Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Những cơn bão đi qua

Những cơn bão đi qua

CHƯƠNG I
Những ngày cuối năm, bà Vĩnh lần lượt làm các món mứt để chuẩn bị cho ba ngày tết. Năm nào cũng vậy, khi mọi thứ mứt đã làm xong xuôi, bà gói mỗi thứ một ít để riêng cho người gia sư mang về quê, những người dạy kèm cho các con của bà đã thành một nếp quen trong gia đình này từ khi đứa con gái đầu lòng mới học lớp nhì (lớp bốn) cho đến bây giờ lớp đệ tứ (lớp 9). Gần mười sáu năm nay bà Vĩnh chỉ ở nhà chăm sóc bầy con sáu đứa, còn phải nuôi thêm người giúp việc để lo đi chợ nấu ăn, gánh nước, giặt giũ, giữ em…Một mình ông Vĩnh làm ra tiền cũng đủ lo cho cả gia đình, trong nhà chi tiêu thỏa mái.
Tuy suốt năm quanh quẩn trong nhà nhưng không rõ ai chỉ vẻ mà bà Vĩnh biết mời gia sư đến dạy kèm cho mấy đứa con lúc còn tiểu học. Những người dạy kèm thường ở các vùng phụ cận, cách thành phố Huế khoảng vài chục cây số, là học sinh trường Quốc Học. Muốn lên thành phố học thì phải thuê nhà hoặc tìm chỗ dạy kèm, trình độ người dạy kèm cũng phải đệ nhị cấp trở lên.
Gia đình ông Vĩnh ở trong Thành Nội, gốc người Quảng Đông bên Tàu, sang Việt Nam từ đời cố đời sơ (là tàn binh của Hồng Tú Toàn thất bại sau trận phản Thanh phục Minh). Người Tàu sang Việt Nam thời đó phần nhiều làm nghề thương mại buôn bán nên khá giàu có, gia đình ông Vĩnh cũng vậy. Riêng ông có mấy chiếc xe hơi, xe chở hành khách và học sinh trong thành phố, xe chở hàng hóa vật dụng… một chiếc xe nhỏ bốn chỗ để đi chơi trong thành phố mỗi khi rãnh rỗi. Ông vừa giàu vừa đẹp trai lại chăm ăn chăm làm, hầu như không có bạn bè, không la cà quán xá, tuy lọt vào mắt xanh của nhiều cô gái ở phố Đông Ba, nhưng ông cứ lơ lơ tỉnh tỉnh, không nói năng chi để biểu lộ ý tình. Mà dù có quen ai thì ông cũng không tán tĩnh miệng mồm như những thanh niên khác vì bản tính của ông rất ít nói. Năm khi mười họa mới nghe ông nói một đôi câu, kèm theo tiếng cười nhẹ đầy ý nghĩa rồi thôi, chẳng mất lòng ai.
 

 
Cô Loan là tên bà Vĩnh hồi con gái, con quan Thượng thư, ở trong phủ sát cung An Định (phường An Cựu) thường gọi là phủ ngoại từ vì quan Thượng là em ruột của Bà Đức Tiên Cung vợ vua Đồng Khánh. Bà con bên vợ vua còn gọi là Thích lý.
Cô Loan có người em trai con bà dì làm việc bên Đông Ba, biết gia thế ông Vĩnh giàu có, mới làm mai cho cô Loan. Cô Loan có nét duyên dáng quý phái, nhiều thanh niên gần nhà muốn làm quen, trong đám đó có người thư sinh tên Qúy, nghe nói đó là học trò trong Quảng ra thi.Trong giai đoạn giao thời từ thời Pháp thuộc, tam tòng tứ đức đã bớt khe khắt, trai gái giao du có phần cởi mở. Cụ Thượng biết cô Loan có bạn trai, mỗi khi đi đâu về, cụ thường hỏi :“Sửu mô – con Sửu mô rồi ?”. Cô Loan sinh vào năm sửu.
Không biết cô Loan quen biết với Quý khi nào, thỉnh thoảng thấy anh thư sinh thấp thoáng trước cửa phủ, trao đổi trò chuyện đôi câu rồi đi, không dám vào, chỉ đôi lần hò hẹn trên bến sông An Cựu ngay trước mặt nhà dưới ánh trăng thanh.Từ khi ông Vĩnh qua chơi nhà Cô Loan thì không còn thấy chàng thư sinh đó nữa.
Cô Loan không đến trường học, chỉ học ở nhà do các thầy đồ đến phủ dạy cho con nhà quan. Cô học được truyện Kiều, Lục Vân Tiên...do đó càng hun đúc thêm bản tính đa cảm của cô.
Được giới thiệu, ông Vĩnh qua nhà cô Loan làm quen, chào mẹ cô rồi nhìn cô với cái mỉm cười xã giao, xong nói chuyện gì đó với mẹ cô, sau đó ngồi chơi với mấy em. Thấy không hỏi han chi mình, cô Loan tránh ra sau cho đến khi ông chào về. Những lần sau cũng vậy, năm ba câu với mẹ cô rồi ngồi như phổng, không cử chỉ âu yếm, không ánh mắt trao thương, cô Loan thấy nãn nhủ thầm “Người chi mà mặt mày khinh khỉnh, ỷ giàu”. Vì vậy, nhiều khi cô để ông ngồi với mẹ và các em, tránh sang nhà bà dì hoặc ông cậu cùng ở chung trong phủ, cảm tưởng như mình là người ngoại cuộc. Ông cũng không nói năng chi, lần sau vẫn đến bằng chiếc xe đạp Dura bóng loáng, nhẹ chỉ xách bằng một ngón tay, đến trước cửa nhà mà không ai nghe thấy.
Cụ Thượng thường ngày ở trên tiền sảnh, các bà vợ ở những gian nhà ngang phía dưới. Cụ chỉ nghe nói đến ông Vĩnh chứ chưa thấy mặt, nhưng cũng sinh lòng quý mến. Thỉnh thoảng ông Vĩnh tặng cụ những món hàng đặc biệt mua được trong những chuyến xe vô Sài Gòn hoặc ra Hà Nội. Và để lấy lòng cô Loan, ông tặng những xấp lụa trắng, lụa hoa đắt tiền, khiến cô ngỡ ngàng, bắt đầu cảm động.
Lúc nầy Loan hết mộng mơ tơ tưởng đến ai, trong đầu chỉ còn biết có ông Vĩnh. Mẹ cô biết rõ tính ý con gái, trước những biến cố chiến sự trong nước đang xảy ra giữa năm 1945, bà muốn con yên bề gia thất khi đã có ông Vĩnh cơ ngơi căn bản, không phải cực nhọc lo toan.
Và mọi việc như có sự sắp đặt của số phận chỉ trong một đêm, lúc ông Vĩnh đang ngồi chơi bên nhà cô Loan thì bỗng có tiếng súng liên thanh nổ vang, rồi tiếp theo là tiếng đạn pháo, nghe đâu phía bên kia thành phố, rồi thấy ngoài đường lao nhao người chạy. Mấy mẹ con cô Loan sắp xếp để chạy theo, hoang mang chưa biết chạy đi đâu thì thấy mọi người chạy về phía cống Phát Lát, ông Vĩnh cũng đi theo vì đang có giao tranh thì cầu Trường Tiền không thể qua được. Nghe ngóng suốt đêm không thấy trận chiến lan rộng, súng đạn nổ một hồi rồi thôi, sáng ra tình hình yên tĩnh nhưng chưa ai dám về nhà. Mẹ con cô Loan ở lại mấy ngày chờ tình hình thật yên mới về, sau mới biết là tiếng súng của Nhật đảo chánh Pháp. Gia đình ông Vĩnh chờ trông mấy ngày không thấy, tưởng đã chết hoặc mất tích.
Thời gian sau, ông Vĩnh đưa cô Loan về ra mắt gia đình, đến khi chính thức thành vợ chồng, mẹ ông Vĩnh mua một căn nhà ngoài Đông Ba cho hai người ở riêng.
Vài tháng sau thì Cách mạng tháng 8 thành công, vua Bảo Đại thoái vị, quan lại triều đình tan rã. Đa số quan lại thời đó có năm thê bảy thiếp, sống đầy đủ an nhàn nhờ lộc vua, nhưng khi vương triều sụp đổ thì đời sống trở nên chật vật khó khăn. Ngay cụ Thượng thơ cũng không thấy có của ăn của để mặc dù bà chị là Đức Tiên Cung. Bản tính cụ thanh liêm thật thà, không cất đặt riêng tư nên không chia sớt được gì cho bốn bà vợ với mấy chục người con.
Một số gia đình nhà quan có quen biết hoặc bà con với quân tự vệ, phải sai đầy tớ giả làm người gánh nước thuê cho các trại bộ đội dân quân, để rồi gánh ra vài thùng cơm thừa cơm cháy và thức ăn vụn vặt. Những Cậu Ấm, các cô Tôn Nữ Công Tằng chỉ còn cao sang quyền quý trên danh nghĩa, rồi thì lưu lạc tứ phương.
Trước khi Bà Đức Tiên Cung băng hà, cụ Thượng được cấp cho mấy chục mẫu đất ở Thủy Xuân, cụ chia cho bà nào muốn làm nhà dựng vườn trên đó.
Hiện nay con cháu có người còn sinh sống tại đó, trông giữ lăng tẩm các vua Tự Đức, Đồng Khánh… có người bán đất mua nhà ở phố buôn bán sinh nhai, một số hiện đang sống ở Mỹ, ở Úc …
CUNG NỘI
Không còn Thượng uyển chốn cung loan
Nét son phai dấu tích điện vàng
Long bào - Ấn Chúa còn đâu nữa
Lạnh lẽo lầu hoa giấc phượng hoàng
Ngai vàng lạc lõng giữa Thần kinh
Không vua nên vắng nhạc cung đình
Cung – Tần thầm trách đàn ai oán
Hoàng hậu xa cung nhớ nguyệt đình
Từ buổi xác xao mùa lá ngọc
Cành vàng thất lạc dấu thềm son
Bầy chim soãi cánh ngang Thành nội
Gọi dậy mùa đau giữa đáy hồn.
Của cải trong hoàng cung hầu như vô tận, không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu truyền mười mấy đời vua nhưng đều nằm trong ngân khố, niêm phong cẩn mật. Bắt đầu từ thời Pháp thuộc, khi chiếm Kinh thành Huế, quân Pháp đã cướp phá hàng tấn vàng bạc, hàng trăm kim cương hột xoàn và vô số vật dụng nạm bạc nạm vàng có giá trị bạc triệu (đối với giá trị thời đó), phải mất cả hai tháng trời mới chuyển hết xuống tàu đưa về nước.
Chưa kể khi vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở chuẩn bị cuộc kháng chiến cần vương, Tôn Thất Thuyết đã chuyển đi một nửa ngân khố, sau cũng bị Pháp chặn lấy gần hết trong cuộc truy đuổi. Mấy bà Thái hậu còn giữ được ít nhiều nhưng hầu như không chủ quyền sở hữu, không dám hoặc không biết san sớt cho anh em giòng họ. Đến khi Cách mạng nắm chính quyền, Bà ĐứcTừ Cung còn giao cho nhà nước hai két vàng, nói đó là tài sản của nhà nước. Bà Hoàng hậu Nam Phương cũng lấy hết vàng bạc trong thân đưa ra để ủng hộ Cách mạng.
Khi Đức Từ Cung sắp mất, bà lại mời chính quyền Huế giao hết số của cải còn lại. Đến khi Cựu Hoàng lưu vong cũng phải nhờ sự hổ trợ của chính quyền Pháp, không có được đời sống giàu sang phú quý. Cựu Hoàng hậu Nam Phương sống giàu có ở Pháp cũng nhờ của cải cha mẹ sớt chia.
Nhung là con gái đầu lòng của ông bà Vĩnh, năm nay vừa đến tuổi trăng tròn. Trong nhà đã qua vài người thầy dạy kèm, người sắp sữa xin thôi là cậu Trung. Vừa rồi Trung nói với bà Vĩnh tết này về quê nhưng sẽ không trở lại dạy kèm nữa, và sẽ giới thiệu một người khác. Bà Vĩnh không mấy bất ngờ trước việc này, người cũ ra đi sẽ giới thiệu người mới là bạn học của nhau, đã mấy lần như vậy rồi.Trung định bụng tối nay sẽ chào ông Vĩnh vào lúc dùng cơm.
Trong bữa ăn, bà Vĩnh nói với chồng :
- Cậu Trung nói về ăn tết rồi nghỉ luôn, không dạy nữa.
- Sao vậy ?- Ông Vĩnh hỏi Trung.
- Dạ chắc là em vào quân đội – Trung trả lời:
- Sao không học tiếp. Tình hình chiến tranh căng thẳng, vô lính cậu không sợ ?
- Dạ cũng đành vậy, tại em thi rớt sư phạm.
- Sao không chờ năm sau thi lại ?

- Dạ, không biết sang năm có đỗ không, rồi cũng phải đi, thà đi trước cho rồi, sống chết cũng có số - Trung đáp lại và cười nhẹ.
Bà Vĩnh nói thêm :
- Nói vậy chứ nhà mình mát tay lắm, cậu Huấn, cậu Sinh, cũng từ nhà này ra lính cả, giờ đã thành ông này ông nọ có sao đâu. Mới đó cậu Huấn đã lên thiếu tá.
- Đi lính mau thành quan – Ông Vĩnh cười phụ họa – Không xanh cỏ thì đỏ ngực.
Mọi người cười vui vẻ. Nhung và hai em Bảo, Bình đang ngồi ăn chung mâm, không hiểu gì nhiều cũng cười theo.
Những người dạy kèm này thường hay nghỉ học sau khi đỗ được một hai tấm bằng Tú tài, vì không đủ điều kiện để học thêm, hoặc thi trượt ngành nghề gì đó, họ phải vào quân đội mặc dù đất nước đang vào thời kỳ chiến tranh cao điểm.
Trung nhìn mấy học trò nhỏ của mình bằng đôi mắt thân yêu :
- Nhung với Bảo, Bình ăn tết xong ráng học chăm nghe. Ra tết sẽ có thầy mới, dạy giỏi lắm.
Người dạy kèm Trung sẽ giới thiệu đến đây là An. Từ khi An đỗ vào đệ thất (lớp 6) trường Quốc Học, An rời quê lên Huế ở nhờ nhà người bà con trên Nam Giao, mọi việc ăn ở sách bút đều do mẹ lo. Đến khi lên lớp đệ nhị (lớp 11), người bạn cùng lớp với An là Chương, giới thiệu An với Trung, vì biết Trung sắp nghỉ dạy kèm và sắp vào lính, từ nhà ông Vĩnh đến trường Quốc học dễ đi hơn là phải lên dốc Nam Giao.
Xong mấy ngày tết, mùng sáu đã thấy Trung dẫn An tới. Thoáng thấy, Bảo lẻn ra khỏi nhà, đi biệt cho tới giờ cơm mới về. Còn Nhung bắt đầu thấy không còn thoải mái tự do, nhưng nhớ lại mấy bài toán khó cô giáo ra làm trong mấy ngày nghỉ tết còn nằm chờ đó, ít khi Nhung tự giải được bài nên cũng nhận ra sự cần thiết của người kèm dạy.
Hồi chiều Nhung nghe mẹ dặn :
- Cậu An biểu tối nay Bảo và Bình học xong rồi con lên sau. Mẹ nghe cậu Trung nói cậu An rất thông minh học giỏi, hơn con hai lớp nhưng dạy dư sức. Con coi đó mà bắt chước học hành.
Nhung không quan tâm lắm về sự học giỏi như thế nào của cậu An. Việc cần nhất là giúp cô giải được những bài tập sinh ngữ và toán. Hai đứa em kế đang học cấp hai là Bảo và Bình, đứa lớp tám, đứa lớp sáu, cũng đang cần người giải bài ở trường ra trong mấy ngày nghỉ tết.
Ăn cơm tối xong, hai đứa em lên học trước, Nhung ngồi nghe nhạc dưới nhà. Hơn nửa giờ sau hai em đi xuống, có lẽ là buổi đầu tiên nên hai đứa học mau. Nhung ôm vở đi lên, sự thay đổi đột ngột trong căn phòng khiến Nhung chú ý, bàn ghế được sắp đặt khác vị trí cũ, đến ngồi vào bàn mình, Nhung thấy sách vở xếp thành ba chồng ngay ngắn. Cái huy hiệu Nhung làm rơi rớt đâu đó cũng được đặt trên chồng vở.
An đến bên bàn Nhung :
- Đưa … xem mấy cuốn vở học thêm với cậu Trung.
Nhung đưa chồng vở ba cuốn ra. An lật nhanh mấy cuốn, cuốn nào cũng dừng lại thật lâu ở trang cuối, sau cùng là vở tập Anh văn.
An giữ trang vở đang mở, kéo ghế ngồi đối diện với Nhung, hỏi :
- What are your name ?
- My name is Hồng Nhung.
An cười, buột miệng khen :
- Tên đẹp lắm - Xong hỏi tiếp – How old are you ?
Nhung cười ấp úng :
- Sixteen.
- What school ?
- Trường Đồng Khánh.
An nhắc nhở :
- Khi đối thoại có thể ngắn gọn, nhưng khi làm bài tập thì phải trả lời đủ câu. Tí nữa nhớ dán lên một cái thời khoá biểu. Bây giờ có bài gì khó đưa giải trước, ngày mai mới sắp xếp lại giờ học.
- Dạ có ba bài đại số, ba bài hình học.
- Đã giải được bài nào chưa ?
- Dạ chưa.
An hướng dẫn Nhung giải mấy bài đại số lên bảng, sau đó biểu Nhung chép vào vở. Nhung nhận thấy An có lối giảng nhẹ nhàng dễ hiểu. Cô vui vẻ ghi bài thoăn thoắt. An về ngồi vào bàn của mình, thỉnh thoảng nhắc chừng:
- Nhung xong chưa ?
- Dạ xong rồi.
An bước qua bàn của Nhung, nhìn lại bài ghi trong vở và nói :
- Mốt mới có giờ hình học, mai sẽ giải tiếp mấy bài còn lại.
Ghi bài xong xuôi nhưng lúc nào Nhung cũng có thói quen chờ cho phép mới đi xuống. An thì chưa dứt khoát, nhìn quanh căn phòng một lượt, khi chạm phải ánh mắt Nhung đang chờ mình thì anh hỏi :
- Nhung thấy xếp đặt lại căn phòng như vậy được không ?
- Dạ được.
Mắt An nhìn lên bức tường rộng :
- Tường để trống vậy, nếu có vài bức tranh treo thêm nữa thì vui hơn. À! Nhung thích hoa gì ?
- Hoa hồng .
- Hồng Nhung, hèn gì ! Thôi Nhung xuống đi, đừng làm gì nữa, ngủ cho sớm.
Sáng ra, Nhung thấy có sẵn mấy ổ bánh mì xíu trên bàn, cô nói với người giúp việc :
- Chị Rớt đem lên lầu cho cậu An một ổ.
Ăn sáng xong, An đi trước qua trường Quốc Học. Nhung đi sau. Lúc nào trường Quốc Học cũng vô lớp trước trường Đồng Khánh mười lăm phút.
Trưa học về, Nhung phụ với chị Rớt sắp chén đũa ra mâm. Bảo phụ xúc cơm từ nồi lớn ra cái vịm nhỏ.
Gần xong bữa ăn Nhung nói với mẹ :
- Mẹ cho con tiền đi xem phim, mấy đứa nói phim tết vui lắm.
- Lo mà học hành đi, hôm mùng hai đi rồi, giờ còn đòi đi nữa, hết tết rồi.
- Cho con đi lần này nữa thôi. Tối nay thứ bảy mà mẹ.
- Đi với ai ?
- Dạ đi với Lan bạn con.
Chiều đến lớp, Nhung và Lan hẹn nhau tối đi xem phim .
Cơm tối xong, Nhung thay áo quần. Thấy thế chị Rớt hỏi :
- Ủa tối nay sao Nhung không lên học mà đi chơi?
- Ai nói? Tối thứ bảy được nghỉ học mà.
- Sao nghe cậu An dặn thằng Bảo với Bình lên học ?
Nhung lưỡng lự một lúc :
- Mặc kệ, em cứ đi. Lúc trưa khi xin mẹ, có cậu An sao không nghe nói gì.
Chị Rớt xuống giọng :
-Vậy thì thôi, chắc hai đứa làm bài chưa xong nên bị học thêm.
Sáng ra Nhung hỏi Bảo :
- Hồi hôm thứ bảy sao phải lên học?
- Không có học, cậu kêu lên thưởng kẹo rồi xuống.
- Làm gì mà được thưởng kẹo?
- Làm sai toán, sai một bài được thưởng hai cái kẹo, em được tám cái.
- Vậy là sai bốn bài, còn Bình ?
- Cũng tám cái.
- Đứa nào cũng sai bốn bài ?
- Không phải, anh Bảo sai 3 bài chỉ được sáu cái, sau được cho thêm hai cái cho bằng em. Cậu nói nếu lần sau làm sai nhiều cậu sẽ không có tiền mua kẹo. Cậu An hiền quá chị Nhung à, làm bài sai mà được thưởng kẹo.
Nhung suy nghĩ về việc làm của An, mấy người kèm trước không ai làm chuyện này. Tự nhiên cả ba cùng thấy những buổi học tiếp theo không còn nặng nề, bởi trước kia đứa nào làm sai bài hay bị cái cóc lên đầu, hoặc bắt chép phạt không cho đi chơi.
Những ngày sau, trong phòng học có treo thêm một tấm hình tài tử điện ảnh. Nhung nghĩ, con người này mà cũng biết mê tài tử ciné. Tuần sau nữa lại thấy có khung hình nho nhỏ với cánh hoa hồng đỏ thắm, đặt trên bàn Nhung, cô cầm lên ngắm nghía với vẻ thích thú. Cô hiện có mấy tấm card hình phong cảnh và nhiều loại hoa đang ép trong vở học để thỉnh thoảng mở ra xem. Card hoa hồng thì Nhung có nhiều nhưng không biết lồng trong khung ảnh như thế này. Cô rất vui, nhưng An chính là người sung sướng hơn hết, bắt đầu cảm thấy sở hữu một không gian riêng tư, thể hiện được sở thích của mình.
Nhung đặt lại khung hình vào chỗ cũ, mắt nhìn nghiêng qua phía An đang giảng bài cho hai em. Từ trước đến nay, chưa bao giờ cô dám nhìn thẳng mấy thầy kèm, cũng vì mấy bài toán lúc nào cũng trật trầy khó gỡ, không bị gõ đầu nhưng mặc cảm. Những giờ học gần đây ở trường, Nhung tiến bộ rõ rệt, hay đưa tay phát biểu, bài làm được điểm cao. Đó là động lực khiến Nhung hứng thú học hành, mấy em cũng siêng năng, bớt ham chơi. Mấy chị em đứng vị thứ cao trong lớp, mẹ Nhung rất hài lòng. Tối tối thường để sẵn cho An ly chè hoặc vài cái bánh ngọt khi dạy xong.
Thời gian đều đặn trôi qua. Mới đó sắp hết năm học. Nhung đứng cao, có phần thưởng. An cũng mang phần thưởng của mình về, nhiều sách vở bút viết và hai cuốn tự điển Pháp - Anh dày cộp. Sau đó, An tập trung kèm bài vở cho Nhung chuẩn bị thi trung học, và anh cũng học ngày học đêm để chuẩn bị thi tú tài một. Kết quả hai người đều thi đỗ, vui vẻ cả nhà. Thời gian học hành thi cử xong đã mất đi gần nửa kỳ hè, An xin bà Vĩnh nghỉ một thời gian để về quê.
Chiều hôm sau, bà Vĩnh sai Rớt lên cửa Thượng Tứ mua mấy cái bánh ngọt về cho cả nhà ăn mừng. Không hẹn, gần tối ông Vĩnh về cũng mang theo một xâu nhãn lớn, mấy lon vải, có cả hồng khô. Thấy An và con gái thi đỗ, ông vui mừng lắm, nói với An :
- Năm nay mấy em học hành đỗ đạt cũng nhờ có cậu tận tình.
- Dạ mấy em ngoan lắm, biết vâng lời, lại chịu khó học.
- Cậu mà ráng được một vài năm nữa chắc mấy em sẽ đỗ đạt hết. Mấy người dạy trước như bắt cóc bỏ dĩa.
Bà Vĩnh nói thêm :
- Cậu về nghỉ ít lâu, rồi vô sớm bày bài vở cho mấy em sang năm học mới.
Bảo và Bình cấp hai hết rồi. Năm nay bé Thúy lên lớp năm, cả thằng Minh lên lớp ba nữa.
An dạ nhỏ, trìu mến nhìn mấy chị em Nhung.
Ông Vĩnh hỏi :
- Sáng mai cậu đi mấy giờ ?
- Dạ khoảng bảy tám giờ
- Mai xe đi Quảng Trị, đường về làng cậu cũng theo ngã đó, cậu dậy sớm đi theo xe luôn tiện.
Ngẩm nghĩ một lúc, An trả lời :
- Dạ em có hẹn về với người bạn cùng làng. Thôi, để mai em đi xe đò cũng được.
Bà Vĩnh nói thêm :
-Tiền xe đây về đó không bao nhiêu, để cậu đi với bạn cho vui.
Cơm tối xong, An xuống bếp chào hai người làm. Chị Rớt và Lài đang ăn cơm. An chào hai người:
- Mai tôi về nghe chị Rớt. Lài ở lại mạnh giỏi.
- Cậu An về thăm nhà lâu mau? - Chị Rớt hỏi.
- Khoảng mươi bữa nửa tháng.
- Năm nay cậu vô sớm cho vui, mấy đứa nhỏ thích cậu lắm.
- Chớ không phải chị trông anh An vô sớm để khỏi chẻ củi ? - Lài chọc quê chị Rớt.
Chị Rớt trợn mắt :
- Con này nói vậy mà nghe được.
Lài vẫn cười:
- Chủ nhật nào cậu cũng chẻ cho cả đống củi chụm suốt cả tuần, còn giả bộ. Ăn cơm xong lo nấu nồi chè cho rồi.
- Hồi chiều mợ có dặn ngâm đậu rồi, không cần nhắc đâu – chị Rớt nguýt Lài con mắt có đuôi.
Sáng ra, bà Vĩnh biểu Lài đưa tiền xe cho An. Anh lên lầu nhìn quanh một lượt, có cảm tưởng như đây là căn phòng riêng của mình, nó thân thuộc quá, anh chưa muốn rời xa nhưng đâu còn lý do gì để ở lại. Anh phải về thăm mẹ, cứ đến những ngày sắp nghỉ hè là mẹ anh vào trông ra ngóng. Anh phải về sớm để báo tin thi đỗ cho mẹ mừng. Mẹ anh chỉ có hai người con, An và người chị gái. Ba An mất sớm, sau một cơn bạo bệnh lúc An sáu tuổi.
Sau mấy tháng ở nhà này, An thấy rất dễ chịu, từ tình cảm thân thương cho đến cách chăm sóc tận tình của bà Vĩnh khiến anh cảm tưởng thỏa mái như người cùng một gia đình. Thêm nữa là bản tính hiền hòa của An cũng gây được sự quý mến của cả nhà.
Lần này về quê, hình như trong lòng An có vương vấn thêm một điều gì không rõ. Một đôi mắt to ngơ ngác của ai đó. Một tình cảm mơ hồ chưa có tên khiến lòng anh bất chợt lâng lâng như ngọn gió mùa hè nhẹ thổi trong vườn trái quê nhà. Nơi ấy đang có đôi mắt mong chờ của mẹ.
CHƯƠNG II
Đỗ xong trung học, Nhung thấy người nhẹ nhỏm, cô cùng các bạn sắp đặt chương trình thư giãn trong những ngày hè. Ngoài thời gian học hè ở trường tư, cứ mỗi chủ nhật là hẹn nhau đến nhà một đứa. Nhiều bạn gái có vườn cây ăn trái ở Nguyệt Biều, Hương Thủy, xa bao nhiêu cũng đạp xe tới nơi. Nhà những bạn ở trên phố không có cây trái thì phải nấu chè hoặc cùng nhau tập làm bánh tai vạc, bánh rơm, thỉnh thoảng rũ nhau đi xem phim. Hè năm nay Nhung và các bạn chơi đùa đằm thắm hơn, không leo cây hái trái đùa giỡn như trước. Có lẽ sợ sướt tay trầy chân trên da thịt con gái mới dậy thì, không dám cười lớn tiếng mỗi lần nhớ đến câu mẹ thường nhắc nhở: “Con gái chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên”. Mà con gái mới lớn có gì xấu hơn làm người vô duyên, khi đã biết bắt chước các chị lớp lớn cách đi dáng đứng, bắt chước gội chanh chùm kết để dưỡng mái tóc thề.
Vui chưa được bao lâu, đã thấy An trở lại. Anh xách theo một giỏ đầy ổi, cam, xoài. Mẹ Nhung để phần cho ông Vĩnh, một ít để cho Nhung, còn bao nhiêu đem chia cho bọn nhỏ. Đến mười một giờ trưa Nhung mới đạp xe về, ngạc nhiên khi thấy An ngồi ở ghế salon, mắt nhìn ra cửa.
An hỏi :
- Học hè sao về trễ dữ vậy Nhung?
- Mấy đứa bạn rũ đi ăn chè - Nhung vừa nói vừa cười.
Chỉ mới một thời gian ngắn, An đã thấy Nhung ra dáng cô gái xinh xắn. Nhung cũng thấy An có phần đổi khác. Thoáng ngạc nhiên qua đi, Nhung vào nhà thay áo rồi hỏi mẹ phần quà của mình. Cô lấy cam, ổi, mỗi thứ một trái, để dành cho bạn Lan ở gần nhà.
Chiều khoảng ba giờ Nhung ngủ dậy, nghe Bảo nói :
- Cậu An biểu chị ngủ dậy lên cậu hỏi chi.
- Sao bắt học sớm vậy ? Nhung hơi nhăn nhó.
- Chắc không phải học đâu, chỉ hỏi việc chi đó thôi.
- Sao em biết?
- Em đoán vậy thôi .
- Làm thầy bói giỏi ghê đi – Nhung đùa.
Nhung ra sau rửa mặt, chải tóc, xong lên lầu. An đang ngồi nhìn ra cửa sổ, trên tay cầm một cuốn truyện gì đó. Nhung định qua phía bàn mình ngồi nhưng An gọi lại. “Nhung qua bên này“. Cô đến đứng trước bàn An. Anh đưa ra một cành cam hai trái còn mấy ngọn lá xanh tươi, cười nhìn Nhung:
- Để dành cành cam này cho Nhung đây - Chờ Nhung nhận cành cam, An hỏi thêm - Hè đi chơi vui không ?
- Vui – Nhung mỉm cười.
- Vui gì… kể nghe với .
- Đi học hè, tới nhà mấy đứa bạn chơi... đi ăn chè.
- Còn gì nữa ?
- Xem phim.
- Gì nữa ?
- Hết.
- Học hè đến khi nào mới nghỉ ?
- Còn hai tuần nữa.
- Có bài vở gì nhiều không?
- Bài không nhiều mấy. Thầy giảng làm được hết. Lâu lâu mới có vài bài tập khó nhưng thầy cũng giảng luôn.
- Nghỉ học gần tháng nay rồi, bữa nay học lại được chưa ?
-Khoan đã, để từ từ -Nhung đáp vội.
Biết tâm lý của Nhung vẫn còn biếng học như Bảo và Bình, An đề nghị:
- Tuy có đi học hè nhưng không bằng học ở nhà, cố gắng ôn những cái căn bản kẻo vô năm không theo kịp.
Nhung không trả lời, biết cô rầu rầu, An tiếp :
- Thôi cũng được, nhưng mà không học mẹ sẽ la. Buổi tối không học, chỉ học buổi chiều, hai ngày một buổi được không ?
Thấy An sắp xếp thời gian có vẻ hợp lý, Nhung đáp nhanh:
- Cũng được.
- Thôi Nhung xuống.
Nhập học được mấy tuần thì đến Trung thu. Chiều mười bốn, ông Vĩnh sai người lơ xe mang từ trên xe xuống mấy hộp bánh trung thu của Mỹ. Vì ông có chở vật dụng gì đó cho quân đội Mỹ, nên những dịp tết hoặc Trung thu, thường đem về nhiều kẹo bánh, nho, lê… có khi cả tủ lạnh, máy ảnh, đồng hồ…
Khi cắt bánh sắp lên dĩa cho ba mẹ, Nhung cất dành cho An nửa cái, mặc dù ông Vĩnh vẫn mời An ngồi chung ăn bánh với ông.
Chưa tối, đã nghe tiếng trống tiếng kẻng múa lân từ phía đầu cầu, ông Vĩnh lên lầu treo giải chờ lân đến múa. Nhung và mấy đứa em ra đứng ngoài lan can, mắt không rời ông Địa. Ông lân uốn lượn rất điệu nghệ, quầng trước sân một đỗi rồi đầu lân cao dần, đứng trên vai hai người kênh nhau mới lấy được gói tiền nho nhỏ. Ông Địa cười mãi cười hoài, phẩy quạt liên hồi khiến mấy đứa nhỏ cười thích thú, cho đến khi đầu lân vái chào và tiếp tục sang nhà bên cạnh. Bảo và Bình chạy xuống lúc nào không hay. Nhìn đám đông kéo theo đoàn múa lân, An hiểu khó mà bắt hai đệ tử nhỏ của mình phải học tối nay.
Sáng hôm sau Nhung biểu Bảo đem lên cho An nửa cái bánh trung thu. An ngạc nhiên không ngờ Nhung quan tâm mình đến vậy. Anh cảm thấy lâng lâng, nhận thấy Nhung có ý có tứ. An kéo hộc bàn cất bánh vào.
Trời sang thu, sau mấy cơn giông, nắng ráo được vài hôm, chiều nay trời bỗng mưa tầm tã. An về trước gần nửa tiếng nhưng chưa thấy Nhung về, anh vội xuống bếp hỏi chị Rớt thử Nhung có đem theo áo mưa không. Chị Rớt vào chỗ móc áo mưa, thấy áo mưa còn treo, An vội xếp gọn lại rồi đạp xe ngược về trường Đồng Khánh. Vừa đạp vừa trông chừng bên kia đường xem thử có Nhung. Trời bắt đầu nhá nhem, đến giữa cầu Trường Tiền, anh thấy có bốn năm nữ sinh không mặc áo mưa nghiêng nón đạp nhanh, trong đó có Nhung, anh gọi Nhung dừng lại.
Vừa đưa áo mưa, An vừa hỏi :
- Sao không mang theo áo mưa? Trời ơi, lạnh tím…
- Lúc trưa đi gấp, quên mất.
An giúp Nhung mặc áo cho nhanh.
- Thôi đạp mau về kẻo bị cảm –An giục.
Gío thổi mạnh, từng đợt mưa tạt vào người, Nhung cắn chặt môi để khỏi run. Hai người đạp nhanh. Gió càng thốc mạnh, hai người đạp nhanh qua khỏi cầu. Về đến nhà, An tường thuật lại với bà Vĩnh, bà gọi Lài lấy khăn khô cho Nhung lau và dặn lần sau phải mang theo áo mưa đi học trong mùa này. Chị Rớt gọi Nhung xuống, biểu ngồi bên bếp lửa hơ hai tay cho mau ấm.
