Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Pleiku - Cõi mộng của nhà thơ Lê Nhược Thủy

Pleiku - Cõi mộng của
nhà thơ Lê Nhược Thủy

Thơ Lê Nhược Thủy đưa người đọc về những đêm Tây Nguyên gần lắm với trăng sao, với ánh lửa bập bùng với vị ngọt đắng từ ché rượu, với gió lạnh từ vách đá, với vũ khúc ma quay cuồng xa tít, với mưa, với bụi đỏ, với chùm mận hồng, với màu hoa quỳ nở… Tất cả cảnh vật thiên nhiên, hình ảnh quen thuộc ấy được tỏa sáng lung linh trong đời sống hiện tại cũng như trong quá khứ.
Nhà thơ Lê Nhược Thủy tên thật là Lê Hữu Huế. Ông sinh ra và lớn lên ở thành phố Huế. Ông làm thơ từ sớm và đã tham gia phong trào đấu tranh đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước của học sinh, sinh viên ở đô thị miền Nam trước năm 1975. Vì thế, ông bị chính quyền Sài Gòn bắt giam, buộc phải rời xa Cố đô Huế. Đó là lý do ông tìm đến định cư ở Pleiku từ 1972 đến 1980, một vùng đất cao nguyên xa xôi, một vùng “rừng thiêng nước độc”. Một vùng đất mà nếu ai chưa đặt chân đến thì trong trí tưởng tượng cũng không hình dung hết sự hoang vu của những đoạn đường đèo hẻo lánh, uốn lượn hun hút giữa trời mây, của những buôn làng nhỏ nhoi lọt thỏm giữa những khu rừng già, của những hoàng hôn lạnh lẽo, cô tịch. Pleiku chỉ là một chấm son nhỏ xíu giữa cao nguyên mênh mông, cách mặt nước biển 800m. Một vùng đất mà chính nhà thơ cũng thấy ngỡ ngàng:“Ngày âm u và đêm cũng âm u/ Ta phiêu du đứng giữa sương mù”. Nhà thơ chẳng thể ngờ sau này, chính Pleiku đã trở thành cõi mộng trong cuộc đời mình với những gì đẹp đẽ nhất, yêu thương nhất.
Ngày đó Gia Lai nói chung, Pleiku nói riêng đang ở trong giai đoạn khắc phục hậu quả tàn khốc của chiến tranh, tập trung lao động sản xuất để có đủ cái ăn, cái mặc, thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu. Ngày đó, nhà thơ đi dạy học chỉ bằng chiếc xe đạp tàng tàng, áo sơ mi rạn vai. Ngày đó khoai lang lót dạ, ly cà phê đen vỉa hè cũng là thứ cao sang so với đồng lương nhà giáo dưới thời bao cấp.
Một lần, nhà thơ Xuân Diệu đến thăm Lê Nhược Thủy để rồi sau đó có câu thơ ai cũng nhớ:“Cảm ơn vợ chồng anh giáo Huế/ đãi tôi một bữa Lệ Cần khoai”. Khoai lang ở vùng Lệ Cần nổi tiếng vì ruột vàng tươi, bở tơi và ngọt, là nguồn lương thực độn thêm vào bữa ăn hàng ngày, được coi như đặc sản đãi khách! Hình ảnh nhỏ đó thôi cũng đủ hiểu đời sống lúc đó khó khăn, nghèo khổ đến chừng nào! Thực ra trước thời điểm 1975, đời sống giáo viên trung học ở Pleiku không hề gian khó!
Thời ấy, người tốt nghiệp Đại học Sư phạm được gọi “Giáo sư”. Như nhà thơ Lê Nhược Thủy sẽ được gọi là: “Giáo sư Trung học Đệ Nhị cấp”. Trong bậc lương công chức, lương giáo sư cao nhất. Giáo sư nam đi dạy luôn mặc sơmi, thắt cà vạt, đi giày da. Giáo sư nữ luôn mặc áo dài. Trang phục học sinh tươm tất với sơ mi hoặc áo dài trắng, quần trắng, sandan trắng. Sau 1975, tên gọi: “Giáo sư” đổi thành: “Giáo viên”. Sau 1975, đời sống đột ngột đổi thay. Con người phải đối mặt với bao cơ cực. Nhiều nghệ sĩ vẫn đặt lòng tin yêu vào cuộc sống mới bởi sự trong sáng của tâm hồn gặp sự trong sáng của sự nghiệp Cách mạng buổi đầu đã dễ dàng đồng điệu, cảm thông và lan tỏa. Thiếu thốn vật chất không là gì! Nhà thơ Lê Nhược Thủy cũng vậy. Vượt lên trên nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền là lý tưởng sống cao đẹp vẫn như luồng gió mới, tiếp tục thổi bùng nhiệt huyết say mê trong tâm hồn nhà thơ trẻ.
