền văn học xuất hiện một
mô hình khác: nghệ sĩ – chí sĩ. Ở đây, khái niệm “chí sĩ” nhằm chỉ những người
mang tinh thần yêu nước, chống xâm lược, không chịu làm nô lệ, lấy thơ ca để
nói chí, kêu gọi ý thức và sức mạnh đoàn kết dân tộc. Với những tấm gương
xuất sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh
Thúc Kháng…, các nhà nghệ sĩ này được gọi là “nhà thơ chí sĩ”, tiếp tục mô hình
nghệ sĩ nhà Nho hành đạo của văn học trung đại trong bối cảnh mới.
Sang thập niên thứ ba của thế kỷ XX, khi các điều kiện đô thị,
văn hóa, tư tưởng, con người cá nhân phát triển dưới sự ảnh hưởng của phương
Tây, văn học cũng thay đổi theo. Các chủ thể sáng tạo văn học thời kỳ từ những
năm 1930 trở đi đã hầu như đoạn tuyệt với tinh thần “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ
ngôn chí” của văn học trung đại. Họ tiến hành theo đuổi “mỹ văn”, văn học được
là văn học, văn học thuộc nghệ thuật ngôn từ. Phong trào Thơ mới, văn xuôi Tự lực
văn đoàn, các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930-1945 ý thức rất rõ công việc
sáng tạo văn học, đề cao tính nghệ thuật, đưa nghệ thuật lên bình diện thứ nhất,
hoặc ít nhất là song hành với tính xã hội. Văn xuôi Tự lực văn đoàn chống lễ
giáo phong kiến cổ hủ, khẳng định con người cá nhân, tự do các nhân, cổ súy lối
sống văn minh và các giá trị nhân văn tiến bộ. Thơ mới cũng vậy, đề cao cái tôi
cá thể, khát vọng tự do, tình yêu, tôn thờ tiếng Việt…Thời đại mới sinh ra mô
hình nghệ sĩ mới: nghệ sĩ độc lập. Ở những con người này, tinh thần tự do sáng
tạo được xem như một tiêu chuẩn và phẩm giá cao nhất. Họ được quyền lựa chọn đứng
riêng hoặc nếu có tham gia một đoàn thể, nhóm phái nào đó cũng cốt để sao cho
việc được sống và viết, biểu đạt lý tưởng của mình một cách tự do nhất.
Trong giai đoạn từ 1930-1945, Đảng cộng sản được thành lập và
dần dần xác quyết vai trò kiến thiết xã hội mới, nên có một bộ phận các văn nghệ
sĩ đi theo lý tưởng này. Nhiệm vụ của các văn nghệ sĩ là ca ngợi tuyên truyền
đường lối cách mạng, chiến đấu chống kẻ thù, xây dựng xã hội mới, biến văn nghệ
trở thành công cụ và phương tiện của cách mạng. Từ bài thơ “Là thi sĩ” (1942) của
Sóng Hồng đến câu nói của Hồ Chủ tịch: “Văn hóa nghệ thuật là mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (1952) đã dần xác nhận một danh xưng mới: “Nghệ
sĩ- chiến sĩ”. Khi công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp thắng lợi, từ sau
1954 ở miền Bắc chủ trương xây dựng nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa và
là duy nhất, không chấp nhận bất kỳ các trường phái, trào lưu, phương pháp văn
nghệ nào khác. Có thể nói, kéo dài suốt từ sau năm 1945 đến công cuộc Đổi mới
được khởi xướng (1986), toàn bộ nền văn nghệ chính thống của chúng ta là sản phẩm
trọn vẹn của các chủ thể sáng tạo thuộc mô hình “Nghệ sĩ/Nhà văn/Nhà thơ-chiến
sĩ”. Những nghệ sĩ thuộc mô hình này đề cao lý thuyết phản ánh, lấy phản ánh hiện
thực làm phương pháp sáng tác duy nhất, lấy nội dung tư tưởng xã hội làm giá trị
cao nhất, không chấp nhận con người cá nhân, không thừa nhận những trào lưu văn
nghệ hiện đại của thế giới…Trong khi đó, ở miền Nam từ 1954 đến 1975, đã có một
nền văn học thực sự phát triển với khá nhiều thành tựu đa dạng, đặc sắc. Đây là
một khu vực văn học đã và đang được nghiên cứu trở lại, dần được đánh giá một
cách khách quan, khoa học và công bằng hơn.