Sau bữa ăn tối, An nói Nhung có mệt thì ở dưới nhà học bài thôi. Nhưng nửa giờ sau Nhung vẫn lên vì mai có bài tập Anh văn chưa làm.
Chép bài vào vở xong, Nhung ôm cặp đi xuống với một nụ cười, như muốn cám ơn lúc chiều. An cười nhìn theo, nhắc chừng :
- Xuống nhớ mặc áo len ngủ, khi chiều bị mưa.
Sáng mai không thấy Nhung ra rửa mặt, An hỏi Lài sao cô chưa dậy. Lài nói hồi hôm Nhung bị sốt. An biểu Lài vào hỏi Nhung có đi học được không. Nhung nói không.
- Có xin phép không ?- An hỏi.
Nhung uể oải trả lời :
- Qua nhà Tuyết Lan nói xin phép cô giùm.
An ăn sáng vội vàng rồi qua nhà Lan dặn xin phép cô cho Nhung nghỉ bệnh, xong đi học luôn.
Buổi sáng, các giờ học ì ạch như chiếc tàu lửa lên dốc. An không hăng hái phát biểu như mọi khi, tan học đạp xe một mạch về nhà. Mẹ Nhung cho biết buổi sáng Nhung có uống viên thuốc sẵn trong tủ, nhưng đến bây giờ chưa thấy bớt, lại kêu nhức đầu và ho. Bà Vĩnh nhờ An đi mua thêm thuốc.
Đưa thuốc cho Nhung, An dặn :
- Nhớ ăn no mới uống thêm thuốc, biểu Lài khuấy thêm nước chanh. Tối nay chỉ có hai anh em Bảo và Bình lên học. Bàn bên kia vắng Nhung, An thấy một khoảng trống mênh mông. Đến trưa mai thấy Nhung ăn cơm được, anh mừng trong bụng, đưa cho cô mấy viên ô mai và hộp kẹo Kim.
Chị Rớt có mặt trong nhà này khi nào không nhớ rõ, lúc Nhung vừa biết khôn, có nghe bà ngoại kể lại, một lần ngồi trên chiếc xe chở khách từ An Cựu sang Đông Ba thăm mấy mẹ con Nhung, ngoại thấy có người đàn bà gánh hai thúng mía, dắt theo một bé gái chừng mười tuổi cùng lên trên chuyến xe này, người mẹ ngồi trên chiếc đòn gánh nhường ghế cho bé gái ngồi. Ngoại hỏi “đi bán mía còn đem theo con nít làm chi”. Người mẹ trả lời “cho con lên phố giúp việc cho người ta”. Ngoại nói sao cháu nhỏ thế này mà cho đi giúp việc, sau đó ngoại hỏi xin con bé làm con nuôi được không, người mẹ hỏi ngoại ở đâu, đường nào. Ngoại trả lời xong thì người mẹ bằng lòng ngay.
Xe tới bến, người đàn bà nói ngoại chờ một chút để vô chợ Đông Ba giao xong gánh mía rồi hai mẹ con đi theo ngoại.
Ngoại hỏi em bé “cháu tên chi” – “Dạ tên Rớt”. Ngoại mua bánh ú cho Rớt ăn và dặn bé chờ mẹ một lúc rồi về nhà ngoại.
Bà Vĩnh thấy mẹ mình về nhà mà sao lại có hai mẹ con ai có vẻ xa lạ. Nghe mẹ giải thích xong, bà Vĩnh hỏi:
- Chị mấy đứa con tất cả?
- Dạ bảy đứa. Có con chị nó mười lăm tuổi đã cho đi ở rồi, bên cầu Gia Hội. Nhà cực quá không nuôi con nổi cô ơi!
- Vậy thì con Rớt ở đây làm con nuôi tôi ?
- Dạ được - Chị vui vẻ ra mặt.
- Hiền ơi - Bà Vĩnh gọi người làm - vô coi mấy áo quần cũ của mợ, cái nào lâu nay không mặc, gói lại đem ra đây.
Bà Vĩnh đưa gói áo quần cũ và một số tiền, nói :
- Số tiền này coi như tôi mua con Rớt, nhưng lâu lâu cũng lên đây thăm cháu, tôi đưa thêm cho chút ít.
- Dạ - nhìn số tiền khá nhiều, ngoài mơ ước của chị. Chị cám ơn, rơm rớm nước mắt.
Khoảng chừng đôi ba tháng một lần, chị lên thăm con và nhận ít tiền của bà Vĩnh. Đến nay, tuổi của Rớt đã trên hai mươi. Gần đây, mẹ Rớt dẫn Lài lên ở với bà Vĩnh để bồng em, khuấy sữa và làm việc vặt, cha mẹ Lài ở cùng làng, làm ruộng đông con. Lài thua Rớt sáu bảy tuổi, Nhung xấp xỉ tuổi Lài nên gọi Rớt bằng chị.
Người chị Rớt tròn chắc, tóc dài chấm lưng được kẹp gọn bằng chiếc kẹp ba lá, da hơi ngăm vì đi chợ gánh nước nhưng trông cũng được người. Tuy ở thành phố mười mấy năm nhưng chị vẫn còn vẻ chơn chất, không như Lài, mới ở quê lên mà mắt môi coi bề lúng liếng.
Thời gian trôi nhanh lúc nào không hay. Mới đó thi xong học kỳ một, mấy chị em học chăm chỉ nên kết quả đứng cao. Nhung đứng vị thứ tư trong lớp, cô thầm cám ơn An đã hết lòng. Mùa đông Huế rét căm căm, nhà ở dọc bên sông. hoa sầu đông bên đường nở trắng thoang thoảng hương thơm, thỉnh thoảng rơi lả tả như đàn chim con chớp cánh trong ngọn gió chiều rét mướt. Ban đêm, hơi lạnh từ mặt nước sông tỏa lên càng thêm buốt giá.
Một cái Tết nữa sắp đến. Bà Vĩnh gói ghém vài thứ mứt cho An mang về quê. Sáng hăm bảy anh lên xe và nói mùng bốn tết sẽ vào, dặn Nhung cứ làm bài tập trước, bài nào làm không được để đó, khi vào anh sẽ giải. Bảo và Bình được tự do, thích lắm, mấy bài ở trường ra cũng dễ.

Mùng bốn An vào, mang theo một chục bánh in, một giỏ cam và quít còn tươi, có cả khế ngọt. Trái cây trong vườn ở quê, mẹ luôn để dành trên cây chờ những dịp anh về nhà. Bà Vĩnh lựa những quả tươi tốt dâng cúng lên bàn Phật. Nhung đi đâu chưa về. Chị Rớt nói Nhung lên chơi với bạn tận Kim Long. Đến ba gờ chiều vẫn chưa thấy, gần nửa tiếng sau mới về với hai người bạn. Bỗng An hơi ngạc nhiên nhìn Nhung thật dễ thương trong chiếc áo dài hoa. Lâu nay quen mắt thấy cô chỉ mặc áo trắng.
Có hai người bạn để so sánh, An thấy Nhung xinh xắn hơn nhiều. Hình như lần đầu khi bước vào nhà này, đôi mắt ấy như có nói với anh điều gì. Đôi mắt mà bất cứ người con trai nào cũng ao ước, thầm mơ.
Nhung lấy hạt dưa và mứt kẹo ra mời bạn. An lịch sự chào, xong đi lên lầu thay áo quần định bụng khi bạn Nhung về sẽ rũ cô đạp xe đi chơi một vòng đâu đó, nhưng nghĩ sao lại thôi. Chắc là thấy Nhung mặc áo dài hoa lạ lạ xinh xinh nên muốn cùng đi dạo phố.
Anh dắt xe ra và nói với Nhung đi chơi một tí, rồi đạp xe lên cửa Thượng Tứ thăm người bạn nhưng không có, anh ghé tiệm sách, thấy những tấm card chúc tết còn bày nhiều trên quầy, anh chọn một tấm xong đạp về nhà.
- Sao đi chơi nhanh vậy ? Nhung hỏi.
An nói chỉ Nhung vừa nghe :
- Lát nữa lên lầu, có quà cho Nhung.
Ai mà chẳng thích quà. Nhung lên mau chỉ sau mười phút, An chỉ chiếc ghế đặt sẵn phía đối diện bàn mình, đưa ra mấy cái bánh in gói trong giấy bóng, mười cái bánh hột sen giấy vàng đỏ nhiều màu rất bắt mắt. An biết Nhung thích thứ bánh này nên nói mẹ mua từ quê đem lên.
- Qùa riêng của Nhung đây - Anh mở một cái bánh hột sen đưa cho Nhung – Ăn đi.
Nhung mắc cỡ chưa muốn ăn, mắt nhìn ra phía sông, tay gói lại cái bánh. Biết ý, An hỏi chuyện :
- Mấy ngày tết đi chơi vui không ?
- Vui.
- Đi đâu mà xa dữ vậy ?
- Đến nhà bạn.
- Chị Rớt nói Nhung đi Kim Long, nhà ai trên đó?
- Nhà Ngọc Quế.
- Nhiều bạn vui ghê - Vừa nói, An vừa kéo hộc lấy ra tấm thiệp - Tết không có gì …tặng Nhung tấm hình này.
Nhung cầm tấm ảnh, thấy ngay hai con chim nhỏ thật dễ thương đậu trên một cành cây.
- Thích không ? An hỏi.
- Thích - Nhung cười ra vẻ vừa ý.
Tay cầm gói bánh, tay tấm hình, cô bắt đầu đứng dậy. An nói theo:
- Còn mấy câu viết phía sau, xuống nhà rồi xem.
An muốn xưng anh nhưng còn ngần ngại. Từ ngày đến đây tới giờ, mấy đứa nhỏ gọi anh bằng cậu, còn Nhung thì lấp lững, thấy hơi lúng túng trong cách xưng hô.
Xuống nhà, Nhung lật phía sau tấm thiệp, thấy ghi ở hàng đầu: Chúc mừng Nhung vừa tròn mười bảy tuổi - Và câu dưới: Nhung nghĩ sao về đôi chim này?
Hơi nhăn mày, ý nghĩa của đôi chim nầy có gì mà không hiểu, nhưng chắc chắn Nhung không bao giờ trả lời câu hỏi của An. Cô chưa nghĩ mình sẽ gặp chuyện bất ngờ này.
Buổi cơm tối bình thường như mọi ngày, Nhung tránh ánh mắt của An. Không ai để ý đến thái độ khác lạ của hai người, vì thường ngày trong buổi cơm hầu như Nhung chẳng nói gì. Những buổi học tiếp theo, Nhung vẫn xem như không có gì xảy ra. Sau một buổi học, An sang bàn Nhung, mở cuốn vở nháp, ghi nhanh : “Sao không trả lời?”. Nhung nhíu mày, ghi lại :“ Làm sao mà trả lời”. Nhìn qua thái độ của Nhung, bất chợt An nghĩ ra điều gì, nói thật khẽ: “Nhung đừng buồn nghe”.
Mấy ngày tiếp, anh ái ngại nhận ra hành động của mình có phần vội vàng, nghe lòng băn khoăn, sợ đánh mất tình cảm của Nhung. Nhung không đủ mạnh dạn đối diện trả lời với anh, nếu viết trên giấy thì cũng không đủ lời lẽ. Đằng nào thì anh cũng đã sai. Sau một buổi giảng bài, An nói nhỏ :“Đừng giận nghe”.
Qua cử chỉ đó, Nhung không giận An, những buổi học sau vẫn tiếp tục bình thường, nhưng Nhung ghi nhận sự tận tâm của An, như một hình thức chuộc lỗi. Nhung theo dõi và thấy hôm nào cũng đến chín giờ tối An mới giải quyết bài vở xong cho mấy chị em, rồi bắt đầu lo bài học của mình. Nhiều buổi hơn mười hai giờ khuya An mới tắt đèn đi ngủ, tự nhiên cô thấy cảm mến, tự nhủ sẽ cố gắng nhiều để An đỡ mất thì giờ vì mình.
Tối tối, có gánh chè ngang nhà, cô biểu Lài mua để sẵn cho An một ly. Lâu lâu thêu cái huy hiệu hoặc viền một chiếc khăn tay bỏ trong cặp sách cho anh. Trên bàn học của mình, Nhung thường thấy sách vở được sắp xếp ngăn nắp, đặt lại bình hoa ngay ngắn.
CHƯƠNG III
Hồi này, lại thấy thêm mấy cuốn thơ khổ lớn nằm trên bàn An - Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… thu hút Nhung không ít, cô muốn mượn xem nhưng ngại, nhưng dần dần An cũng đưa cho cô xem, có mấy cuốn truyện của Nhất Linh, Khái Hưng…cô dặn bụng thi học kỳ xong sẽ xem.
Bài thơ nào hay, cô chép vào cuốn vở riêng để xem đi xem lại, ở trường còn nghe mấy người bạn nói về thơ TTKH với tình cảm đáng thương của thân phận người con gái. Lâu dần cô cũng dành tiền mua một vài cuốn thơ Huy Cận, Nguyễn Bính, không hay mơ mộng, nhưng tự nhiên cô cũng muốn làm thơ, và cảm thấy tâm hồn mình lớn lên. An hơn Nhung chỉ có hai tuổi nên nếp suy tưởng và tâm tư của An cũng gần như cô mà thôi.
Mẹ Nhung thấy con gái ngày càng lớn nên thỉnh thoảng dặn chừng “Con gái lớn rồi, có cậu An trong nhà phải giữ gìn ý tứ, xong bài vở sớm sớm, không nên ngồi lâu. Có việc gì cần thiết thì lên, không thì thôi”. Ông Vĩnh ít thể hiện bằng lời nói, nhưng cô sợ lắm. Mấy đứa em có gì là ông cầm roi, không đánh nhưng chỉ nói có một câu “ Nhiều lần rồi biết không?” Chỉ vậy mà mấy em trai, không đứa nào dám nghịch ngợm hoặc làm điều gì quá đáng để ba mẹ phải phiền lòng.
Thỉnh thoảng An nhờ Nhung khâu lại hạt nút áo, hoặc cái khuy sút chỉ. Nhung mang xuống nhà làm khiến An thấy ngại. Anh nói “Khâu có một tí, ngồi đây làm giùm cũng được” - “ Không…để đem xuống”. Do cô nhớ lời mẹ dặn không nên ngồi lâu trên lầu, và An cũng đã hiểu. Từ đó, An càng thận thận, nhưng tình cảm cứ nhen nhóm trong lòng, có lẽ do sự thúc giục của những bài thơ anh thường xem và những rung động đầu đời trước người con gái thường ngày gần gũi. Tuy nhiên, việc học vẫn là điều quan trọng hơn hết.
Tiếng ve bắt đầu râm ran dưới gốc sầu đông ngoài bờ sông. Những tà áo trắng vội vàng trước ngọn nắng oi ả trên đường đi học, việc học thi thêm phần căng thẳng vì trời quá nóng nực. Kỳ hai sắp đến rồi, học bài đến gần khuya chưa thuộc, khi đôi mắt cay cay thì Nhung gọi Lan cùng nhau dạo vài vòng lên xuống bên lề đường giờ này đã vắng xe, hoặc đánh quần vợt dưới ngọn đèn đỏ một lúc cho hết cơn buồn ngủ mới tiếp tục học lại.
An ngồi trên lầu học bài, nhìn đôi bạn gái đêm đêm chung học, thầm thì chuyện trò dưới đường, lòng anh thấy xao xuyến. Nhiều lúc học không được, anh cầm bút làm thơ. Xem đi xem lại những tập thơ trên bàn mà nghe bâng khuâng tâm hồn những cung tơ mơ màng, lãng mạng. Trăng nhiễm bệnh tình của Hàn Mạc Tử đến trở màu xanh xao bạc nhược. Dòng Hương giang đêm khuya có tiếng nài nỉ của người kỷ nữ “Khách ở lại cùng em thêm chốc nữa..” đầy xuyến xao, tất cả góp lại, hình thành một cảm xúc không phải của ai, nhưng chẳng biết có phải của mình.
An sửa đi sửa lại bài thơ đầu tiên bảy tỏ tình cảm với Nhung, nhưng chưa nghĩ đến chuyện tặng vì nhiều lý do, trước hết là do sợ bài thơ không hay, và cảm thấy đây là việc làm phải cân nhắc, gần như một quyết định, mặc dù anh chưa hề nghĩ gì xa xôi hơn.
Nhiều lần xem lại bài thơ, thấy tương đối hoàn hảo, không tìm ra chữ nào để sửa. Rồi một hôm không giữ lòng được, sau buổi học, An sang bàn Nhung - “Tặng Nhung bài thơ”.
Nhung hơi ngỡ ngàng cầm lấy, lòng hơi rộn ràng ôm cặp đi xuống.
ĐÔI OANH ẤP Ủ Xinh quá người em dáng tôi thương Thướt tha mái tóc đẹp môi hường Trinh nguyên tà áo còn ươm mộng Đọng giữa hồn tôi chút vấn vương Hương tình đắm đuối tuổi tròn trăng Đi đứng khoan thai nét dịu dàng Giọng nói buồn buồn muôn quyến rũ Hiền hòa cốt Phật thật đoan trang Tôi gởi hồn lên vạt nắng đầy Theo gió vờn lên mái tóc mây Tô lên một đóa hoa hồng thắm Điểm cạnh đôi oanh ấp ủ này.
Đọc đến câu “hiền hòa cốt Phật” khiến Nhung nhớ một lần mẹ kể với An, trước lúc mang thai Nhung, bà mơ thấy một ông thầy tu trao cho một đứa bé gói trong tấm vải cà sa. Vậy mà An cũng để tâm, ghép vào lời thơ, gợi cho cô suy nghĩ nhiều về cuộc đời mình về sau.
Những ngày sau đó, thỉnh thoảng lúc ngồi học bài thi, Nhung mở ra xem đi xem lại, nghe lòng rung động bởi lời thơ đơn sơ mà ấm áp hiền hòa. Biết An có tình cảm với mình, nhưng cô không biểu lộ gì trên nét mặt. Bài thơ của An, cô ép trong vở xem như một món quà tặng dễ thương, không hề nói cho ai biết, kể cả Lan bạn thân. Cô nghĩ đó là tình cảm đầu tiên trong lòng người trai trẻ.
Gởi gắm được lời nói yêu thương ban đầu, lòng An như cởi mở khiến anh quên đi cái nắng oi bức và sự căng thẳng của bài thi.
Sau hai học kỳ, Nhung và hai em đủ điểm lên lớp, hoàn thành trách nhiệm đó khiến An rất an lòng, thời gian còn lại anh tập trung vào việc học cho kỳ thi toàn phần.
Nhung tập may vá thêu thùa trong thời gian hè rãnh rỗi, soạn lại mấy cái khăn mouchoir đã học thêu ở trường trong giờ nữ công gia chánh, chọn cái vừa ý nhất, thêu thêm một cánh hoa ở góc, tên của An thêu nghiêng nghiêng ở góc kế bên.
Thời gian giữa hè trời nóng nực, Nhung ngồi trước nhà xem cuốn truyện “Nửa Chừng Xuân” của Khái Hưng. An đến bên nói nhỏ :
- Nhung rãnh không … lên có tí việc.
Nhung bước lên, chưa biết chuyện gì đã thấy An ngồi ở bàn, cầm trên tay một tờ giấy pelure màu xanh gấp hai, đưa hơi cao, nét mặt vui vẻ như có ý khoe :
-Tặng Nhung bài thơ này – Chờ Nhung cầm xong tờ giấy, An giục - Mở ra xem đi.
Nhung từ từ mở rộng trang giấy, đọc lướt bài thơ thứ hai, lời lẽ gắn bó thân thiết hơn. Thêm một tờ rời viết lên mấy dòng chữ “Nhiều khi muốn nói với Nhung rất nhiều điều nhưng thấy ngại quá. Mình còn quá trẻ, tương lai còn xa, không dám nghĩ gì nhiều, chỉ hỏi một điều “Nhung có mến An không?”
Nhung thoáng nghĩ, lần này thì mình không lẫn tránh được, nhưng trả lời bằng cách nào đây. Cô chưa thấy rung động sâu sắc giữa tình cảm trai gái, lâu nay chỉ thấy mến anh vì tính nết, hết lòng trách nhiệm với mấy chị em, điều gì hơn nữa thì cô chưa hề nghĩ tới.
Chờ lâu không thấy Nhung nói năng chi, An nhắc khẻ “Nhung nói đi”. Nhung vẫn chần chờ, có vẻ hơi nhăn nhó vì thấy cả một sự áp đặt, trong lúc Nhung chưa hề chuẩn bị. An suy nghĩ một lát, xong lấy cuốn vở nháp của Nhung, viết lên “ Không nói thì Nhung ghi vào đây, chữ có hoặc chữ không”. Nhung miễn cưỡng ghi lên chữ “có”. Mắt An thoáng lên vẻ rạng rỡ. Anh xé rời tờ giấy, xếp làm tư xong bỏ vào túi áo. Nhung hơi nghiêng xuống, giấu nụ cười. Ngạc nhiên thêm một lần nữa khi thấy An đưa tay nắm lấy tay mình lay nhẹ “Nhớ giữ lời hứa nghe”. Nhung chỉ bất ngờ cảm giác bàn tay An mềm mại, các ngón thon dài như tay con gái. Cô đứng dậy, đi nhanh xuống.
Nhung không đáp ứng cho An một cử chỉ nào, nhưng anh nghe mình nhẹ nhàng như được bay bổng, nhưng thoáng nghĩ - một việc nhỏ như thế sao mà khó khăn.
Chiều đứng trên lầu nhìn xuống dòng sông trước nhà, mặt nước trong xanh trôi lặng lờ, An chợt nhớ đến dòng sông quê, nhớ đến mẹ.
Xuống nhà thấy Nhung đang đứng ở cửa nhìn ra đường, An đến gần nói chuyện một lát. Một vài cánh chim vội vã bay qua bên kia sông, chút ánh mặt trời còn sót ẩn sau tàn cây phía trên cầu. Chợt nghĩ ra một điều, An nói:
- Mai đi qua Cồn Hến ăn chè nghe Nhung.
Ngẩm nghĩ một lúc, Nhung hỏi:
- Nhưng mà đi lúc nào ?
- Sáng mai khoảng chín giờ, đến nhà Nam trước cửa Thượng Tứ, Nhung đến đó cùng đi nghe.
Vài lần đi mua sách với Nhung, An có ghé qua nhà Nam là bạn cùng lớp với An, nên Nhung biết để đến nơi hẹn. Hai người đạp xe song song qua cầu Trường Tiền, đi thêm một quãng, qua chiếc cầu váng nhỏ là đến Cồn Hến.
Vào quán, gọi chè xong, Nhung đưa mắt nhìn chung quanh, nhiều bụi tre cao che mát cả một vùng. Nhà nào cũng mở quán chè, quán đơn sơ nhưng khách rất đông, nhất là học sinh, sinh viên. Xa xa, những nương bắp xanh tươi lung lay trước gió. Lần đầu Nhung đến đây, cảnh vật giống như ở đồng quê dù chỉ cách thành phố chừng hơn hai cây số, khóm tre nương bắp bát ngát tận chân trời.

Hương vị của món chè bắp thật đặc biệt, có lẽ do bắp là đặc sản vùng này, thêm không khí đông vui và vẻ đẹp đồng quê khiến chè ở đây ngon hơn chè bên Đông Ba. Lại thêm hương vị hẹn hò, có nhiều văn nhân nghệ sĩ, lôi cuốn khách cả thành phố qua đây.
An nghe khoan khoái trong lòng, một dịp đi chơi thật ý nghĩa, anh cười tươi nhìn Nhung:
- Nhung thấy vui không ?
- Mở rộng cả tầm mắt, ở bên phố đâu có thấy ruộng đồng thế này, mát mẻ ghê đi.
- Bữa nay mặt mày có thần sắc rồi đó, nghỉ ngơi cho khỏe để có sức vô năm học mới, sang năm là cô tú rồi đó. Đừng đi chơi đâu xa nghe.
- Ở nhà lâu buồn lắm. Lên vườn Kim Chi trên Nguyệt Biều có nhiều mít, xoài.
An cười thành tiếng:
- Tưởng gì, mít ở quê nhiều lắm, mấy cây lận. Tưởng con gái thích chua nên mấy lần trước chỉ đem cam với quít.
- Nhưng mà mít nặng lắm - Nhung cười nửa không nửa muốn.
- Tháng này đang mùa mít chín, vài bữa về, sẽ đem lên.
Hai người vừa trò chuyện vừa ăn chè. Lần đầu anh nhìn âu yếm lên mái tóc Nhung, ngắm nghía:
- Đi chơi sao Nhung không mặc áo dài hoa? Thấy đẹp lắm.
- Không.
- Sao vậy?
Một lát ngần ngại, Nhung nói:
- Tại không quen. Mặc áo trắng quen rồi.
Bốn mắt nhìn nhau. Một lúc, Nhung cất tiếng :
- Cái khăn mouchoir còn nơi không ?
Hơi bất ngờ, An cho tay vào túi quần nhưng không lấy ra, cảm thấy hơi mắc cỡ vì nó nhàu nhò. Anh nói :
- Còn đây. Nhưng mà ... cũ quá rồi.
- Thì cứ để đó, lấy cái này dùng thêm – Nhung lấy chiếc khăn tay mới thêu trong bóp ra đưa cho An.
An cầm chiếc khăn trong tay, xúc động :
- Cám ơn Nhung.
- Thôi về kẻo trưa rồi - Nhung nói nhỏ.
An ngồi nán thêm một lát, hình như để lắng dịu cảm xúc, nhìn Nhung với ánh mắt thân thương :
- Thôi mình về.
An lấy xe đạp ra, trao ghi-đông cho Nhung, anh đặt tay mình lên tay Nhung một lúc.
Hai người đạp qua khỏi cầu Trường Tiền, An bảo Nhung về nhà trước.
Chủ nhật tuần sau, An nói với Nhung :
- Mai đi chơi được không Nhung ?
- Đi đâu ?
- Đi Cồn Hến.
- Đi Cồn Hến nữa à ?- Nhung hỏi, mắt không nhìn An.
- Đi lần nầy nữa thôi để còn học thi. Nhung muốn đi lúc nào?
- Ngủ trưa xong thì đi.
An dặn lại kẻo sợ Nhung quên :
- Đến nhà Nam nghe.
Hơn hai giờ chiều, Nhung ngủ dậy không thấy xe đạp của An. Cô vội vàng thay áo, nhớ lại ý thích hôm trước của An, cô mặc chiếc áo dài hoa mặc hôm tết. Đến gần nhà Nam đã thấy An đứng chờ trước cửa.
Đã đi Cồn hến một lần rồi nên không thấy xa, vui nên không thấy nắng không thấy gió. Vào quán, An kéo ghế gần Nhung. Gọi chè xong, cả hai nhìn cây cỏ, ruộng đồng xa xa, cảm giác yên bình thư thái.
Biết Nhung ít nói, An gợi chuyện :
- Có cuốn “Hồn bướm mơ tiên”, tí về đưa cho Nhung xem. Hè này rãnh rỗi nên xem thêm mấy cuốn Tự Lực Văn Đoàn. Truyện Kiều cũng có cả tập.
Biết An đã học thơ Kiều trong chương trình lớp dưới, nhưng Nhung cũng nói như khoe :
- Năm rồi học Kiều, cô giáo có bày cách làm thơ lục bát. An nhớ lại những lúc mẹ Nhung ru em bé nằm trong nôi :
- Lâu lâu có nghe mẹ ru bé út ngủ bằng mấy câu Kiều, nhiều câu không có trong bài mình học, chắc là mẹ thuộc Kiều nhiều.
Nhung kể lại :
- Thường khi nghe mẹ ru em, ngoài những bài ru ca dao, khi ru Kiều mẹ không hát ru mà lãy Kiều, giọng nghe có vần có điệu hay hay.
An hỏi nửa đùa nửa thật :
- Có làm bài thơ lục bát nào chưa ?
Không trả lời, Nhung cười trừ - sẵn vui anh cầm tay Nhung, nói một cách tự nhiên :
- Đi chơi lần này nữa thôi, anh còn phải học. Tháng sau thi xong, Nhung về quê với anh được không ? Mẹ rất muốn thấy em.
- Mẹ …năm nay được bao nhiêu?
An chọc quê :
- Mẹ ai ? Tiếng “anh” sao mà khó dữ.
Tay vẫn cầm tay, An nhìn vào mắt Nhung : -
- Bữa nay phải gọi bằng anh nghe chưa.
CHƯƠNG IV
Tết năm nay Nhung may hai áo dài lụa để đi học, một áo lụa trắng, một áo màu mỡ gà trông rất nhã nhặn. Bà Vĩnh hay ngắm nghía Nhung, hài lòng thấy con gái ngày càng lớn càng xinh đẹp, dịu dàng. Nhìn Nhung mặc áo dài lụa đi học, Lài khen:
- Chị Nhung mặc áo lụa đẹp ghê, có người thương là phải.
- Đừng có nói bậy, còn nhỏ ai mà thương.
- Chị đừng có giấu. Hôm trước chị đi chơi với anh An, mặc áo dài bông. Mợ biết hết nhưng không nói chi.
- Sao mẹ biết được?
Lài cười khúc khích :
- Ngó qua là biết liền, có chi mà khó hiểu.
Nhung làm nghiêm, dặn dò:
- Xuống bến không được nói với ai nghe chưa. Đừng đem chuyện nhà đi nói lung tung, tôi còn nhỏ, học hành chưa đến nơi đến chốn, người ta cười cho.
- Không đâu chị ơi, tuổi chị còn nhỏ chi nữa, ngoài làng em người ta đã có chồng có con hết rồi. Em còn thấy bạn chị đi chơi với bạn trai ngoài phố.
- Biết rồi, nhưng tôi không thích chuyện đó. Anh An là người trong nhà nữa. Coi chừng ba biết được.
Nhung nghĩ thế nào thì nói ra thế ấy. Sự thật cũng tại An dẫn dắt mọi chuyện, chứ cô vẫn chưa nghĩ gì. Mặc dù có những lúc suy tư bởi ảnh hưởng những vần thơ và những nhân vật trong các truyện ngắn truyện dài đang đọc, thoáng chút mơ màng, hình dung cuộc đời mình sau này có giống nhân vật nào trong truyện hay không.
Nhìn Lài cười tủm tỉm, Nhung nghĩ, còn con Lài này nữa, chuyện ai cũng chen vào được .
Buổi trưa hoặc chiều Nhung đi học về, dừng xe bên đường, đã thấy An đứng trên lầu nhìn xuống chờ cô về, đến khi Lài gọi mới xuống ăn cơm. Lúc nào cũng bộ pyjama màu xanh nhạt sọc trắng, dáng thanh cảnh thư sinh, ăn nói nhẹ nhàng.
Thấy An học nhiều mà còn giặt ủi áo quần, Nhung dặn Lài khi nào ủi đồ cho cả nhà thì ủi giùm cho anh, khi nào thi xong thì thôi. Lài vui vẻ nhận lời. An có vẻ ngại khi thấy Lài ủi áo quần mình, nhưng cuối cùng cũng nghe theo quyết định của Nhung.
Chịu ủi giúp đồ cho An nhưng nhiều khi lại nghe Lài rên rỉ :
- Mệt quá chị Nhung ơi! Ủi đồ cho cậu mà dễ, ủi áo anh An hơi nhăn một chút chị không chịu. Ủi aó dài chị cũng khó, lúc nào cũng chê, sao không ủi cho vừa ý.
- Thì lâu nay tui cũng tự ủi chứ áo dài lụa mà ủi không thẳng ai mặc cho được.
Từ khi mặc áo lụa thì khi giặt phải phủ một lớp hồ mỏng trong thau nước xả sau cùng để mình lụa không bị nhàu, không phơi ngoài nắng vì khô quá thì khó ủi. Mẹ Nhung thường nói “Lụa không hồ như cô không phấn”. Cái khó khi mặc áo lụa là như vậy.
Tuy nhăn nhó nhưng Lài cười ha hả vì biết Nhung không thể ủi áo cho An được. Nói đâu cười đó là đặc tính vô tư của Lài nên cả nhà ai cũng mến. Mới lên đây gần hai năm mà da thịt đổi khác thấy rõ, da mặt trắng ra, thân hình nẩy nở chật cả áo quần. Hay soi gương biết mình có duyên nên Lài chăm chút áo quần, đi đứng ra vẻ người thành phố, ai thấy cũng cười thầm.
Vài ba tháng, mẹ Lài lên nhận tiền ở, Lài vui vẻ hỏi han mẹ nhưng không có vẻ nhớ nhà nhớ quê. Mẹ Lài nói “Con lớn rồi, không về quê lấy chồng à?” – “Dạ không”. Lài trả lời dứt khoát trót lọt rồi cười, đôi mắt đen láy long lanh. Mẹ Lài nghĩ bụng, con này nó thích ở thành phố, không muốn về quê nữa rồi. Tuy vậy, nhìn con gái thay da đổi thịt, ăn sung mặc sướng thì chị mừng thầm trong bụng.
Chị có biết đâu, tối nào xong việc, con gái chị cũng ra gốc cây bên bờ sông chuyện trò với một vài đứa bạn, cũng là người giúp việc ở xóm sau.
Sau khi dạy buổi tối cho mấy chị em Nhung xong, An thường ra lan can lầu thư giãn, nhìn chếch qua bờ sông, thấy Lài ngồi trên xe cyclo của thằng Sắc, nó thường đậu xe trên bến để chờ khách. Nhà Sắc ở dưới Bao Vinh, xóm nầy ai cũng biết Sắc trẻ người mà chăm ăn chăm làm, gặp ai cũng chào hỏi rất dễ mến.
Biết An thức khuya học bài thi, Lài dặn anh để cửa, lâu lâu đưa cái bánh, vài trái chuối. An cười thầm - con người này cũng biết cách mua chuộc.
Chưa hết, một buổi Lài đưa cho Nhung một lá thư mỏng xếp làm tư. Nhung hỏi:
- Gì đây?
- Thư của anh Tuấn.
- Tuấn nào?
- Tuấn con bác Thông ở dưới đường mình đó. Ngày nào đi học ngang qua cũng nhìn vô nhà, chị không biết à!- Lài cười tròn một nụ, mắt mơ màng, nói tiếp – Lâu nay hay thấy anh Tuấn đứng ngoài đường chờ anh An, hai người vô Đại nội học bài.
Nhung thắc mắc :
- Mà sao Tuấn đưa được thư này cho Lài ?
- Thì em hay xuống dưới mua thức ăn sáng cho mợ, anh Tuấn chờ sẵn. Chị này khờ ghê,vậy mà không hiểu.
Mình có học mà còn thua Lài, nó lanh quá chừng. Nhung nhìn thẳng mắt Lài :
- Ai biểu nhận thư của người ta làm chi vậy?
Lài cũng mở to hai con mắt nhìn lại, phân bua :
- Lúc đầu em không muốn nhận, nhưng kệ, đọc thử xem viết gì trong - Nói xong Lài cười thân thiện.
Nhung không hạch hỏi thêm, vào phòng đọc thư. Thư dài vừa hết một trang giấy pelure xanh, ý nói tuy nhà ở gần nhau nhưng từ ngày chấm dứt những trò chơi nhảy dây, trốn tìm hồi tiểu học, nhắc cả chuyện tập xe đạp cho Nhung nữa, chỉ có mấy năm trung học mà bây giờ thấy nhau như người xa lạ. Bây giờ muốn vào nhà Nhung chơi nhưng tự nhiên thấy ngại. Không biết có khi nào Nhung nghĩ tới người con trai này không. Đại khái như thế, khiến cho cô hơi ngỡ ngàng, ép lá thư vào cuốn sách và yên chí rằng Lài không biết chữ. Tự nhiên Nhung tức cười, không biết đọc mà cũng muốn biết trong thư viết gì, thật lắm chuyện.