Những ngày đầu ngay sau 1975, Lê Nhược Thủy là một trong những người đầu tiên say mê dạy học trò hát những bài ca Cách mạng! Nhà thơ từng tâm sự: chính những giai điệu hào hùng, tươi vui của những bài ca ấy đã lôi cuốn mình, lấn át tất cả những âm thanh nỉ non, rầu rĩ, sầu đời. Âm hưởng anh hùng, hào sảng trong những dòng thơ kêu gọi đòi hòa bình, tự do dân tộc từ thời sinh viên, một lần nữa lại như dòng sông cuộn chảy khi nhà thơ dấn thân phản ánh hiện thực, ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi con người đang quyết đổ mồ hôi, công sức, nỗ lực xây dựng cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Tây Nguyên ơi/ Người đã về cùng Tây Nguyên đó/ Mùa tái tạo đẹp từng cơn nắng đỏ/ Đất rất xưa nhưng mới bởi tay người. (Trên chiếc nôi đất).
Hình ảnh đời sống với các công việc trồng lúa, làm thủy lợi, tăng gia sản xuất tưởng chừng khô khan nhưng khi đã đi vào thơ Lê Nhược Thủy thì rất tự nhiên, nhuần nhuyễn. Người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên bao đời sống du canh du cư, trồng trọt trên triền đồi, nương rẫy xa xôi, nay theo chủ trương chính sách mới đã chịu xuống núi lập làng, thực hiện việc định canh định cư, xây dựng phương thức sản xuất mới. Cảm giác có bao nhiêu nốt nhạc tung tẩy trong bài thơ: “Xuống núi” khiến ai đọc cũng muốn ngân lên, hát vang. Thực tế, bài thơ này đã được nhạc sĩ Văn Chừng phổ nhạc thành một ca khúc rất nổi tiếng ở Pleiku và được hát đi hát lại trên đài Tiếng nói Việt Nam lúc đó:
Chim ơi xuống đây/ đừng bay lên rẫy, ngọn lửa đừng cháy/ nuôi lấy mầm xanh…… Không đốt nương tỉa lúa/Đời xưa đã nghèo nàn/Giàng không cho nhiều thóc/ Ta không đi theo Giàng/ Giàng ở trên cánh đồng/ Giọt mồ hôi mằn mặn/ Đẹp cái lưng ăn nắng/ Giàng ở trong bàn tay. (Xuống núi).
Thời điểm này, người làm thơ thường có chung một ham muốn là khái quát những vấn đề lớn của xã hội, mở ra tầm nhìn bao quát nên thơ dễ mang tính minh họa, hô hào cho những Nghị quyết, Chủ trương của Đảng và Nhà nước hơn là tính thẩm mỹ, nghệ thuật. Có lẽ nhờ chất tráng ca hoành tráng mà thơ Lê Nhược Thủy không bị mắc phải nhược điểm lớn của thơ ca thời ấy. Người đọc dễ dàng nhận ra một con người hiểu sâu biết rộng, chịu khó nghiên cứu và tâm hồn dễ đồng điệu với cái đẹp, cái mới trong những câu thơ hào sảng, tràn đầy nhiệt huyết:
Sản xuất! Tất cả chỉ sản xuất! Đất Tây Nguyên thắm ửng sắc cờ/Những chiến dịch nở sao vàng năm cánh.(Trên chiếc nôi đất)
Và đây nữa:
Hàng vạn thanh niên thiếu nữ đã lên đường/ Đến đất này mà thương mến quê hương./ (Trên chiếc nôi đất)
Ngay cả khi ca ngợi những con người, ngành nghề cụ thể – những chủ đề rất khó thành thơ thì người đọc vẫn thấy những vần thơ này không có chút gượng ép: Bàn tay anh căng đẹp những đường gân/ Suy nghĩ gì đôi mắt anh hừng sáng quá/ Dưới trời xanh, xanh màu áo công nhân– (Hạnh phúc).
Vào thời điểm này, cái đẹp là hình ảnh con người lao động hăng say, lao động không chỉ cho cuộc sống của mình mà còn vì mơ ước những điều tốt đẹp hơn cho tương lai: Hỡi cô công nhân bên gốc cao su với dòng nhựa trắng/ Có nghe đời đang xanh tươi.– (Trên chiếc nôi đất).
Nhà thơ không ngần ngại khắc họa hình ảnh đồ vật, sự việc đã cùng con người trải qua cuộc kháng chiến, giúp con người thích nghi với hoàn cảnh: Ôi ngọn đèn xưa/ Chiếc ve chai và chóa tròn vừa che mắt địch/Đã cùng anh thân thương trên nhiều trận tuyến/ Cùng anh tâm sự giữa đêm rừng/ Ôi nỗi mừng và nỗi nhớ rưng rưng/ Dạt dào trào lên trang giấy nhỏ/ Nơi quê nhà cùng những ngọn đèn em đón xe qua bao chặng bom thù/ Cùng đốm lửa mẹ thổi nồi cơm của cánh đồng năm tấn/ Và nơi đây anh viết bài thơ đánh thắng giặc ngày mai – (Ngọn đèn).
Dù viết về vấn đề gì, phản ánh lĩnh vực nào thì nhà thơ Lê Nhược Thủy vẫn như ngọn lửa sẵn sàng cháy hết mình, thể hiện sự chân thành, sôi nổi, tình cảm nồng nàn. Tất cả cảm xúc, ý nghĩ được thăng hoa bởi bao nhiêu lý tưởng cao đẹp của tác giả như đang biến thành hiện thực “Hạnh phúc nào bằng hạnh phúc hôm nay/ Khi ước mơ thành sự thật hàng ngày, – (Hạnh phúc). Để có được những kết quả mong muốn phải trải qua một quá trình khó khăn, gian khổ.
Chính trong quá trình ấy mới đem lại cảm giác hạnh phúc thật sự (chứ không phải là kết quả có sẵn, chỉ việc tận hưởng) bởi chính tác giả cũng đang chung tay góp sức: Nguyện góp lửa đời vào ngọn lửa chung./- (Hạnh phúc). Đây chỉ có thể là ước mơ, hoài bão suốt thời trai trẻ ở xứ Huế, đã được nhà thơ gìn giữ, nuôi dưỡng trên chính mảnh đất Pleiku. Tác giả đang dần gắn bó hơn, tự hào hơn về vùng đất mới, nơi mình đang sinh sống từng ngày: Cây cung, chiếc ná, chiêng cồng/ In vào lịch sử dáng hồng uy nghi – (Đất đỏ).
Có thể khẳng định, trước và sau thời điểm năm 1975 và nửa đầu giai đoạn sáng tác của mỗi tác giả, thơ thường gượng gạo, mang tính diễn ca, hò vè và kể chuyện. Thơ ít sử dụng các biện pháp nghệ thuật, nặng về tả thực. Nhưng thơ Lê Nhược Thủy đã có nhiều so sánh, cách nói ẩn dụ, hoán dụ như “Khói nhà máy lồng trong mùa gió mới”,“Cơn nắng đỏ”,“mùa xuân xanh tươi”, “Trên chiếc nôi đất”v.v… Có khi một hình ảnh độc đáo, bất ngờ nào đó đã neo giữ khổ thơ vào trái tim người đọc như:“Nhìn bóng cây Kơ – nia/ Như dáng chàng vạm vỡ/ Cây uống lửa mặt trời/ Cho mẹ em làm cỏ” (Xuống núi). Một số bài thơ chứa đầy âm hưởng, nhạc điệu của ca dao, dân ca: Ơi ta-man thân yêu/Lưng xanh cõng nắng chiều/ Ơi ta-man mênh mông/Ta cấy lúa lên đồng – (Xuống núi).
Chính năng khiếu thơ ca cộng với cảm xúc nồng cháy, hoài bão lớn lao về một thế giới công bằng, tươi đẹp đã khiến nhà thơ không chỉ vượt qua những tháng ngày gian khổ, khó khăn để cống hiến hết mình mà còn để lại nhiều bài thơ ấn tượng cho đời.
Nếu dòng thơ thế sự của nhà thơ Lê Nhược Thủy có thể giúp người đọc hình dung về xã hội, đời sống ở Pleiku sau ngày Thống nhất đất nước, có thể chỉ“vang bóng một thời” thì dòng thơ trữ tình của nhà thơ mới là gia sản thật sự, giàu có, phong phú và sống mãi với thời gian. Pleiku với vẻ đẹp hoang sơ của miền sơn cước, với những cơn mưa dầm dề kéo dài suốt sáu tháng trong một năm, với những màn sương trắng mờ bảng lảng, với những con người trong trẻo, phóng khoáng như chính thiên nhiên hoang dã nơi đây đã in dấu sâu đậm trong cuộc đời và trong thơ Lê Nhược Thủy.
Cũng viết về thiếu nữ nhưng khác với “Em Pleiku má đỏ, môi hồng” của Vũ Hữu Định, khác với “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” của Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ở Pleiku, trong thơ Lê Nhược Thủy luôn toát lên vẻ đẹp trong sáng, rạng rỡ: “Em vẫn hồn nhiên như xuân mới/ Giấu nụ cười trong đôi mắt nâu”, “Em vẫn chép thơ bằng mực tím/ Trang giấy chiều ngỡ có mây bay/ Có gió nương theo tà áo trắng/ Có bàn tay khẽ chạm bàn tay.- (Một thời áo trắng). “Em như hoa mới nở/ Man mác hoài trong đêm”– (Trăng khỏa thân). Vẻ đẹp của thiểu nữ ấy đan cài, lẩn khuất trong thiên nhiên, cây cỏ, trong sự vật, hoạt động khiến thiếu nữ ấy vừa gần vừa xa, vừa thực vừa mơ. Lúc thì “Ngọn lửa bừng lên men ngất ngây/ Thoáng hiện em về má hây hây”,- (Rượu cần). Lúc thì: “Em có về đường hoa quỳ nở/ Lung linh vàng sắc nắng tháng giêng’– (Bụi đỏ). Lúc thì: “Còn đây hương tóc ngọt ngào/ Nỗi buồn chín mọng lúc nào không hay”– (Chút nắng giêng hai).
Sống ở Pleiku, nhà thơ đã trải qua những đêm trăng lạnh quạnh quẽ, những buổi sáng mù sương, những cơn mưa dai dẳng, những cơn lốc bụi đỏ mịt mù… Đặc biệt ĐÔI MẮT Pleiku – cửa sổ tâm hồn con người – luôn ấm áp tình đời, tình người, thực sự là nỗi ám ảnh trong chiều sâu tâm tưởng, suy tư: “Đôi mắt Pleiku/ thưở sương mù/ anh nhớ/ núi rừng đang thở/ mùa hoang vu (…) Xin uống cạn tình đôi mắt Pleiku/ Đôi mắt Pleiku đâu là giấc mộng”– (Đôi mắt Pleiku). Chỉ còn riêng đôi mắt/ Phảng phất mãi nụ cười (Trăng khỏa thân). “Vẫn còn chút gì là mãi mãi/ Là đôi mắt chiều đôi mắt hoang sơ – ( An Khê và An Khê). “Sương buông chùng xuống nên chiều/ Đôi mắt em nói bao điều yêu thương”– (Khoảng trời riêng). “Ai nói đất trời không say đắm/ Không bàng hoàng cùng mắt núi tình xưa”– (Mắt núi). “Đôi mắt em hôm nào rưng rưng thương quá”- (Pleiku thân yêu). “Bâng khuâng từ độ trong thu/ Rưng rưng mắt biếc Pleiku buồn buồn – ( Không đề 3). Đôi mắt Pleiku mang lại ấn tượng sâu thẳm như thể vì đó là đôi mắt của tâm hồn đồng điệu, đồng cảm với nhà thơ, có thể chia sẻ mọi vui, buồn, hạnh phúc hay khổ đau. Đôi khi phải trải qua bao năm tháng, bao nhiêu biến cố, con người mới nhận, tìm ra tri âm – tri kỷ như chính nhà thơ đã viết: “May mà tôi nhận ra em”– (Pleiku thân yêu).
Thơ Lê Nhược Thủy còn nhắc nhiều đến hình ảnh ĐÊM ở Tây Nguyên nói chung, ở Pleiku nói riêng. Ai đã đến cao nguyên, giữa điệp trùng núi, điệp trùng cây hẳn thấm thía màn đêm đen sẫm, màn đêm sâu thẳm ở xứ sở này. Cảm giác hoang vu, rùng rợn nhưng lại có sức hút ma quái, lôi cuốn con người. Con người như đang sống trong thưở hồng hoang, như bước vào cõi thiêng, huyền bí, đôi khi chẳng thể lý giải được. Ở đó con người như được giao cảm với vũ trụ bao la, với thế giới thần linh, lại như được phát hiện, khám phá tận cùng bản thể.
“Đứng giữa đèo An Khê ta uống cả bóng đêm/ Uống tháng ngày mùa thu lửa cháy/ Hồn khỏa thân không cần che đậy/ Ô Phật ngàn tay và Chúa cũng ngàn tay!”– (An Khê và An Khê).
Thơ Lê Nhược Thủy đưa người đọc về những đêm Tây Nguyên gần lắm với trăng sao, với ánh lửa bập bùng với vị ngọt đắng từ ché rượu, với gió lạnh từ vách đá, với vũ khúc ma quay cuồng xa tít, với mưa, với bụi đỏ, với chùm mận hồng, với màu hoa quỳ nở… Tất cả cảnh vật thiên nhiên, hình ảnh quen thuộc ấy được tỏa sáng lung linh trong đời sống hiện tại cũng như trong quá khứ.
Gần 10 năm ở Pleiku, nhà thơ chuyển vào Sài Gòn định cư. Yêu Pleiku lắm nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng êm ả, cuộc đời đâu phải ai cũng yên bình! Có khi không muốn, có khi lòng tan dạ nát mà vẫn phải buông bỏ, vẫn phải chấp nhận. Rời xa Pleiku, không làm nghề giáo nữa, không thấy núi đồi bao la, màu thông xanh biếc nữa, Pleiku trở thành miền ký ức da diết, thành khoảng sáng trong nỗi nhớ, trong thơ.“Sài Gòn chợt nhớ Pleiku/ Tinh mơ dốc phố còn mù sương không”– (Không đề 1). Những câu hỏi cứ âm thầm vang lên, xoáy vào tâm trí: “Pleiku biết có còn không/ Mùa trăng ẩm ướt cỏ hồng hoang xưa/ Có còn ngày nắng đêm mưa/ Tí tách bếp lửa lạnh vừa vòng tay”– (Không đề 2). Có lúc vì nhớ mà nhà thơ rơi vào cảm giác mông lung: “Vít cần rượu cong như thân lúa/ Cạn một hơi hương của núi rừng/ Tưởng gặp lại người từ muôn thủa/ Ô hay sương trắng đã buông đầy” – (Rượu cần). Có lúc im lìm  mà nhớ trong sâu lắng:“Đất trời chợt mênh mang/ Cho hồn ta yên lặng/ Tìm nhau trong xa vắng/ Em làm những cơn mưa – (Trong yên lặng). Có lúc lại khắc khoải nhớ mong:“Về đâu hỡi mùa dâng hoa trái/ Bụi đỏ ngỡ còn cay mắt đêm”– (Bụi đỏ).
Thiên nhiên, trời đất, con người ở Pleiku như đã hòa quyện cùng hơi thở, máu thịt nhà thơ. “Pleiku thân yêu/ Nơi tôi sống mười năm với sương buông nên sớm nên chiều/ Với cơn mưa dầm dề nỗi nhớ/ Từng đọt nắng vàng rót mật mỗi mùa hoa”– (Pleiku thân yêu). Ở xứ sở sương mù này có “Hàng thông xanh xao xuyến thầm thì”, có “Thị xã tuyệt vời trong tiếng ru của lá”, có “ Mỗi bước đi bậc đá gập ghềnh”, có “Gió mùa khô xoáy tròn bụi đỏ”– (Pleiku thân yêu)… Tất cả đã trở thành kỷ niệm đẹp đẽ:“Con đường em đi qua/ Như chiếc cầu vồng xanh mong đợi/ như lá thư tình chưa tới” – (Pleiku thân yêu)…
Có lẽ vì phải xa Pleiku, lại còn xa thăm thẳm, xa biền biệt nên nhà thơ Lê Nhược Thủy mới có nhiều bài thơ hay như thế về Pleiku. Hình ảnh Pleiku sáng lên, cháy lên trong nhiều cung bậc trạng thái. Nhà thơ cố ghìm nén, cố quên cảm xúc nhớ thương để làm quen, hòa vào nhịp sống mới. Càng ghìm nén, càng cố quên thì hình ảnh Pleiku càng trở nên cô đặc, sắc nét.
Không phải ngẫu nhiên mà trạng thái “Khi không mà bỗng nhớ” được đặt tên cho tập thơ được xuất bản sau thời gian nhà thơ sống xa Pleiku. Và người đọc lại nhận ra nỗi nhớ Pleiku bùng lên, quay quắt trong những câu thơ đau đáu, trong sự yên lặng tưởng chừng thăm thẳm vô cùng. Vô vàn hình ảnh, kỷ niệm ùa về dậy sóng tâm can: “Gió ru mùa hương xưa/ Mây trời lờ lững tím/ Em có còn thắt bím/ Chiều xuống đã bao lần”– (Trong yên lặng). Tình yêu bay xa theo cánh chim/ Rừng thông xanh một đời ở lại/ Về đâu hỡi mùa hoa dâng trái/ Bụi đỏ ngỡ còn cay mắt đêm – (Bụi đỏ). Nhớ ước mơ bình dị, nhỏ nhoi một thời:“Mơ màng cơm gạo đủ đầy sớm mai” – (Không đề 2). Nhớ cảnh đêm:“Pleiku như choàng áo ấm về đêm/ Con đường nào cũng là công viên hò hẹn/ Chỉ lạnh mỗi lần em không đến/ Dù vòm thông che kín gió trời”– (Pleiku thân yêu). Rõ ràng trong sâu thẳm, Pleiku vẫn nguyên vẹn còn đó, vẫn là cội nguồn của cảm xúc, thơ ca.
Pleiku choán ngợp tâm hồn tác giả khiến dường như ở đâu, lúc nào, trong mọi hoàn cảnh, sự việc xoay quanh cuộc sống ngày thường đều gợi nhớ Pleiku. Nỗi nhớ ám ảnh khiến đôi lúc tác giả băn khoăn, ngỡ ngàng không biết mình đang lạc chốn nào: cõi thực hay mơ, thật hay giả: “Đôi mắt Pleiku đâu là giấc mộng/ Mà ngóng trông về chuyến bão giông”– (Đôi mắt Pleiku). Thiêng liêng hơn, chính miền ký ức ấy đã trao truyền cho nhà thơ sức mạnh tinh thần vô biên để tiếp tục sống, tiếp tục đối mặt với những hoang mang, cô đơn, cay đắng của kiếp người:“Về đâu ta lại về đâu/ Cám ơn hạt nắng trong màu mắt em”– (Khoảng trời riêng). Chút rượu trên môi níu lại tháng ngày/ Ta quờ quạng giữa hồn thảo nguyên xanh thẳm – (Mắt núi). Em ơi thông giữa bão bùng vẫn xanh – (Không đề 3). Nhờ có Pleiku, tác giả tự tin vững bước trong dông bão, sóng gió cuộc đời: “Ầm ào thác đổ biển dâu cũng thường”!– (Không đề 1). “Ra đi thì cứ ra đi/Đá mềm chân cứng sá gì rong rêu”!– (Không đề 2). Có thể khẳng định Pleiku mãi là điểm tựa vững chắc, mãi chiếm một vị trí quan trọng, sâu sắc trong cuộc đời nhà thơ: “Pleiku, Pleiku/ Thị xã như trái tim đỏ thắm/ Như tiếng cồng sâu lắng/ Giữa tâm hồn (Pleiku thân yêu).
Gần 10 năm ở Pleiku có thể chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi so với cả cuộc đời nhưng lại là khoảng thời gian ấn tượng nhất, có ý nghĩa sâu sắc nhất với nhà thơ Lê Nhược Thủy. Miền đất ấy, không gian ấy, bóng dáng bao bạn bè thương mến ấy luôn canh cánh trong lòng nhà thơ. Dù nhà thơ đã đến nhiều nơi, khắp cao nguyên, qua đồng bằng, tới miền biển… thì ở đâu, Pleiku vẫn là vùng đất truyền cảm hứng nhiều nhất, gợi cho tác giả nỗi nhớ nhung nhiều nhất “Từng con sóng bạc đầu chung thủy/ Càng nhớ thương em ở trên rừng. (Biển).
Nhà thơ đã làm thơ nhiều về Huế – mảnh đất tuổi thơ, nơi có sông Hương thơ mộng (Về với dòng sông, Thành phố xanh bên dòng sông xanh, Một trời thơ bay…), với nhiều cung bậc tình cảm, sự kiện trong đời người nhưng bao giờ hướng về Pleiku, cảm xúc cũng dâng trào, da diết nhất. Em có về đường hoa quỳ nở/ Lung linh vàng sắc nắng tháng giêng/ Ngỡ gió lạnh buồn không duyên cớ/ Để cho anh mãi mãi đi tìm./ (Bụi đỏ). Hay Biển ầm ào gợi bao nỗi nhớ/ nỗi nhớ nào mà không có em./ … Biển và trời hôn nhau thầm lặng/ Làm sao anh chẳng nhớ em” – (Biển). Những cảm xúc trầm lắng nhưng dạt dào, nồng cháy như thế xuất hiện nhiều trong thơ Lê Nhược Thủy.
Cũng như hình ảnh mái nhà rông, rượu cần, cồng chiêng, sương mù, bụi đỏ, gió khô, gió xoáy, hàng thông xanh… trở đi trở lại khiến người đọc có thể thấu hiểu một nỗi nhớ da diết, luôn canh cánh, khắc khoải trong lòng, một nỗi nhớ không nguôi, một nỗi nhớ bàng bạc về Pleiku trải dài theo suốt cuộc đời tác giả. Cũng vì lẽ đó, thơ của nhà thơ Lê Nhược Thủy khác hẳn với thơ của một số tác giả đã sống và viết ở Pleiku như Vũ Hữu Định, Kim Tuấn. Với họ, Pleiku chỉ là điểm dừng để từ đây họ viết về các vấn đề, trạng thái tinh thần khác. Hình ảnh Pleiku chỉ thấp thoáng ẩn hiện trong một vài bài thơ. Còn với Lê Nhược Thủy, Pleiku là hồn cốt, là chốn nương thân, là cõi đi về mà ông đã dâng hiến tất cả niềm say mê, nhiệt huyết, hoài bão tuổi thanh xuân. Hình ảnh, hình tượng thơ ca của ông chính là Pleiku, về Pleiku và chỉ có Pleiku mà thôi.
Nhiều độc giả, nhiều thế hệ học trò ở Pleiku giai đoạn 1970 – 1980, đều biết tiếng thầy giáo Lê Hữu Huế (tức nhà thơ Lê Nhược Thủy) dạy văn giỏi, làm thơ hay. Thật sự, ông đã giành được sự yêu mến của công chúng và những người yêu thơ cho đến tận hôm nay. Tiếng thơ Lê Nhược Thủy đã ngân vang trong đời sống văn học Gia Lai suốt khoảng thời gian trước và sau ngày Thống nhất đất nước (1975). Khi nhắc đến Văn học Gia Lai giai đoạn này, không thể không nhắc đến tên tuổi nhà thơ Lê Nhược Thủy.
Nhờ có Lê Nhược Thủy, vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện của đất và người Pleiku đã đi vào văn chương với bao sắc thái, dáng vóc riêng. Nhờ có Pleiku, thơ Lê Nhược Thủy được chắp cánh bay cao, ngân xa. Pleiku là cõi mộng của nhà thơ Lê Nhược Thủy để bất cứ lúc nào thơ cũng có thể quay về, thỏa sức tưởng tượng, tung cánh. Có những vùng đất, con người là cái duyên của nhau từ xửa từ xưa, chẳng biết từ kiếp nào. Nhà thơ Lê Nhược Thủy – Pleiku và Pleiku – Lê Nhược Thủy đúng là cái duyên như vậy.
27/11/2024
Thu Loan
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xuân trên những nụ non

Xuân trên những nụ non Đông dần vơi để lại bâng khuâng trên những tờ lịch cuối. Xuân non xèo vừa tượng hình nhu nhú trên những chồi non, v...