2. Trở lại với ý tưởng ban đầu đã nói, mỗi thời đại có thể sản
sinh ra một vài mô hình nghệ sĩ, trong đó có một mô hình được/bị kiến tạo ở vào
vị trí trung tâm. Vào thời kỳ Lý- Trần chẳng hạn, bên cạnh mô hình nghệ sĩ-thiền
sư vẫn có mô hình nghệ sĩ-hoàng đế/ quân vương/tướng lĩnh. Ngay cả mô hình nghệ
sĩ-thiền sư này vẫn kéo dài sang triều đại nhà Lê khi mà Phật giáo đã chuyển
giao vai trò quốc giáo sang Nho giáo, mở ra thời kỳ ba mô hình nghệ sĩ nhà Nho
kể trên. Hay trong mô hình “nghệ sĩ-chiến sĩ” tiêu biểu của thời 1945-1986, nhà
thơ Nguyễn Đình Thi từng vượt thoát để trở thành nhà thơ phi đại chúng hóa ở thời
điểm ông chủ trương thơ không vần; nhà thơ Nguyễn Duy cũng lại vượt thoát để tồn
tại như một nhà thơ “Hiện – đại – cổ – điển”[2]. Đặc biệt, trong giai đoạn từ
sau 1954 đến 1986, xét riêng ở phía Bắc, ngoài mô hình “nghệ sĩ –chiến sĩ” cũng
đã xuất hiện một dòng ngoại biên, ngoài lề: các nhà văn/thơ trong nhóm Nhân
văn-Giai phẩm hoặc có liên lụy đến nhóm này. Cũng từ đây, nền thơ đã bắt đầu có
sự phân hóa cả trên cấp độ lớn (toàn thể) và cả cấp độ nhỏ, như bộ phận ngoại
vi chẳng hạn. Do sống và viết trong những hoàn cảnh đặc biệt, không hội nhóm,
không xuất bản, không tuyên ngôn, không/ít tiếp xúc với bạn văn và độc giả, nên
về cơ bản, mỗi tác giả có chí hướng tạo nên một chi lưu riêng. Trần Dần, Hoàng
Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung; sau chút là Đặng Đình Hưng, Dương Tường,
Hoàng Hưng, mỗi người ít nhiều đã tạo nên một KHÁC BIỆT. Một khi người nghệ sĩ
vì điều kiện nào đó, họ duy trì được khoảng cách với số đông/ phong trào cộng với
tài năng, họ đủ mạnh đứng độc lập. Nhìn sang văn học miền Nam 1954-1975, xét
riêng trong lĩnh vực thơ, cũng có một số gương mặt đủ mạnh xác lập cho mình một
tiếng nói khác biệt như Thanh Thâm Tuyền, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên. Mỗi người một
vẻ, họ đều là những nghệ sĩ độc lập.
Tất cả những đặc điểm và phẩm hạnh của các mô hình nghệ sĩ kể
trên, tuy biến thiên theo lịch sử nhưng thực ra không hề biến mất, chúng
chuyển hóa, tích hợp, góp phần xác lập những mô hình khác tương thích.
Thí dụ ngày hôm nay, vẫn cần tiếng nói nhập cuộc, ưu thời mẫn thế của mô hình
nghệ sĩ –nhà Nho hành đạo và mô hình nghệ sĩ-chiến sĩ. Hay tinh thần của mô
hình nghệ sĩ độc lập thời nào cũng cần để thúc đẩy cho sự tìm tòi và sáng tạo
ngôn ngữ nghệ thuật mới. Tuy nhiên, khi được chuyển hóa và tích hợp, chính
chúng cũng thay đổi cho phù hợp, không còn giữ nguyên như trước nữa.
Tôi nghĩ rằng, ngày hôm nay đã có đủ cơ sở thực tiễn văn học
và các tiền đề lý thuyết để gọi tên lên một mô hình khác: “Nghệ sĩ-trí thức”.
Trong bối cảnh thời đại đang chuyển động dữ dội theo hướng ngày càng phức tạp
hơn; các đe dọa từ chiến tranh, khí hậu, môi trường, dịch bệnh, nghèo đói ngày
càng khốc liệt; sinh mệnh con người, quốc gia/dân tộc ngày càng bất trắc
thì vai trò của trí thức trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tiếng nói của lực
lượng trí thức nếu được coi trọng sẽ có khả năng điều hướng xã hội theo cách
anh minh nhất. Văn học, nghệ thuật là một trong các lĩnh vực tất yếu của xã hội,
nên không thể tách rời khỏi khung cảnh chung. Theo đó, các nghệ sĩ cũng phải
chuyển đổi khác trước trong một tư thế và nội lực sáng tạo mới, với một tư thế
và cốt cách trí thức.