Chủ nhật tuần sau, Lài lại mang về cho Nhung một lá thư nữa. Nhung phàn nàn :
- Đã nói rồi, sao còn nhận thư của người ta?
- Em định nói chị có người rồi, nhưng chị dặn không được nói với ai. Thì chị cứ đọc đi rồi viết thư trả lời cho anh Tuấn, em đưa giùm cho.
- Đừng có nói tôi có người rồi mà thêm suy nghĩ cho người ta. Nói vậy nhưng trước sự mau mắn của Lài, Nhung thấy tội nghiệp thương thương. Xem thư xong, lại ép vào trang sách. Trưa, Nhung vào bếp phụ chị Rớt lau chén bát, đã nghe Lài hỏi :
- Anh Tuấn nói gì nữa chị Nhung?
- Chuyện của người ta sao mà ức thế, thì cũng muốn đến nhà chơi vậy thôi, đừng có nhận thư nữa nghe.

- Hèn chi là bạn anh An mà cứ đứng ngoài đường. Nhưng mà em khó nói lắm, mất lòng rồi làm sao xuống đó mua đồ ăn!
Sáng nay Lài bưng tô đi mua thức ăn cho bà Vĩnh, ngang qua nhà Tuấn, cố ý đi ra gần lề đường cho khỏi gặp, nhưng Tuấn đã đứng sẵn ở cửa, gọi Lài vào :
- Đã đưa thư cho Nhung chưa Lài ?
- Em đưa bữa đó liền.
- Sao không thấy trả lời?
- Chắc là chị không trả lời được.
- Sao vậy ?- Tuấn hơi thắc mắc.
Lài bắt đầu vận dụng cái đầu mít đặc :
- Em không biết nữa. Chắc là chị còn ngại chi đó … hay là chị có ai rồi. Tuấn có vẻ không tin :
- Có ai sao tôi không biết. Thấy có ai lạ đến nhà đâu.
- Ở dưới này làm sao thấy được. Thôi em đi đây.
Hơn tiếng đồng hồ sau, An đi sinh hoạt hướng đạo ở chùa về, thay áo xong ra bếp chẻ củi. Chị Rớt đi chợ chưa về. Lài bồng em ra khơi chuyện :
- Anh An biết mấy bữa nay chị Nhung có gì lạ không ?
- Chuyện chi vậy Lài ?
- Chuyện anh Tuấn bạn anh đó. Biết không, anh Tuấn viết thư đòi làm quen chị Nhung, muốn tổ chức với mấy người bạn đi biển Thuận An nữa. An thắc mắc :
- Nhung có đi không ?
- Nếu mà đi đông, chắc chị cũng đi. Nghe chị nói vậy. Anh có đi không?
- Anh không rãnh. Lài tò mò:
- Anh An à, nếu mà chị Nhung đi, anh có bực không ?- Lài cười , đôi mắt có hai hạt nhãn đen mở lớn có ý thắc mắc.
- Nhung thích đi thì đi, anh có quyền gì đâu – Giọng An hơi chùng xuống.
- Mà anh An đừng có lo, học giỏi hiền lành như anh, còn ai hơn nữa. Lài tuy nhỏ tuổi hơn hai người nhưng đã có bạn trai, ra vẻ hiểu biết tình trường lắm, An không cho đó là lời vô tư. Nghe Lài nhận xét, anh thấy yên lòng, chẻ nhanh đống củi rồi đi lên.
Chiều, Tuấn đứng chờ An ngoài đường, cùng đạp xe vào Đại Nội. Hai người tự nhiên ít nói cười vui vẻ hơn thường khi.
Vào căn nhà bỏ hoang, chỗ họ thường đến ngồi học, trước khi chia mỗi người ngồi mỗi góc, An buột miệng hỏi bạn :
- Tuấn - có chuyện gì mà thấy mặt mày buồn xo ?
- Có gì đâu, thấy mặt An buồn buồn mình định hỏi đó chứ.
An cười :
- Vậy ra ai cũng buồn hết, chắc tại mùa thu, ai cũng muốn làm thi sĩ.
- Nói vậy chắc An có làm thơ ?
- Cũng thỉnh thoảng thôi, đâu có rãnh.
- Làm thơ dễ không ?
- Dễ … nhưng mà cũng khó.
Tuấn nói thật lòng :
- Chà ! mình không biết làm thơ An à. Viết về người mình thương thì viết thế nào ?
- Thương ai vậy ? – An giả vờ hỏi.
Tuấn thật tình:
- Này An, mình hỏi thật, có thấy Nhung quen ai không ?
An tỉnh tỉnh :
- Hình như có.
- Có sao mình không thấy ai tới nhà ?
- Ờ … người ta kín đáo, làm sao mình biết được – An ỡm ờ trả lời.
Tuấn dặn :
- An ở trong nhà, để ý thử Nhung quen với ai nói cho mình biết với.
- Ừ.
Hai người ngồi hai góc học bài. Tự nhiên An cười thầm trong bụng. Sự việc quá rõ ràng, không ai tra khảo mà Tuấn tự khai, chưa biết lòng dạ Nhung sẽ thế nào, ngồi học bài nhưng lòng nhấp nhỏm không yên.
Tuần sau An rũ Nhung vào Đại Nội chơi. Thỉnh thoảng Nhung cũng vào đây, cùng với mấy người bạn gái, nhưng với tâm trạng trẻ con, nhiều lần đứng dưới gốc xoài mọc hoang bên dãy nhà vắng, chờ mấy đứa nhỏ thả xuống cho vài trái ổi hoặc xoài non, có khi đuổi theo con bướm vàng, khi hái hoa dại. Tất cả chỉ là cảm tưởng tuổi nữ sinh sắp lớn khôn, biết rũ bạn cùng lớp đi chơi ngắm cảnh Nội thành. Bây giờ Nhung thấy mình như lớn hơn khi có An bên cạnh.
Hai người đi quanh những con đường nhỏ, ngang qua những cung điện lầu đài hoang vắng, cửa đóng im lìm.Thỉnh thoảng thấy năm ba người đi tản bộ, phần nhiều là học sinh, nói chuyện, đùa giỡn hơn là để ngắm cảnh. Lâu lâu, đôi cặp tình nhân đi đi lại lại hoặc ngồi dưới bóng râm cổ thụ. Phía sau là dãy nhà thấp hoang phế không cửa nẻo, tường loang mái đổ, cỏ dại mọc um tùm, có lẽ đây là dãy nhà của các Cung phi ngày xưa.
Đến trước điện Thái Hòa, nhìn vào chiếc ngai vàng uy nghiêm trong ánh sáng mờ tỏ, tự nhiên Nhung nghe lòng nao nao. Những người có chút huyết thống với cô đã sống, đã đi đứng ra vào nơi nầy, hình như còn thoáng bóng đâu đây. Khi vua Bảo Đại thoái vị, cô chưa được sinh ra, Hoàng thân quốc thích tứ tán, Tôn nữ thất lạc, lá ngọc cành vàng phiêu dạt tứ phương. Cửu đỉnh bơ vơ, sân đình hiu hắt. Tất cả chỉ còn trong sử sách và lời mẹ kể. Rằng – mẹ là con quan Thượng thư – khoảng năm bốn lăm - bốn sáu, chiến tranh bùng nổ, Nhật - Pháp đánh nhau, không còn vua, lấy đâu có chồng thầy thông thầy phán - tiếng súng nổ hai bên là pháo cưới mẹ với ba. Mẹ thường kể lại việc này với nụ cười nhiều ý nghĩa.
Nhung vừa đi vừa kể lại chuyện mẹ kể cho An nghe. Ra khỏi dãy nhà rêu phong, thấy có vài người cầm máy đang chụp hình cho đám học sinh. Nhung sực nhớ :
- Nhà có máy ảnh mà không biết đem theo.
An chỉ tay về phía những hàng sứ trắng bên đường dẫn vào Ngọ môn, thân cành phong rêu nhưng hoa vẫn nở tươi, rơi trắng cả mặt hồ :
- Ở đây có nhiều cảnh đẹp, lần sau nhớ đem máy ảnh theo.
Rối anh kéo tay cô ngồi nghỉ chân trên tam cấp :
- Ngồi xuống đây Nhung.
Ngồi xuống cạnh An, hồi lâu hai người chỉ im lặng. Nhung nhìn những đàn cá đỏ vàng bơi lội dưới hồ, chợt nghe tiếng gọi nhỏ :
- Nhung.
- …
- Không trả lời?
Nhung chỉ cười. An có vẻ băn khoăn, nói tiếp:
- Nhung đang ngồi với anh đây, có lúc nào nghĩ đến một người bạn trai nào khác ?
- Sao tự nhiên hỏi vậy ?
- Hỏi vậy vì biết mấy hôm nay Nhung có một chuyện chưa nói với anh.
- Chuyện gì ? - Nhung hơi ngạc nhiên.
- Chuyện Tuấn gởi thư cho em.
Thật bất ngờ. Không bao giờ Nhung nghĩ An biết được chuyện này. Cô hỏi nhanh:
- Ai nói - Lài phải không?
- Phải.
Nhung bật cười:
- Nghe Lài có ngày cháy nhà. Chuyện có gì đâu.
- Không có gì sao nhận thư của Tuấn, không trả lại mà còn đọc.
- Thì phải xem mới biết nói gì. Chỉ hẹn chủ nhật đi biển Thuận An, nghe nói có anh nữa, đông lắm.
- Nhung có đi không ?
- Chắc là không.
An cười :
- Có vẻ tiếc nuối lắm hở. Nhung phải viết thư trả lời cho dứt khoát với Tuấn.
Nhung giải thích :
- Mình nói không đi thì thôi. Nếu viết thư này nọ, Tuấn sẽ nghĩ mình có ý gì sinh ra nhiều chuyện.
An chợt hiểu ra, con gái thường suy nghĩ chín chắn hơn. Tự thấy mình sai, An nhìn vào mắt Nhung:
- Anh xin lỗi Nhung…Thật ra, từ khi biết em, anh hiểu tương lai mình còn xa, nên anh cần một niềm tin, dù gặp điều gì cũng không lay chuyển. Sẽ có ngày mình xa nhau để lập tương lai, không biết Nhung sẽ thế nào. Lòng chung thủy trong tình yêu rất quan trọng, em có hứa với anh không?
- Hứa gì ? – Nhung cười vui như để thay câu trả lời.
- Hứa gì thì em tự biết lấy. Chưa chi đã có người khác viết thư - Không hứa, lỡ Tuấn theo riết rồi em xiêu lòng … Hứa đi.
Nghe An nói cũng đúng, với tiếng “em” khá ngọt ngào, ngập ngừng một lúc, Nhung khẻ nói:
- Hứa.
An nửa đùa nửa thật :
- Có ai làm chứng ?
Nhung nhìn quanh rồi đưa tay chỉ :
- Có gốc cây này.
Hình như cây sứ cũng nghe thấy, cành lá bỗng lao xao. Cả hai cùng cười, niềm vui tràn ngập trong tim. Nhìn lên bầu trời, đôi chim vừa bay ra từ một cành cây rậm lá. An cầm tay Nhung đứng lên.
CHƯƠNG V
Ngủ trưa dậy, Nhung mang áo quần của mình ra ủi để mặc đi học trong tuần, sẵn cô ủi cho An một bộ. Bên ngoài có tiếng xe máy, một lát ba Nhung đi vào. Nhung không ngờ ba cô về giờ này. Đang ủi lỡ áo cho An, thấy ông đi ngang, cô hỏi :
- Bữa nay sao về sớm vậy ba. Xe đâu ba ?
- Ờ, xe bị hư máy đang sửa ở ga-ra – Xong ông đi thẳng ra bếp rửa tay.
Nhung ủi nhanh áo của An, biết ba không nói gì nhưng cô vẫn ngại.
Ăn xong cơm tối, chờ mấy đứa nhỏ và Nhung lên học, ông Vĩnh nói với vợ ở nhà xem chừng Nhung với An vì ông thấy Nhung ủi áo cho An lúc chiều. Bà Vĩnh chống chế :
- Thường thấy con Lài ủi mà, chắc Nhung ủi đồ đi học , sẵn ủi giùm luôn.
- Thì cũng nhắc chừng vậy thôi.
Bà Vĩnh nói thêm :
- Sang năm Nhung thi tú tài rồi, cũng phải có người kèm, thấy cậu An dạy chuyên chỉ lắm, tính tình cũng hiền lành, không nghiêm khắc như mấy người trước.
Buổi tối, sau khi giao em cho bà Vĩnh, ủi xong đống áo quần cho cả nhà xong, đợi ông bà chủ đi ngủ là Lài ra bến hẹn hò, đã có An canh cửa cho rồi nên cô nàng yên tâm.
Vừa nghỉ hè, An về quê thăm nhà ba hôm rồi trở vô để học thi toàn phần, thức khuya dậy sớm rất vất vả, ngày hai buổi đều vào Đại nội học bài cho thanh vắng. Có Tuấn cặp bạn nên việc học không mấy buồn tẻ, nhất là không khí trong Đại nội trong thời gian này không vắng vẻ như trước. Rất nhiều học sinh từ mọi nơi trong thành phố vào đây học gạo, khi học xong, có nhiều trò chơi giải trí rất vui, cũng là động lực thúc đẩy việc học.
Vui hơn là nhiều lần Nhung và Thu Thủy cùng nhau vào Đại Nội giữa buồi học của An và Tuấn, mang theo bánh trái ở nhà vừa cúng xong hoặc mua nhánh chuối, vài trái xoài, ổi ở chợ Đông Ba. Hai cô tìm hai chàng trong “góc học tập” quen thuộc. Nhung có ý rũ Thủy vào đây chơi, gặp Tuấn để hai người có dịp làm quen, không ngờ Thủy có cảm tình với Tuấn. Lâu nay Tuấn đắng cay biết An và Nhung có tình cảm với nhau. Nhung khéo léo gợi ý để Tuấn nghĩ đến Thủy và xem mấy lá thư vừa rồi chỉ là một thoáng tình cờ. Thủy chăm học, hiền dịu và xinh gái, đó là ý của Nhung trong việc chọn lựa giữa đám bạn thân quen cùng lớp. Không ngờ Tuấn và Thủy chóng bén duyên, cả An và Nhung đều thấy vui lây.
Trước ngày thi, học sinh nghe nhiều nguồn thông tin đáng lo ngại là kỳ thi này đề thi sẽ rất khó, lo lắng phần nhiều là nam sinh, theo dư luận bàn tán là nam sinh sẽ rớt nhiều để đăng vào lính trong lúc chiến trường đang cần quân số. Nữ sinh nghe thi khó cũng lo thức khuya dậy sớm gạo bài, có nhiều người bị ngất xỉu, phải đi bệnh viện.
An khá tin tưởng vào khả năng toán của mình và đặt rất nhiều hy vọng. Lấy được mảnh bằng này, đủ tư cách để hướng tới tương lai và công khai tình yêu của anh và Nhung mà không còn e ngại với ai. Đôi chim nhỏ trong trang thơ tặng Nhung, lúc ấy sẽ chấp cánh bay tự do giữa bầu trời yêu thương. Đó là những phút mơ màng bên trang sách, thả cho ước mơ chắp cánh bay xa.
Nhưng niềm mơ ước đó bỗng sụp đổ một cách phủ phàng, An bị gãy môn toán, trời đất như sụp đổ trước mặt. Lời đồn đại hóa ra sự thật. Ban Giám khảo ra đề toán khó để đánh rớt học sinh, sự áp đặt của chính quyền mục đích bổ sung quân số cho cuộc chiến đang leo thang. Thanh niên, học sinh ở lứa tuổi này, trước mắt chỉ có hai con đường, một là thi đổ, hai là xếp áo thư sinh vào quân trường.
An buồn quá bỏ ăn bỏ ngủ khiến Nhung thắc thỏm không yên. Tuấn cũng rớt và đang chuẩn bị vào quân ngũ. Cả xóm ai cũng tiếc cho hai người bạn đồng liêu chăm chỉ này. Chú Phùng ở cách hai nhà làm Trưởng Ban căn cước, thấy An thất vọng quá, hứa sẽ làm trụt tuổi một tuổi để An có điều kiện thi lại.
Có thẻ căn cước mới, An về quê, trong lòng nặng trĩu, chắc anh sẽ khóc khi nhìn thấy mẹ. Ở quê, mẹ anh rất kỳ vọng vì biết con mình học giỏi, chắc chắn sẽ đỗ đạt. Nhưng mẹ có thể biết rồi do thông tin từ những người bạn cùng quê đã về trước. Suy nghĩ liên miên, hình ảnh mẹ không rời từ khi anh lên xe đò cho đến khi đón chiếc xe đạp trên trần xe xuống. Bánh xe lăn nặng nhọc trên đường làng cho đến khi dừng trước cổng tre nhà. Dáng mẹ ngồi nhìn ra, như đợi chờ anh từ lâu lắm. Anh cố ngăn dòng nước mắt nhưng không được, hai mắt rưng rưng.
Thấy bóng An, mẹ bước ra thật nhanh, vẻ mặt tươi cười, đợi dựa xe vào gốc cây xong, mẹ cầm tay anh đi vào nhà, như mẹ không buồn, như mẹ còn lòng tự tin để truyền qua tay anh. Hình như mẹ muốn nói gì đó nhưng không nói được. Ngồi xuống trên chỏng tre, không rời tay mẹ, An chỉ thốt lên được một câu - Con thi rớt rồi mẹ.
Cố làm ra vẻ tự nhiên, mẹ nói :
- Mẹ có nghe thằng Phước ở đầu trên nói rồi, con đừng buồn chi cả, học tài thi phận. Bữa nay con mới về là mẹ biết rồi, mẹ biết kỳ này nhiều người rớt lắm. Bà đứng dậy, rót nước vào ly - con uống miếng nước chè cho đỡ khát, mẹ nấu cơm sẵn rồi - Giọng nói bà có vẻ nghèn nghẹn nhưng cố ngăn lại.
Thức ăn bày trên chiếc bàn dài gỗ mun đen bóng. Hai mẹ con cùng ngồi, chiếc bàn này ngày xưa ba anh thường ngồi chấm bài cho học sinh, anh thường nghe mẹ kể vậy. Giờ đây, tâm hồn đang buồn bã, anh chợt nhớ đến người cha đã khuất. Nhìn quanh gian nhà nhỏ, thấy hiu quạnh quá. Mẹ hay nói, nhà có hai anh em, thằng Bằng anh con làm việc ở Sài gòn, cả năm mới về một lần ba bữa tết, nhắc hoài mà nó chưa chịu có vợ, con thì ở Huế không xa bao nhiêu, còn có được chút gần gũi.
Thấy thức ăn trên bàn ba món khá ngon, An hỏi mẹ :
- Sao mẹ biết con về giờ này mà nấu sẵn thức ăn ?
- Thằng Phước bạn con về từ ba bữa nay, biết con sắp về nên ngày nào mẹ cũng chờ. Thức ăn cũ còn, mẹ ăn một mình không hết.
Gắp đến món cá trê kho gừng, An bỏ vào chén cho mẹ, bà ngăn đũa lại, tay chỉ vào cái dĩa có mấy món hình như hôm qua còn. Thương mẹ quá, cổ anh như nghẹn lại.
Biết con đang buồn, mẹ bày chuyện hỏi han:
- Cậu mợ trên nhà có khỏe không ?
- Dạ khỏe.
- Còn con bé Nhung thế nào ?
Mẹ hỏi thế nào, An không hiểu là thế nào, nhưng trả lời theo cách của mình:
- Dạ năm nay Nhung lên đệ nhị, sang năm thi bán phần. Nhung có gởi cho mẹ gói quà đây – An soạn trong xách ra, đưa cho mẹ một gói nhỏ.
- Chi đây ? - Mẹ vừa mừng vừa hỏi.
- Dạ con cũng không biết nữa, mẹ coi thử.
Mẹ An từ từ mở dây buộc, một gói trà, một ký đường trắng và một cái áo len.
- Chà ! con gái có ý có tứ ghê. còn học sinh làm gì có tiền mua thế nầy. Con ráng làm gì cho nên tài nên phận.
- Dạ.
- Tội thằng Phước đang chuẩn bị vào quân đội, ba mẹ nó rất buồn nhưng không còn cách nào khác.
- Nhưng cái tạng thằng Phước nó thích đi lính.
- Ờ ! mẹ cũng thấy vậy, sống chết cũng có số, chẳng ai đi lính cũng chết hay sao mà lo, còn con thì sao - mẹ có vẻ lo lắng nhìn An.
- Dạ sang năm con thi lại. Chú Phùng ở gần nhà đã làm lại thẻ căn cước trụt tuổi cho con, con sẽ học lại, sang năm thi.
- Vậy nhà cậu mợ trên có nói gì không? - Mẹ thắc mắc.
- Dạ nói con cứ ở lại đó, còn kèm cho Nhung thi với mấy em nữa.
- Nhà người ta tốt quá, tiền chi phí sách bút, tiền xe đi về mợ trên cũng lo đầy đủ, nhờ vậy mà mẹ đỡ lo, con coi cố gắng cho Nhung thi đậu, cũng là trả ơn cho họ.

- Tính mẹ Nhung rộng rãi, con không thiếu thốn gì, con muốn ra đời sớm sớm để lo cho mẹ, không ngờ. Nhưng mà con đã quyết, sang năm con sẽ thi đỗ.
- Thôi con đừng buồn nữa, thành bại là chuyện thường tình, ráng một năm nữa. Mẹ cầu trời khẩn Phật ...
An ở lại với mẹ một tuần, chia tay mẹ lần này sao trong lòng anh lại thấy vui vui dù biết mẹ giả vờ vui kẻo sợ anh buồn.
Thấy An về, Nhung và mọi người trong nhà chào hỏi vui vẻ khiến anh xúc động. Việc An thi rớt, có ảnh hưởng nhiều người trong nhà này vì anh được xem như người anh trưởng trong gia đình. Mẹ Nhung buồn nhưng kín đáo, ba Nhung thì nhìn An không vui. An càng nghĩ càng thấy mình có lỗi.
Chiều hôm sau, An và Nhung lên chùa Thiên Mụ. Lên hết mười mấy tầng cấp, ra phía sau tháp, đứng dưới rừng thông nhìn lên đầu nguồn sông Hương bãng lãng giữa đôi bờ cây cỏ xanh tươi, xa xa đồi núi chập chùng. Một lúc, hai người đến hậu liêu xin uống nước xong trở xuống, qua bên kia đường, cả hai ngồi trên tam cấp dẫn xuống bờ sông. Thấy An buồn và ít nói, Nhung buồn lây nhưng không biết nói cách nào để an ủi, ngồi im lặng nhìn mặt nước sông trôi, xa xa, vài con thuyền trôi lơ lững giữa dòng. An nhìn Nhung, hỏi :
- Nhung muốn anh học lại hay vào lính ?
Nhung hơi nhíu mày:
- Chú Phùng đã sửa lại căn cước rồi mà.
- Nhưng mà năm nay có thể anh sẽ đổi chỗ ở.
- Sao tự nhiên lại nói ra chuyện đó ?
- Không phải tự nhiên mà anh đã nghĩ kỹ. Em lớn rồi, ba mẹ biết chuyện anh và em…ở chung nhà không tiện.
Nhung phản đối :
- Thì cũng vậy thôi, có gì mà không tiện. Ở đâu thỏa mái cho bằng …
Nhung không nói hết câu nhưng An cũng hiểu ra được nhiều ý. An cảm động trước sự ân cần của cô, bộc lộ :
- Nhưng mà còn ba, anh ngại ba hơn mẹ .
- Tính ba ít nói chứ không hay để tâm vào chuyện gì - Nhung chợt nghĩ đến Lài và dẫn chứng - Lâu nay Lài làm trời làm đất mà ba có biết gì đâu. Cả ngày mệt nhọc, tối là ba ngủ cho tới sáng.
- Cũng có lý, nếu ba khó khăn thì anh không ở lại đây lâu được. Nhung không muốn thì thôi.
An ôm vai Nhung trong tay, nghiêng lên mái tóc, tóc hương và hương cây cỏ, hương gió và hương nước trong xanh tinh khiết đầu nguồn như quyện vào nhau, len vào ngực, vào tim, đôi mái đầu nghiêng mãi bên nhau cho đến khi hoàng hôn trải màu vàng ngan ngát trên sông, vài cánh chim chiều theo nhau về tổ.
Về nhà, Nhung nói lại ý của An cho mẹ nghe, bà nói :
- Tại cậu An thấy ngại chứ trong nhà bình thường không có gì. Từ khi biết An thi rớt, mẹ có nghe ba nói gì đâu.
Nói vậy nhưng tối đến, bà cũng trao đổi với ông để xem ông suy nghĩ thế nào, mặc dù ông đã nghe chuyện đó rồi.
Mẹ Nhung kể lại :
- Cậu An thi rớt thật uổng, học hành giỏi dang vậy mà ai ngờ. May có người làm lại thẻ căn cước trụt cho một tuổi để thi lại.
- Ai vậy, phải chú Phùng không ?
- Chú ấy chứ ai. Ở gần nhà, thấy An học hành chăm chỉ, dạy mấy đứa nhỏ nhà mình tấn tới, chú mến lắm, làm giúp giùm cho chứ có tiền nong chi. Chú hay nói muốn có một người như vậy để dạy kèm cho mấy đứa con chú ấy.
- Vậy thì tốt quá, cứ học mà thi lại, tại xui xẻo chứ tôi thấy cậu ấy chăm học, tánh nết hiền lành.
Như vậy cả nhà đã hiểu ý ông.
Niên khóa mới, An học lại lớp đệ nhất Quốc học. Đầu năm học bài vở chưa căng thẳng, anh dành thời gian giảng kỹ bài vở cho Nhung. Nhờ trí nhớ tốt và khả năng căn bản nên An nắm vững chương trình lớp học trước. Tuy trình độ gần ngang nhau nhưng tri thức giảng dạy không khác trình độ của người thầy, đối với các lớp dưới của Bình, Thúy thì không có gì là khó. Nhiều lúc Nhung nhận ra điều đó và sinh lòng quý mến.
Chiều nào có thời gian rãnh, An chờ Nhung ngoài cổng trường Đồng Khánh, hai người đạp xe song song cùng về. Nhung nói với An là Thủy thường nhận thư của Tuấn, ba tháng quân trường vừa xong, đã ra đơn vị và sắp đi hành quân.
Thời gian này Lài không được thuận lợi lắm vì thỉnh thoảng An ngủ sớm sau khi dạy cho chị em Nhung, thật khuya mới thức dậy học bài, chị Rớt ngủ sau bếp, Lài không dám nhờ, sợ chị dậy lục đục gây tiếng động, còn sợ chị ngủ quên. Khoảng chín - mười giờ tối, xích lô không còn khách là Sắc đậu xe ngoài bến, đây là khoảng thời gian thuận tiện để Sắc với Lài gặp nhau. Nhiều lúc bị gài cửa, Lài loay hoay như gà mắc đẻ. Sau đó Lài dặn An :
- Không thấy em trong nhà, anh cứ cài cửa. Khi nào vô, em quăng cục đá lên, anh nhớ xuống mở cửa cho em.
- Được rồi, nhưng coi chừng khuya khoắt ồn ào, nghe được mợ la.
- Em biết rồi chứ bộ, khuya em còn vô khuấy sữa, lỡ mợ kêu không có.
Trời cuối thu trời se lạnh, mưa rơi rả rích, Nhung thao thức mãi không chợp mắt được, bỗng nhiên nghe một tiếng “cộp” nhẹ đâu phía ngoài, cô ngồi dậy đi ra nhà trước, thấy An đang mở cửa cho Lài. Thấy Nhung, Lài đưa tay lên môi ý như biểu Nhung đừng có nói gì. Nhung hiểu ý, nhưng cũng hơi bở ngỡ khi thấy Lài không còn nét quê mùa thường ngày trong màu sáng tối của ánh điện mờ, như hóa thân thành một cô gái thật bắt mắt trong bóng đêm mờ tỏ. Nhung cảm nhận một thoáng nghi ngại khi nghĩ đến việc tối nào An cũng mở cửa cho Lài, sức lôi cuốn của Lài không ít. Nhưng vẻ tươi cười vô tư của Lài khiến Nhung trở lại yên tâm.
Người gái quê này đã bắt mắt anh chàng xích lô trẻ tuổi lần đầu tiên khi nhìn thấy cô nàng nách rỗ chén bát xuống bến rửa. Chân nàng bước nhưng đôi mắt đen lay láy như hớp lấy hồn chàng. Sau khi quen biết, Sắc còn nhận thấy thêm vẻ mặn mà thu hút của Lài, cho dù đôi thùng nước đang gánh đè nặng trên vai, thân hình dậy thì chắc mẩy lướt tới nhẹ nhàng như đi tay không, đôi ngực nở nang như lúc nào cũng ưỡn ra phía trước, khiến Sắc chết mê chết mệt.
Tự nhiên Lài cầm tay Nhung kéo ra phía cửa, nói thật khẽ :
- Đang còn sớm, ra hiên ngồi chơi một chút chị Nhung.
An và Nhung nghe theo mà không đắn đo gì. Lài ngồi xuống cạnh Nhung, khoe:
- Anh Sắc mới đạp xe đi rồi.
- Giờ này còn đi ? - Nhung hỏi nhỏ.
- Chở khách đi bệnh viện.
- Gan hỉ ! Tối nào cũng gặp nhau khuya khoắt - Nhung nói.
- Có gì đâu chị Nhung, anh đã dẫn em về nhà ảnh rồi.
- Họ biết mình con cái nhà ai chưa? - Nhung thắc mắc.
- Ít bữa nữa em dẫn ảnh về quê để ba má em biết mặt.
Nghe câu chuyện đối đáp khá thú vị, An bỗng cầm tay Nhung, thấy cử chỉ âu yếm của An, Lài khen :
- Chà ... bữa nay mới thấy anh tình tự với chị Nhung, lâu nay em cứ tưởng ...
- Tưởng sao ?
- Thì thấy vẻ mặt anh hiền lành, ngay thẳng ...
Nghe tiếng ngay thẳng dí dỏm của Lài, ai cũng bật cười, không ai nghe tiếng dép của ông Vĩnh đi lên :
- Làm gì giờ này còn ngồi đây... Nhung nữa, học bài mới xong phải không. Thôi vô đóng cửa đi ngủ cho rồi. Xong ông quay lưng đi xuống.
Lài hú hồn bước vô, An lên lầu, Nhung cài cửa xong đi xuống, nghe ba đang nói với mẹ:
- Thấy cả ba người giờ này còn ngồi ngoài cửa, chắc là bài vở vừa xong, coi chừng lửa gần rơm…
Mẹ Nhung trả lời nho nhỏ gì đó không rõ. Một lát sau đã nghe tiếng ông ngáy khò khò.
Sáng ra, xe ông đã đi rồi. An xuống rửa mặt, Lài nói ngay :
- Hồi hôm em sợ cậu la chị Nhung nhưng chẳng thấy gì, chỉ nghe nói gì mấy câu xong cậu ngủ liền. Nhưng cậu có nói “lửa gần rơm”.
Nghe Lài nói vậy, An đã hiểu, những ngày tiếp rất dè dặt, thấy mình có lỗi với ba Nhung, nhưng tự xét dù sao mình cũng đến tuổi trưởng thành, Nhung mang dáng dấp thiếu nữ trong tà áo dài, tuy hai người còn ôm sách tới trường nhưng gặp nhau trong hoàn cảnh này, chớm nở tình mến yêu là điều không tránh khỏi. Có biết bao tình yêu nảy nở đang tuổi học trò, phải đủ duyên mới gặp, là những mối tình đầu ngây thơ đầy mơ mộng.
Nhiều ngày suy nghĩ câu nói “lửa gần rơm”, An muốn ba mẹ Nhung yên tâm và không muốn sống dè chừng như thế này mãi, An quyết định bày tỏ ý mình với chú Phùng. Chú vui ra mặt :
- Lâu nay chú thấy em được nhất trong xóm mình, chăm học mà hiền lành, học giỏi mới kèm sát lớp cho mấy em bên đó, chú rất muốn có được người như em để dạy kèm cho mấy đứa con chú. Cậu Tiến kèm trong nhà này, hay gõ hay đánh khiến mấy đứa sợ không học được. Thôi thì em dọn qua đây.
- Dạ.
- Em xử như thế cũng phải, chỗ anh chị Vĩnh ở bên cũng tốt, làm sao đừng sứt mẻ tình cảm là được.
An nói ý định của mình với mẹ Nhung - bà hơi ngạc nhiên :
- Năm nay Nhung thi, không lẽ để em lở dỡ nửa chừng không kèm bài vở làm sao được?
- Dạ, con đã bàn với Nhung rồi, ngày nào cũng qua coi lại bài vở cho Nhung với mấy em.
Cách giải quyết đó, bà thấy cũng thuận. Bà thì sao cũng được, nhưng việc này bà không dò trước ý ông sẽ thế nào.
An nói thêm :
- Chiều, nhờ mợ nói lại với cậu trước, con sẽ thưa lại sau.
Sau khi mẹ Nhung nói lại lời của An, ông Vĩnh tỏ vẻ không bằng lòng :
- Tự nhiên qua về chi cho mất công, sao không ở đây đến ngày thi luôn.
Mẹ Nhung không ngờ ý kiến của ông như vậy, bà nói :
- Đã nói với chú Phùng lỡ rồi, thôi vậy cũng được.
Ông lập lại :
- Thôi vậy cũng được.
Qua sự việc, An nhận thấy ba Nhung rất tình cảm, biết An có tình ý với con gái mình, chia rẽ thì không nỡ nhưng để gần gũi cũng không tiện, khiến anh thêm cảm kích. Nhất là về sau, mỗi lần ông mua quà về nhà, thường biểu phải để dành cho An. Nhiều khi ngồi nói chuyện với bà, An bày tỏ :
- Ơn của cậu mợ rất sâu nặng, con không biết lấy gì đền đáp.
Bà Vĩnh khéo léo động viên :
- Ba Nhung rất thương mến cậu, cậu cứ học hành cho thành tài, lo chi.
Mùa đông năm nay lạnh nhiều. Căn phòng lạ bên nhà chú Phùng khiến An thấy trống trải, chiếc đồng hồ gõ từng tiếng kéo đêm khuya dài thêm, suy nghĩ, đời người như chiếc thuyền trôi giạt, có những thay đổi không ngờ, nhất là việc thi cử, công danh sự nghiệp, anh chấp nhận như một thất bại đầu đời, nhưng đã có Nhung, viên than hồng nho nhỏ sưởi ấm lòng anh, nên không thấy khó khăn cản trở là mấy.
Chiều nay qua nhà để giải bài vở cho Bình, Thúy, thấy Nhung ngồi đan áo. An hỏi :
- Nhung đan áo cho ai ?
Không trả lời trực tiếp câu hỏi, Nhung nói như lời dặn:
- Năm nay anh không phải mua áo len... Nhưng mà đan xấu thì đừng có chê.
An nói trong một thoáng xúc động :
- Xấu khéo gì cũng là của em đan.
Anh không nói gì thêm nữa, chỉ im lặng nhìn Nhung như để ghi sâu hình ảnh đầy thương yêu dịu dàng ấy. Một lát Nhung xếp kim đan, lấy sách vở lên lầu học. Khi An xuống, Lài bồng em ngồi sẵn trên ghế trước nhà, mau miệng :
- Chị Nhung mua len đan áo cho anh, biết chưa ?
- Biết rồi – An cười vui vẻ.
- Thương quá còn chi nữa.
Nhung bước xuống theo, thấy Lài cười nói giả lã, cô lấy len đan tiếp, ngồi với An cho có vẻ thân thiện. Lài nhìn thật lâu hai người, cười nhưng thoáng nét không vui:
- Mai nay chắc em không ở đây nữa. Anh An nhớ hay qua với chị Nhung cho vui, đừng để chị buồn.
An hơi ngạc nhiên :
- Lài về quê à ?
- Em không về quê mà cũng không ở đây nữa - Lài nói úp mở.
- Vậy đi đâu ?
Lài không trả lời, cười mỉm nhìn Nhung khiến An càng khó hiểu. Nhung nói thay:
- Sắp về làm dâu.
Nghe tiếng bà Vĩnh gọi, Lài bồng em vô nhà. Nhung nói khẽ với An :
- Có bầu rồi đó, tuần sau gia đình Sắc ra làng để cưới, mai Lài về rồi.
Có Lài, không khí trong nhà thường vui vẻ. An cũng quen với ánh mắt giọng cười vô tư lự ấy. Chợt nghĩ ra một điều, An nói bên tai Nhung :
- Nhung thấy anh tử tế chưa …người ta chưa gì đã có chuyện rồi.
Nhung làm như không nghe, chăm chú vào mũi đan. Không ai nói gì thêm, như muốn cùng nhau tận hưởng những phút giây êm ái bên nhau.
CHƯƠNG VI
Thấm thoắt lại đến mùa thi. Nhung thi trước, mọi cố gắng An dồn vào việc kèm cho Nhung thật kỹ lưỡng. Mỗi lần Nhung dắt xe đi học, ra đến cửa, gặp khi có An ngồi sẵn trước nhà, tay cầm cuốn sách học của Nhung như có ý hỏi lại một số công thức, hoặc dò thử một vài đoạn giáo khoa. Sai chỗ nào là anh nhắc lại liền, lần sau thì Nhung không bao giờ quên đoạn ấy nữa. Nhờ vậy, Nhung càng nhiều cố gắng và nhiều hy vọng trong kỳ thi tới.
Mẹ Nhung biểu An đưa Nhung đi thi bà mới yên tâm. Hết giờ thi, An chờ sẵn ở cổng trường, hỏi kết quả bài làm. Các môn thi Nhung đều làm được, chỉ trừ một câu ngũ giác nội tiếp không chứng minh được, ở trường chưa học, trong sách bài tập cũng không có, tuy vậy Nhung đỗ khá cao,hai người như trút xong gánh nặng, cả nhà rất vui mừng. Ông Vĩnh ít nói nhất, nay cũng ngồi nói chuyện với An và Nhung, nhìn hai người với ánh mắt đầy thông cảm, thương yêu.
Đến lượt An thi, bài vở đã thông suốt nhiều nên kết quả đạt mong muốn. Anh vội về quê thăm mẹ, Nhung gởi theo một xấp vải màu lam để mẹ An may áo dài đi lễ chùa. Lần này thì mắt mẹ rưng rưng vì quá xúc động.
Mang đến hạnh phúc cho mẹ, An sung sướng vô cùng, anh nói rõ dự định của mình với mẹ :
- Con sẽ vào ngành giáo, mẹ không có gì phải lo nghĩ, giữ gìn sức khỏe, đừng để đau ốm con mới yên tâm được.
Mẹ cười rất vui :
- Đau ốm sao được, mẹ còn khỏe lắm.
Nhung thi vào sư phạm, An thấy hợp với ý mình, cô vừa học sư phạm vừa học tiếp chương trình phổ thông cũng không muộn, sau đó sẽ tính, quan trọng là nắm bắt được cơ hội dù hai người phải xa nhau vì Nhung phải đi tỉnh khác để học.
Vài năm xa nhau với tình yêu mới chớm không phải là dễ, hai người quấn quít bên nhau trước những ngày chia tay. Ba mẹ Nhung cũng buồn khi phải sắp xa con. Hai hôm nữa Nhung lên máy bay, mọi thứ đã chuẩn bị sẵn rồi. An cũng vào trường Sư phạm ở Huế nhưng sẽ không ở nhà chú Phùng nữa nhưng chưa nghe nói sẽ ở đâu.
Buổi sáng, thấy Nhung mặc áo dài hoa, mẹ biết Nhung đi chơi với An. Hai người đạp xe vào Đại Nội. Nhung có mang theo máy ảnh, hai người thay nhau chụp nhiều pô hình kỷ niệm. Chọn cảnh, lấy ánh sáng, sửa lại mái tóc, dáng đứng, niềm vui dâng tràn trong lòng hai người, nhưng khi nhìn những đôi tình nhân qua lại trên con đường vắng, mới chợt thấy buồn bởi mai đây hai người sẽ không còn được bên nhau, nơi đây chỉ còn là vùng trời kỷ niệm.
Tuấn đang ở mặt trận, nếu có Tuấn nơi đây, để cùng nhìn lại từng hàng cây bụi cỏ, từng phiến đá buồn hiu đang nằm cạnh dưới chân, chỗ hai chàng thường ngồi gạo bài, và gốc cây sứ già, chứng nhân lời hứa thủy chung của hai trái tim chân thành.
An dìu Nhung ngồi xuống trên một băng đá quen thuộc, đặt tay lên vai Nhung, đặt môi mình lên làn tóc xõa dài, chỉ còn nghe hơi thở thật nhẹ nhàng, vòng tay siết nhẹ như đôi cánh thiên thần, cho đến khi cảm nhận đôi mắt Nhung rơm rớm, An vô cùng bối rối.
- Nhung … đừng khóc...
Cô nghiêng đầu bên vai An, nghe anh thầm thì :
- Anh ở lại đây, chắc nhớ em nhiều lắm, em vào trường có nhiều bạn mới sẽ dễ vơi nỗi buồn hơn anh, vào trường rồi gởi thư cho anh nghe Nhung.
Nhung gật đầu, chạnh lòng bởi câu nói tha thiết, cô nắm chặt bàn tay An. Không tự chủ, An kéo vai Nhung nghiêng người qua, tựa đầu trên vai tay mình, một tay vuốt lên mái tóc dài, đặt môi lên trán Nhung, ngây ngất hương hoa đầu đời. Trong mắt An chỉ còn khuôn mặt ngơ ngác của người anh yêu. Một phút lịm đi, An thì thầm bên tai Nhung: “ Em có tiếc gì với anh không ?”. Cô lắc đầu, nhưng tay đẩy người An ra. Một lát im lặng, Nhung chợt nghe An :
“Tất cả để dành cho ngày cưới nghe Nhung”
Nhung nghe cánh tay An buông lỏng rồi đỡ cô đứng lên.
Mặt trời lên gần đỉnh ngọn cây, một vài tiếng gọi nhau ơi ới của bọn nhỏ dưới cây xoài gần hết mùa trước dãy thềm hoang cung nội. Nhung thấy mình như vừa tỉnh cơn mơ, một giấc mơ thật êm ái dịu dàng, cô mạnh dạng quàng qua vai An, anh xếp hai bàn tay Nhung vào ngực mình, mỉm cười :
- Đây là phần thưởng của anh phải không ? Suốt đời chung thủy với anh nghe Nhung.
- Còn anh - Nhung mỉm cười như diễu cợt.
- Em ở mãi trong trái tim anh.
Máy bay đáp xuống phi trường lúc gần trưa, khách trên chuyến bay phần đông là giáo sinh sư phạm từ các tỉnh vào trường nhập học. Số nam sinh lên xe lam tản mạn về phía những khu phố. Nhung và một số bạn gái cùng nhau về trường, các cô chọn phòng, chọn giường chưa có người, vì phòng nào cũng đã có một số giáo sinh đến từ hôm trước, cả những người khóa trước, phòng nào cũng gần hai mươi chiếc giường chồng.
Nhung chọn cho mình một chiếc giường dưới còn trống và rất bằng lòng vì không muốn nằm giường trên, Thu đến sau lại thích nằm gường trên, người Nha Trang. Giường bên cạnh là Liên và Xuân, ở Huế, còn nghe tiếng Quảng Trị của hai người nữa đang nói chuyện với nhau phía cuối phòng. Tuy đang ở trong khung cảnh lạ, nhưng nhiều người từ nhiều vùng khác nhau, cả trên vùng cao xuống, Nhung thấy lạ lạ vui vui. Ban đầu là những tiếng hỏi thăm, chuyện trò rôm rã, nhưng đến khi trời tối hẳn thì không khí hình như ngưng đọng, người nào giường đó, không ai còn nói chuyện với ai. Có vài người đang lúi húi viết thư, một lát sau lại nghe tiếng thút thít. Vừa lạ chỗ vừa nhớ nhà, nhớ nhiều thứ nữa, thật khó có được giấc ngủ ngon đêm đầu tiên trong căn phòng nội trú. Gần chín giờ tối, có tiếng cô Giám thị ngoài hành lang, biểu tất cả tắt đèn đi ngủ. Đèn tuy tắt hết nhưng phòng không tối lắm, nhờ ánh sáng của những ngọn đèn cao áp từ bên trại quân sự Mỹ chiếu sang.
Sáng ra, nhiều khuôn mặt còn méo mó buồn xo, chừng vài hôm sau, đã có rất nhiều cánh thư từ bốn phương bay về. Đến giờ nghỉ giữa buổi học, ai cũng hồi hộp chờ đợi chị lớp trưởng cầm xấp thư đi vào. Nhìn tên người gởi trên bì thư, mới biết hầu hết các cô nàng đã có người yêu, có bạn nhận ba ngày một lá thư. Không hiểu những người yêu nhau, họ viết những gì mà nhiều thế, chắc là do họ mới xa nhau. Nhung suy nghĩ như vậy cũng không sai, vì cánh thư nào của An cũng đầy ắp niềm thương nỗi nhớ không bao giờ vơi cạn.
Mỗi tối, Nhung thường mở thư của An ra xem lại, không ngờ An viết sâu sắc và đượm tình suốt mấy trang thư, Nhung xem đi xem lại nhiều lần lá thư đầy ấn tượng :
“ Nhung thương nhớ của anh,
Em có thể tưởng tượng anh tồi tệ như thế nào khi tà áo dài của em vừa khuất sau cánh cửa máy bay? Rồi khi máy bay đóng cửa, từ từ bay cao, mất hút trong mây, mang đi thật xa hình bóng thân thương. Còn anh, lủi thủi ra về như kẻ thất tình.
Tối đến, mẹ ân cần gọi anh ăn cơm và nói nhiều câu chọc cười, nhưng anh cười sao nổi hở Nhung. Anh không về nhà chú Phùng mà lên trên căn phòng cũ của chúng ta, bởi em cũng hiểu rằng, anh có thể buồn chết đi được nếu tối nay không ở lại nơi đây để vùi mình trong thương nhớ, mà em thì cũng vừa mới đó.
Đứng ngồi không yên, anh lấy giấy bút viết thư cho em. Có nhiều phút giây thấy mình thẩn thờ quá, anh bỗng nhớ tới những danh nhân trên thế giới trong những trang sách đã đọc cùng em, cuộc đời tình cảm của những bật vỹ nhân vẫn lụy vì tình, quay cuồng say đắm, cả những người đã từng giẫm nát nửa phần trái đất dưới chân, nhưng họ không thoát khỏi màng lưới ái tình, vẫn bị khuất phục bởi đôi mắt mỹ nhân, bởi sóng mắt gợi tình, có khi phải sụp đổ cả cơ đồ.
Vậy thì anh, chỉ mảy may trong tình yêu nhỏ bé, nhưng vô cùng chân thành, sao lại không khỏi thiếu vắng khi em vừa mang đi mất của anh ánh mắt và tiếng nói dịu dàng. Mà đôi mắt em, nếu được lồng trong khuôn vàng thước ngọc, thì cũng sẽ chao đảo biết bao khách tình si. Anh không ca tụng quá lời, sự thật em đã có đôi mắt như thế, đã thu hút tình yêu anh, nhốt kín linh hồn anh với bao rung động. Giờ phút này, anh ao ước được có em, dù để giận hờn anh cũng được ...”
Lòng Nhung xao xuyến theo từng câu anh viết, tình yêu tha thiết như vậy sao, biết bao lưu luyến khi phải xa nhau, nhưng nội trú có nhiều bạn mới đông vui, buồn thì đã có bạn cạnh giường tâm sự, đôi khi đưa thư cho nhau xem, nên Nhung cũng như các bạn quên bớt niềm riêng, hòa mình với khung cảnh mới, trường mới, thầy cô giảng sư mới.
Vài tháng cũng qua mau, cho đến khi bạn bè rủ nhau ra phố sắm tết, mua vài thứ quà lưu niệm để mang về nhà. Và lá thư cuối năm đầy những lời giục giã của An, cô đọc lại đoạn thư :
“ … Khi tâm hồn em vừa biết rung động, chính anh là người dẫn dắt em những bước đầu tiên đi vào tình yêu, và em đã tin tưởng tuyệt đối ở anh. Vì vậy, trách nhiệm của anh là không được làm em thất vọng, mặc dù nhiều lần anh nén đi khát vọng …Có khi nào em cho anh khờ dại không Nhung ? Bởi anh nghĩ rằng, sau những thử thách khó khăn mà chính anh vượt qua được, cũng vì hình ảnh mẹ anh trong tấm áo màu lam em gởi tặng để mẹ đi chùa, đã vỗ về xoa dịu anh rất nhiều. Cũng vì anh tôn trọng ân tình mà ba mẹ em đã ưu đãi cho anh, mặc dù anh biết rằng, sự nén lòng đến một lúc nào đó sẽ trở thành vô nghĩa, khi yêu thương như hoa quả đến mùa, anh đang mong em về. ”
Sắp nghỉ tết, Nhung cho An biết đã mua vé và ngày lên máy bay. An xuống phi trường Phú Bài đón Nhung. Trời rét đậm nhưng môi Nhung thấy có màu hồng, nhìn thật lâu, An mới nghĩ ra Nhung có thoa son, mới mấy tháng học làm cô giáo, Nhung đã bắt chước bạn thoa son đánh phấn. Chỉ một lớp nhạt nhưng trông thật duyên dáng, đáng yêu, anh ngồi gần Nhung để san sẻ chút hơi ấm.
Đến nhà, bà Vĩnh gọi Sen ra mang giỏ xách vào trong. Nhung hỏi ai đó, mẹ nói đó là người làm mới thay Lài. Ăn cơm xong, Nhung soạn đồ đạc. Hai cái khăn lông cỡ trung màu trắng và vàng Nhung đưa cho mẹ để lau tắm cho em. An một cái màu xanh, còn tặng thêm cây bút máy thật đẹp. Các em nhỏ đều có quà bánh. An hỏi tiền đâu mà mua nhiều thế. Nhung nói tiền mẹ gởi tháng nào cũng dư, còn có tiền học bổng. Nhìn An và chị, Bảo đùa :
- Chị Nhung mắc nợ em nhiều lắm.
- Nợ gì ? - Nhung hơi ngạc nhiên.
- Nợ tiền bao anh An đi xem phim, đi ăn kem.
- Tí nữa chị trả cho - Nhung cười hễ hã.
Ra ngồi ở nhà trước, An nói với Nhung dự tính của mình :
- Anh chờ em đến hôm nay, sắp cận tết, chắc mẹ anh mong lắm nhưng tết nay anh ở lại đây, anh sẽ xin ba mẹ cho em ra thăm mẹ anh vào ngày mùng ba. Tối nay anh sẽ thưa lại.
Nhung hơi ngần ngại:
- Không đâu, để từ từ, còn chuẩn bị vô năm học.
- Nhưng mẹ rất muốn gặp em. Anh đã nói với mẹ rồi.
Nhung không còn cách nào khác để thối thác.
An cho biết anh đã vào ở cư xá sinh viên, gần cầu Đông Ba, chỉ cách nhà Nhung chừng ba trăm mét nên mỗi ngày vẫn về kèm cho mấy em của Nhung. Ở cư xá có nhiều bạn học, tinh thần dễ chịu hơn.
Sáng mùng ba, An xin phép ba mẹ Nhung đưa cô về quê anh. Chỉ cách gần ba mươi cây số đường nên không lâu đã đến nhà. Mẹ An và một người nữa đang ngồi trong nhà. An giới thiệu đó là người anh ở Sài Gòn về ăn tết. Nhung đón nhận tất cả tình cảm thắm thiết mẹ anh dành cho cô. Mẹ An rất vui mừng nhìn ngắm người con dâu tương lai, mời ép mứt món đủ thứ. Ai đến thăm tết mẹ cũng khoe: “Bạn gái của thằng An”
Tối Nhung ngủ chung với mẹ An, bà kể chuyện làm ăn sinh sống, chuyện ba An mất sớm, bà chỉ có hai anh em An, rồi hỏi tuổi cô, lẩm nhẩm tính trên đầu ngón tay, trong lúc Nhung dần chìm vào giấc ngủ. Sáng mai, An đưa Nhung ra bến xe, nói Nhung về trước, anh ở lại với mẹ thêm một hôm và nói về sẽ đi mua vé máy bay cho Nhung.
Sáng mùng bốn chưa thấy An về, sợ trễ học nên Nhung tự đi mua vé, phòng bán vé trên đường Trần Hưng Đạo, chỉ cách nhà chừng năm trăm mét. Gần hết chiều mùng bốn, cho đến khi mặt trời khuất sau hàng cây phía cuối đường vẫn chưa thấy An về. Cô nghĩ như vậy là mai An mới vào, ngày mùng năm ít ai dám đi lại. Mùng sáu An phải nhập học, Nhung thấy nóng lòng không biết có chuyện gì xảy ra. Có bao giờ An trể nãi như thế đâu.
Gần sáu giờ chiều bỗng An dựng xe ngoài cửa, ai cũng hoảng hồn tưởng gặp việc gì giữa đường. Thời buổi này, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra khi màn đêm buông xuống, cướp bóc, mìn nổ, đạn rơi, bởi chiến tranh đang lan tràn khắp nơi.
Nhìn vẻ bơ phờ của An, Nhung vội hỏi :
- Anh bệnh hay làm sao vậy ?
- Anh không bệnh. Hôm qua em đợi anh không ?
- Đợi suốt ngày không thấy, em mua vé rồi.
- Anh xin lỗi.
Nhung nhìn hai trũng mắt sâu của An có vẻ ngờ vực.
An vào nhà chào ba mẹ Nhung. Chị Rớt dọn riêng cho An mâm cơm vì cả nhà vừa ăn xong. Không vui vẻ như thường khi, An ngồi vào bàn. Nhung xới cơm vào chén cho An, băn khoăn hỏi anh :
- Hình như có chuyện gì xảy ra, anh không được bình thường, có gì nói cho em biết ?
Chưa dám nói ngay sự thật mà anh chưa một lần nghĩ tới, nuốt vội chén cơm, cổ như nghẹn lại, chưa nói được nhưng không thể giấu được cử chỉ bất thường của mình. Uống xong ly nước, An nói cho qua chuyện :
- Không có chi, chỉ là mấy việc lộn xộn ngoài đường. Tối nay không về cư xá, anh lên lầu nghỉ một tí, mai mình còn đi chơi.
Cả nhà ăn sáng xong, gần chín giờ, hai người đạp xe lên phố, các cửa hàng đã mở, nhiều em bé áo mới vui đùa chạy nhảy trước sân, trai gái đi chơi xuân từng đôi từng cặp, đi lên đi xuống hai bên đường lộ. Qua khỏi cầu Trường Tiền, ngang qua cửa Thượng Tứ, An dừng xe nói với Nhung hãy ra ngoài Phú Văn Lâu cho mát. Để xe gần chỗ ngồi, hai người ngồi trên tam cấp nhìn ra sông. Người đi qua đi lại chật cả lối đi hẹp phía dưới, vài người mẹ dẫn con chừng vài ba tuổi áo mới dày mới, nhiều nhất là con trai con gái lứa tuổi học sinh, tay cầm mứt bánh đầu xuân nói cười rộn rã.
Thấy vậy mà An không vui, cũng không ngồi gần Nhung như bình thường, khoảng cách đã có trong lòng anh, rất khó lòng nói cho Nhung biết nhưng không thể nào giấu được, ngày mai Nhung đi rồi, chuyện trắc trở này lại không thể câm nín lâu ngày. An lấy can đảm thổ lộ :
Có khi nào em nghĩ vì một điều gì đó khiến mình phải xa nhau ? Anh thao thức cả hai ngày nay nên hôm qua về trễ, định từ từ em vô trường rồi anh sẽ viết thư nói rõ sau, nhưng nghĩ lại nên nói với em đây thì hay hơn.
Chuyện gì mà quan trọng vậy ?
- Chuyện khá quan trọng Nhung à. Tối nằm chung với em, mẹ anh có hỏi tuổi em, hôm sau em lên xe, mẹ đi xem bói ngay, ra vẻ quan trọng lắm khiến anh nghi nghi, khi về mẹ thất vọng, nói rằng hai tuổi qúa xung khắc. Mẹ và anh bàn lui tính tới không biết đường nào gỡ. Biết tình cảm của mình như thế này, chiều mẹ đến nhà ông thầy hay nhất làng xem lại lần nữa.
- Thầy nói thế nào ?
- Thầy cũng nói vậy, một ý như nhau. Mẹ khóc, nói rất thương em, nhưng gia đình đơn chiếc, mẹ chỉ có hai đứa con.

Nhung muốn nói một lời gì nhưng không nói được, ngực như có gì đè nặng.
An tỉ mỉ giải thích thêm:
- Mẹ không ràng buộc anh điều gì nhưng rất lo lắng. Mẹ nói trong làng mình cũng có trường hợp như vậy, cưới nhau chừng một năm, người chồng lâm bệnh chết, mẹ lại nhắc đến chuyện ba anh mất sớm.
- Em hiểu rồi, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy, đầu năm người ta đi xem bói nhiều, tí về em nói mẹ đi xem thử thế nào.
Nghe Nhung nói chuyện tuổi tác, mẹ cô bảo :
Mẹ cũng định đi xem năm nay nhà mình làm ăn, con cái ra sao, sẵn con nói vậy thì mẹ đi xem thử. Hai đứa còn tuổi học hành nhưng phải coi cho biết, lỡ sau này có gì thì khổ.
Chừng mười giờ mẹ Nhung về, quăng cái nón trên phản, nhăn nhó :
- Không được rồi, khắc lắm.
- Sao mẹ ?
- Khắc mạng lắm, hai tuổi ở với nhau không lâu dài được. Không ai ngờ trước chuyện này - Bà nhìn con gái, nói thêm - Vậy mẹ cậu An tính thế nào rồi?
- Dạ mẹ anh nói nhà đơn chiếc, chỉ có hai người con, ba anh mất sớm.
- Thấy chưa, người ta cũng sợ chứ không phải riêng gì mình.
Nhung thuật lại chuyện mẹ cô đi xem bói với An, nhưng trông anh có vẻ bình tĩnh :
Đầu năm người ta coi bói nhiều, mấy ông thầy chắc gì đã nói đúng, không thể như thế này được, để từ từ - nhìn Nhung rưng rưng nước mắt, An khuyên - đừng khóc nữa Nhung, để rồi còn tính. Mình còn nhiều thời gian, anh và em chưa ra trường mà.
Nhung ra vẻ thuận lòng, nói nhỏ :
- Thôi được rồi, ngày mai em lên máy bay về trường, anh tiếp tục đi học, trưa và tối nay anh ăn cơm ở đây.
- Tối cho anh ngủ lại đây, mai anh đưa em xuống phi trường.
Nhung mở to hai mắt :
Mai anh đi học mà, ở phòng vé có xe đưa xuống phi trường.
Anh nghỉ học, đưa em đi.
Vẻ cương quyết của An khiến Nhung không nói thêm lời nào, dâng lên lòng thương mến.
Buổi trưa ông Vĩnh đi làm về, tắm rửa xong đến ngồi trên tấm phản, bà Vĩnh ngồi gần bên, trong khi chờ chị Rớt dọn cơm, bà kể lại chuyện khắc tuổi của An và Nhung, sẵn An và Nhung ngồi ở bàn nước đối diện, ông Vĩnh nhìn hai người, vẻ ái ngại :
- Chuyện vợ chồng là do duyên số, thấy cậu có tình ý với con tôi, cũng là người biết ăn biết ở, tôi nghĩ vài năm nữa ra trường là tôi gả Nhung cho cậu. Bây giờ sự việc xảy ra như thế này, thật nan giải, làm cha mẹ không ai muốn chia rẽ tình duyên con cái, nhưng sự việc như thế này, có vài trường hợp xảy ra rồi nên tôi tin, cũng đã biết trước lời thầy bói nhưng có người tin người không, vì họ nghĩ phước bất cập số.
Chị Rớt bưng mâm cơm lên, cả nhà ngồi lại. Cầm đôi đũa lên, ông nhìn An, tiếp lời :
- “ Người đâu gặp gỡ mà chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không” - Lỡ duyên lỡ nợ ai mà không buồn khổ, tôi không ngăn cản nhưng xem như cậu đang đứng giữa ngã ba đường, còn làm cha làm mẹ sao dám tán thành chuyện này. Sau này có gì lại ân hận, chị ngoài đó dù có thương con đến đâu chắc gì đã bằng lòng. Cũng may mà biết sớm. Cậu suy nghĩ lại xem.
- Dạ.
Bà Vĩnh giải thích thêm :
- Cảnh đứt gánh nửa đường ai cũng sợ. Chị ngoài đó nếu không chấp thuận, cậu cũng không trái ý mẹ cậu được, phải không ?
- Dạ.
Ông Vĩnh tiếp lời :
- Đau khổ nào cho bằng Thúy Kiều xa Kim Trọng, cũng vì chữ hiếu. Tình nặng nhưng không bằng hiếu. Cậu phải nghe lời mẹ cậu chứ .
Không ai ngờ ông Vĩnh thường khi ít nói, nay lại văn hoa lưu loát đến vậy, bà Vĩnh cũng hơi ngạc nhiên. Bà nghĩ bụng, những người ít nói, nhiều khi tình cảm còn sâu sắc hơn người chót lưỡi đầu môi. Ông biết dùng câu Kiều để khéo léo gút mở, màu mè thi phú, không qúa khô khan như bà nghĩ lúc ban đầu mới gặp.
Cũng như chàng thư sinh tên Quý ngày xưa trong Quãng ra thi, biết cô Loan là con gái của quan Thượng thư danh gia đài các, dù thương mến cô Loan nhưng không dám hứa hẹn gì. Khi thi xong, biền biệt cho đến gần bốn năm sau mới trở lại. Không biết ai chỉ mà Quý tìm được nhà ông Vĩnh. Vào thăm, thấy cô Loan tay bế tay bồng. Quý nói vẫn còn độc thân và ra đây tìm Loan. Lúc chia tay, ra đến cửa còn ngoảnh lại nhìn lần nữa, rồi không bao giờ còn trở lại. Mới biết là tấm chân tình sâu nặng biết bao.
Nghe ông Vĩnh nói vậy, An thêm sáng tỏ, như ngọn đèn được khơi rạng, anh tự biết chính mình sẽ không được gây điều bất như ý trong gia đình này và sẽ không để mẹ anh lo lắng. Ông Vĩnh đã nói đúng, anh đang đứng giữa ngã ba đường, bên tình bên hiếu, và đang đối diện với số phận.
Trước khi lên lầu nghỉ, An dặn Nhung ngủ trưa xong lên lầu với anh. Hai người ngồi trên hai chiếc ghế An đặt sẵn ngoài hành lang. Dòng sông trước mắt trôi lặng lờ êm ả, cây sầu đông bên đường trổ hoa tím nhạt đầy cành, hương thơm thoang thoảng, dãy đò đậu san sát ven bờ như cố nép vào nhau trong hơi gió se se về chiều giữa thời tiết mới sang xuân. Không gian êm ả, cảnh vật tươi vui nhưng trong lòng hai người gợn lên những đợt sóng trái mùa, vỗ điệu bất an.
An kéo Nhung sát vào mình, tay trong tay, sưởi nhau qua hơi ấm. Một nỗi mong manh đâu đó như nhem nhúm, anh cảm thấy được gần Nhung trong giây phút này, nhưng ngày mai, khi Nhung lên máy bay, có khi sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Thật lâu An mới mở lời:
- Mai em đi rồi, căn phòng này để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm. Mùa đông vừa rồi, nhiều đêm ở ký túc xá anh không ngủ được, dậy viết thư cho em, xong đi về đây, trong sương trong lạnh, đi qua đi lại nhưng không vô nhà. Em biết anh nhớ em tới mức nào ... Sao chúng ta lại gặp cảnh trắc trở này... Em nói gì đi Nhung.
Nhung bùi ngùi :
- Nói gì cũng chỉ thêm buồn - rồi Nhung biểu lộ cử chỉ bắng cách nghiêng đầu tựa vào vai An. Anh cũng nghiêng đầu mình lên mái tóc thoang thoảng hương thơm, nói khẽ :
- Anh sẽ không bao giờ để mất em... chẳng lẽ ta phải buông xuôi !
Nhung nói ra ý nghĩ của mình sau đêm dài trăn trở :
- Nhưng anh còn mẹ, không thể để mẹ đau khổ khi phải sống trong nỗi lo sợ cả đời như thế, biết là dị đoan, nhưng ai mà chẳng tin, chẳng thà không biết.
An buồn rười rượi :
- Lúc nào em cũng suy nghĩ tận tường khúc chiết. Anh thì chỉ rối rắm, phải không ?
- Anh cũng đừng suy nghĩ nhiều, thời gian còn dài, mấy năm nữa anh mới ra trường.
Nói vậy nhưng An thấy Nhung rơm rớm nước mắt. Anh lấy khăn tay trong túi, lau mắt cho Nhung.
- Hè nhớ về sớm với anh nghe Nhung.
Nhung gật đầu, An ôm siết vai Nhung, nghe thời gian trôi chầm chậm.
Đưa Nhung lên máy bay xong, An về thẳng cư xá nằm buồn, nghĩ đến đôi chim trên trang thư ngày nào tặng Nhung, bây giờ sắp phải lìa xa nhau. Đến bữa cơm, ăn qua loa cho xong, An về nhà để báo cho ba mẹ Nhung biết đã đưa cô lên máy bay. Giờ này Nhung đang ăn cơm nội trú. Những ngày sau đó, thỉnh thoảng An về nhà chơi, ba mẹ Nhung mời ăn cơm, anh cũng ăn. Không ai nhắc tới chuyện cũ, nhưng hơn một tháng sau, bà Vĩnh gợi chuyện :
- Cậu có buồn thì cứ về đây chơi cho vui, bày bài vở cho mấy em. Nhung đi cậu cũng đi, trong nhà thấy vắng.
Ông Vĩnh tiếp, nửa đùa nửa thật :
- Lâu nay cậu đã dứt khoát tư tưởng chưa ?
- Dạ rồi.
Anh chợt hiểu, cả tháng nay hình như ba mẹ Nhung như đang chờ đợi ở anh một thái độ. Và bản thân anh cũng đã quyết định rồi, nên trả lời dứt khoát như thế, khiến ông bà hơi ngạc nhiên, ông hỏi tiếp :
- Cậu tính thế nào ?
An cười gượng :
- Dạ để từ từ Nhung sẽ quên và sẽ lấy chồng.
Cậu nói vậy chứ không phải dễ gì... Nhưng mà tuổi trẻ cũng chóng quên nếu mà cậu thấy không thể kéo dài. Nhung cũng vậy. Hai người đều có ăn có học, chắc phải biết cách giải quyết sao cho trọn tình trọn hiếu... Mà “  Trai thì trung hiếu làm đầu…”. Tôi nói vậy chắc cậu hiểu rồi. Con cái lấy vợ lấy chồng mà cha mẹ cứ lo sợ canh cánh cả đời làm sao sống yên ổn. Tôi nói vậy có đúng không ?
- Dạ.
Bà Vĩnh nghe ông nói rất xuôi tai, thể hiện tình cảm trong lời nói để nhẹ bớt nỗi buồn cho An. Bà tiếp lời :
- Dù không được là rể con, tôi cũng quý cậu như từ trước tới nay. Có cậu lui tới, tôi cũng đỡ nhớ con.
- Dạ, con sắp đi xa rồi.
Ông Vĩnh ngạc nhiên :
- Đi đâu ?
- Dạ chắc là vô lính.
Đang học sư phạm sao lại vô lính. Cậu nói thật hay đùa ?
- Dạ thật.
Nhìn vẻ mặt An biểu hiện sự nghiêm túc, ông nói :
- Cậu phải suy nghĩ lại cho kỹ, việc này mà vội tính có khi bỏ cả cuộc đời. Chuyện gì cũng phải bình tĩnh giải quyết.
Thấy không khí mất vui, bà Vĩnh tiếp lời :
- Cậu quyết định vậy hóa ra do chuyện tình cảm với Nhung, cũng biết rằng sống chết có số trời nhưng “Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”. Rồi cậu cũng tìm ra cho mình một người vợ vừa ý, sắp đến tuổi cả rồi. Con gái bây giờ giữa thời buổi chiến tranh bom đạn, nhưng cũng có người muốn quan quyền chức tước, cũng lấy chồng quân đội, có sao đâu. Ở hiền gặp lành.
- Dạ.
Cả tháng trời dằn vặt, An đã chọn cho mình một con đường nhưng chưa dứt khoát hẳn, nên những lá thư lâu nay gởi cho Nhung, anh chưa đề cập đến, chỉ nói xa xôi bóng gió về một cuộc chia tay có thể xảy ra, để Nhung khỏi bất ngờ khi đối mặt với sự thật. Và những cánh thư của Nhung, cô cũng linh tính một điều gì trắc trở, với những lời lẽ không vui. Nay An đã nói ra với ba mẹ Nhung điều đó, xem như anh đã quyết định xong. Trái với đời sống yên thân lâu nay, bây giờ nghĩ đến cuộc đời lính chiến, anh cảm thấy hay hay. Dù hiểm nguy nhưng vẫn nhiều điều lạ, hãy sống thử đời trai hiên ngang. Những lời nói của ba mẹ Nhung đơn giản nhưng đã khơi gợi cho anh rất nhiều. Chính anh cũng rất tin luật nhân quả. Ở hiền gặp lành.
Về cư xá, An viết thư với sự can đảm cuối cùng :
“Nhung yêu quý,
Không nói ra nhưng hai chúng ta đều hiểu hết phải không? Em có biết rằng, xa nhau lần này là có thể mình không còn gặp nhau nữa. Tuy đau khổ nhưng anh không thể im lặng giấu giếm em mãi. Anh đã quyết định con đường rồi.
Mới hôm nào đây, em nói hè sẽ về với anh, và anh nói sẽ chờ em về sớm, như phượng hoàng hẹn bạn. Anh đã nói dối rồi Nhung ơi ! Bởi khi đưa cho em tấm vé, anh xót lòng nghĩ rằng đây là bản án chia ly, chiếc khăn đẩm nước mắt của em đã thấm vào tim anh từng giọt buồn thương một khi anh chân trời góc bể. Lần này anh đi là xa em mãi mãi, là đành đoạn mối tình đầu anh và em vun đắp bấy lâu. Anh sẽ vào quân ngũ, bởi không còn cách nào hơn, nếu kéo dài thời gian, sẽ trở thành vô hiệu thôi, nó sẽ đày ải chúng ta nhưng cuối cùng vẫn không lối thoát.
Chúng ta sẽ không lấy được nhau đâu em, nhưng nếu được, cũng không thể sống mãi trong nỗi phập phồng lo ngại. Anh nghĩ kỹ, nếu anh có yểu số, thì ở đâu cũng vậy. Và anh chẳng sợ gì mà không thử thách, để còn tương lai của em. Anh nhận thấy ba mẹ em cũng bất an không kém mẹ anh. Định mệnh đã quá khắt khe với chúng ta, trên những con đường hàng ngày đi về bây giờ trở nên buồn bã, phố xá hoang vu. Mai đây khi em về, những con đường hẹp trong thành phố Huế nhỏ bé này, chứng kiến như thế nào khi anh và em cùng đi về nhưng lẻ loi mỗi người một ngã, thì anh còn ở lại mà chi. Hoặc nếu anh còn ở lại thì sẽ như thế nào khi chúng ta trong phút yếu lòng.
Anh không thần thánh hóa tình yêu đâu em, nhưng khi tình yêu đã trở nên cao quý thì sẽ vượt lên thân xác, còn em thì hết sức mềm yếu.Vì vậy, như anh thầm nhủ trong lòng, sẽ giữ gìn em đến giờ phút cuối cùng khi lên xe hoa, dù với một người đàn ông khác.
Hôm qua, trước măt ba, anh đã hứa trả tự do cho em. Còn anh, những ngày tháng đang sống nơi đây, như người tình bị hắt hủi. Anh phải đi cho em trở về, cho ba mẹ em yên vui. Con đường anh đi sẽ không còn có em, anh sẽ mang theo bên mình mấy tấm hình chụp trong Đại Nội, và chiếc áo len em đan, như còn chút hơi hướng sau cùng.
Hãy tha thứ cho anh nghe Nhung.”
Ba tháng hè không có An ở Huế, Nhung cảm giác cô đơn thiếu vắng nhưng lại nhẹ lòng vì thấy được những nụ cười vui vẻ của ba mẹ. Anh đã đúng khi nặng tay xóa lỡ mối tình đầu, giờ đây mới thấy An là cần thiết, cô trách anh sao đành đoạn, để lại không gian đầy thương nhớ trong căn phòng học cũ. Cô bắt đầu tìm quên trong việc học tiếp chương trình phổ thông bỏ dỡ, thỉnh thoảng xem truyện, viết một vài bài thơ nhỏ, hoặc đi xem phim với bạn.
Những bài toán khó bây giờ không ai giải bày, không ai dò bài học, nhưng cô vẫn cố gắng để quên đi nhớ nhung, mong hết hè để trở lại trường. Trách chi An không chịu nổi, như vậy thì thay đổi một không gian nơi anh chọn lựa không phải là không hữu lý.
Vào trường khoảng vài ngày sau là Nhung nhận thư An, cô đọc kỹ từng dòng :
“Nhung yêu thương,
Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, vĩnh viễn trong tâm tư, chúng ta vẫn là của nhau phải không em. Đây là bức thư cuối cùng trước khi anh ra đơn vị, anh cố gắng gởi kịp về trường để lấp khoảng trống cho em trong những ngày đầu niên học.
Hè này ở nhà có buồn không em ? Anh không biết em sẽ trăn trở ra sao trong ba tháng dài không có anh ở Huế. Bây giờ anh sắp tới một nơi mới đầy thử thách hiểm nguy, còn em, nay mai sẽ chuyển dạy chưa biết nơi nào, nhưng chúng ta không bao giờ lạc nhau trong giấc mơ. Những lúc về đêm, nằm trong không gian xa lạ, anh cảm nhận một phần đời em đã tan chảy trong anh, như thế mà phải chia lìa!
Ông trời thật nhẫn tâm với chúng ta, anh quay quắt nhớ về thành phố thơ mộng của chúng mình, chỉ có ánh nắng tàn tiễn chân anh ra đi. Nhưng nếu anh cố chờ gặp lại em, chúng ta được quấn quít trong vòng tay nhau, nhưng sau đó sẽ níu kéo thêm được điều gì. Em cố hiểu và đừng trách anh nghe em.
Anh quá ân hận khi không giữ trọn lời nói thủy chung với em bên thềm Đại nội, nhưng anh thầm ước một ngày nào đó em thực hiện được điều mong muốn của ba mẹ. Cũng như anh đã từng suy ngẫm rằng, em phải có một bờ vai nương tựa vững chắc trước sóng gió cuộc đời, nhưng chính anh lại làm cho em xao động. Chúng ta phải chia lìa thật oan uổng khi cuộc tình bắt đầu trở đẹp
Đến bây giờ em mới thấy cuộc tình chúng ta cao đẹp nhường nào, chừng đó đủ để suốt đời em không quên anh, cũng như anh, đầu đời cưu mang tình em, đến chết vẫn còn u hoài hình bóng.
Nhung ơi! Kiếp này không là vợ chồng, anh xin hẹn lại kiếp sau.”
CHƯƠNG VII
Thấm thoắt đã thi xong học kỳ, giáo sinh chuẩn bị mua vé về quê ăn tết. Nhung lên máy bay với nhiều người bạn cùng về Huế. Chừng hơn nửa tiếng đã đến phi trường Phú Bài.
Ra khỏi cửa máy bay Nhung hơi nghiêng người, kéo cao cổ áo ấm để tránh làn gió rét. Dưới sân bay, nhiều khuôn mặt rạng rỡ chào cười với người thân. Nhung biết mình không có An đón, cô theo bạn bước nhanh lên xe.
Sân bay xa dần, những hàng thông rũ lá trong gió đông như cùng chia sẻ nỗi buồn. Thúy, em kế của Nhung lên văn phòng của hãng máy bay ở đường Trần Hưng Đạo đón chị. Về đến nhà, Nhung thấy mẹ đang làm các món mứt, và ngạc nhiên khi thấy các em chóng lớn, bé Út phát âm chưa rõ lắm nhưng cũng nói được mấy tiếng - chị Nhung mới về - Bảo đã vào Hải quân, Bình chuẩn bị thi Tú tài một (lớp 11).
Nhung đi chợ sắm áo quần mới cho các em, đến nhà một vài người bạn thân, dạo phố xem hoa, cũng vơi bớt nỗi buồn trống vắng đang lúc không khí rộn ràng cuối năm cuốn hút mọi người, chuẩn bị sang năm mới.
Nghe tin chị Rớt có người sắp có người dạm hỏi, Nhung mừng thầm trong bụng, cứ tưởng chị chẳng có ai ngó tới.
Trước sông gần nhà Nhung có cái bến vừa xây xong gọi là Bến mới, xóm trước xóm sau đều tới đây giặt giũ. Từ khi có Bến mới này, Lành ở xóm sau thường hay ra đây tắm rửa bơi lội. Lành làm lơ xe, chở khách và học sinh từ dưới Bao Vinh lên chợ Đông Ba. Lành hơi xấu người, nhà lại nghèo nên chậm vợ. Chị Rớt thường nách thau áo quần xuống bến giặt. Nhiều lần chuyện trò thăm hỏi, Lành có vẻ chịu rồi và Rớt cũng có ý thuận tình.
Biết được câu chuyện, bà Vĩnh hứa sẽ đứng ra đại diện nếu bên nhà Lành nhận lời. Như vậy ra tết sẽ tiến tới việc cưới hỏi. Sen cũng vừa xin về quê ăn tết mấy ngày.
Đêm ba mươi, cúng giao thừa xong, cả nhà cùng xem tivi chờ xem pháo nổ. Khoảng mười hai giờ khuya, tiếng pháo bắt đầu nổ, nhưng chỉ được một lúc, không vang trời dội đất kéo dài như mọi khi, bỗng chen vào âm thanh nghe như tiếng súng, mọi người sinh nghi, sau đó thì ba Nhung và Bình xác nhận rõ ràng là tiếng súng, tiếng pháo im bặt không còn nghe nữa. Súng tiếp tục nổ giòn hơn phía trên cầu và một vài nơi xa hơn, ông Vĩnh biểu Bình đóng cửa, tắt bớt đèn. Lâu lâu lại thêm vài loạt súng nghe rất gần.
Đèn trong nhà tắt hết, chỉ để lại ngọn đèn nhỏ sau bếp.
Ông Vĩnh hỏi Bình :
- Ba nghe tiếng súng ở đâu gần lắm ?
- Dạ đâu như phía bên kia sông, với đâu trên Thượng thành.
- Tiếng súng nghe lạ lắm, bắn từ nhiều phía.
- Dạ toàn tiếng AK của quân Bắc Việt.
- Sao con biết là tiếng AK ?
- Dạ, con hay đọc báo và nghe các bạn nói, tự nhiên nghe là biết liền. Ông Vĩnh giục :
- Thôi lên giường hết đi .
Mọi người lên giường nhưng không ai yên tâm, hình như linh tính đang xảy ra sự việc gì rất hệ trọng trong thành phố. Nếu không, giờ này ngoài đường đã ồn ào tiếng xe tiếng người đi chùa, đi hái lộc, đi chơi, đèn đuốc nhà nào cũng sáng trưng, pháo đốt tưng bừng liên tục chứ không im bặt như hiện giờ.
Không ai hiểu điều gì xảy ra. Bồn chồn, ông Vĩnh trở dậy đi thật nhẹ ra cửa, Bình đi theo, vén hé màng cửa nhìn ra đường. Trong làn mưa mỏng lay bay có bóng nhiều người mặc đồ bộ đội cầm súng đi qua đi lại trước đường, có cả nữ du kích tay cầm súng, nhìn qua bên kia đường Bạch Đằng cũng thấy có bộ đội đứng rãi rác dưới các gốc cây ven bờ sông.
Không gian như cô đặc, thời gian trôi chậm từng khắc, tuy vậy, từ đó về sau không còn nghe tiếng súng nữa, nhưng tất cả là một màn bí mật đang trùm phủ trong suy nghĩ mọi người. Chiến tranh đang khốc liệt trên mọi miền đất nước, nay lại xảy ra ngay trong thành phố Huế nửa đêm như thế này là điều khó ai hiểu được.
Gần hai giờ khuya, mọi người ngủ quên được vài tiếng rồi thức dậy sớm chờ trời sáng. Không có động tĩnh gì ngoài đường, cửa mọi nhà đóng im ỉm, du kích quân vẫn còn rãi rác đi lên đi xuống hai bên bờ sông. Chị Rớt dậy chiên bánh tét, cả nhà ăn qua loa cho mau, người này nhìn người kia với dấu hỏi lớn trong đầu. Cho đến khi các du kích đi ngang trước đường kêu gọi dân hạ cờ vàng ba sọc đỏ xuống, rồi phân phát cờ Giải phóng, nền cờ màu đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng, bắt treo lên. Bình nhác thấy hai học sinh trong xóm học cùng trường, ra đường kêu gọi nhà nào cũng phải treo cờ Giải phóng, rồi đến gần các du kích nói chuyện, vui cười có vẻ thân thiện, đó là Liêm ở đầu cầu Đông Ba, và Quỳnh Hương ở xóm sau, bây giờ mới biết rõ học sinh hoạt động nằm vùng trong trường học, trông họ thật hiên ngang đáng nể, mà cũng đáng sợ.
Chưa tới nửa tiếng, cờ Giải phóng tung bay trước cửa mọi nhà. Nhiều nhà bắt đầu ra ngoài nhìn lên nhìn xuống một cách thận trọng, sự yên tĩnh vẫn duy trì, bỗng thấy mấy thanh niên chừng bốn người độ tuổi học sinh đi bộ lên phía cầu Đông Ba, có lẽ mấy người này vô tư chưa hiểu rõ mức độ nghiêm trọng chiến cuộc đang xảy ra, không biết sợ, rũ nhau đi coi tình hình.
Một lúc sau nghe tiếng súng nổ về hướng trên, sau đó thấy một xe ba gát chở một xác chết trong số học sinh lúc nãy đi về phía dưới, và ba học sinh đi bộ theo sau. Nghe nói người này bị bắn gần cửa Đông Ba, bộ đội nghi họ là nhóm người đi dò thám tin tức hoặc muốn chống đối. Từ đó không ai còn dám đi lại ngoài đường nữa.
Thức ăn dự trữ những ngày tết có sẵn nên chỉ việc nấu nướng trong nhà cho xong bữa trưa, đến chiều vẫn không nghe động tĩnh gì, cả nhà ăn cơm vội trước khi trời tối, xong đóng kín cửa, đèn trong nhà chỉ sáng lúc đầu hôm rồi tắt sớm, chỉ để lại một ngọn nhỏ và quan trọng là giữ sao cho bé gái Út đừng khóc. Hai đứa em trai tiếp của Bình, đứa lớp đệ lục (lớp sáu), đứa lớp bốn, biết sợ nên ai biểu gì nghe đó.
Đêm mùng một bắt đầu với tình trạng tinh thần giao động hồi hộp mặc dù bên ngoài vẫn yên tĩnh. Ông Vĩnh vô phòng mở đài BBC, đặt écouteur vào tai nghe tin tức. Quân Giải phóng tổng công kích đêm ba mươi tết, chiếm mọi tỉnh thành miền nam Việt Nam. Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng bị đặc công khống chế cho đến khi trời sáng mới rút lui vì hỏa lực trong Tòa Đại sứ rất mạnh, hai bên đều có thương vong lúc giao tranh. Các quận huyện khác ở Sài Gòn và các tỉnh phía nam Trung bộ cũng bị chiếm đóng, lực lượng Mỹ và Việt Nam đang chống trả quyết liệt.
Ông Vĩnh nghe vậy nhưng không nói với ai trong nhà. Thật là một biến cố động trời, không hiểu sẽ ra sao. Sáng ra, không ai dám ra khỏi nhà, ngoài đường vẫn không xe cộ, không quán chợ hàng rong. Đến hai giờ chiều bỗng có tiếng pháo kích từ xa, một lúc lại nghe thật gần, hình như bên Bãi Dâu hoặc phía trên cầu Trường Tiền, lại có hàng loạt AK nổ giòn nhưng không có tiếng súng bắn trả, không ai hiểu ra điều gì. Xưa nay giao tranh xảy ra ở chiến trường chứ có đâu trong thành phố thế này, lại ngay trên đất Thần kinh.
Ông Vĩnh dặn cả nhà nếu có gì thì xuống núp dưới tấm phảng. Pháo vẫn tiếp tục nổ, bà Vĩnh sợ quá chỉ ngồi yên trên một góc tấm phảng, mắt nhìn ra cửa. Nhung và các em cũng sợ nhưng bình tĩnh hơn, mắt trông chừng bé út không cho chạy lung tung, đưa cho mấy cái bánh nó mới chịu yên một chỗ.
Ông Vĩnh và Bình lắng nghe hướng pháo đi, trao đổi:
- Hình như pháo trong đồn Mang Cá bắn đi - Bình nói.
Ông Vĩnh nêu thêm nhận xét:
- Đúng rồi, đó là tiếng đề-pa, nghe ở đâu gần lắm?
- Chắc là phía sân bay Tây Lộc bắn đi nữa nhưng không biết trúng chỗ nào.
Nhà ông Vĩnh ở khoảng giữa cầu Đông Ba và cầu Thanh Long, cách đồn Mang Cá khoảng hơn một cây số, ông nghĩ chắc khu vực này sẽ bị pháo kích nặng để dọn đường cho bộ đội tiến đánh đồn.

Pháo im chừng vài tiếng, khoảng bốn giờ chiều nhiều tiếng đề-pa đưa pháo đi, tiếp là tiếng pháo kích của bên kia bắn trả, nghe rõ mồn một. Đến khoảng bảy tám giờ tối lại tiếp nhiều tiếng pháo chung quanh tứ phía, tuy không dày nhưng là tiếng pháo của cả hai bên. Pháo kích trúng vô đồn nhưng có thể lạc vào nhà dân, không biết dân sống chết thế nào, ai cũng nghĩ vậy. Từ nhiều năm trước đó, vài ba hôm lại có pháo kích vào thành phố, đồn bót không nghe nói nhưng hay trúng vào nhà dân, sáng ra ti vi đài báo lại đăng tin nhà sập, người chết, đã bao nhiêu năm nay rồi.
Ông Vĩnh không cho thắp đèn dầu trong nhà, sợ nếu dầu bị đổ thì sẽ gây cháy, chỉ thắp ngọn đèn cầy, dùng tấm váng che phía trước cho bớt ánh sáng ra ngoài. Căng thẳng cho đến rạng sáng, cũng may em bé biết sợ tiếng nổ nên không dám khóc.
Vậy là thành phố trở thành trận địa đã qua hai ngày. Sáng ra,vài nguồn tin cho biết kết quả những lần pháo kích hồi hôm, một số trúng vào nhà dân, có vài nhà bị sập và chết mấy người. Nghe vậy, nhà nào cũng tìm bao bị hoặc hỏi nhau mua bao cát sẵn để đổ cát vào. Chị Rớt và Nhung, Thúy phụ nhau lo nấu nướng bữa ăn thật nhanh, cả nhà chuẩn bị tinh thần khi có tiếng nổ là chui xuống tấm phảng.
ÔngVĩnh và Bình ra ngoài đường nghe ngóng, thấy chú Phùng đang nói chuyện với mấy người hàng xóm. ông Vĩnh bước sang hỏi chuyện, tất cả đang dò đoán tình hình và trao đổi tin tức đài BBC vừa nghe hồi sáng sớm. Phía quốc gia đã lấy lại được nhiều tỉnh, sinh hoạt trở lại bình thường, nhưng so với tình hình còn căng thẳng hiện tại ở Huế thì rất khó phỏng đoán, bộ đội làm chủ khắp nơi, các vùng ven, nhất là trong Đại Nội, họ đào nhiều hầm hố, chiến hào cố thủ, không thấy quân đội Việt Nam.
Một số người đang di tản từ dưới cầu Thanh Long đi lên, chú Phùng lên tiếng hỏi mấy người đi qua trước nhà :
- Dưới đó có gì mà chạy lên nhiều vậy mấy anh?
Một người trong đám trả lời:
- Đêm qua đồn bị pháo kích.
- Can gì không?
- Vài lính trong đồn chết, vài nhà chung quanh đồn bị sập, dân cũng có người chết.
Vừa nói họ vừa đi tiếp lên phía trên. Ông Vĩnh nói:
- Hồi hôm tôi nghe pháo gần lắm, về phía này - ông chỉ tay về phía dưới- tôi đoán đúng là đồn bị pháo.
Chú Phùng góp ý thêm:
- Theo tôi nghĩ thì đồn sẽ còn tiếp tục bị pháo, có thể bộ đội sẽ đánh chiếm đồn Mang Cá chưa biết lúc nào.
- Chắc là như vậy, pháo lung tung kiểu này, không biết ngõ nào mà tránh. Bên hữu ngạn dân di tản khá nhiều lên Kim Long, Nguyệt Biều, đài BBC nói vậy.
Chú Phùng lại nêu thắc mắc:
- Chẳng lẽ không có tiếp viện, nhiều căn cứ của Mỹ ở Phú Bài, Thuận An,Trường Bia… nhiều đồn binh khác nữa.
Bác Tân nãy giờ mới mở lời bình luận:
- Tôi nghĩ sẽ có phản kích, không lẽ Mỹ chịu thua, coi chừng mình ở giữa hai lằn đạn. Có thể quân Giải phóng sẽ dùng con đường này để tiến quân chiếm đồn, đây sẽ là bãi chiến trường, mà hiện tại thì dân dưới đó lại di tản lên, họ sợ dưới đó vướng phải tầm đạn pháo kích của bộ đội.
Bác Tân đưa mắt nhìn hai người đối diện hỏi thêm :
- Giờ tính sao đây?
Chú Phùng đưa ý kiến:
- Mình như cá trong rọ, chạy lên không được chạy xuống không xong. Bây giờ ở đâu cứ yên chỗ đó, từ từ hãy xem, muốn đi đâu cũng phải có nhà bà con quen biết, cần nhứt là lo chỗ núp bảo đảm chứ biết chạy ngõ nào.
Lời chú Phùng nói nghe có lý, ai cũng tán đồng. Ông Vĩnh nhìn ra đường. Mới thấy Bình đứng đó, ngó lại không thấy, nhìn cuối tầm mắt thấy có hai người đi lên cùng với Bình. Vừa tới nơi, ông Vĩnh hỏi Bình:
- Con đi đâu nãy giờ?
- Dạ hồi hôm nghe pháo nổ nhiều ở dưới, con xuống coi thử. Người ta di tản rất đông về Hương Trà, Bao Vinh, Sơn và anh Tâm chạy lên đây với con.
Sơn cầm tay Tâm giới thiệu với ông Vĩnh :
Dạ đây là chú con.
Sơn thì ông Vĩnh biết rồi, bạn học một lớp với Bình, thường đến nhà chơi mỗi lần đi học về, tính Sơn vui vẻ, hay chọc cười mấy em của Bình nên cả nhà rất mến, xem như người trong nhà.
- Sao không chạy về làng? - Ông Vĩnh đưa mắt hỏi Sơn.
- Dạ cháu với chú Tâm là thanh niên, sợ về đó sẽ gặp bộ đội tiếp viện từ phía các làng đi lên.
Dò xét tình hình coi như tạm xong, ông Vĩnh nói:
- Thôi coi vô nhà bớt đi, đừng có tập trung ngoài đường đông quá.
Nói rồi ông Vĩnh chào ba người hàng xóm rồi trở vô nhà. Tất cả ra nhà sau, cửa trước đóng kín. Nhìn Sơn, bà Vĩnh hỏi thăm cặn kẽ nhiều chuyện. Sơn kể lại và kết luận:
- Dưới đó hiện rất lộn xộn, con với chú con lên đây tạm lánh, xem tình hình rồi mới tính được. Ông Vĩnh hỏi:
- Vậy ba má con chạy đi đâu?
- Dạ, ba má con chạy về dưới Hương Trà, có nhà bà con dưới đó.
- Dưới làng có yên không?
- Dạ dưới đó thấy yên vì xa đồn, chỗ con bị pháo quá nên chạy lên đây, hai chú cháu con chạy lên đây cũng là chạy đại, miễn xa được đồn. Bác cho con ở lại đây, xem tình hình thế nào rồi tính.
Bà Vĩnh nhìn hai người, nói:
- Con cứ ở lại đây không sao, khi nào yên hãy về.
- Dạ.
Ba người lên nhà trên, ngồi trên ghế salon, trao đổi nhiều chuyện, cũng là những điều mắt thấy tai nghe và những dự định nhưng không có cách giải quyết nào rõ ràng. Đến gần trưa, chị Rớt và Nhung, Thúy vô bếp phụ nhau chiên bánh tét, nấu thêm cơm và thức ăn. Nhà có khách, Nhung lấy thêm bún tàu nấu với một ít măng hầm thành vài tô canh, mở thêm mấy lon thịt hộp, xong xuôi Nhung mời ba mẹ và biểu Thúy lên gọi ba người xuống ăn.
Không phải mời gọi nhiều, người nào cũng tập trung vào việc ăn uống nhanh cho xong.Trong bữa ăn, Sơn kể lại chi tiết chuyện đêm qua ở nhà mình cho mọi người nghe,ai cũng tức cười vì giọng của Sơn pha hài hước :
- Bình biết sao không? Nghe pháo kích sát bên tai, sợ quá trời mà còn phải ngửi mùi nước tiểu nồng nặc.
Minh - em Bình tò mò hỏi:
- Sao vậy anh Sơn?
Sơn nhăn răng cười, cao giọng:
- Thì phải chui xuống giường con bé, lớn mấy tuổi rồi còn đái dầm - Sơn cố ý nói to để ai cũng phải cười - Trời ơi là hắn hôi.
Nhung lên tiếng hỏi thật tình :
- Không còn chỗ nào sao phải chui xuống giường em bé?
- Quýnh quá biểu không gặp đâu chun vô đó, để che con mắt mà thôi chứ cái giường mà ăn nhằm gì với bom đạn. Mà chị Nhung à, bảo đảm hồi hôm chị cũng không nằm được trên giường đâu.
- Sao biết? - Nhung cười.
Sơn nhanh ý, hất đầu về phía tấm phảng, cười nhộn :
- Đó…
Nhiều đôi mắt cùng nhìn về phía tấm phảng được che quanh bằng những chiếc ghế gỗ, tủ nhỏ và các thứ linh tinh đặt trên tấm phảng rộng vuông vứt một mét sáu. Nhung cười theo.
Người khách lạ nãy giờ chỉ ngồi nghe mà không nói gì, chỉ thỉnh thoảng nhìn Nhung với ánh mắt có vẻ xa xăm.
Ông Vĩnh vừa ăn vừa cười theo bọn trẻ mặc dù sự lo lắng vẫn canh cánh bên lòng. Ông đưa mắt nhìn Tâm:
- Đài BBC bình luận thành phố Huế là yếu điểm cuối cùng sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân. Quân Giải phóng chắc tràn ngập thành phố ? Tâm trả lời :
- Dạ, bộ đội đang làm chủ tình hình, kiểm soát hết rồi, chỉ có dưới cầu Thanh Long là họ chưa qua được vì gần đồn Mang Cá, con đường này khó tiến quân được vì dễ lộ mục tiêu.
Ông Vĩnh hỏi thêm:
- Đêm ba mươi có nghe chạm súng gì đâu, vậy mà quân Giải phóng tràn vô thành phố, tới giờ đốt pháo giao thừa thì nghe tiếng súng vài loạt rồi thôi, vậy thì họ đánh nhau ở đâu.
- Dạ, chắc là họ chiếm được những căn cứ quân sự phía ngoại thành, bên ta bị thua rút lui, đường vô thành phố bỏ ngõ nên không nghe chạm súng, họ vô thành phố vào ban đêm, đến giao thừa bắn súng thị uy cho dân biết quân Giải phóng đã vào phố Huế.
- Còn đồn nào gần đây nữa không, họ có đánh chiếm nữa không?
Tâm nói :
- Họ đã tới đây rồi, chắc là sẽ đánh chiếm những đồn còn lại ở Huế, con nghi còn phi trường Tây Lộc, đồn Mang Cá sẽ bị đánh và họ sẽ đánh tới Bao Vinh, con mới chạy lên đây.
- Có chắc chắn như vậy không?
- Dạ con nghĩ vậy nhưng chưa biết lúc nào.
- Có nghe gì nữa không?
- Dạ nghe cả thành phố Huế bị cô lập, chỉ còn hy vọng sự yểm trợ pháo từ phi trường Phú Bài hoặc dưới Thuận An với mấy căn cứ quân sự chưa bị chiếm, nhưng nếu bên mình pháo vào đây thì thành phố sẽ thành bình địa, do đó phải có kế hoạch đánh chiếm lại bằng quân đội.
Nghe lối nói khá rành mạch, ông Vĩnh hỏi thêm về Tâm:
- Hình như cậu là người trong quân đội?
- Dạ.
- Đóng ở đâu?
- Dạ ở Quảng Ngãi, con được về ăn Tết mấy ngày, giờ bị kẹt lại.
Ông Vĩnh hơi băn khoăn:
- Chà, Quảng Ngãi đang đánh nhau dữ lắm, cậu có hay ra trận không?
- Dạ gần như thường xuyên, xong trận này tiếp đến trận khác, con làm bên truyền tin.
Ông Vĩnh có vẻ suy nghĩ, thấy vậy Sơn vội giải thích :
- Dạ chú Tâm con là lính Chiến tranh chính trị, thường ở mũi sau, chỉ trừ khi xáp trận.
- Ờ, nhưng bây giờ ở đâu cũng nguy hiểm, súng đạn vô tình, đừng có xem thường.
Tâm cười nhẹ :
- Dạ, sống chết cũng có số mạng.
Ông Vĩnh ra khỏi bàn ăn. Sơn còn cầm đĩa bánh tét đẩy qua đẩy lại mời Tâm và Nhung.
Nhung nói:
- Thôi Sơn, chị no rồi.
Nhung quay qua em gái, biểu Thúy lấy thêm hột dưa và mứt ra. Sơn tán đồng:
- Đúng rồi chị Nhung, mấy ngày nay mứt món ế ẩm, giờ dọn ra nhiều nhiều kẻo để lâu nó kiện.
Trong đám bạn học của Bình, Sơn tự nhiên và vui nhộn nhất, ngày nào cũng ghé nhà làm bài với Bình, lúc nào cũng chọc cười vài câu mới chịu về. Qua cách nói chuyện của Sơn, Tâm bắt đầu thấy mạnh dạng, nét cởi mở hiện trên khuôn mặt, anh khéo léo gợi chuyện với Nhung, được biết Nhung cũng đang học sư phạm ở xa về ăn tết bị kẹt như anh.
Tâm hỏi thêm về một số sinh hoạt ở lớp học, ở nội trú của Nhung vì Tâm nói rằng anh cũng là dân nội trú bốn năm tại Đà Lạt. Nhung hỏi Tâm về khí hậu và cảnh đẹp chùa Trúc Lâm, những đồi thông, hồ Than Thở … Tâm trả lời và có ý thêm thắt:
- Cảnh đẹp Đà Lạt rất thơ mộng, đi đâu cũng thấy hoa, trước cửa nhà nào cũng có hoa, hoa lúc nào cũng tươi thắm nhờ khí hậu, xứ của ngàn hoa mà. Hoa thiên nhiên và hoa biết nói.
Nghe câu nói hay hay, Nhung góp ý thêm:
- Nghe nói con gái Đà Lạt khá đẹp, hai má lúc nào cũng đỏ hồng.
- Mỗi lần nữ sinh tan trường, toàn là “má đỏ môi hồng”… chân đi không rời.
- Ai đi không rời?- Nhung cười bắt bẻ khi nghe câu dí dỏm của Tâm. Tâm trả lời với nụ cười xuề xòa :
- À! Thì là ...mấy người bạn ấy mà.
- Như vậy là không có anh Tâm?
Tâm muốn chứng tỏ mình không nói dối :
- Ờ, thỉnh thoảng cũng có chứ, Đà Lạt nhiều cảnh đẹp, ngày chủ nhật các cô gái thường đi ngắm cảnh hái hoa, không nhìn cũng thấy.
Nhung cười cười :
- Con gái Đà Lạt được ưu tiên, nhiều người trồng cây si.
Tâm phản ứng, pha phách một tí ba hoa:
- Ồ không, ngược lại, tuy có si nhưng bọn anh vẫn trồng cây xa một quãng, để cho các cô còn nhìn xa trông tới - Nói xong câu, Tâm nhìn Nhung với đôi mắt hàm ý.
Nhung nhận thấy một chút kiêu hãnh trong lời đối đáp của Tâm như đã có ý nghĩ đó trong đầu từ lâu, nhưng không khiến cô mất cảm tình, vì từ lúc gặp anh đến giờ, cô cảm nhận như lúc nào anh cũng phủ lên cô một ánh nhìn tuy xa mà gần, bắt buột cô phải nhìn lại mỗi lần đối đáp, do đó cô phải giữ gìn ý tứ.
- Anh Tâm ra đơn vị lâu chưa? - Nhung hỏi.
- Mới hơn một năm.
Bình tìm hiểu :
- Ngành của anh chắc học hành thỏa mái, không nặng về quân sự.
- Có chứ, nhưng không nặng lắm ở thao trường, chú trọng về lý thuyết chính trị, điều động kế sách, truyền tin…
Sơn tiếp lời :
- Hèn gì thấy chú đem về toàn là tiểu thuyết tình cảm?
Câu nói khá đột ngột khiến Tâm lúng túng nhưng anh trả lời được ngay:
- Thì tại anh chưa có người yêu nên phải ôm tiểu thuyết cho đỡ buồn.
Câu nói nửa đùa nửa thật này khiến Nhung chóng kết luận Tâm rõ ràng là một con người có tính bông lơn mà nhanh trí, không phải tay tầm thường. Tuy nhiên lối nói dí dỏm và tế nhị không thể làm mất lòng người khác, bởi kèm theo đó là tiếng cười ấm áp đượm vẻ hồn nhiên. Có lẽ vì khuôn mặt của Tâm chữ điền nhưng không góc cạnh, nước da trắng với hai gò má hơi hồng như còn lưu thời tiết nắng lạnh của khí hậu Đà Lạt sương mù, càng thêm vẻ tuấn tú. Có lẽ biết điều đó nên Tâm có vẻ tự tin.
Nghe xong Nhung chỉ cười và cố lờ đi câu trả lời khi Tâm muốn hỏi gì thêm.
Bình đặt câu hỏi thăm dò :
- Anh Tâm đẹp trai vậy mà chưa có người yêu, xạo quá.
- Anh xin thề - Tâm đưa cao hai tay và đưa mắt sang Nhung.
Sơn bào chữa:
- Ngó vậy chứ chú Tâm của Sơn kén lắm đó, không dễ tính đâu chị Nhung.
Được thể Tâm nhấn mạnh:
- Không phải đâu, tại các cô gái bây giờ khó tính, chê lính xa nhà, rày sống mai chết, nhất là các cô gái đẹp.
Nhung hiểu ý Tâm muốn ám chỉ mình, cô đắn đo lên tiếng thật khéo:
- Là lính con cưng của chính phủ, dễ gì chết được.
Tâm trả lời có vẻ đăm chiêu:
- Ồ, không phải đâu, bây giờ ông tướng còn chưa bảo đảm kể gì cỡ mình. Lúc còn học ở trường đã thấy chuyện chết chóc rồi, huống gì bây giờ đã ra mặt trận.
Thúy ngạc nhiên:
- Ủa sao vậy anh Tâm. Ở trường sao lại chết ?
- Vì trường lâu lâu vẫn bị pháo, có chỗ nào mà “mấy ổng” bỏ qua.
Bình thắc mắc :
- Vậy thì phải có hầm hố kiên cố?
- Thì cũng có nhưng mà bọn anh ít khi xuống hầm.
- Sao vậy?
- Vì trường có mấy tầng lầu, bê tông kiên cố. Khi có pháo kích thì chạy xuống tầng dưới, anh nào gan dạ cứ nằm tầng trên cố thủ. Nhưng mà bọn anh không ai sợ súng đạn cả.
- Anh Tâm nói như thật – Nhung nói vào.
Tâm cười cởi mở:
- Không lẽ nãy giờ anh toàn nói xạo. Nhung tính coi nè - pháo kích chưa chắc đã trúng, nếu trúng chưa chắc đã bị thương, mà bị thương chưa chắc đã chết. Do đó bọn anh vẫn bình tĩnh khi có pháo. Đời lính không có món đó thì còn gì thú vị nữa.
Nhung bật cười góp ý:
- Anh Tâm có vẻ siêu lý luận, nhưng cũng có phần đúng với thực tế. Vừa rồi trường Sư phạm cũng sém bị trúng pháo, khu nội trú ở gần khu quân sự Mỹ nên khi có pháo kích, tụi em phải chui xuống giường chứ không bình tĩnh được như các anh.
Sơn chen vào chọc quê Nhung:
- Đó, chị Nhung thấy chưa, giải pháp tránh pháo kích tuyệt vời nhất vẫn là chui xuống giường.
Nói xong Sơn cười hể hả. Nhung hơi đỏ mặt vì thẹn, chống chế :
-Thì dù trên trần có lớp bê tông nhưng cũng phải sợ mảnh văng vào cửa, ở nội trú làm gì có cửa ngõ kín đáo.
Câu chuyện chấm dứt khi Nhung dọn mâm bưng xuống, Tâm nhìn theo, Sơn đứng dậy rũ Bình ra đường, gọi Tâm đi theo nhưng anh không đi, Sơn sực nhớ ra Tâm là quân nhân.
Còn lại một mình Tâm, cảm thấy hơi lạ người lạ cảnh, anh lên nhà trên, đứng nhìn ra sông, nét mặt trầm tư xa vắng. Tự nhiên Nhung để ý đến cá tính của người thanh niên nầy, mới qua một cuộc nói chuyện, đã để lại nhiều ấn tượng. Một lối nói có tính cách ám chỉ nhưng rất thu hút người nghe.
Tâm trở lại ngồi trên ghế salon, ánh mắt xa vời khác với tính cách vui nhộn mới đây. Từ phía sau, Nhung nhìn nghiêng khuôn mặt đang suy tư, chắc chắn anh không phải là người vô tư hời hợt. Lúc này mới thấy rõ thực nét mặt của Tâm, đường nét và sáng vẻ thông minh, tăng thêm tính cách phong lưu nhờ khoác lên người chiếc áo manto khá dày màu nâu non dài đến đầu gối, cho thấy rõ một chiều cao lý tưởng.
Nhung muốn nói Tâm lên lầu nghỉ trưa, nhưng sực nhớ lại căn phòng trên đó của riêng An, biết bao kỷ niệm, dù có thể An không bao giờ trở về đây nữa, nhưng Nhung không muốn Tâm lên đó, vì vậy cô im lặng.
Tuy vậy một lúc sau, Tâm đứng lên nhìn Nhung một thoáng rồi đi thẳng lên lầu, nói với Nhung anh lên nghỉ một lúc buổi trưa vì trong người hơi mệt.
Gần một tiếng sau, có tiếng ồn ào của Sơn và Bình ngoài ngõ, rồi hai người đi vào nhà, tay người nào cũng có những thứ đồ lỉnh kỉnh nhiều bao bị đựng khoai sắn, một bao cát đầy gạo, nhiều gói bánh mứt, sữa guigoz… Bà Vĩnh ngạc nhiên hỏi ở đâu mà có, Bình nói:
- Con lấy ở mấy nhà bán gạo và tạp hoá mà chủ nhà đã di tản, nhiều người biết còn nhiều đồ trong nhà nên họ mở cửa vào lấy, tụi con cũng lấy một ít.
Ông Vĩnh rầy rà:
- Lấy chi của người ta?
Sơn lên tiếng:
- Dạ mình không lấy người ta cũng lấy bác à.
Nghe tiếng ồn ào ở dưới, Tâm bước xuống, vừa thấy đồ đạt vừa mang về, Tâm bảo:
- Mấy đứa là thanh niên, đi lung tung không sợ nguy hiểm ?
Sơn giải thích đúng theo đúng ý của Tâm :
- Cháu thấy người ta đi nhiều mới đi theo đó chớ, mà mấy thứ này cũng cần, có sữa cho em bé nè, đến khi du kích đến giải tán mới thôi.
- Thấy chưa, không được đi đâu nữa.
Tâm nói để nhấn mạnh thêm cho Sơn và Bình hiểu tầm quan trọng của tình hình.
CHƯƠNG VIII
Thúy dọn mọi thứ ra bếp. Khoảng ba giờ chiều bỗng có tiếng nổ, mọi người dáo dác nhìn nhau. Ông Vĩnh biểu chui hết xuống phảng gấp. Bình lớn tiếng gọi Tâm nhưng đã thấy anh xuống rồi.
Tâm nói với ông Vĩnh:
- Dạ hình như tiếng pháo kích vô đồn.
Bà Vĩnh đã ngồi yên dưới phảng. Tiếng nổ vẫn tiếp tục, sau đó dày hơn từ nhiều hướng khác nhau, lần này Tâm biểu cả nhà vô hết dưới tấm phảng.
- Cả hai bên đều pháo – Tâm nói.
Tất cả đã vào trong, chỉ trừ mình Tâm đứng ở ngoài.
Có tiếng Sơn gọi lớn:
- Chú Tâm vô đi.
- Chú biết rồi, cứ yên đó đi.
Tâm ở trong quân đội nên quen bình tĩnh, hoặc là anh thấy lúng túng khi phải vào ngồi chung dưới tấm phảng thấp có nhiều người. Anh suy luận nếu pháo nổ gần thì ở trong hay ngoài tấm phảng cũng vậy thôi, và tự nhiên có cảm tính pháo sẽ không đến gần.
Tiếng nổ vẫn tiếp tục, nghe rõ tiếng dội và tiếng sàn sạt của mảnh đạn phía bên kia sông như tiếng nhà sập, kéo dài gần mười lăm phút thì thưa dần rồi im. Tuy vậy không ai dám ra ngoài, bà Vĩnh chưa hết run, ôm riết bé Út vào lòng.
Tâm lên tiếng cảnh giác:
- Khoan ra đã, để coi còn pháo nữa không.
Hơn mười lăm phút yên lặng, Sơn và Bình chui ra trước, đến chị Rớt, rồi đến ông Vĩnh. Lát sau nữa, Nhung và cả mấy đứa em ra theo. Bà Vĩnh còn sợ chưa dám nhúc nhích, nói với ra :
- Nhung coi phụ với Rớt nấu nướng nhanh lên, có gì ăn đó cho xong trước khi trời tối.
Cơm nước xong xuôi, trời gần tối lại có trận pháo cả hai bên, chỉ một lúc rồi im nhưng cả nhà đều nằm dưới phảng cho đến sáng, chỉ có ông Vĩnh, Tâm, Sơn và Bình ngủ ở ngoài. Gần sáng, nghe có tiếng người nói ngoài đường, Bình ra mở cửa, Sơn ra theo. Một lát nghe ngóng tình hình, Bình trở vô.
Ông Vĩnh đang mở radio nghe đài. Sơn nói:
- Nghe nói trong đồn bị nặng, một vài nhà dân bị trúng, nhiều nhà đang di tản. Bên Bãi Dâu, cầu Gia Hội, trong Thành nội bị nặng.
Tâm góp ý:
- Kiểu này mình phải làm hầm lại cho chắc, núp đạn pháo như thế này không bảo đảm.
Tuy Tâm chỉ nói chừng đó nhưng cả nhà ai cũng nghĩ ra mức nguy hiểm của vấn đề. Bao cát mua từ hôm trước được đem ra, mấy anh em Bình phụ nhau xuống sông xúc cát cho vào bao. Tâm muốn phụ làm theo nhưng ông Vĩnh không cho.
Xuống sông lấy cát, thấy nhiều nhà cũng làm vậy, vài du kích đi qua đi lại nhưng họ không phản ứng gì, nhà nào cũng lo làm mau kẻo sợ pháo kích. Không bao lâu bao cát chất được hai lớp trên tấm phảng, nhìn cũng như cái hầm vậy, bà Vĩnh hối thúc mọi người ăn cơm trưa.
Chừng ba giờ chiều nghe tiếng máy bay B52 lao qua trên đầu, rồi những tiếng nổ rải rác ở đâu xa, chừng một lúc sau có tiếng trực thăng và U.Titi bay tới, Tưởng sẽ còn đánh nhau nữa, nhưng trực thăng chỉ quần một lúc rồi bay đi.
Mặt trời vừa tắt thì mọi việc trong nhà tạm xong. Điện bị cúp, ông Vĩnh chỉ cho thắp một ngọn đèn cầy, rồi ông mở đài BBC. Nghe nói dân di tản rất nhiều đến ở tại các công sở, trường Quốc học, trường Đồng Khánh… Trong Thành nội thì bộ đội vô nhà dân hoạt động hội họp.
Sơn và Bình nằm trên divan. Thấy divan không đủ cho ba người nên Tâm lên lầu một mình. Bình nói :
- Chú Tâm nằm đây luôn, lên đó có gì chạy xuống không kịp.
Tâm trả lời:
- Không sao, có gì chú nhảy xuống liền.
Mới nghỉ lưng được một lúc, bỗng tiếng pháo kích ầm ầm vang dội chung quanh, tiếng nổ mỗi lúc mỗi dày hơn, xen tiếng đề-pa từ trong đồn đưa ra, đạn bay vút trên nhà nghe rõ tiếng xé gió. Sơn lớn tiếng gọi Tâm rồi tìm miệng hầm lao vào. Không khí bị đồn ép, ngọn đèn cầy chao mạnh rồi tắt, Thúy bật cây đèn pin, bật rồi tắt nhiều lần để có ánh sáng trong hầm xem chừng em bé.
Tâm lần trong bóng tối bước xuống lầu. Một đổi không thấy Tâm vô, Sơn gọi:
- Chú Tâm vô mau.
Tâm vẫn bình tĩnh:
Không sao, có gì chú vô liền. Im đi để nghe.
Nghe Tâm nói vậy ai cũng nín thinh tập trung. Tiếng pháo hai bên trả đũa liên hồi, đạn bay vun vút trên đầu nghe rõ, tiếng nổ có vẻ hỗn loạn, xa có gần có, tất cả căng thẳng vì ai cũng chỉ biết nín thở lắng nghe. Người nào cũng hiểu rằng, trận địa đang diễn ra không xa, ngay trên từng mái nhà. Bà Vĩnh niệm Phật liên tục. Cũng như lúc chiều, khoảng gần mười lăm phút thì pháo thưa dần rồi ngưng. Tuy vậy, đó chỉ là sự yên ổn tạm thời, tai ương có thể chụp xuống bất cứ lúc nào, chỉ biết cầu Trời khẩn Phật.
Khoảng mười một giờ khuya có tiếng chân chạy bên ngoài, rồi nghe tiếng thì thầm ngay ngoài hiên cửa, nghe kỹ là giọng Bắc kỳ khiến Tâm thắc mắc, chừng một lúc thì im lặng.
Bóng tối trùm khắp gian nhà nhưng không ai nghĩ đến việc thắp đèn, chỉ dùng đèn pin khi cần, bởi nếu có ánh sáng thì sẽ nguy hiểm, bộ đội biết có người trong nhà sẽ vào nhà.
Sơn bò ra miệng hầm hỏi nhỏ:
- Chú Tâm ngủ chưa?
- Chưa.
- Chú nằm chỗ nào?
- Trên divan, ở trong đó đi, chưa yên đâu.
Sơn nằm yên mong được chợp mắt đôi chút. Trời vừa rạng sáng đã nghe tiếng người nói lao xao ngoài đường. Ông Vĩnh đi lên nhà trên, nhìn qua khe cửa, thấy nhiều người đang di tản về phía cầu Thanh Long, mùng mền chăn chiếu ôm theo, có cả người bị thương. Tâm, Bình, Sơn cũng ra theo nhìn qua khe cửa, xong mạnh dạng mở cửa ra ngoài xem. Chợt ông Vĩnh chỉ cho Tâm thấy dấu vết vừa phát hiện ở một góc hiên nhà, nhiều vết máu vung vãi trên nền, vài miếng vải nhỏ thấm máu vứt lại còn đó. Tâm chợt hiểu và giải thích:
- Đúng rồi, hồi hôm sau khi pháo kích đợt đầu, con nghe có tiếng người xầm xì bên ngoài cửa nhà mình, chắc là bộ đội bị thương rồi ghé vô hiên nhà băng bó.
Ông Vĩnh nhìn ra đường hỏi:
- Còn mấy người di tản đây, sao lại đi ngược xuống? Người chạy lên kẻ chạy xuống là thế nào đây?
Suy nghĩ một lúc, Tâm nói:
- Hôm kia tụi con chạy lên vì sợ đồn sẽ bị đánh, không ngờ ở đây bị pháo nhiều, có lẽ ở phía trên, dân trên đó lại chạy xuống, kiểu này chỉ có nước ở tại chỗ, có gì thì vô hầm chứ không biết tránh vào đâu. Đoạn nhà mình lâu nay thấy yên.
Ông Vĩnh vừa đi xuống vừa bàn thêm với Tâm :
- Như vậy là mình cứ ở đây rồi từ từ hãy tính. Năm ngày rồi, tết với nhứt kiểu này.
Tâm tiếp :
- Theo con nghĩ bây giờ chỗ nào cũng có thể bị pháo, bộ đội tràn cả thành phố, đâu cũng có thể là mục tiêu cho bên mình pháo, bom của Mỹ nữa, chỗ mình ít thấy quân du kích vì gần đồn, qua được cầu Thanh Long không phải dễ, để thăm dò tình hình ra sao mới tính được.
Sáng mùng bảy, chị Rớt xách sô xuống sông múc nước, trên bờ có mấy người đàn ông đứng chỉ tay xuống sông bàn tán. Rớt nhìn theo hướng tay họ chỉ, thấy có một xác người trôi giữa dòng sông, xuống một quãng, vướng trong đám rong, một vài khúc chân hoặc cánh tay cũng nổi lên, trôi vật vờ. Ai cũng cho rằng những người này có thể là dân ở dưới vạn đò bị trúng pháo mấy ngày vừa rồi, nhìn hai bên bờ, họ đã di tản hết rồi, chỉ còn hai dãy đò không.
Đầu óc người nào cũng căng thẳng trước những sự việc đang tiếp tục bày ra trước mắt. Ông Vĩnh hỏi Bình đã thấy nhà nào trong xóm di tản chưa. Bình nói chưa thấy nhà nào đi cả.
Theo tình hình đó và quyết định của Tâm, mọi người chấp nhận ở lại. Tuy ăn uống đơn giản nhưng gạo cơm và thức ăn trong nhà còn nhiều, nhiều đồ hộp gồm bánh ngọt, thịt, cá nên không lo thiếu thức ăn.
Vào buổi ăn trưa, bà Vĩnh nói:
- Nhờ có cậu Tâm đây nên tôi còn bình tĩnh chớ tôi nhát gan lắm. Lần sau có gì cậu phải vô hầm ngay, ở ngoài nguy hiểm lắm, cậu sao mà gan dạ quá.
- Dạ khi nào căng lắm thì con vô.
Sơn cũng hơi lo vì thấy sự nguy hiểm xảy ra từ hôm tết đến giờ mà chú Tâm không chịu vô hầm. Tuy vậy Sơn chỉ trách nhẹ:
- Khi nào thì chú biết nó sắp gần chú Tâm? Chắc khi đó hết biết luôn.
Tâm nói với Sơn nhưng muốn phân tích kỹ để động viên bà Vĩnh :
- Nói chung thì đoán chừng chừng vậy thôi chứ biết đâu mà gần với xa. Tuy vậy, nếu bình tĩnh nghe kỹ tiếng nổ sẽ phân biệt được xa hay gần. Mấy ngày nầy nhiều đợt pháo bên mình bắn đi nhiều chỗ, nhất là bên hữu ngạn, gần Dòng Chúa Cứu Thế, nhà thờ Phú Cam, trong Thành nội. Từ đầu cầu Gia Hội xuống đây, pháo kích không dính nhà nào. Có lẽ do sự tính toán nào đó cả hai bên mà mấy ngày nay vùng này không bị pháo.
Tâm chỉ nói cho bà Vĩnh yên tâm chứ thật ra, anh nghĩ tới hai chiếc cầu chỉ cách nhau chưa tới một cây số, sẽ là trục chính của quân chính quy nếu họ tiến đánh vào đồn Mang Cá, nhà ông Vĩnh ở giữa đoạn đường này. Tâm định trở về nhà nhưng còn do dự, vì nhà Tâm chỉ cách đồn đi xuống chừng vài trăm mét.
Thúy ngồi ăn gần Sơn, tỏ ý thán phục:
- Anh Tâm rành ghê, pháo nổ tùm lum mà còn bình tĩnh phân biệt.
Sơn cười, mắt liếc qua Thúy nói nhỏ :
- Thì người ta ở trong quân đội chẳng rành, đàn ông con trai phải bình tĩnh chớ, có như mấy cô nàng mít ướt. Tiếp theo là tiếng cười của Sơn.
Thúy nguýt :
- Chứ Sơn giỏi sao không đứng ngoài như chú Tâm mà cũng lo chui vô lẹ.
Sơn bị Thúy kê tủ, cười đỏ mặt rồi nói lảng :
- Thôi đi cô ơi, lo rửa chén mau mà chui vô cho rồi.
Và rõ ràng Sơn nói không sai, khoảng ba giờ chiều bỗng tất cả rúng động khi nghe tiếng gầm của hai chiếc pháo đài bay từ xa lao tới, một loạt tiếng nổ long trời rồi bay đi, nghe đâu gần lắm, tiếng bom nổ quá hãi hùng, mạnh ai nấy nhào vô hầm. Nhung đang dọn dẹp dưới bếp vội chạy lên, Tâm vẫn còn đứng bên ngoài, có lẽ anh đang chần chờ vì chưa thấy Nhung lên, thêm vài tiếng nổ của đạn pháo, Tâm kéo tay Nhung đẩy vào như phản xạ. Nhung vô hầm ngồi sát bên mẹ, một tay ôm bé Út vì bé quá sợ. Tiếng nổ khá gần, đâu trong khu vức nội thành và bên Bãi Dâu, không khí nén lại, mặt đất rung như bị chấn động, phản lực quay lưng sau vài tiếng nổ, tiếng động xa dần. Chưa kịp hoàng hồn thì lại có tiếng gầm rú tiếp tục của một chiếc nữa, tất cả chỉ biết nhắm mắt niệm Phật.
Sơn trong hầm gọi lớn:
- Chú Tâm vô nhanh lên.
Bây giờ thì Tâm không còn chần chờ, anh cúi xuống, uốn mình nhanh một cái đã vào bên trong, căn hầm đã kín người. Chính Tâm đã nhiều lần ở chiến trường vẫn không hình dung được cảnh khủng khiếp nầy, tính mạng chỉ nằm trong đường tơ kẽ tóc, không còn cách nào tránh trút. Không khí bị dồn ép, nhà cửa chao đảo như muốn sập mái.
Trong phút giây căng thẳng cực độ, Tâm chợt cảm giác Nhung quá sợ hãi đang nép bên cạnh mình, do một thôi thúc bản năng, anh quàng tay qua ôm cô, kéo nhẹ vào ngực mình. Nhung nép vào người anh, người hơi run, Tâm biết đây chỉ là biểu hiện của cảm giác run sợ, tuy vậy anh cảm thấy cánh tay mình hơi bối rối, một chút ấm áp mơ hồ, một kỳ ngộ bất ngờ trong cơn nguy biến.
Chừng nửa tiếng sau, tiếng trực thăng và máy bay Bà già bay tới kèm vài loạt rocket khuấy động, nghe thật gần nhưng hình như chỉ bắn vào chỗ trống hoặc dưới sông, không nghe tiếng AK đáp lại, tình hình có vẻ yên tĩnh, trực thăng quần một lúc rồi bay đi, ai cũng yên tâm nghĩ rằng, trực thăng tới thế là ngưng bỏ bom.
Tâm buột miệng:
- Có lẽ ngưng dội bom, trực thăng của ta bay tới là dấu hiệu cho biết B.52 không trở lại.
Chờ một lát không thấy gì thêm. Tâm lên tiếng :
- Để ra ngoài một chút coi thử.
Nói xong Tâm nới lỏng cánh tay, nhìn Nhung ngờ ngợ một thoáng rồi ra ngoài. Sơn ra theo, rên nho nhỏ để chọc cười mọi người:
- Ái dà, run chi mà run vô hậu, còn cái nàng Thúy Kiều này nữa, để móng tay chi mà nhọn hoắc, ai dè bom nổ mà lại cấu vô tay mình, rát ơi là rát.
Tuy đang căng thẳng nhưng ai cũng phì cười.
Sợ mọi người ra khỏi hầm, Tâm ngăn lại :
- Đừng ai ra, để xem yên không đã.
Tiếng Tâm như ra lệnh khiến mọi người ngồi yên. Trời đang lạnh nhưng người nào cũng đổ mồ hôi, ai cũng nghĩ máy bay trực thăng bay đến, lượn vài vòng, vậy là ngưng oanh tạc.

Gần một tuần trôi qua với những đợt bom như mấy ngày trước, ai cũng đã quen giờ giấc diễn tiến chiến sự ở đây, sáng và chiều phản lực quần đảo hai lần là yên, vài chiếc trực thăng bay tới như báo hiệu cho mọi người biết thôi oanh tạc, hình như các nhà quân sự cũng chia giờ giấc cho dân ăn uống ngủ nghỉ, lấy lại tinh thần
Trời tối mau, đèn cầy được thắp lên nhưng không cho ánh sáng lọt ra ngoài. Tâm nghĩ bụng, dù tối nay có pháo kích đi nữa cũng không đáng sợ bằng bị bom dội, anh rất lo lắng nhưng không nói điều này với ai, hơi băn khoăn sao không trở về nhà lúc sáng, nhưng có lẽ B.52 sẽ không dội bom vào ban đêm, anh suy nghĩ như vậy để yên tâm.
Vì thiếu ngủ mấy ngày nay nên tất cả đều mệt mỏi, ai cũng muốn chợp mắt một tí, dù mới gần bảy giờ tối, bỗng nghe tiếng đập cửa rầm rầm ở nhà kế bên, nghe tiếng nhiều người toàn giọng Bắc. Tâm đánh thức Sơn dậy, nhưng ra dấu cho Sơn im lặng để lắng nghe. Rồi chợt nghĩ ra một điều, Tâm hỏi Bình :
- Trong nhà có chỗ nào kín để núp không Bình?
- Ai núp ?
- Nhà mình nhiều người phải núp, họ sẽ vô nhà - Tâm nói nhanh.
- Sao phải trốn vậy anh Tâm?
- Thì cứ đề phòng vậy chứ làm sao biết được, du kích vô nhà bên cạnh chứ ai dám đi giờ này - nhanh đi Bình.
Bình đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi gọi mẹ đưa chìa khoá tủ. Nhung ra khỏi hầm đưa chìa khoá cho Bình xem thử Bình mở tủ lấy gì.
Ngay khi đó, tiếng đập cửa ngay trước nhà. Tâm vội vàng lấy trong túi quần sau ra một cái ví nhỏ đưa nhanh cho Nhung, biểu giấu kỹ. Bình mở hai cánh cửa tủ. Tâm phân chia:
- Hai đứa vô ngồi trong đó nhanh lên, đóng cửa lại.
Nói xong Tâm nhào vô cửa tủ bên cạnh.
Tiếng đập cửa bên ngoài gấp hơn rồi có tiếng gọi:
- Mở cửa - mở cửa ra.
Thúy ra mở cửa, ba bộ đội vừa nam vừa nữ, một người nói lớn:
- Trong nhà có ai thanh niên thanh nữ không?
Không ai trả lời. Tiếng bên ngoài hỏi tiếp:
- Nhà có ai nữa không?
- Có - Ông Vĩnh đáp và đi nhanh ra, có tiếng hỏi tiếp:
- Nhà có ai thanh niên thanh nữ không?
- Dạ có.
- Mỗi nhà một người đúng tám giờ phải có mặt ở rạp hát bà Tùng.
- Dạ.
Nghe tiếng chân dời đi, ông Vĩnh đóng cửa đi xuống. Lại có tiếng kêu cửa ở nhà bên cạnh. Hơn mười lăm phút không nghe ồn ào bên ngoài nữa, có lẽ họ đến nhà khác xa hơn, Tâm đẩy cửa tủ bước ra. Ông Vĩnh hỏi:
- Tính sao đây cậu Tâm?
Bên kia tủ, Bình và Sơn cũng vừa nhảy ra. Tâm nói:
- Sơn và Bình đi chung cho có nhau, xem thử họ gọi mình đi làm gì.
Chần chờ một lúc, ngoài đường có tiếng gọi quen thuộc của mấy học sinh nam trong xóm :
- Bác Vĩnh ơi, nhà có ai đi họp ra đi luôn.
Tiếng gọi khiến Sơn và Bình mạnh dạng bước ra nhập bọn. Ông Vĩnh ra đóng cửa lại rồi vô trong nghe đài. Tâm đến ngồi trên divan, Nhung đang ngồi ở đó, anh bảo:
- Nhung vô nghỉ đi.
- Còn anh Tâm tính sao?
- Anh nằm đây đợi hai đứa về.
Nhung đứng dậy, định đi nằm tiếp thì chợt thấy hai cánh cửa tủ còn mở, cô sực nhớ tới chùm chìa khoá, hỏi Tâm :
- Hồi nãy ai cất chùm chìa khoá?
Tâm cố nhớ lại và trả lời:
- Anh cũng không nhớ nữa.
Nhung ngẫm nghĩ một lát, xác định lại:
- Như vậy là Bình mở tủ, không rõ nó quăng ở đâu?
Nói rồi Nhung lúi húi nhìn quanh một lượt dưới chân tủ, dưới nền nhà, xong đến bàn nước. Tâm đưa cao ngọn đèn pin, anh cũng đưa mắt tìm quanh trong vùng tranh tối tranh sáng, chợt thấy chùm chìa khoá nằm ló ra dưới khay nước, anh cầm lên đưa cho Nhung, cô đưa tay ra đỡ lấy, Tâm chợt cầm lấy bàn tay Nhung đưa lên môi.
Nhung bỡ ngỡ nhìn anh, hai đôi mắt giao nhau và chợt ngỡ ngàng trong đêm tối lặng im. Nhung từ từ rút tay lại rồi đến khoá cánh cửa tủ, Tâm nhìn theo với ánh mắt trìu mến, tim anh rung động nhẹ, suy nghĩ về tình cảm vừa chớm giữa thời điểm căng thẳng của khói lửa đạn bom, tự nhiên anh dâng lời cầu nguyện cho cả nhà được bình yên.
Gần một tiếng sau bỗng nghe mấy tiếng nổ thật lớn đâu trên phố, Tâm lắng tai nghe, một lát có tiếng chân chạy ngoài đường, tiếng người nói lao xao, rồi tiếng Bình gọi cửa. Tâm vội vàng ra mở cửa. Bình và Sơn đi nhanh vào, mặt hai người còn tái mét, hơi thở đứt quãng, kể lại việc vừa xảy ra ở nhà hát Bà Tùng.
Sơn nói:
- Nhà hát tập trung đầy người, họp một lúc thì bị pháo kích trúng ngay trên phòng họp, mọi người chạy tán loạn.
- Có ai bị gì không? – ông Vĩnh nôn nóng ngắt ngang.
- Dạ bị thương nhiều, chết mấy người tại chỗ, mấy người bị thương nằm kêu la, chị Thanh xóm mình bị thương nặng, lúc đó mạnh ai nấy chạy không ai cứu ai được. May mà bị pháo kích, không thì họ bắt đi hết rồi.
- Sao con biết ? ông Vĩnh hỏi.
- Dạ, trong buổi họp họ nói vậy, đi tải đạn và tải thương.
Ông Vĩnh nén tiếng thở ra. Thời gian còn lại cho đến sáng không ai còn có thể ngủ yên, chỉ thỉnh thoảng chợp mắt vì quá mệt mỏi.
Vài ngày tiếp theo, ngày hai lần sáng và chiều, tiếng nổ từ trong đồn bắn ra, rồi tiếng pháo kích bên kia bắn tới, trúng trật chỗ nào không thể biết được, có điều vùng này gần như không dính pháo nên cả nhà bớt sợ, lo đủ cơm nước ba bữa. Chỉ khi nào nghe tiếng B.52 bay tới thì vô hầm.
Sáng nay, khi chuông chùa đổ hồi đầu tiên, ai cũng cảm thấy nhẹ người vì sắp qua ngày khác với nhiều hy vọng. Cả nhà ăn sáng vừa xong, khoảng hơn tám giờ bỗng nghe tiếng B52 rít từ xa, cả nhà lần lượt vào hết trong hầm, chỉ có Tâm còn đứng ngoài.
Chưa yên chỗ ngồi còn nghe tiếp nhiều tiếng nổ long trời, nhà cửa rung chuyển mạnh. Có tiếng đổ sập rất gần, tiếng đá cát loảng xoảng rơi tung, ngói rơi rào rào, mặt đất như bị chấn động như sắp xô hết tường vách ập xuống.
Sơn gọi - chú Tâm ơi vô cho rồi.
Lần này chính tay Nhung kéo anh xuống.
Bình buột miệng:
- Ngói nhà mình bị sụt ba ơi.
- Biết rồi.
Ông Vĩnh nói nhỏ, tất cả đều im lặng nghe tiếp. Một đợt bom khác lại tiếp tục. Bà Vĩnh niệm Phật liên tục. Nhung và Thúy cũng lâm râm niệm theo. Nhiều tiếng nổ quá dữ dội đến ù cả hai tai, biên giới của sự sống chỉ còn một sát na, cứ tưởng như trái bom đang rơi ngay trên mái nhà.
Thấy cần có sự che chở cho Nhung bên cạnh, Tâm mở vạt áo dạ phủ lên người Nhung và ôm gọn cô trong cánh tay, mặc dù hiểu rằng, chính anh cũng không bảo vệ được mạng sống của mình. Trong hiểm nguy cao độ, tự nhiên một sức mạnh truyền cảm dâng lên hoà chung vào nhịp đập của hai trái tim như muốn vỡ ra, hoà chung với đường tơ kẻ tóc của tai ương khiến hai người cảm thấy cần sự che chở, níu chặt vào nhau để thấy còn chút can đảm, một chút ấm lòng bên bờ sinh tử.
Khi phản lực bay xa, một lúc sau bỗng nghe có tiếng người la khóc thảm thiết gần trước cửa nhà. Ông Vĩnh và mấy người trong nhà đều ra ngoài xem thử có chuyện gì, nhìn lên chỉ cách ba nhà, cảnh tượng kinh hoàng khi thấy nhà của ông Hải chỉ còn đống gạch vụn, nhà bên cạnh sập nửa mái. Đến gần thấy ông Hải và người con trai lớn đang bươi trong đống gạch để tìm thi thể bà Nhàn, mẹ của ông Hải. Có cả mảnh xác đứa nhỏ không nguyên vẹn chừng tám tuổi, là cháu nội của ông Hải.
Những người còn sống sót trong nhà nói B52 dội bom xuống nhà này vì thằng cháu nhỏ đứng trên lầu đưa tay vẫy ra ngoài cánh cửa sổ khi thấy máy bay tới, Mỹ thấy vậy tưởng là du kích núp trong đó nên thả bom ngay trên nhà. Lần đầu tiên ông Vĩnh thấy tận mắt cảnh sụp đổ tan nát của chiến tranh, không còn thì giờ để nhìn thêm, ông về nhà tuyên bố phải thu dọn đồ đạc di tản khỏi nơi đây. Tâm đưa thêm ý kiến:
- Mỹ oanh tạc tan nát như thế này thì quân Giải phóng có thể rút đi, nhưng Mỹ sẽ dội bom vùng này nữa vì họ nghĩ bộ đội ở trong nhà dân, phải di tản thôi.
Khi cả nhà đùm đề gạo cơm mền chiếu và các thứ ra khỏi nhà thì thấy nhiều nhà gần đó cũng di tản về hướng dưới cầu.
Bây giờ nhà Sơn trở thành chỗ tản cư cho gia đình ông Vĩnh. Ông Chánh, ba của Sơn tiếp đón rất ân cần. Nhà Sơn khá rộng, phòng khách nhìn ra mặt đường, với một tầng lầu có hai phòng ngủ, lâu nay gần như để không vì gia đình Sơn đã di tản về quê cùng hai vợ chồng người con trai ông Chánh và hai đứa cháu nội còn nhỏ. Mỗi ngày ông Chánh về một lần coi ngó nhà cửa rồi đi, ông nói ở dưới Hương Trà tương đối yên nên còn ở yên đó.
Sau khi sắp xếp giúp một số đồ đạc cho gia đình Nhung, Tâm và Sơn ngồi nghe ông Chánh và ông Vĩnh trao đổi một số vấn đề về tình hình chiến sự. Cũng vì quá bất ngờ trước cuộc tiến công đột ngột của quân Giải phóng, hoặc không nắm bắt tình hình diễn tiến nên dân chết khá nhiều vì bom đạn cả hai bên, không ai chôn ai, chó chạy rong ăn xác người. Bà Vĩnh hú hồn, ông Vĩnh trấn an vợ hãy yên tâm , khu vực này sẽ không có bom Mỹ vì không có quân Giải phóng, chỉ sợ bộ đội pháo kích thôi, quan trọng là có căn hầm thật chắc chắn, đạn pháo không tàn phá như đạn bom. Một lúc sau ông Chánh, Tâm và Sơn chào về.
Tâm đến bên Nhung nói nhỏ:
- Anh về nghe Nhung, mai anh lên.
Trải qua nhiều giờ phút kinh hoàng từ sáng sớm đến giờ nên ai cũng nghẹn ngang cổ không thiết chi đến việc ăn uống, nhưng bà Vĩnh sợ mấy đứa nhỏ đói nên biểu Rớt nấu cơm ăn với thịt hộp cho mau, bà cứ thúc giục mọi người ăn thật nhanh lỡ có pháo kích. Ông Vĩnh biểu bà đừng có sợ quá và chỉ căn hầm khá kiên cố sau nhà bếp của ông Chánh, bà mới yên bụng.
Cả nhà vừa ăn sáng xong, chừng một lúc lại thấy Tâm đến.
Nhung tỏ ý lo ngại :
- Có yên không mà anh Tâm mới về rồi lên đây mau vậy?
Tâm nói cho Nhung yên tâm :
- Mấy ngày nay chỉ có pháo bắn đi, không sao đâu, Nhung đừng sợ.
Thúy có vẻ thán phục:
- Anh Tâm lúc nào cũng gan dạ, chuyện súng đạn mà nói như chơi.
Tâm cười:
- Anh không đi liều mạng đâu, thấy nhiều người ra đường, anh mới đi theo, ở nhà chẳng biết làm gì.
Nhung im lặng nghe, sự hiện diện của Tâm bỗng trở thành cần thiết, xa cách không còn sau những giờ phút nguy nan bên anh, cô chợt nhận ra mình đang cần có một nơi che chở như An nói. Tự nhủ, một năm rồi, sau những lời chia tay buồn bã, phải chăng Tâm đã đến đây để thay thế An, mở rộng vòng tay che chở cho cô trong những giờ phút đối mặt với đạn bom nguy hiểm. Bây giờ Tâm đang ở đây, khiến cô bớt đi sợ hãi, cũng vì sự lôi kéo của tình cảm, tự nhiên Nhung thấy xúc động, dặn dò :
- Khi nào thật yên hãy đi, lỡ có pháo đột ngột giữa đường nguy hiểm lắm.
Giọng nói Tâm thấp xuống, một chút bông đùa:
- Súng đạn tránh anh rồi Nhung không thấy sao, mạng anh lớn lắm Nhung đừng lo.
Nhung cười mỉm, trêu lại :
- Đúng rồi, vì vậy cả nhà em bình yên mấy ngày nay cũng nhờ có anh.
Vừa nói Tâm vừa nhìn Nhung với ánh mắt trìu mến :
- Tưởng Nhung không biết đùa, hóa ra ăn nói sâu sắc ghê.
Nhung nhận biết tình cảm ưu ái Tâm đang dành cho mình.
Gần trưa, bà Vĩnh biểu Rớt và Thúy ra bếp làm cơm.
Tâm nói :
- Hồi nãy đi trên đường con thấy có bán đủ thứ rau ráng, cá thịt, ở đây thấy tạm yên ổn, chưa họp chợ nhưng không thiếu thứ gì.
Bà Vĩnh vội sai Rớt đi mua thêm thức ăn, Thúy xin mẹ đi theo, ra cửa còn nghe mẹ dặn với theo có gì mua nấy để dành thêm nhiều ngày. Thúy dặn lại – chị Nhung ở nhà nấu cơm nghen.
Nhung để Tâm ngồi nói chuyện với mẹ, xuống bếp vo gạo nấu cơm. Lửa vừa nhóm đỏ, Nhung bắt nồi cơm lên bếp một lúc thì Tâm bước xuống, đứng bên bếp lửa cạnh Nhung :
- Để anh nấu cơm cho.
Nhung chỉ cười, mắt nhìn vào ngọn lửa. Tâm hơ hai tay mình vào bếp, gợi chuyện:
- Trời lạnh quá không còn muốn đi đâu nữa, có nấu thêm phần cơm cho anh không?
- Có.
- Sao Nhung có vẻ tiết kiệm lời nói?
- Tại ... không biết nói chi.
Tâm cầm một thanh củi đang cháy, khơi cao ngọn lửa, tiếp câu nói của Nhung gần như một câu hỏi :
- Có nhiều lúc không cần phải nói gì phải không Nhung? Danh từ đôi lúc chỉ là một thứ xa xỉ - Tâm ngưng nói một lát để dò xét biến chuyển trên khuôn mặt Nhung rồi tiếp, giọng thật khẽ - Có khi nào Nhung nghĩ rằng, im lặng là muốn giấu kín một điều gì đó, mà cũng có khi là một thái độ…bằng lòng?
Nhung hiểu Tâm muốn nói gì. Khác với những lời nói bông đùa trước đây, qua cử chỉ, Nhung nhận thấy Tâm khá tế nhị. Và không đợi câu trả lời, anh choàng tay qua Nhung, siết nhẹ một bên vai :
- Nhung nghĩ sao về anh?
- …
Chưa trả lời cho Tâm được vì Nhung đang bối rối trước câu hỏi bất ngờ, phải trả lời sao cho thỏa lòng anh.
Tâm hỏi lại :
- Có gì khó mà Nhung không trả lời anh?
Đang trong vòng tay của Tâm, Nhung nói thật lòng :
- Khó mà nhận xét ngay một người như anh… nhưng anh có tính vui vẻ mà chân thật.
Tâm nói điều vừa chợt nghĩ :
- Khó tìm ngôn ngữ, hay do lòng mình khó, anh chỉ ngại em chưa có lòng tin.
Nhung nhìn vào bếp lửa, hỏi lại :
- Chính anh đã thấy có lòng tin chưa? Chỉ mới biết nhau có mấy ngày.
Tâm quả quyết :
- Đối với anh, không nhất thiết điều đó, anh hiểu rõ những gì mình đang nghĩ và em sẽ thấy những gì anh sẽ làm với em, thời gian không phải là điều cản trở.
Như đây là lời hứa của Tâm, Nhung nghe lòng xúc động khi Tâm dồn dập:
- Nếu khó nói, anh chỉ cần ở em một cử chỉ.
Không biết vô tình hay có ý, Nhung bất giác nhìn lên mắt Tâm khi anh vừa cúi xuống, và anh đặt lên trán cô nụ hôn nóng ấm. Để giữ bình tĩnh, Nhung cầm đũa khuấy vào nồi cơm, cơm đã cạn nước, cô ra lửa xong, cùng Tâm ngồi lên tam cấp ở cửa bếp. Tâm tiếp tục câu chuyện:
- Em rụt rè lắm nghe Nhung.
- ...
- Em vẫn còn nghĩ tình cảm phải phụ thuộc vào thời gian vì mình mới quen nhau không lâu - Tâm ví von - Người phương Tây họ hôn nhau chỉ sau mấy phút, mình quen nhau còn lâu hơn họ nhiều.
- Nhưng mà chắc gì họ đã yêu nhau.
- Đành thế, nhưng vẫn có trường hợp “Mới gặp nhau mà như đã thương nhau từ kiếp nào”.
Cũng là lối nói dí dỏm nhưng thể hiện sự mẫn cảm rất khôn khéo. Và bằng ánh mắt nồng nàn trên gương mặt Nhung, Tâm hỏi vui :
- Nhung biết câu hát đó ở đâu không?
- Trong một bài thơ của ai đó.
- Không, trong cải lương chứ Nhung.
Nhung bật cười nho nhỏ, tưởng Tâm khôi hài, nhưng anh chầm chậm tiếp lời :
- Nhưng mà Nhung biết không, cải lương họ cũng lấy từ ngoài đời. Mình không thể đùa nhau trong hoàn cảnh này đâu. Mấy hôm nay, trông anh có vẻ vô tư vui cười, nhưng trong lòng vẫn băn khoăn lo lắng, thời cuộc khó lường, anh là người trong quân đội.
- Chẳng vì vậy mà anh yêu thương vội vàng?
- Em nghĩ anh như vậy sao Nhung? Thật tình, anh không phải dễ yêu bất cứ một người con gái nào, nếu vậy thì anh đã lấy vợ lâu rồi, lính tráng mà. - ngưng một lát, Tâm kéo Nhung tựa sát vào mình, giọng ôn tồn
- Em tất đã hiểu vì sao khi ngồi trong căn hầm mà anh ôm em không ngại ngùng, hình như do linh cảm nào đó, và anh cảm thấy em cũng cần sự che chở.
Nhung biết Tâm đang bày tỏ thật lòng, cô nắm nhẹ bàn tay anh. Anh yên tâm như cử chỉ đó là câu trả lời, nhìn sâu vào mắt Nhung :
- Dù mới biết nhau nhưng đã đôi lần trong tay nhau rồi phải không, chúng ta đâu còn nhỏ dại gì.
Tâm không nói gì thêm, sự im lặng nói lên tất cả.
Dư âm lời nói Tâm như có sợi dây vô hình buộc chặt hai trái tim. Trong phút giây này, Nhung quên mất An của cô rồi, và thấy không còn lời tự tình nào dễ thương hơn, cô mềm đi, nhỏ bé trong hơi ấm chiếc áo dạ đầy hơi hướng của người tình mới, ấp ủ bên vai mình.
Có tiếng Rớt và Thúy về ngoài cửa, Sơn đi đâu cũng theo về, tiếng nói chuyện của Sơn và Bình rộn ràng ở nhà trên. Thúy ra bếp, nghe mùi khét, gọi to :
- Chị Nhung ơi cơm khét.
Nhung cười nhìn em:
- Anh Tâm giành nấu đó Thúy.
- Để anh ăn phần cơm cháy cho - Tâm đứng lên xoa tay lên đầu Thúy.
Sơn ở nhà trên nghe ồn ào, bước xuống:
- Thúy ơi, đi chợ có chi cho Sơn ăn với, đói bụng quá trời.
- Vừa đi vừa chạy muốn hụt hơi, mua chi được mà mua.
- Uả, ai rượt mà chạy hụt hơi vậy Thúy?- Sơn đùa thêm.
- Đồ khỉ – Thúy nguýt dài.
Nhìn chị em Nhung phụ chị Rớt sửa soạn bữa ăn, Tâm chào ông bà Vĩnh xin về.
Bà Vĩnh nhăn mặt :
- Mấy đứa sắp dọn cơm rồi, sao không ăn xong rồi về.
- Ở lại ăn với mấy em cho vui - ông Vĩnh tiếp lời.
Nể lời ba mẹ Nhung, Tâm ngồi lại, nhưng anh tự nhủ mình đâu có muốn về.
Bà Vĩnh hỏi thăm:
- Nhà gần không mà thấy lên xuống hoài vậy ?
- Dạ không xa lắm, chỉ đi bộ khoảng hai mươi phút, khu vực dưới này không có bỏ bom.
- Mấy bữa nay ồn ào, chị dưới nhà có buôn bán gì được không?
- Dạ không, tình hình này còn kéo dài chưa biết lâu mau, nghe trên này tạm yên nên má con nói sẽ về nhà mua bán chút đỉnh, nhưng con chưa chịu.
- Ủa, chị còn ở đâu nữa?

- Má xuống ở với dì con dưới Hương Trà lâu nay, cả anh Chánh cũng về dưới đó, trên này cũng thấy yên nhưng để thật yên mới về.
Bà Vĩnh nói thật:
- Thật ra tôi cũng muốn xuống đó cho xa tầm một tí nhưng kẹt không có người quen. Ở đây cũng còn phập phồng.
- Dạ không sao đâu, qua tình hình mấy ngày nay, bây giờ chỉ mấy vùng xa có oanh tạc, dưới này chỉ bên mình bắn đi, trên phố lính mình đang đánh nhau để lấy lại, chạm súng nhiều ở bên kia cầu Tràng Tiền và trong Thành nội.
Nhung hỏi:
- Anh Tâm đoán thử tối nay có gì nữa không?
- Sáng giờ không có gì, tối nay cứ yên mà ngủ, không sao đâu. Không rõ dự đoán của Tâm đúng hay sai nhưng nghe anh nói vậy, ai cũng yên bụng, người nào ăn cơm cũng thấy ngon miệng.
Bữa ăn vừa xong, Tâm lấy trong túi áo ra một gói hạt dưa. Thúy hỏi:
- Hạt dưa đâu mà nhiều vậy ?
- Nhà anh còn nhiều lắm, tết giờ đâu có ai ăn, Thúy ăn đi, mai anh đem lên nữa.
Ông Vĩnh trao đổi với Tâm tin tức đài BBC.
Tâm nói rõ hơn về tình hình:
Dạ, con cũng có nghe đài, các tỉnh ở miền nam, chỉ trong vài ngày lấy lại được, như Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẳng, quân Giải phóng cố thủ ở Huế lâu ngày, tối vô nhà lùng bắt quân đội, công chức, cảnh sát, cả giáo sư, sinh viên… dẫn đi hết, nghe đâu đem đi chôn sống. Ban ngày lính Việt và lính Mỹ đánh vô thành phố, hai bên xáp trận nhưng bộ đội ẩn hiện nhiều chỗ bất ngờ, lính mình dễ bị pháo vì chưa nắm được địa bàn, do đó ban đêm phải rút lui, quân Giải phóng hoàn toàn làm chủ, lập cơ sở hoạt động trong nhà dân, tiếp tục lùng bắt.
Ông Vĩnh như hiểu ra nhiều chuyện, nói thêm:
Nghe đâu trên đường Phan Bội Châu, gần vườn hoa, một nhà bị nguyên trái bom chết hết không còn ai.
Dạ, Mỹ nghi nơi đó có bộ đội hay xuất hiện.
Nghe chuyện kinh hoàng khiến bà Vĩnh rất sợ, Nhung đi ra cửa nhìn trời, giục :
Anh Tâm về đi, sắp chiều rồi, đường vắng lắm.
Hai người rời bàn ăn, lên nhà trên, Tâm nói nhỏ :
- Nhung đừng lo, có gì anh ngủ lại đây?
Nhung hơi ngạc nhiên trước câu nói của Tâm, gần như một ý định có sẵn. Đọc được ý nghĩ đó qua cái nhăn mày của Nhung, Tâm cười:
- Đây là nhà của anh Chánh, trước đây anh vẫn ở lại đây mà. Nói xong hai người đến bàn salon ngồi, tiếp tục cúp hạt dưa.
Tâm nhận xét :
- Nghe các đài đưa tin, các tỉnh đã sinh hoạt bình thường, chỉ còn có Huế là chậm, gần nửa tháng rồi, chắc không lâu nữa bộ đội sẽ rút. Tỉnh nào cũng đã lấy lại được, chẳng lẽ Huế không, nhưng phải cần thời gian.
Em nghe nói giáo sinh các tỉnh đã về trường sư phạm, chỉ còn Huế là chưa.
Anh cũng vậy, trễ lâu lắm rồi.
Tâm lại hỏi :
- Hè này ra trường, Nhung có xin được dạy ở Huế không?
- Chưa biết thế nào. Nếu đổ cao thì được chọn, nếu không thì tùy trường phân phối.
Tâm đưa ý kiến:
- Nếu được chọn, em nên về đây.
Nhung thoáng buồn :
Nhà mình ở đây thì phải về đây, nhưng mà…
Ý định này đã có từ mấy hôm nay trong suy nghĩ của Nhung, An đã ở trong nhà trên hai năm, trao gởi hết tình yêu thương đầu đời cho cô, biết bao nhiêu kỷ niệm vơi đầy khó quên, rồi nay mai cô lại xa Tâm. Như đọc được ý nghĩ trong tâm tư Nhung, Tâm nói :
- Nhưng mà sao Nhung, buồn hay vui đều do lòng mình cho dù ở đâu cũng vậy. Hơn nữa em nên nhìn vào thực tế mà sống. Nếu em thấy không vui vì một điều gì đó, thì bây giờ đã có anh, em không nên trốn tránh mình nữa.
- Nhưng nay mai anh lại đi.
Tâm đặt hai tay lên bàn, nét suy tư hiện trên khuôn mặt :
- Dù mình mới biết nhau có mấy ngày như em nói, nhưng tình cảm của anh thì em đã rõ, xa em, anh rất buồn, nhưng anh biết em sẽ nhiều ưu tư vì trước đây em đã có một người… Anh có biết một ít sự thật về tình cảm của em với An.
Nhung ngạc nhiên nhìn Tâm :
- Anh có biết về An?
- Mấy hôm nay, thấy anh có vẻ thân tình với em, Sơn có kể qua cho anh biết.
- Sơn nói gì với anh?
- Đại khái là em và An yêu nhau thời gian khá lâu nhưng vì lý do trắc trở gì đó nên đã chia tay. Sơn hay lên nhà chơi với Bình nên hiểu rõ, An đã vào quân đội.
Tâm đưa thẳng hai bàn tay lên bàn, ngửa lòng bàn tay, Nhung hiểu ý và đặt hai tay mình lên tay anh. Tâm bước nhẹ qua khỏi mặt bàn và ngồi vào chiếc ghế cạnh Nhung, ôm vai cô kéo sát vào mình, rồi nói đùa một câu mà cô cho rằng rất đáng yêu :
- Anh không thích nói chuyện với cái mặt bàn đáng ghét này, mình không cần phải đối diện nhau để mà nói chuyện phải không ?
Nhung nghe tim một thoáng rung động, cô im lặng cảm nhận luồng hơi ấm từ phía sau lưng mình, từ trái tim Tâm truyền sang thật âm áp. Lâu lắm rồi Nhung mới có lại cảm giác này, thật đằm thắm. Tâm cũng đang tận hưởng phút giây yêu thương khi đang ôm thân thể Nhung nóng ấm trong vòng tay. Anh nhắc nhở bên tai Nhung:
- Em có nhớ tối mùng năm, lúc đưa chùm chìa khoá cho em, anh biết khi đó em đã bằng lòng anh rồi.
Nhung lại thắc mắc :
- Vì sao ?
Tâm cười, nửa đùa:
- Vì nếu không thì khi hôn tay em, em đã bạt tai anh rồi.
Nhung cười thành tiếng và ngắt nhẹ vào tay Tâm :
- Tại anh… bất ngờ. Mà làm sao em dám làm chuyện đó được. Anh cứ làm như giỏi đọc hết bụng dạ người ta.
- Nghề nghiệp của anh mà Nhung. Tình cảm cũng phải dùng đến “tâm lý chiến” để thăm dò. Phải bất ngờ như thế mới có được em. Nhung tức cười :
- Anh đừng có mở lời tán tỉnh nữa. Giờ này thì anh nên về, trời tối rồi, đường chẳng còn ai.
- Tối nay anh sẽ không về, để em biết rằng anh yêu thương em chừng nào chứ không hề tán tỉnh. Anh nghĩ rằng, em về đây là thêm một dịp để mình được gần gũi nhau hơn.
- Không lẽ anh ngủ lại thật ?
- Cả một nhà để không trên đó, anh đâu có giành chỗ của em.
Tâm không quên thêm thắt câu ví von tế nhị trong lời nói, hàm chứa tính cách khêu gợi, như môi lưỡi anh có mật, khiến Nhung không thể dằn lòng. Chính lúc này Nhung rất muốn Tâm ở lại đây với mình. Nếu không vì một năm ròng trống vắng đơn lẻ, không vì người trai trẻ mới quen đầy nét quyến rũ khiến cô bị lôi cuốn thì dù trong căn hầm có chật chội mấy, cô cũng sẽ đẩy Tâm ra, không thụ động để anh phủ kín chiếc áo dạ lên người nhận sự che chở.
Nhung vừa nghĩ ra một điều an ủi, nếu tết năm nay không có những biến động như thế nầy, để rồi gặp một người lịch lãm như Tâm, một tâm hồn biết sống, biết yêu, thì nỗi thương nhớ An còn biết đến bao giờ. Bởi mới nhìn qua, với dáng dấp phong nhã, với những lời nói ân cần thăm thẳm tận đáy lòng khiến cô dễ mềm lòng.
Thấy Nhung có vẻ buồn buồn, anh hỏi nhỏ :
- Em đã muốn ngủ chưa?
- Chưa.
- Nãy giờ anh nói nhiều rồi, em nói gì đi Nhung.
Nhung cũng muốn biểu lộ một phần tình cảm của mình, để cho Tâm vui :
- Mới nhìn anh, người ta có thể nghĩ sai, nhưng sự thật thì em hiểu, anh không phải là người hời hợt, trái lại rất sâu sắc, từng trải chứ không như vẻ bên ngoài hay cợt cười, đúng không?
Tâm thú nhận:
- Em là người lột tả được tâm hồn anh, và mắt anh đã nhìn em không sai. Thật ra, anh có quen vài cô gái, nhưng chưa thấy hợp ý với ai. Tự nhiên em có một vẻ gì đó khiến anh cảm mến ngay cái nhìn đầu tiên, nhất là đôi mắt gợi nhiều suy tư - Tâm nghiêng gần, nhìn sâu vào mắt Nhung, nói tiếp - Tình yêu của anh đến như thế đó, chắc em không cho anh quá vội vàng?
- Anh có cái thước đo thật đặc biệt, lúc nào cũng cho rằng em đã hiểu hết điều này điều nọ, nhưng chắc gì đã dò xét hết được lòng dạ người ta.
- Người ta là ai hở Nhung? Nhưng mà em nên hiểu rằng, đến một lúc nào đó thì sự cân nhắc không còn cần thiết nữa. Bây giờ anh chỉ muốn nói đến tình cảm chân thành và được gần gũi bên nhau. Khi đạt được điều mong ước thì người ta thường lo sợ em à, đó là điều tầm thường nhất của mỗi con người, mà anh cũng tầm thường như mọi người thôi.
- Anh không tầm thường đâu - Nhung cười mỉm.
Giọng Tâm trầm ấm hơn:
- Cám ơn em, nhưng hình như anh vẫn còn thiếu sự tha thiết phải không Nhung?
- Không, ngược lại anh rất… thiết tha.
- Em hiểu anh như thế hở Nhung? Còn anh, anh có cách suy nghĩ riêng của mình, sự vô tư cũng gần như bản tính của anh, nhưng bên trong vẫn có những thao thức, băn khoăn, cây cỏ cũng còn ưu tư nữa là… Em thấy đó, cuộc chiến này còn kéo dài thì nó còn bao vây lấy đời sống tất cả, bấp bênh hiện tại, không biết trước tương lai, vẫn biết đó là phận làm trai khi đất nước có chiến tranh. Nhiều lúc anh thất vọng khi nghe những bài ca kêu gọi hoà bình vì thấy sao mà xa vời quá. Ý thức hệ chính trị của những nhà cầm quyền không uyên thâm, chẳng qua họ đang nắm quyền lực rồi sinh ra tham quyền, coi thường mạng sống con người.
Nhung ngắt lời Tâm:
- Nhận định của anh rất chính xác, họ gây ra không biết bao thảm cảnh chết chóc tang thương mà không biết xót xa dừng lại, cũng vì tham quyền.
Ngẫm nghĩ một lúc, anh tiếp – Cũng vì áp lực từ nhiều phía nữa, vì vậy cuộc chiến khó lòng kết thúc, nồi da xáo thịt biết bao nhiêu năm nay, mà bom đạn thì đâu có chừa một ai, trong lúc mai đây anh sẽ trở lại chiến trường. Hơn một năm đối đầu với biết bao nguy hiểm, anh đã chứng kiến bao cảnh chết chóc kinh hoàng, những người bạn anh, mới thấy đó rồi chớp mắt không còn, anh cũng nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nhiều lúc anh cảm thấy chẳng còn gì để tin tưởng vào ngày mai.
Nhung biểu lộ sự đồng cảm:
- Anh không nói em cũng nghĩ như vậy, đa số người trong quân đội đều như thế, thường xuyên đối mặt với hiểm nguy, bởi vậy sau mỗi lần hành quân là họ giải trí, là để giải tỏa. Dù sao anh cũng không nên bi quan, phải hy vọng và tin tưởng.
- Cám ơn em đã chia sẻ với anh, anh bắt đầu có niềm tin từ lúc có em.
Nhung gợi vui :
- Em chỉ muốn thấy anh thật vui vẻ, anh phải như vậy dù hoàn cảnh nào.
Ý tưởng của Nhung khiến Tâm rất hài lòng, nét mặt rạng rỡ hẳn lên, và bằng cánh tay quàng qua vai ấy, anh nâng khuôn mặt Nhung lên. Hai khuôn mặt thật gần. Nhung nghiêng vội lẩn tránh, chỉ còn lại mái tóc phía sau cho anh dồn hết tình cảm bằng một nụ hôn dài trên đó.
Tâm cố nói để được lòng Nhung:
- Anh cũng muốn như thế lắm, nhưng đó là sự thật từ sâu thẳm tâm hồn anh đã phơi bày, như thế thì còn gì để anh che giấu em nữa. Nhung… chúng ta sẽ cưới nhau sau khi em ra trường.
Lời lẽ Tâm với nỗi tha thiết khiến Nhung xao xuyến tận đáy lòng, cảm thấy mình mềm yếu, toàn thân rung động trong tay anh. Không phải là niềm rung động đầy sợ hãi lúc hai người ngồi tránh bom trong căn hầm chật chội, mà là rung động của hai trái tim đang tràn ngập yêu thương. Nhung đã yêu Tâm.
Cô chưa dám nhìn thẳng thực tế này, nhưng vẫn mở hết tấm lòng để đón nhận tình yêu chân thành Tâm đang dành trọn cho mình. Anh như một thỏi nam châm mà cô hoàn toàn bị thu hút. Tâm siết chặt cô thêm một lần rồi từ từ buông nhẹ.
CHƯƠNG IX
Nhung lên giường nằm cạnh Thúy, nhìn khuôn mặt em gái mà ước muốn có được một giấc ngủ vô tư yên lành như thế, bởi lòng cô đang xao động từng cơn sóng nhỏ, không thể nào Nhung không nhớ đến An trong đêm nay. Trong không khí nặng nề của đêm không yên, Nhung tự chất vấn lòng mình sau những ngày đầy biến động, sau những ngọt ngào của Tâm vừa mới rời tay. Có gì không phải với An? Hay là cô phải từ chối ân tình mới để giữ trọn lời thuỷ chung vô vọng? Cô thầm nhủ, nếu An biết sự thật này, anh chỉ xót xa chứ không buồn trách. Lâu nay cô chỉ thiếu sót một điều, là không cầu nguyện thường xuyên cho An như anh đã dặn dò trong thư. Từ đêm ba mươi đến giờ, chưa hoàn hồn sau những kinh hãi vừa trải qua, bây giờ tạm yên ổn, là cô lại nhớ đến An, với một nỗi lo sợ bất an cho An. Ở ngay trong thành phố, còn loạn lạc chết chóc thế này, huống gì phải xông pha ngoài mặt trận, tự nhiên nước mắt rưng rưng. Một năm trời rồi, An không một lá thư, không một lần trở lại.
Dòng suy nghĩ vơi dần trong không gian yên tĩnh. Dù sao đêm nay không sôi động như những đêm trước, lâu lâu chỉ nghe tiếng đề-pa từ trong đồn đưa ra, tiếp theo là những tiếng nổ rời rạc tận những vùng núi rừng xa xôi. Phải chăng đây là tiếng “Đại bác đêm đêm dội về thành phố” khiến Trịnh Công Sơn thao thức cất lên lời ca, lo sợ cho biết bao tuổi trẻ đang ngoài vùng gió mưa lửa đạn, đâu đó có một phần đời thân thiết của Nhung.
Tiếng đại bác chia cách đời nhau, tiếng đại bác chập chờn ru buồn giấc ngủ. Không là nỗi khiếp hãi như những ngày đầu xuân vừa qua, bởi chỉ là tiếng ru đêm của chiến tranh gần mười mấy năm nay đã trở thành quen thuộc, phải sống chung với tiếng bom tiếng đạn mà mọi người đều phải dự cuộc.
Thỉnh thoảng Tâm vẫn có lần ngủ lại nhà Sơn, đêm nay anh cũng nằm đây nhưng không hiểu sao lại khó ngủ. Nghĩ đến Nhung mà lòng nao nao khó tả. Nét môi hồng, không gợi tình nhưng cũng đủ làm tim anh xao xuyến, đôi mắt đẹp buồn, không khuynh thành nhưng cũng đủ cho anh bồi hồi rung động, lời nói chừng mực cử chỉ dịu dàng, đó là mẫu người mà anh mơ ước. Anh không muốn rời xa Nhung nữa, một ràng buộc khá diệu kỳ khiến anh thấy cần thiết có một mái ấm gia đình, hạnh phúc vợ chồng. Anh đã tìm ra một nửa đời mình.
Trời vừa sáng,Tâm nhẹ nhàng xuống nhà dưới, đưa mắt nhìn gương mặt của Nhung đang ngủ, tần ngần một lát rồi khẽ đẩy cửa bước ra ngoài, định bụng để xem sinh hoạt ngoài xóm hôm nay như thế nào.
Ở khu vực tản cư này, một số người ra bờ sông hái rau cải, dân chài thả vội vài ba mảng lưới trên sông, rau ngò vẫn được trồng tưới, rồi cá và rau xanh được đưa vào xóm, chỉ trong chốc lát là bán hết ngay, nhờ vậy dân nghèo ở đây vẫn tìm được cách sống qua ngày. Đời sống dần dần dễ chịu hơn, quen với hoàn cảnh mới.
Khoảng gần chín giờ, khi những trận bom phía trên vừa ngưng, Tâm trở lại, khai báo với Nhung :
- Lúc sáng anh về sớm, thấy em còn ngủ. Về nhà anh ngủ được một lúc. Hồi hôm em ngủ có ngon không?
- Ngon - Nhung nói không thật lòng vì cô cũng thao thức giữa đêm.
Tâm thành thật hơn:
- Anh thao thức mãi tới khuya mới chợp mắt được một lúc.
- Hồi hôm có gì khiến anh mất ngủ?
Tâm trả lời với một nụ cười rất tình:
- Thì tại anh suy nghĩ… vẩn vơ. Bây giờ em có rãnh không, đi ra xóm chơi một tí, ngoài đường vui lắm.
- Em có nghe Bình về nói, người ta còn bán đủ các thức ăn như bình thường.
- Đúng rồi, ở đây dân tản cư nhiều lắm, họ cần mua nhiều thứ. Vì tình hình chưa rõ thế nào nên dân địa phương phải tìm cách buôn bán kiếm sống, bán nhanh nữa là khác, chỉ một lúc là hết ngay, gần đây thấy có bán chè, em ra ăn chè với anh.
Nhung do dự :
- Thôi để lúc khác. Ngày mai em có nấu chè, anh nhớ lên ăn.
- Anh muốn đi bây giờ với em cho vui, phần chè ngày mai thì cứ để ngày mai.
Nhung vẫn không chịu:
- Ra ngoài đường ngại lắm, chưa chắc gì yên đâu. Bây giờ anh nên ở lại, nấu cơm xong ăn cho vui. Hôm nay có mua được thịt gà, rau tươi.
Tâm nói thêm:
- Anh còn nghe họ nói thịt heo hạ từ dưới làng đem lên, có cả gà, vịt, trái cây nữa.
Hai người đang nói chuyện thì Minh, Bình và Sơn bước vô nhà. Ba cậu đi từ lúc trưa đến bây giờ mới trở về, hai tay xách đủ thứ đồ đạc, bao bì. Bà Vĩnh nghĩ hai anh em đi lượm đồ đạc của người ta nữa nên phàn nàn :
- Nhà mình có thiếu hụt gì mà con đi lấy đồ đạc của người ta, mẹ nói rồi, sao không biết sợ.
- Dạ không phải, chiều nay thấy hơi yên, nhiều người trở về xem lại nhà cửa, tụi con đi theo, sẵn trông coi nhà mình luôn.
Ông Vĩnh hỏi:
- Nhà mình thế nào?
- Dạ phía trước không can gì nhưng vách tường bị nứt nhiều chỗ. Nhà tắm bị một lỗ đạn pháo khoét tròn to bằng con heo.
- Cửa ngõ có bị gì không?
- Dạ không. Con vô nhà lấy thêm ít gạo và mấy thứ đem về đây.
- Tình hình trên đó thế nào?
- Khu vực trên mình không sao, nhưng chợ Đông Ba bị sập, phía bên kia cầu Trường Tiền bị nặng, dân di tản ở rất đông trong Dòng Chúa Cứu Thế, trường học, bệnh viện, nhà ga.
Bà Vĩnh nóng lòng hỏi:
- Xóm mình đã ai về chưa ?
- Họ chỉ về coi ngó nhà cửa, lấy thêm đồ đạc rồi đi chứ không ai ở lại.
Chị Rớt và Thúy dọn cơm lên, tất cả ngồi vào mâm. Ông Vĩnh và Tâm vừa đề cập đến vấn đề hiện tại trong thành phố. Ông nói đài BBC loan tin tình hình hy vọng sẽ lắng dịu, chỉ chờ bộ đội rút hết là yên, nguồn tin truyền miệng cũng thế. Dân di tản lóng ngóng muốn về nhưng chưa ai dám, chờ có tin chính xác. Ăn trưa xong, chuyện trò một lúc xong cả nhà tìm chỗ nghỉ. Khi trở dậy, Tâm ngồi nói chuyện với Nhung một đỗi lâu.
Lúc nhìn trời sắp tối, Nhung lại nói:
- Anh coi về nhà cho sớm.
- Em cứ muốn đuổi anh ?
Nhung sợ mình lỡ lời nên nói :
- Không phải vậy ... thôi tùy anh, em chỉ nhắc nhở.
Ngẩm nghĩ một lát Tâm nói:
- Thôi được rồi, anh không ở lại nhưng ngày mai em phải về nhà anh cho biết.
- Đường sá có yên không?
- Không sao đâu, em ra ngoài rồi thì biết, sinh hoạt bình thường, khá đông vui.
- Lúc nào anh cũng không sao - Nhung chưa hoàn toàn tin tưởng. Tâm cười thuyết phục :
- Có gì thì anh chịu cho.
Tình hình trên phố trong mấy ngày tiếp theo tuy không còn dội bom nhưng vẫn chưa có dấu hiệu chắc chắn yên ổn, quân đội Việt Nam và Mỹ đang truy quét những vùng núi đồi bên hữu ngạn, ngã Dương Xuân, Trường bia. Khó khăn nhất là trong Đại nội, bộ đội ẩn núp trong nhiều phòng ốc cung điện nên rất khó vào, nếu dội bom thì sẽ tàn phá di tích, do đó những cuộc giao tranh kéo dài cho đến hơn nửa tháng vẫn chưa phân thắng bại, nhiều nhà trong nội thành bị trúng pháo. Ai cũng hiểu là bộ đội chưa rút khỏi thành phố.
Tin đồn về số quân nhân, cảnh sát, công chức của chính quyền bị Cách mạng bắt tập trung những ngày vừa rồi vẫn không thấy trở về, vẫn tiếp tục bị lùng bắt vì nghi còn trốn núp trong từng nhà, đem ra kết tội ngụy quân ngụy quyền rồi chôn sống hàng trăm người phía bên Bãi Dâu và trường Gia Hội. Tin đồn khủng khiếp này chỉ mới nghe nhưng chưa ai chứng kiến.
Sáng hôm sau, khi qua các ngã đường để đến nhà Sơn, Tâm quan sát mọi sinh hoạt của dân, nghe tin tức chung quanh. Do đó, anh kể lại những điều đã thấy đã nghe cho ông bà Vĩnh, tình hình tạm yên, có thể về nhà được.
Đến gần Nhung, anh giục :
- Đi Nhung, ra đường một chút cho thư giản.
Không phản đối nhưng Nhung còn lo ngại:
- Anh đã thấy yên chưa ?
- Em cứ nghĩ lẩn thẩn, yên hết rồi, chợ búa đã họp đông đúc, hàng quán cũng nhiều, bọn trẻ trai gái tụm từng đám chơi đùa vui lắm.
- Vẫn cái tật ham vui? - Nhung cười tỏ vẻ đồng ý.
Thì ra, tâm hồn anh vẫn còn thích sự vui vẻ, trẻ trung. Hai người cùng đi ra khỏi nhà, qua vài con đường nhỏ,Tâm cẩn thận biểu Nhung đi sát vào hiên nhà, Nhung vẫn phập phồng, không hăng hái cho lắm.
- Mình đề phòng vậy chứ không sao, yên tâm đi, anh đã nói rồi.
Hai bên đường bày bán đủ thứ, và đúng như lời Tâm nói, nhiều nhóm trai gái trong xóm đứng tụm lại trước đường nói chuyện, bàn tán đùa giỡn vui vẻ, Nhung bị lôi cuốn theo, bước nhanh. Gần cuối con ngõ, Tâm mở vội cánh cửa nhà, đưa Nhung vào trong rồi đóng lại ngay. Hóa ra đây là nhà Tâm, không cách xa bao nhiêu, cô cứ nghĩ chỉ ra đường vài vòng cho vui thôi.
Tâm đến gần ghế salon và đẩy nhẹ Nhung ngồi xuống :
- Ở trong nhà rồi thì yên tâm, em nhát gan quá chừng.
Tuy vậy Nhung vẫn lo sợ nhìn quanh :
- Nhà anh không có hầm?
- Khu vực này không ảnh hưởng pháo, ít ai làm hầm.
Nói rồi Tâm ngồi vào chiếc ghế cạnh Nhung, với tay mở thẩu hạt dưa trên bàn. Nhung nhìn quanh căn nhà một lượt. Sau bàn Phật, có bàn thờ của ba Tâm, Nhung đoán vậy. Trên tường bên kia là bức hình mặc quân phục mũ mão nghiêm chỉnh của Tâm, có lẽ đây là bức hình anh chụp lúc ra trường ở Đà Lạt. Một phía góc tường là chiếc bàn nhỏ có nhiều sách vở của em Tâm đang học. Tâm cởi áo manto vắt lên thành ghế, vốc một nắm hạt dưa đặt vào lòng bàn tay Nhung.
Nhung lại hỏi :
- Nhà không có ai?
- Má anh đang ở dưới làng với đứa em gái anh, ngày nào Cúc cũng về coi nhà và đem cơm cho anh.
- Em gái anh ngủ dưới đó luôn? Sao anh không xuống dưới ăn cho tiện?
Tâm véo nhẹ vào cằm Nhung:
- Em không khôn ngoan chút nào hết.

