Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

Đọc thơ 1-2-3 Nguyễn Tiến Nên

Đọc thơ 1-2-3 Nguyễn Tiến Nên

Những năm gần đây, Nguyễn Tiến Nên viết rất nhiều, bút ký, truyện ký và thơ, đặc biệt người đọc biết đến anh là ở mảng thơ, mảnh đất mà anh có những thành tựu nhất định trong suốt quá trình sáng tác. Tập thơ Tái sinh (NXB Hội Nhà văn, 2020) của anh được Giải B Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lưu Trọng Lư 2020. Lần này Vụn và Lành là một tập thơ theo thể loại 1-2-3 với đúng 100 bài. Cứ tưởng đây là một thử nghiệm mới theo dòng thơ này nhưng đọc hết toàn tập thơ mới nhận ra loại thơ 1-2-3 chính là vườn ươm tốt tươi sản sinh ra hoa trái xinh tươi, là dòng thơ phù hợp với tâm hồn thơ của Nguyễn Tiến Nên với những dồn nén cảm xúc ứ đọng có điều kiện để bung vỡ đầy hương sắc.
Tập thơ Vụn và Lành được kết cấu theo 3 chủ đề: Nhấm rượu cùng thế thái, Những tình khúc của loài chim biển, Với những hơi thở mọc rễ. Tác giả Vụn và Lành đã nắm bắt được những quy ước của loại thơ 1-2-3 gồm số lượng câu (6 câu nhưng lượng chữ thì dài hơn đến 12, 13 chữ, đề bài cũng là một câu thơ tập trung vào một chủ đề chính của cả bài. Đó là một loại thơ ngắn, ngôn từ câu chữ giới hạn, chặt chẽ nhưng lượng thông tin thì trải rộng thẳm sâu. Bài Sau mỗi chuyến đi ta lợp lại mái nhà/ Lợp lại những ẩm mốc rêu rong/ Những sần sùi năm tháng/ Lợp tâm hồn bằng lời ru con sóng/ Lợp nỗi lòng bằng một thoáng hư vô/ Lợp ngày mai bằng những áng thơ… Thực ra đây là một cái cớ trong hình thức diễn ngôn mang hàm ý đằng sau những chuyến đi xa là những năng lượng khi trở về để lợp lại tâm hồn đã “ẩm mốc rêu phong”, cần nguồn lực sáng tạo để làm mới lại cảm xúc. Bài thơ câu chữ ngắn gọn có tính khẳng định chung thẩm cho đường bay nghệ thuật của thơ.
Bài thơ Tôi đi giữa tôi và tôi và tôi… Nhìn đâu cũng thấy tôi và tôi và tôi/ Những chuyển động hướng tâm li tâm bát nháo/ Những xé giằng suýt biến tôi thành con quay vô định/ Hình như trong quỹ đạo không là quỹ đạo ấy/ Tiếng chim gọi câu thơ mọc cánh và tôi tìm được chính mình. Đây là bài thơ hay, tôi cho là tiêu biểu trong chùm thơ có chủ đề Nhấm rượu cùng thế thái, được viết bằng ngôn ngữ mang tính ẩn dụ và liên tưởng tạo nên những ám ảnh giằng xé của tác giả bởi một thực tế xã hội đầy “bát nháo” ngỡ có khi đã đẩy nhà thơ trở thành “con quay vô định” trong “quỹ đạo” đầy tối tăm bùi nhùi ấy. Và giữa một tâm thế ngập tràn bóng tối của đời sống phức tạp thị phi, thơ đã nở bừng ánh sáng giúp nhà thơ thức ngộ để trở lại chính mình.
Vâng, đối diện với hiện thực, người thơ luôn muốn thể hiện một thái độ sống, một chọn lựa dứt khoát theo hướng “để cuộc đời luôn cao đẹp”: Sẽ là nơi của mọi tấm giấy thông hành/ Nơi đặt trái đất trước sự cân lường/ Không ai cùng lúc rẽ về mọi hướng/ Sau phút giao loan con nước có thể ngược dòng/ Người tài xế chỉ đưa vô-lăng về một lối/ Giữa ngã rẽ cuộc đời ai cũng có quyền lựa chọn một hướng đi… Thơ 1-2-3 kiệm lời, đề bài cũng là một câu thơ, mở ra và khép lại trong câu thứ 6. Vỏn vẹn chừng ấy câu cho nên phải tận dụng câu chữ mới triển khai trọn vẹn tứ thơ. Ở bài thơ trên, bằng nghệ thuật đối lập trong hai câu thơ kết thúc làm cho người đọc bất ngờ bởi hình ảnh thơ thêm đậm nét, mạnh mẽ và mở ra một sự liên tưởng thú vị.
Qua thơ, Nguyễn Tiến Nên luôn nặng nợ với quê nhà, tuổi thơ nơi miền quê dân dã với đồng ruộng, bọc cơm, bát canh rêu, chiếc mê nón, cánh phượng, cau dày, trầu xanh,… là những chất liệu cho những thi ảnh, cứ day trở trong anh niềm ray rứt tiếc nuối của một tấm lòng chân thật, thấm đẫm hồn quê. Trong tình yêu đôi lứa cũng vậy, Nguyễn Tiến Nên luôn hướng đến sự tròn đầy của yêu thương nồng ấm ngát hương để đưa nhau đến “bến xuân lành”, là sự cứu rỗi sau những vết thương lầm lạc của con người. Đó còn là một phản ứng trước sự nhiễu nhương của nhân tình thế thái: Em xở xoay như cây cà rem di động/ Giữa chiều đông nhợt nhạt hững hờ/ Và cuộc sống xô bồ mở khép/ Chỉ tình yêu chẳng thể nào hao khuyết/ Nụ cười em xóa khoảng cách không gian/ Cùng nhau mút mùa nhung nhớ – Ta vui đậu bến xuân lành…
 Đã rõ ràng, trong thơ Nguyễn Tiến Nên luôn hiển lộ một quan điểm thống nhất giữa mọi mối quan hệ vào một điểm chung trong suy nghiệm đời người, thơ luôn mang theo một dòng chảy ngôn ngữ thẩm mỹ nhằm tôn vinh cái đẹp vĩnh hằng và trân quý.
Nguyễn Tiến Nên sinh ra và lớn lên ven bờ biển Quảng Bình và miền Trung đầy nắng gió. Sống và yêu bên biển, thơ là những giai điệu tôn vinh tình yêu đôi lứa dạt dào, khi trào dâng như sóng bão, khi dịu êm những ngày êm ả. Một lần anh viết: Tôi bay tới thiên đường giữa biển khơi/ Để không nuối tiếc nguyên sơ bờ bãi/ Và khi xa không ngái An Bình/ Ai choàng cho em veston xanh và voan trắng/ Mang nham thạch mỡ màu/ San hô phát sóng, vũ điệu cá giữa ba sắc nước đáng yêu…
Trong Những tình khúc loài chim biển đã thấy có những biến đổi trong bút pháp nơi anh. Những hình ảnh người nữ trong thơ được biểu đạt bằng ngôn từ bổi hổi nóng bỏng khát tình, đôi khi chứa đầy tính phồn thực ân ái: Bờ vai em rạo rực phồn sinh, “tòa thiên nhiên”, “triệu năm qua nham thạch kết băng rồi”, “gió ve vuốt ngực em”, “em nã nồng”… Biển cũng là một đối trọng trữ tình trong thơ, là hình ảnh của tổ quốc tình yêu biển đảo. Anh viết về nhiều hòn đảo mà anh từng khát khao đến được, bởi chính giữa mênh mông biển trời nơi đảo xa, tổ quốc sẽ hiện lên bằng da bằng thịt trong tình yêu đất nước mãnh liệt đến vô cùng. Cũng trong tâm thức trở về nguồn, nhận diện lại hình hài tổ quốc, đảo Lý Sơn với những dòng sử ký ghi lại những hi sinh của các hải đội Hoàng Sa luôn là những cảm xúc đến nặng lòng.
Hay như khi anh ra cùng Côn Đảo: Từ khóa nào đây cho cuộc về nguồn/ Sử sách hàng trăm năm rỉ máu/ Địa ngục trần gian bảng lảng khói hương/ Tôi đặt gót sẽ sàng trên cát mềm An Hải/ Biển vẫn trong xanh vô tư hứng nắng vàng/ Sao lòng tôi trĩu nặng? Ông cha ta từng vượt khám bơi ngang… Những tình khúc loài chim biển là sự giao hòa của bản hòa âm giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu tổ quốc tha thiết sâu lắng…
Với những hơi thở mọc rễ là những tình cảm thiêng liêng với vùng đất nhau rốn Quảng Bình Quảng Trị và những nơi chốn trên mọi miền đất nước mà anh đi qua. Anh viết về Vũng Chùa nơi mộ phần của Đại tướng Võ Nguyên Giáp bằng một bài thơ 1-2-3 cô đọng mà hàm ý sâu sắc ngưỡng vọng về người anh hùng của dân tộc.
Hình ảnh được hội tụ trong một đề bài hết sức đầy đủ ý nghĩa của con người vĩ đại ấy để lại cho mọi người: Tụ nhân tụ khí tụ linh tụ sơn tụ thủy/ Nơi hội tụ triệu tâm hồn ngưỡng kính/ Và những bàn chân không phải bàn chân/ Xót nhúm rau bám sâu lòng đất mẹ/ Thương tấm thân kết muôn vì tinh tú/ Thắp lên ngọn hải đăng. Tín hiệu tình yêu. Đúng là nơi tụ hội của lòng dân, lòng người, khí chất linh thiêng của núi và nước. Cuộc lãng du qua nhiều nơi trên đất nước: Sông Sài Gòn, xứ Nẫu Tuy Hòa, đất cảng Hải Phòng, Đà Lạt, Đà Nẵng, Đồng Mô, Hà Tĩnh… đều mang đến cho Nguyễn Tiến Nên cảm xúc để sáng tác.
Những bài thơ 1-2-3 trong chủ đề này như nén lại, nhưng câu chữ như muốn bung vỡ bởi những phát hiện mới riêng có của tác giả, phác thảo nên những diện mạo không gian nơi chốn bằng những góc nhìn sắc nét: Sớm mai này anh đến với Đồng Mô/ Gió ngân nga năm mươi tư làn điệu/ Dàn hợp xướng năm mươi tư sắc áo/ Những gương mặt anh em lâu bữa trở về/ Mèn mén rượu cần ngô bung xôi nếp/ Những sát na sinh tồn rau rốn dấu yêu. Bài thơ đã miêu tả được không khí quang cảnh lễ hội văn hóa của 54 dân tộc Việt, phong phú màu sắc lộng lẫy như một bản hợp xướng nhiều cung bậc, những gặp gỡ lâu ngày xúc động “men mén” nồng say tình nghĩa. Câu kết lại chạm tới một điều trọng đại là ý nghĩa của “sinh tồn, rau rốn” đã nâng tứ thơ thêm một thang bậc nữa của giá trị văn chương…
Với đúng 100 bài theo thể loại 1-2-3, dễ nhận ra Nguyễn Tiến Nên là người đến với dòng thơ này để lại nhiều ấn tượng, góp phần tạo cho sân chơi của sáng tác thơ 1-2-3 sự hấp dẫn đáng kể trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca của một trào lưu xu hướng mới. Thơ 1-2-3 vẫn đòi hỏi sự cách tân, tìm kiếm cái mới cho thơ, từ ngôn ngữ, cấu tứ, giọng điệu và hình ảnh được diễn ngôn khơi gợi những cảm thụ thẩm mỹ ở người đọc chứ không phải để đánh đố người đọc. Nguyễn Tiến Nên với Vụn và Lành đã xác lập được chỗ đứng trong vườn thơ 1-2-3.
16/11/2024
Hồ Sĩ Bình
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...