3. Theo tôi, mô hình nghệ sĩ-trí thức ít nhất đòi hỏi cần có
được một số phẩm chất tối thiểu dưới đây:
Thứ nhất, phải có một vốn liếng tri thức sâu rộng, đặc biệt
là nền tảng triết-mỹ. Đây là điều mà ai ai cũng nói tới, nhưng để trở thành một
ý thức mạnh mẽ, một thực hành thường xuyên trong đời sống và trong hoạt động
sáng tạo nghệ thuật thì đang còn rất khiêm tốn, và còn nhiều điều đáng bàn. Lâu
nay vẫn nghe nói rằng nền văn học của chúng ta là nền văn học suy tư tưởng thì
cũng không nên tự ái. Tư tưởng ở đây cần được hiểu là tư tưởng-thẩm mỹ, những
suy tư sâu rộng về nghệ thuật và cuộc đời, về các giá trị thực sự cần theo đuổi.
Nó không chỉ đơn giản là chuyện phản ánh, tố cáo, chống tiêu cực…Nó cần trầm tư
vào số phận con người trong mối liên hệ với thế giới tự nhiên, với tha nhân, với
lịch sử…
Thứ hai, cần có tiếng nói truy vấn, phản tư về đời sống và về
chính mình theo cách của văn học, nghệ thuật. Một trong những chức năng của trí
thức là phản tư, phản tỉnh, không để cho xã hội ngưng trệ, tự bằng lòng, hoặc
rơi vào tình trạng phản bội các giá trị nhân văn cao quý. Nghệ sĩ sinh ra để
thao thức và khiến người khác thao thức cùng. Xét theo tinh thần này, nền văn học
của chúng ta đang còn khá khiêm tốn. Ở một phía, chúng ta đang tự trói buộc nhiều
thứ, trong đó có nỗi sợ hãi thường trực, thâm căn cố đế; sợ ai đó, cái bóng nào
đó. Ở phía khác, chúng ta đánh mất khả năng cảm thông một cách thật lòng và sâu
xa với nhân quần, với tha nhân; ngược lại, tự phụ quá mức với cái tôi vô lối.
Chưa một nền văn học nào, chưa có một tác giả nào trở nên thật lớn, kiệt xuất
khi đánh mất mối dây liên hệ với cuộc đời, với tha nhân.
Thứ ba, nói tới tư cách trí thức là nói tới ý thức tự vượt
các giới hạn; ở trong lĩnh vực văn học nghệ thuật là ý thức làm khác/mới, cách
tân. Nó ngược lại với sự lặp lại lười biếng, cùn mòn, thiếu cá tính sáng tạo.
Sinh thời, GS. Hoàng Ngọc Hiến đã nói ở đâu đó rằng, trong văn chương, chỉ cần
có một chút khác/mới so với trước đó và cùng thời đã là quan trọng. Trong sự đổi
mới, có những cách tân lớn như thay đổi hệ hình, có những cách tân nhỏ như một
xu hướng, một lối viết… chẳng hạn. Dù thế nào cũng đáng quý. Một nền văn học
luôn được thôi thúc bởi sự tìm kiếm, cách tân, làm khác, làm mới thường trực,
chắc chắn sẽ có những thành quả xứng đáng.
Hiện nay nền văn học của chúng ta không phải không có ít nhiều
thành tựu, nhưng chưa đủ mạnh để xác lập một tư thế văn chương đĩnh đạc trong cộng
đồng văn chương thế giới. Một nền văn học “tự sướng” sẽ làm tê liệt kỷ luật và
khát vọng sáng tạo. Điều này trái ngược với tinh thần trí thức. Phản biện và tự
phản biện chính là sự bảo đảm cho sự sống còn của nghệ thuật, và không chỉ nghệ
thuật…
Tôi không là người bi quan. Nền văn học nào rồi cũng sẽ có cách đi riêng của nó. Tuy nhiên, nếu mô hình nghệ sĩ-trí thức (nhà văn-trí thức) được ý thức như một mô hình chủ đạo của hôm nay, tôi hy vọng nền văn chương sẽ chuyển động theo hướng tích cực hơn.
Chú thích:
[1] Xem trong “Loại hình học tác giả văn học - Nhà Nho tài
tử và văn học Việt Nam” của Trần Ngọc Vương, Nxb Giáo dục, 1995.
[2] Xem trong “Nguyễn Duy – Nhà thơ hiện đại Việt Nam
(thực hành phân tích diễn ngôn văn học)” của Lã Nguyên, Nxb KHXH, 2021; tr.167.
Khái niệm này được Đỗ Lại Thúy đưa ra lần đầu tiên trong bài viết “Tô Thùy Yên
là hiện tại”, Tạp chí Sông Hương, số 364, tháng 6-2019; sau được đưa vào trong
cuốn “Thơ rìa mắt”, Nxb HNV, 2021 dưới nhan đề: “Tô Thùy Yên đãng tử”. Dĩ
nhiên, những định danh của hai tác giả này được quy chiếu từ góc nhìn hệ hình;
còn các mô hình như trong bài viết này được quy chiếu từ nội dung xã hội học
tác giả.
12/2/2023
Văn Giá
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét