Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

Chất đồng quê phảng phất nét riêng, mang dấu ấn thời cuộc hôm nay

Chất đồng quê phảng phất nét riêng,
mang dấu ấn thời cuộc hôm nay

Cách nay đã lâu, trong “Thi nhân Việt Nam”, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1942, Hoài Thanh từng viết về Nguyễn Bính: “Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn vào tâm trí chúng ta. Ở Nguyễn Bính thì không thế! Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường… Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong mỗi chúng ta…” Theo tôi, chính sự đánh thức này đã làm nên một phần giá trị thơ Nguyễn Bính. Thời ấy, cặp lục bát dưới đây trong “Hương chanh” được coi là đậm chất Nguyễn Bính nhất: 
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Cùng thời với Nguyễn Bính còn có Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ…Họ là những “nhà thơ đồng quê” đúng nghĩa. Sau họ, còn có một “nhà thơ đồng quê” thời hiện đại là Ngô Văn Phú. Sinh thời, Ngô Văn Phú từng tâm sự: “Đồng quê là cái vòng kim cô của tôi và đồng quê cũng chính là “trường” đề tài của tôi”. Ông đã để cho đời một bài ca dao đặc sắc:
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây
Những cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về nhà
Và bây giờ, độc giả lại có dịp gặp một “nhà thơ đồng quê” thời hiện đại nữa. Đó nhà thơ Vũ Bá Lễ qua “Những ngọn gió đồng quê” – tập thơ vừa ấn hành mà độc giả đang có trên tay. Tất nhiên, chất đồng quê của Vũ Bá Lễ không thuần túy như ngày xưa nữa, không hoàn toàn giống như ngày xưa nữa, mà đâu đó phảng phất nét riêng, mang dấu ấn cá nhân và dấu ấn thời cuộc hôm nay.
Phải là người rất hiểu việc nhà nông, Vũ Bá Lễ mới viết được những câu thơ rất thời vụ và cũng đầy chất cảm thông, chia sẻ của người trong cuộc như thế này: “Nắng ghen mưa, gió tây cời/ Ướt người, khô lúa/ kịp thời nhà nông” (Nhà nông với giời); “Nửa đời cầm lại bàn tay/ Chạm sần chai/ mắt tôi cay…thương trào” (Đôi bàn tay em), “Bấy chầy phơi nắng nhuộm mưa/ Đồng – nhà/ chật việc/ thoi đưa cạn ngày” (Đôi bàn tay em) và “Về đây, nằm ngắm trời sao/ Lội dòng cổ tích, đồng dao…ru hời/ Về đây để có một đời/ Một đêm mê mệt/ khoảng trời thần tiên” (Khoảng trời thần tiên). Trong cái môi trường nhà nông và thật thôn quê ấy, nhìn chung là rất hiện thực, nhưng vẫn có nét rất lãng mạn, bay bổng: “Hiu hiu gió thổi nồm nam/ Cái chong chóng dứa xoay ngang buổi chiều” (Trưa hè tiếng ru); “Sá cày cong vặn nghiêng chiều heo may” (Ngẫm mình). Đây là ba câu thơ lạ, trong đó có hai chi tiết lạ: “Cái chong chóng dứa xoay ngang buổi chiều”, “Sá cày cong vặn nghiêng chiều heo may”.
Trong cái buổi trưa hè thật lạ ấy, Vũ Bá Lễ chợt ngộ ra phận người trong phận quê. Ông thấy: “Ta như tan/ ta vô hình/ Ngật ngà tôi thấy bóng mình đang trôi” (Trưa hè…tan). Trên một tầng nấc khác, ông giật mình và tự hỏi: “Chiều trên đồng vắng/ bóng ai/ Thực hư/ mờ ảo/ hình hài/ ta chăng? (Ta chăng) và “Kìa ta chiếc lá xoay vần/ Một tia chớp nhánh giữa dòng dương gian/ Khuất mờ sau vệt sương tan/ Nhập nhòa trong ráng chiều tàn – tử sinh” (Chạm tiết heo may). Người như Vũ Bá Lễ không chỉ nhận thấy, mà còn cảm thấy. Với một người làm thơ, cảm thấy bao giờ cũng quan trọng hơn nhận thấy. Không có cảm thấy không dễ có thơ và chính sự cảm thấy mới làm nên cái riêng, nét riêng, giúp người đọc nhận ra sự khác biệt của cá nhân này với cá nhân khác. Mặt khác, nó cũng góp phần làm nên độ ngẫm cảm trong thơ. Nên nhớ trong văn chương nói chung và thi ca nói riêng, độ ngẫm cảm là đáng được đánh giá cao, nếu không muốn nói là đáng được đánh giá cao nhất và không phải người làm thơ nào cũng dễ dàng có được.
Chữ trong thơ Vũ Bá Lễ, nhiều khi được sử dụng rất linh hoạt và được đặt vào những vị trí đắc địa. Đó là sở trường trong việc khiển chữ. Chúng ánh lên trong những khoảnh khắc bất chợt, tạo ra những cảm giác mới mẻ. Đó là “thảng” trong “mỏng manh làn khói thảng nơi cuối chiều”, “ngân ngấn” trong “chiều buông ngân ngấn chuông chùa”, “dãn” trong “uống cho dãn rộng đêm ra”, “võng” trong “khoảng không võng xuống/ chạm đêm nhạt nhòa”, “mê tơi” trong “mê tơi với mảnh tơ hồng”, “diện kiến” trong “nén bung diện kiến”, “vân vê’ và “lấm” trong “Vô tư/ cơn gió vân vê/ Khúc cô đơn lấm đắm mê cuối chiều”, “gậm nhấm” trong “một tôi gậm nhấm dở dang nỗi đời”, “hóa vàng” trong “hóa vàng vọng phú”, “phong kín” trong “cô đơn phong kín”, “chạm” trong “đã nghe thu chạm trên da thịt mình”, “se” trong “xin thu se vị heo may”, “vong vóng” trong “chiều đông vong vóng đồng xa”…Những chữ này tuy chưa bầu lên nhà thơ – một quan niệm và gần như là tuyên ngôn của nhà thơ người Pháp gốc Do Thái của Edmon Jabes mà lâu nay, nhiều người vẫn nhầm của nhà thơ Lê Đạt, nhưng chúng vẫn làm nên vẻ đẹp sống động và sắc thái mới mẻ cho mỗi câu thơ.
Trong “Những ngọn gió đồng quê” còn có một vệt thơ của một cựu chiến binh viết về thời hậu chiến. Đó là sự nhớ lại với: “Ngoài kia cuộc chiến đã tàn/ Còn mê súng nổ: Xung phong…gọi mình” và sự trở về với: “Quay về, tập tễnh đời thường/ Buổi gian nan bạc chặng đường mưu sinh”. Những câu thơ ấy góp phần làm cho “Những ngọn gió đồng quê” ngày đêm vẫn không ngừng thổi như từ tâm cảm và máu thịt của nhà thơ Vũ Bá Lễ.
23/11/2024
Đặng Huy Giang
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...