Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

Sức hàm súc của phúng dụ "Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay"

Sức hàm súc của phúng dụ "Hãy
nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay"

Xuất thân nhà giáo sinh trưởng ở Hưng Yên, nhà thơ Tạ Hùng Việt hiện sống và làm việc tại Nha Trang, Khánh Hòa. Mấy mươi năm không ngừng sáng tác, ông đã xuất bản 10 tập thơ, mới nhất là “Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay” viết theo thể thơ 1-2-3 do NXB Hội Nhà văn vừa ấn hành năm 2024, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó có nhà lý luận phê bình Chế Diễm Trâm, một cây bút nữ giàu nội lực cùng ở Nha Trang. Nhân dịp Tọa đàm “Thơ 1-2-3 trong không gian văn học đương đại” do Hội Nhà văn Cần Thơ và Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trường Đại học Cần Thơ tổ chức, xin giới thiệu bài viết của Chế Diễm Trâm về tập thơ Tạ Hùng Việt.
Tập thơ thứ mười của nhà thơ Tạ Hùng Việt – tập thơ Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay, NXB Hội Nhà văn, 2024 – đem đến một cách nhìn về cuộc sống và con người theo chiều hướng triết mỹ. Tập thơ mang tính triết lý sâu sắc. Đó là “tạng thơ” Tạ Hùng Việt từ trước đến nay nhưng đến tập này có phần đậm sâu hơn hẳn.
Bài thơ số 87 Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay được chọn mặt gửi vàng, làm tên cho cả tập thơ gồm 100 bài, hình thức là một khuyến nghị (hãy) nhưng đọc lên lại dễ liên tưởng đến một cảnh báo: cuộc đời nhiều tai ương (mắt bão), “đắng cay”, cần phải “nhìn” (quan sát) để “tin” [tưởng] ở phía trước, xa, đẹp.
Suốt cả tập thơ là thao tác liên tưởng ẩn dụ. Khi ẩn dụ liên tiếp thì chính là phúng dụ, dùng ẩn ngữ liên hoàn để tạo nghĩa ẩn, để tác giả cất lời đối thoại ngầm. “Phúng dụ – một hình thức chuyển nghĩa trong văn học, còn gọi là nói bóng hoặc ám chỉ. Các hình tượng hoặc hình ảnh kết hợp với nhau trong cấu trúc hoàn chỉnh để tạo sự liên tưởng tới ý nghĩa khái quát, trừu tượng trên cơ sở của ý nghĩa cụ thể. Phúng dụ không thể được cấu tạo từ một hình ảnh riêng biệt như ẩn dụ mà thường từ nhiều hình ảnh kết hợp nhau.”[1]
Trong Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay, Tạ Hùng Việt xây dựng hình tượng con người hiện đại, mà hơn một lần tác giả gọi đích danh là “loài dáng thẳng”:
Lạ lùng loài dáng thẳng khư khư cơn mê lấp biển vá trời
(Khi chiêm bao chỉ là dải sương mong manh cuối sóng)
Dấu tích triệu năm trôi qua loài dáng thẳng
(Dấu tích triệu năm trôi qua loài dáng thẳng)
Trái đất nghiêng vì lầm lỗi của loài dáng thẳng
(Mải miết lên chùa – tôi xưng tội cầu may)
Phải chăng tác giả ngầm so sánh con người hiện đại – “con người kiêu hãnh cô đơn” – với các loài động vật cấp thấp. Đặt con người hiện đại trong các mối quan hệ với tự nhiên, với đồng loại, để cất tiếng cảnh báo về nhân cách, nhân phẩm. Bởi thế, Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay có vô vàn dấu vết của “văn học sinh thái” (rừng, biển, nắng, mưa, gió, sương, mây, giông, mắt bão, động đất, sóng thần, mùa xuân, mùa lá rụng/chết, mùa đông giá,…) nhưng sâu xa là thơ của triết lý về con người hiện đại, xã hội hiện đại. Thơ muốn có giá trị phải vươn tới và đạt tới ẩn ngôn, ẩn ý.
Trong suốt tập thơ, “loài dáng thẳng” chiếm hữu tự nhiên một cách vô tâm (trang 15), dối trá (trang 16), tiêu diệt mọi loài (trang 38), đỉnh cao của “diễn” (trang 39), cao ngạo (trang 40), huyễn hoặc (trang 41), ngạo mạn (trang 41), tranh đua, xô chen (trang 42), tàn phá thiên nhiên (trang 43), xảo ngôn (trang 48), đa đoan (trang 49), tham lam, tàn nhẫn (trang 51), giăng đầy “cạm bẫy người” (trang 52, 61), nhân cách lởm khởm (trang 64), v.v…Vì thế, là “loài dáng thẳng” nhưng lại nghiêng lệch, xô lệch, tăm tối, tội lỗi,… Điều đó, chứng tỏ nhà thơ luôn chú ý quan sát, nghiền ngẫm về con người, xã hội, đưa thơ vươn tới tầm suy tư, triết lý.
Để khái quát bản chất cuộc sống, nhà thơ Tạ Hùng Việt tỏ ra am tường quy luật của những mặt đối lập và sử dụng chắc tay, đắc địa. Thiện – ác, sinh – diệt, đục – trong, hưng – vong, cao – thấp, dại – khôn, thật – giả, vui – buồn, thấp – cao, ngọt – nhạt, ấm – lạnh, sáng – tối, còn – mất,… dở trang thơ nào cũng thấy, thậm chí trong một bài thơ cũng đầy ắp:
Rơi bóng xuống dòng sông mê mải đục – trong con nước
 […] Những cung bậc thảo nguyên, vô thức sự sinh tồn tàn khốc
Thế gian những tầng cao thấp, phũ phàng sự chiếm hữu vô tâm
Tất cả mọi niềm vui đều cũ, chỉ nỗi buồn là mới nguyên.
(Lấp lánh vầng trăng trôi dạt dưới chân cầu)
Sau chông chênh là thênh thang một con đường xuống núi
Lại cao thấp bước đi, ngọt lạt buồn vui, xanh đỏ lòng người
 Lạ lùng loài dáng thẳng khư khư cơn mơ lấp bể vá trời.
(Khi chiêm bao chỉ là dải sương mong manh cuối sóng)
Sử dụng phạm trù đối lập là một chi tiết nghệ thuật của thơ Tạ Hùng Việt, để khái quát hoá bản chất cuộc sống. Đó là một hành trình từ khởi thuỷ đến hiện tại. Hành trình ấy đầy “lỗi”. Nhưng chỉ ra được những lỗi ấy là hồi chuông đánh thức con người thoát ra khỏi tham vọng, tội lỗi.
Không dừng lại ở đó, thơ Tạ Hùng Việt còn đi tiếp hành trình “chữa lỗi”, ôm chứa khát vọng đi tiếp một chặng nữa: hướng đến lời khải huyền. Mẹ, vườn mẹ và tình mẹ ấm nồng, dịu dàng, thiêng liêng là phúc phận đời con, cứu cánh để con vượt thoát. Mẹ xoa dịu mọi buồn đau, là điểm tựa cho con đừng gục đổ. Mở đầu tập thơ là bài Chỉ còn lại góc vườn một dáng mẹ thôi, kết lại cũng là mẹ:
Nâng niu những đồng tiền cũ từ niềm vui rau đắng chợ nghèo
Lại thương mảnh vườn gầy của mẹ âm thầm năm tháng gieo neo
Khuyết hao một đời đất khát vẫn tin yêu hoa trái nghịch mùa.
(Những dòng trôi qua phúc phận con người)
Cộng hưởng với mẹ, tiếng chuông chùa, lời nguyện cầu cũng là cách nhà thơ thiện lành cứu rỗi những tổn thương do tình yêu và cuộc đời giáng xuống, nện xuống: Người nơi miền mây trắng, tôi cuối bờ sông xa; Giá như người đừng hẹn tôi về với biển; Tình cờ mùa xuân gặp người cũ qua nơi hẹn cũ; Ngày em lấy chồng – tôi ngược gió đầu đông; Theo dấu chân người qua Thung Lũng Tình Yêu; v.v…
100 bài thơ được chọn từ hơn 500 bài thuần theo thể thơ 1-2-3 – một thể thơ xuất hiện trên tao đàn từ mùa thu 2018. Mỗi bài thơ gồm 3 đoạn; đoạn một 1 câu (cũng là thi đề) tối đa 11 chữ; đoạn hai gồm 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ; đoạn ba gồm 3 câu, mỗi câu tối đa 13 chữ. Câu đầu tiên và câu cuối cùng hô ứng với nhau để tạo tính thống nhất, cấu trúc chặt chẽ, ý tưởng nhất quán.
Đây là một trong những nỗ lực cách tân hình thức thơ Việt cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Nó mau chóng được nhiều nhà thơ [trẻ] hoặc những nhà thơ mong muốn làm mới thơ Việt nhiệt liệt hưởng ứng. Bởi, trước hết, đây là cuộc chơi thơ đầy trí tuệ. Mỗi bài thơ tối đa 74 chữ, như thế là có quy cách nhưng không quá ràng buộc cứng nhắc nhưng cũng không thể “tràng giang đại hải”. Mỗi chữ, mỗi từ dùng đều phải được cân nhắc kỹ càng, tuy không đến độ “phải phí tốn ngàn cân quặng chữ/ mới thu về một chữ mà thôi” (thơ Maiacôpxki) nhưng cũng phải “thôi xao” chữ nghĩa để chọn lựa, đặt để sao cho vừa vặn, tinh tế.
So với một bài lục bát Việt Nam tối thiểu hai câu (14 âm tiết), một bài haikư Nhật Bản ba dòng (17 âm tiết), một bài tứ tuyệt Trung Quốc bốn câu (28 âm tiết), thơ 1-2-3 có bầu trời rộng rãi hơn cho người cầm bút bay lượn nhưng cũng khá nghiêm cẩn để phải chọn đà bay, cách bay cho phù hợp. Thơ vốn hàm súc, thơ 1-2-3 càng đòi hỏi cao sự hàm súc, cô đọng, ý tại ngôn ngoại, “hoạ vân hiển nguyệt”. Thơ như thế chắc chắn sẽ mang đến cho bạn đọc ít nhiều nhã thú nghĩ ngợi, suy tư.
Thơ 1-2-3 Tạ Hùng Việt có đầy đủ phẩm tính ấy, đọc xong còn lưu lại dư vị, vị đắng cay của đời, vị ngọt bùi của tình, tình yêu thương cuộc sống và con người. Thủ pháp phúng dụ không chỉ mang đến tính hàm súc cần có, phải có của thơ mà còn góp phần biểu hiện tư tưởng-tình cảm mang giá trị phổ quát. Muốn hiểu hết, hiểu đúng thì phải đọc cả tập thơ, từ đầu đến cuối. Thơ hay, đẹp có sức ôm, chứa là vậy!.
Chú thích:
[1] Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển Thuật ngữ văn học, tr. 263.
13/11/2024
Chế Diễm Trâm
Nguồn: Tạp chí Nha Trang 11.2024
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...