Chợt hiểu, Nhung cười và bất ngờ nhìn lên, Tâm ôm ngay khuôn mặt cô, đặt môi lên trán, siết nhẹ đôi vai. Và Nhung vừa hiểu thêm một điều, đây là sự xếp đặt của Tâm mà giờ phút này cô mới hiểu ra. Mọi việc trở nên quá bất ngờ, nhưng cử chỉ ngọt ngào của Tâm khiến cô không còn tự chủ, ngả người vào đôi tay anh. Và bằng một vòng xoay của Tâm, Nhung nghe mình nhẹ hẩng, anh đang nhấc bổng cô trên tay đi vào phòng mình.
Trong phút giây nồng nàn, hơi thở anh quấn quít lên môi lên mắt, Nhung nghe thân thể mình một phút mơn man diệu vợi. Cô nhìn khuôn mặt Tâm một khắc rồi nghe anh hăm hở, vội vàng, mở ngõ mọi cảm giác trên da thịt mình. Nhung ôm vai anh và ao ước được ở mãi trong vòng tay này, không còn là Nhung thụ động, mềm yếu.
Một khoảng lặng yên khá lâu, Nhung nhìn đồng hồ và có ý muốn về. Hai người trở lại phòng khách, ăn vài cái bánh ngọt, cúp hạt dưa trong im lặng, không ai nhìn ai, chỉ còn lại cảm giác hạnh phúc ngỡ ngàng sau phút ái ân.
Tâm đưa Nhung về. Không thấy Sơn, Bình, Thúy ở đâu, anh nói có lẽ cả ba người đi ra ngoài chơi rồi và nói nhỏ với Nhung - anh ra ngoài có tí việc.
Tâm đi rồi, Nhung nghe trong người uể oải không muốn làm gì, ra nhà sau thấy mẹ đang cho bé ăn bánh mì, chị Rớt đang nấu ăn sau bếp, ba Nhung đang nằm trong phòng dưới nhà, cô lên lầu nằm nghỉ trong phòng của Sơn. Suy nghĩ miên man một lúc, chợt nghĩ đến An, thấm thía câu nói : “Anh sẽ giữ cho em đến giờ phút cuối cùng đến khi lên xe hoa, dù với một người đàn ông khác”.
An thành người thua cuộc, kẻ chiến thắng là Tâm với niềm đam mê chiếm đoạt vội vàng, Tâm đã tặng cho Nhung đóa hoa tình tuyệt đẹp trước khi lên xe hoa.
Nhung rất hiểu và không trách Tâm, tất cả hình như được anh sắp đặt như một an bài số phận. Đôi mắt Nhung chợt nhòa lệ, những giọt lệ hạnh phúc đầu đời pha lẫn xót xa, bởi khi trong vòng tay tràn ngập yêu thương, với sức trai đầy tự tin của Tâm, Nhung đã no tròn cảm giác và tự cho mình quyền bị khuất phục.
Rồi cô tự chất vấn, đây có phải là tình yêu? Và nếu phải, thì cô đã yêu Tâm như thế nào? Như vậy, tình cảm đối với An là gì? Vì tình yêu đầu đời dành cho An vẫn là trọn đời trọn kiếp, tình không hiến dâng nhưng vẫn khắc sâu trong tim không thể nhạt phai. Nhung muốn dứt khoát một câu hỏi cứ mịt mù trong niềm ăn năn dù anh đã xa hơn một năm, để cô hụt hẩng trong nỗi thơ dại của mình, rồi một năm sau, cô chợt thấy mình trưởng thành trong tình cảm, già dặn cảm xúc trong lần đến nhà Tâm vừa rồi, thật tình cờ, không hề đắn đo suy tính.
Thế thì, sự thật nào sẽ chứng minh, bênh vực cho cô rằng, nỗi cắn rứt không phải tự tìm cách thoát ly tư tưởng, để trốn chạy một lỗi lầm.
Thế thì, đối với An, niềm luyến lưu thắm thiết đã là tình yêu, nhưng đối với Tâm, phút hạnh phúc nồng nàn này cũng không phải là cứu cánh, mà là những giây phút thoát bay đưa nhau tới đỉnh yêu thương. Tâm yêu Nhung và Nhung yêu Tâm, tự nhiên như cây cỏ cần hơi sương, như trái đất cần ánh sáng.
Rồi Nhung thiếp đi trong ý nghĩ, cho đến khi Tâm đến ngồi bên cạnh lúc nào không hay. Thấy giờ này Nhung còn nằm, Tâm khẻ gọi :
- Nhung, em chưa dậy ?
Nhung mở mắt nhìn Tâm không vui, Tâm tưởng Nhung có điều gì buồn trách, anh cố nhớ lại việc xảy ra lúc sáng, nhưng tự thấy đâu có gì để Nhung không bằng lòng.
- Em buồn gì anh không? - Tâm hỏi thật khẻ.
- Không, em chỉ hơi mệt.
Rồi Nhung nắm chặt bàn tay Tâm, mắt nhìn anh như muốn nói, cô không còn muốn rời xa anh nữa.
Tâm kể lại tình hình bên ngoài, tuy khá yên ổn nhưng chưa có gì chắc chắn nên chưa thấy ai yên tâm để trở về. Các tỉnh khác sinh viên học sinh đã đến trường, chỉ còn ở Huế là chưa. Tâm nói anh bị kẹt vậy cũng khá lâu.
Trong Thành nội đã tạm yên, tin tức các đài cũng nói bộ đội có phần suy yếu vì không chịu nổi nhiều trận bom oanh tạc và các trận càng của quân đội Việt - Mỹ, phải huy động lính dù thả vào Đại nội.
Có thể vài hôm nữa họ sẽ tìm đường rút hết, dân sẽ hồi cư.
Chị Rớt và Thúy dọn cơm trưa, nhóm Sơn, Bình, Minh cũng vừa về, cả nhà cùng ăn. Tâm kể lại một số tin tức vừa hỏi thăm ở ngoài, ông Vĩnh nói đài các tỉnh cũng bình luận gần như vậy, ai cũng thấy vui vẻ nhẹ người, không còn lo sợ nữa. Và đúng như vậy, vài ngày sau thấy dân tản cư ở đây lần lượt trở về. Ba mẹ Nhung cũng biểu thu dọn đồ đạc để hồi cư. Tâm và Sơn phụ xách đồ cho cả nhà, tất cả đều đi bộ, các thứ giỏ xách nhẹ nhàng, không nặng nề như lúc di tản. Về đến nhà, mẹ Nhung thở phào nhẹ nhỏm, mấy đứa em tìm chỗ ngả lưng thỏa mái. Sơn chào về nhưngTâm nán lại.
Nhung ra nhà trước ngồi với anh.
Hai người trao đổi dự tính ngày Tâm trở về đơn vị và Nhung trở lại trường. Tâm nói gì Nhung cũng gật đầu vì đọc trong mắt anh thoáng nét buồn như một lời chia tay. Nhung tự nhủ sẽ chìều theo những gì anh muốn cho anh được vui.
Ngày hôm sau, Tâm dẫn người em gái lên nhà thăm ba mẹ Nhung. Nhung nói với mẹ, Cúc là em gái của Tâm, lời thăm hỏi đôi bên khá thân mật, ba mẹ Nhung nghe cởi mở trong lòng vì hiểu rằng đây là dấu hiệu Tâm đã yêu thương con gái mình. Khi ra về, Cúc nói với Nhung : Chị Nhung mai về nhà em chơi, má em muốn gặp chị.
Sáng hôm sau, Tâm lên nhà cùng đi với Nhung về nhà anh.Tình thân thiết nẩy nở rất nhanh qua vài câu chuyện. Mẹ anh kể lại một số kỷ niệm khi Tâm còn nhỏ, rồi sự thương nhớ khi Tâm đi học xa bốn năm ở Đà Lạt, nỗi lo lắng khi Tâm ra mặt trận, và cuối cùng nhắc đến tuổi của Tâm đã đến lúc nên lập gia đình. Buổi gặp gỡ để lại trong lòng Nhung nhiều ấn tượng tốt đẹp và tràn đầy niềm vui.
Hơn hai ngày hoàn toàn yên tĩnh, bộ đội đã rút hết, nhà nào cũng đã hồi cư. Nghe nói nhiều gia đình khi về đến nhà chỉ còn đống đổ nát với những hố bom đào sâu trong đất, nhiều mái đầu chít khăn tang.
Cầu Trường Tiền đã gãy, như một thương tích giữa lòng cố đô. Sau một thời gian ngắn, cả thế giới đều biết đây là biến cố Tết Mậu Thân, hàng trăm người bị trói dây thừng kéo đi chôn sống tại các vùng suối đồi Nam Đông, Phú Vang, các vùng đồi suối, có cả các vị Cha cố Linh mục. Tại thành phố Huế đã tìm thấy những hầm hố chôn người tập thể ở Bãi dâu, trường Gia Hội và những vùng bãi bồi ở làng quê, gần cửa biển, hàng ngàn xác chết được đào lên trong tiếng khóc gào đau đớn xé lòng của người thân.
Vài ngày sau, chợ Đông Ba bắt đầu họp, học sinh tới trường, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Tâm mua hai vé máy bay, một vé của anh trở về đơn vị, vé của Nhung trở lại trường. Vé của Tâm sớm trước Nhung một ngày. Như vậy chỉ còn hơn một ngày nữa hai người phải xa nhau.
Tâm ngồi nói chuyện với Nhung ở nhà trên :
- Anh đã nói chuyện với má anh rồi, hè này em ra trường, chúng ta sẽ cưới.
- Hè anh có xin về được?
Tâm cười:
- Quân đội vẫn cho phép về cưới vợ, anh đã nói với em rồi mà.
Nhung hiểu ra :
- Hè em chờ anh ở nhà.
- Anh chờ em chứ không phải em chờ anh, em hơi lẩn thẩn rồi Nhung. Anh phải xin phép về trước em mấy ngày để chuẩn bị.
Nhung bật cười cho ý nghĩ giỏi tính toán của Tâm, cô cũng đùa theo:
- Anh đâu có chờ được bằng ai .
Hiểu được câu nói đầy ẩn ý của Nhung,Tâm buồn buồn :
- Em không thấy mình sắp phải xa nhau sao? Từ ngày biết nhau đến nay tính ra đã hơn nửa tháng. Em thử nghĩ xem, phải rời xa nhau như thế này làm sao không buồn không nhớ. Nếu không biết em, anh sẽ ra đi nhẹ nhàng như tết năm ngoái. Sáng mai anh đi rồi, em tính sao đây?
Nhung hơi suy nghĩ:
-Ý anh biểu tính gì đây?
Tâm nhìn sâu vào mắt Nhung:
- Chẳng lẽ không được gần gũi nhau một lần trước khi chia tay. Em muốn giả vờ hay sao Nhung ?
Nhung hiểu hết những lời Tâm nói, một thoáng vui buồn lẫn lộn, buồn vì hạnh phúc với Tâm chỉ mới sớm hôm mà sắp phải chia tay, vui vì Tâm đang ở bên cô, thúc giục, níu kéo từng giờ phút ngắn ngủi.
Tâm chở Nhung đi ăn sáng, xong vào quán cà phê, hai người như chìm trong tiếng ca Thái Thanh, Lệ Thu - “ Em tan trường về, anh theo Ngò về…”. Tâm không theo Nhung trên đường đi học về, Nhung đã là của anh rồi. Tâm buồn buồn dìu cô rời khỏi quán, chở Nhung thẳng đường về Đập đá, ngừng xe trước khách sạn Hương Giang, Nhung hiểu ý Tâm nhưng vẫn đi theo anh.
Ngồi trên sân thượng của khách sạn, Tâm gọi súp và một món ăn nhẹ. Hai người im lặng ăn, không nói nhưng cùng chung ý nghĩ. Xuôi theo dòng sông, màu xanh của lá mới ven bờ hài hòa cùng màu nước biếc. Xa xa, vài chiếc thuyền thả lưới, khung cảnh thanh bình êm ả như chưa từng xảy ra chiến cuộc. Bên Vỹ Dạ, vài đám bắp đong đưa trước gió, xanh mơn mởn dưới màu trời bát ngát. Mây trải trắng ngang tầm mắt, trôi lơ lững hứa hẹn những ngày đầy nắng ấm, nhưng cũng đầy những đổi thay, thử thách. Nhung chợt nghe lòng bâng khuâng.
Khi thức ăn đã vơi, Tâm bắt đầu lên tiếng :
- Em nghĩ xem, ăn xong mình sẽ đi đâu nữa?
Nhung có vẻ hiểu ý :
- Anh nói hôm nay mình sẽ đi đâu đó.
Tâm đẩy ghế đứng lên :
- Anh sẽ đưa em đi ngay bây giờ.
Trả tiền xong, Tâm dìu Nhung dần bước lên căn phòng trên lầu. Cửa kính khép lại, hai cánh màn nhung đỏ thẩm được Tâm kéo kín, che khuất ngoài kia. Tâm đẩy nhẹ Nhung ngồi xuống ghế, anh quỳ hai gối trên nền, hai tay ôm kín vòng eo thon tròn, ngước mắt nhìn Nhung thật lâu như để ghi sâu hình ảnh. Sau đó là im lặng, chỉ còn nghe tiếng Tâm gọi khẽ tên cô, rồi những giây phút giao hòa bay bổng, trao gởi nồng nàn như muốn níu giữ dài lâu, nhưng thời gian đâu có thuận tình.
Khi nhiệt tình trong anh dần lắng dịu, Nhung nhìn đồng hồ.
Tâm cười :
- Em đừng để ý đến chiếc đồng hồ làm gì.
- Trời sắp trưa rồi ?
Nhìn Nhung có vẻ băn khoăn, Tâm tiếp :
- Đây chính là lúc tình yêu lên tiếng chứ không phải chiếc đồng hồ lên tiếng em à. Ngày kia em mới đi lẫn mà.
Một khoảng im lặng trôi đi, Tâm chợt cảm nhận bên vai mình ướt giọt nước mắt.
- Em lại khóc? - Đừng trách anh nghe Nhung. Còn anh… đang sống trọn tình cảm mình. Chắc em cũng đọc nhiều, nên phải hiểu rằng anh không phải yêu cuồng sống vội để phải bận tâm về điều này. Lúc ở vườn địa đàng hoang sơ, Adam và Eva, hai người đó họ cũng biết dùng thân xác để trao nhau tình luyến ái, còn giờ đây, anh cho rằng đây là ân huệ của tình yêu, tạo hóa đã ban cho loài người, cho anh… cho em.
- Triết lý đó anh học ở trường Đại học nào?
- Nó không nằm trong chương trình, anh suy ngẫm từ sách vở, từ bạn bè anh, từ trải nghiệm của tuổi trẻ trước cuộc chiến hôm nay - Tâm chợt thì thầm - Nhưng mà anh nhận thấy rằng, em đã biết yêu thân thể em rồi đó.
Đôi má Nhung chợt hồng lên, nói lãng :
- Những người trong quân ngũ, cả những người bạn anh, đời sống sẽ khác hơn, liều lĩnh, vội vàng, cũng phải thôi.
Biết Nhung ám chỉ,Tâm sực cười theo :
- Nhưng mà những người bạn anh ấy à, có đứa hời hợt, có đứa sâu sắc, nhưng nhìn chung tụi nó vẫn có một trình độ hiểu biết để tự dẫn dắt đời mình, không quá gò bó nhưng cũng không buông thả - Mắt Tâm thoáng buồn - Trước khi gặp em, anh bất chấp tất cả, nhưng bây giờ lại lo lắng.
- Anh lo điều gì ?
- Chiến tranh lan tràn như thế này, có nơi nào được yên, qua những lúc vui chơi thỏa mái là bọn anh đối mặt với hiểm nguy.
- Thôi anh đừng nói nữa, em hiểu rồi - Nhung đưa tay ngăn môi Tâm - đã nói là anh không được bi quan.
- Câu này của em dù có đi đâu anh vẫn nhớ, anh sẽ không bi quan, nhưng mà phải nhớ nhau hoài, nghe em.
Nhung gật đầu. Hai khuôn mặt kề nhau, họ cùng nghe rõ từng hơi thở. Tâm cười gợi mở:
- Em sẽ sung sướng trong từng phút giây này, để cho em phải nhớ đời.

CHƯƠNG X
Về lại trường, nhập học được vài hôm là Nhung nhận được thư Tâm, lời thư thắm thiết và đượm chút văn hoa, cô tự nhủ làm sao mà không yêu thương con người này được, với những lời nhắn nhủ thiết tha mà những khi gần nhau anh không hề nói. Rồi thư đi tin lại thêm phần nhớ nhung. Nhung cố gắng học để được đỗ cao, sẽ được chọn về Huế theo ý anh.
Gần một tháng nữa thi ra trường. Mỗi sáng chủ nhật, cô với vài người bạn cùng phòng mang sách vở sang giảng đường để học bài cho yên tĩnh. Chừng hơn mười giờ, có tiếng chân bước mạnh ngoài hành lang, rồi Thu dừng lại ở cửa :
- Trời, Nhung ngồi đây mà mình tìm muốn chết, có ai gặp ở ngoài.
- Ai vậy ? Nhung hơi ngạc nhiên.
- Không biết nữa - Đợi Nhung đến gần, Thu nói nhỏ - mình nghĩ là anh Tâm.
- Đang ở đâu ?
- Dưới căn-tin.
Nhung ôm theo sách vở, đi nhanh qua khỏi hai dãy hành lang, đã thấy Tâm đứng trước cửa căn-tin nhìn cô bước tới. Qúa ngạc nhiên nên Nhung đứng nhìn Tâm một lúc, chẳng biết nói gì. Tâm cũng lặng đi thật lâu. Thấy mấy cuốn vở trong tay Nhung, anh hỏi :
- Nhung đang làm gì bên đó?
- Em đang học thi, anh vô đây ngồi - Vừa nói Nhung vừa bước đến bộ bàn ăn, kéo ghế cho Tâm - Em mới nhận thư anh hôm qua.
- Anh nhận thư em đầy đủ. Đọc thư em, anh nhớ quá.
Tâm nhìn Nhung thật lâu, thấy vài nữ sinh đi vào, tay cầm chai nước hoặc bình thủy, anh hỏi :
- Em ăn cơm ở đây? - Nhung gật đầu - Mấy giờ mới ăn?
- Khoảng từ mười một giờ trở lên.
Tâm nhìn đồng hồ:
- Cũng sắp rồi, nhưng trưa nay em đi ăn với anh, chủ nhật mà, em lên thay đồ đi.
Nhung biểu Tâm ngồi đợi. Thêm vài người nữa đi vào, Tâm nói sẽ đợi Nhung ngoài cổng trường. Nhung về phòng dặn Thu trưa nay không ăn cơm, thay vội bộ đồ tây, lấy vài thứ lặt vặt bỏ vào xách tay, đi nhanh ra cổng.
Hai người đi dọc trên đường một quãng, thấy chiếc xe lam sắp ngang qua, Tâm hỏi :
- Phải xe này lên phố không?
- Phải.
Lên xe, Tâm ngồi sát vào Nhung, nhìn sâu vào khuôn mặt cô với vẻ ngờ ngợ như vừa lạ vừa quen, nét mừng vui rạng rỡ. Anh choàng tay qua vai Nhung siết nhẹ. Xe quân sự Mỹ chạy qua tung bụi mù, Tâm rút khăn tay che mũi cho Nhung.
Nhung hỏi :
- Anh ra đây lúc nào?
- Anh vừa mới ra, tìm trường em mất hơn nửa tiếng. Mình về phố ăn trưa nghe Nhung.
Nhung gật đầu. Tâm không nói gì thêm, nhìn xe cộ, nhà cửa quán sá hai bên đường nơi nào cũng phủ bụi.
Xe đổ bến, đi một đoạn, hai người vào quán ăn. Tâm gọi hai tô phở và nước ngọt.
- Trông em khỏe hơn hôm tết.
- Hơn nửa tháng tết thiếu ngủ, vào đây ngủ quá trời luôn – Nhung vừa kể vừa cười.
- Giáo sinh ở Huế chắc vào đầy đủ ?
- Cũng may, không thiếu ai.
- Mới đó mà gần ba tháng rồi, em cố gắng học, đỗ cao để được chọn về Huế - anh gắp thức ăn bỏ sang tô Nhung, nói tiếp - và ráng ăn nhiều nữa.
Cả hai cùng cười. Vừa ăn Tâm vừa âu yếm nhìn Nhung tưởng như lạ lắm. Mà lạ cũng phải, chỉ mới gặp nhau một lần dịp tết vừa rồi.
Ra khỏi quán, vừa đi Tâm vừa nhìn lên những tấm biển hiệu, hỏi :
- Mình tìm nơi nghỉ trưa nghe em ?
Nhung gật đầu. Anh vào hiệu bánh ngọt mua một ít, rồi đưa Nhung vào nhà nghỉ gần đó.
Nhận chìa khóa xong,Tâm cầm tay Nhung đi lên lầu. Vào phòng, anh mở cửa sổ rồi quay lại, giang thẳng hai tay về phía Nhung:
- Lại đây cho mát em, trời nóng quá.
Nhung đến bên cửa sổ, nép mình trong vòng tay ôm của Tâm. Phía trên là khung trời trong xanh, dưới là những mái nhà lầu, những cửa hàng san sát nhau. Xe cộ thưa dần, âm thanh buổi trưa như đọng lại, thật yên tĩnh.
Tâm đặt môi mình lên trán Nhung, không nói. Một lúc mới nghe tiếng Nhung :
- Anh được nghỉ phép?
- Không.
- Sao đi được?
- Anh có cách của anh, mình có được hai ngày - Tâm đưa tay lên khuy cổ áo sơ mi của mình, nhưng vẫn để yên, bảo Nhung - Em mở giúp anh nút áo, nóng quá là nóng, hè tới nơi rồi.
Tâm im lặng nhìn ngắm khuôn mặt Nhung khi cô mở từng khuy áo cho anh, như muốn uống lấy phút hạnh phúc dịu dàng mà anh trông chờ từ hôm tết đến giờ. Tâm ôm sát Nhung vào người mình rồi dìu cô đến ngồi ở bàn, mở bánh ngọt, rót đầy hai ly nước, cùng ăn với Nhung.
- Rạp chiếu bóng có gần đây không? Tâm hỏi.
- Gần, nhưng mà hồi này không yên, rạp hay bị gài lựu đạn.
- Anh nghe nói ở tỉnh nào cũng có. Ở đây đã bị lần nào chưa?
- Có bị rồi. Anh thích xem phim?
- À, lâu quá nên cũng muốn xem, nhưng không yên thì thôi, chiều mình ra phố chơi. Tâm dìu Nhung sang giường, đẩy nhẹ cô ngồi xuống, lướt nhẹ lên tóc, rồi bảo :
– Em nghỉ đi, anh đi tắm.
Nghe Tâm nói vậy, Nhung nhắm mắt một chút vì đêm rồi học bài cho tới khuya, đang nghe cay hai mắt.
Tâm tắm xong ra ngồi ở ghế xem báo, sợ làm mất giấc ngủ của Nhung, thỉnh thoảng nhìn sang một lúc rồi tiếp tục đọc.
Đến khi Nhung trở mình, mở mắt hỏi Tâm :
- Báo đâu mà anh xem?
- Anh mua lúc xuống xe hồi sáng.
Tâm bước sang giường, nằm nghiêng nghiêng bên Nhung, ôm gọn người cô trong tay mình và biểu ngủ thêm một tí cho khỏe. Nhung biết Tâm cần ngủ nên nằm yên, một lúc sau thì anh thở đều. Nhưng Nhung thì không ngủ được nữa, suy nghĩ nhiều điều.
Ký ức những ngày tết trở về như mới vừa hôm qua, Tâm thúc dục, vội vàng, bây giờ mới gặp nhau, lại vô tư như thế này. Nhung thầm hiểu, ít nhiều anh đã xóa bớt trong cô một thoáng ấn tượng cũ, dù mấy ngày tết anh dành cho cô là những ngày đầy ắp yêu thương. Trong vòng tay ngủ quên, anh thánh thiện như chưa từng phạm tội. Tự nhiên Nhung nghe cảm giác vừa yêu thương vừa quý mến con người này.
Cô khẽ ngồi dậy, ra phòng rửa mặt, xong vào ngồi trang điểm sơ qua rồi cầm tờ báo lên xem.
Gần hai giờ chiều Tâm mới thức giấc, nằm yên mở mắt nhìn Nhung. Cô chưa hiểu ánh nhìn của Tâm, mỉm cười với anh rồi tiếp tục nhìn vào trang báo.
- Em không tự đến với anh được sao Nhung? - Tâm nói và đưa hai tay ra chờ Nhung bước qua.
- Thấy anh cũng dễ ngủ, em để yên anh ngủ.
- Ờ, mệt quá nên ngủ quên, lại đây em.
Tâm ôm siết người Nhung, đặt nụ hôn dài, xong cầm tay Nhung đi qua bàn, lấy bánh ngọt đưa cho cô, Nhung cũng đưa cho anh một cái.
Hai người ăn xong, Tâm vừa mặc áo vừa nói:
- Mình xuống phố nghe em.
Đường phố chính không dài nhưng các cửa hàng bày bán không thiếu thứ gì. Tâm hỏi :
- Em có cần mua gì không?
- Có, em mua len đan áo, định hôm nay sẽ đi chợ với Thu nhưng giờ sẵn mua luôn.
Lựa len xong, Nhung mở bóp lấy tiền nhưng Tâm ngăn lại:
- Để anh trả, em chưa có tiền lương mà.
Nhận gói len xong, hai người đi tiếp sang con đường khác, cửa hiệu buôn bán ít hơn, phần nhiều là phòng trà, quán bar. Nhiều lính Mỹ, lính Hàn quốc đi ngang dọc trên đường, nhiều người say khướt, tay cặp theo các cô gái mặc váy hoa hòe, son phấn lòe loẹt, Tâm kéo Nhung đi tránh ra.
Một đoạn khác, nhạc kích động từ trong các quán bar vang ra đến ngoài đường, quán cà phê cũng mở nhạc lớn. Tâm vào xem vài cửa hàng trưng bày mỹ nghệ, mỹ phẩm, muốn mua vài thứ tặng Nhung, cô chỉ nhận một đôi món để kỷ niệm. Trao quà cho Nhung, Tâm nói cười trông vui vẻ lắm.
Phố bắt đầu lên đèn, hai người vào quán ăn. Tâm nói muốn ăn cơm, Nhung đồng ý. Anh chậm rãi gắp thức ăn cho cô, nhận xét :
- Anh nghe nói thành phố này nhiều lính nước ngoài, bây giờ mới thấy. Em có thường ra phố không?
- Lâu lâu cần gì thì rũ bạn đi chợ vào ngày chủ nhật, xe lam chạy thẳng từ trường ra chợ, xe về lại ngang trường. Đường phố như vậy đâu ai dám đi chơi.
- Ở Quảng Ngãi lính Mỹ đóng quân rất nhiều nhưng tình trạng này ít hơn, có lẽ đây là thành phố lớn. Xe quân đội Mỹ kéo rờ-mọt dài bất ngờ, gây tai nạn cho người đi xe máy, nhất là những khúc cua. Cẩn thận nghe Nhung.
Xong bữa ăn, nhìn đồng hồ, Nhung nói:
- Mình ra biển ngồi chơi.
Tâm đứng lên:
- Đi thôi em.
Dọc các con phố tiếp theo, vẫn như cảnh cũ, mấy người lính Mỹ trắng Mỹ đen nghênh ngang trên đường, Tâm thấy ngại, dẫn Nhung đi mau. Đường ra biển yên ổn hơn, nhiều người đi bộ hoặc chở nhau ra đây nghỉ mát, tình tự.
Ra đến biển, hai người ngồi lên băng ghế đá, đã có nhiều người ngồi trên những băng ghế gần đó, vài đôi trai gái ngồi trên bờ cát, tựa vào nhau. Ánh sáng đèn đường không đủ sáng xuống bờ, chỉ là tranh tối tranh sáng. Hàng dương khá cao, ánh trăng non từ biển chưa chiếu tới, gío biển thoang thoảng không lay được thùy dương, xa xa là dãy đèn đánh cá ngoài khơi. Cảnh biển phố trầm lặng nhưng ẩn mặt đâu đó sự bất an, không giữ chân ai lâu, ai cũng đến ngồi một lúc rồi đi.
Trên đường trở về, Tâm dìu tay Nhung đi chậm, cũng như dạo chơi trên phố mới.
Về phòng, Tâm soạn bánh ra bàn, người phục vụ vào, Tâm nói cho một bình nước trà.
- Anh có vẻ như thích bánh ngọt - Nhung nói.
- Anh còn con nít lắm em à - Tâm nhìn vào mắt Nhung với nụ cười dí dỏm.
- Không thấy anh hút thuốc? Hôm tết vừa rồi cũng không thấy.
- Bạn bè anh đứa nào cũng hút, nhưng anh lại không thích.
- Vì sao?
- Cũng không biết nữa… Chắc anh không có tâm hồn.
Nhung bật cười :
- Không tâm hồn mà ăn nói cư xử như anh.
Tâm lại đùa :
- Như anh là sao. Chắc là anh vô tình hời hợt lắm phải không?
- Không, lối nói chuyện của anh chắc phải nhiều cô mê.
- Không, anh chỉ có em thôi - Nói rồi, Tâm kéo Nhung sát vào mình.
Nhung xúc động, tim đập rộn ràng khi cảm thấy hai khuôn mặt kề gần nhau.
Người phục vụ mang nước trà vào xong, Tâm đến khóa cửa, vào ngồi chung một ghế với Nhung, đưa cho cô chiếc bánh patecheau, rót trà vào hai ly. Nhung cũng lấy một chiếc bánh đưa cho Tâm, nhưng anh chỉ uống ly trà.
- Em để đó, anh cởi áo cái đã - Nhìn Nhung một lúc, Tâm hỏi - Chắc là em không mang gì theo để thay?
Nhung lắc đầu nhìn Tâm vắt chiếc sơ-mi lên lưng ghế, còn lại chiếc maillot trên người, xong lại ngồi bên Nhung cùng ăn bánh. Thấy Nhung uống hết ly trà và định rót thêm, Tâm ngăn lại:
- Để anh pha thêm nước trong, uống trà nhiều sẽ khó ngủ.
Nhung bắt chước Tâm, rót nước trong vào ly cho anh, Tâm vẫn để cho Nhung rót thêm, nhưng giải thích:
- Anh thường uống nhiều trà, nhưng muốn thức là thức, muốn ngủ là ngủ, quen rồi nên không sao.
Nhung hơi nhăn mày suy nghĩ, biết Nhung thắc mắc, Tâm nói thêm :
- Gần hai năm nay anh đã sống như vậy. Sau mỗi lần đi trận về, buồn vui, phân tâm, chỉ biết có uống trà và cà phê để có được sự lắng dịu. Nhiều lúc thao thức mãi, nhiều lúc mệt nhọc quá, lại ngủ ngay khi vừa đặt mình xuống, mãi rồi thành quen.
Tâm uống hết ly trà, xong cầm tay Nhung dìu qua giường, anh bật công tắc cho ngọn đèn lớn tắt đi, chỉ còn màu hồng dịu của ánh đèn ngủ. Anh ôm hai vai Nhung đỡ xuống nệm, đặt nhiều nụ hôn, xong tay lần mở khuy áo trước ngực. Tự nhiên Nhung đưa tay giằng nhẹ.
Một cánh tay chống trên gối, Tâm ngẩng cao mở to mắt nhìn Nhung :
- Em còn xấu hổ với anh? Cả ngày nay anh có làm gì nào, chắc em cũng nhận ra điều đó? Anh không được thiếu sự tôn trọng với em, và cũng rất ngại khi em nghĩ anh là người ... dung tục - Tâm cười với ánh mắt nồng nàn, tiếp lời - anh đã nhiều lần suy nghĩ, sau những ngày tết vừa rồi với em, vì vậy mới thôi thúc anh tìm gặp em lần này, để em nghĩ thoáng về anh một chút, nhất là chúng ta phải đăng đẳng cho đến ngày cưới. Gặp nhau em phải vui lên chứ.
Nhung mỉm cười. Tâm cười cởi mở :
- Vui mà còn che đậy như thế này đây, em sẽ là vợ anh, có gì mà anh phải vội vàng. Lúc trưa nhìn em ngủ, anh đã ghi tâm như đang được sống thực trong cảnh hạnh phúc chồng vợ, đã là đầy đủ, nên anh không muốn khuấy động. Nếu chỉ vì dục tình, thì anh đâu cần phải lặn lội đến đây tìm em. Lính tráng mà.
- Vậy sao hôm tết ? Nhung nói với một thoáng xúc động.
- À hà, em tất đã hiểu, trong tình yêu vẫn có những thôi thúc tự nhiên mà em.
Ngôn ngữ bỗng tắt ngấm, chỉ còn cảm giác ân ái đầy thân thương.
Chung quanh chỉ còn một thế giới duy nhất, thế giới hạn hữu của hai người.
Khi âm thanh xe cộ đã lọt vào phòng, ánh sáng bắt đầu hắt nhẹ qua khe cửa, Nhung mở mắt nhìn lên đồng hồ, xong nhìn sang Tâm đang còn như ngủ say. Cô khẽ dậy, đi sang phòng bên. Khi trở ra, đã thấy anh nằm mở mắt, đưa thẳng hai tay về phía Nhung, cô cầm lược chải đầu đến ngồi bên cạnh. Tâm còn nuối tiếc kéo Nhung xuống nhưng cô đẩy nhẹ anh ra :
- Sáng nay em phải về học.
- Nghỉ luôn đi em, ngày nay em phải ở với anh, sáng mai anh đi rồi.
Nhung đắn đo một lúc :
- Thôi cũng được, em chỉ về nói cho Thu biết để xin phép giùm ngày hôm nay, xong sẽ trở lại.
- Để anh đưa em đi.
- Không, anh ngủ thêm đi, em đi một mình cũng được.
- Nếu về nhanh, anh sẽ chờ em cùng ăn sáng.
- Quá bảy giờ rưỡi em chưa đến, anh cứ ăn đi kẻo đói bụng.
Nhung đứng trước gương chải tóc và trang điểm sơ qua lên má, lên môi. Nhìn qua, cô phát giác đôi mắt Tâm đang nhìn mình trong gương. Lòng tràn ngập hạnh phúc, Nhung đến bên giường cầm tay Tâm đưa lên môi, từ giả, như một cử chỉ thân thương.
Về đến phòng nội trú, đang lúc các bạn đang chuẩn bị xuống giảng đường. Thấy Nhung, Thu nói ngay :
- Tưởng sáng nay bồ không về, thay đồ đi học luôn Nhung.
- Nếu mình không về thì sao?
- Mình định nếu tí nữa không thấy bồ về, sẽ nói với lớp trưởng xin phép cho Nhung nghỉ.
- Mình định về học buổi sáng, chiều nay mới nghỉ. Nhưng thôi, nghỉ luôn một ngày cho rồi, lắc nhắc cũng vậy. Anh Tâm cũng nói vậy.
- Ngày mai thì sao?
- Mai mình về học. Sáng mai anh Tâm đi rồi.
- Để mình biết ngõ, thôi Nhung đi đi, chúc một ngày vui vẻ.
Thu cười chào bạn rồi ôm cặp ra khỏi phòng. Nhung thay áo quần, lấy một vài thứ cần thiết bỏ vào xách. Chờ bên trường vào lớp xong, cô mới bước xuống, tạt vào căn-tin mua hai ổ mì.
Về lại phòng, Nhung vặn chốt cửa, đẩy nhẹ vào. Tâm mặc áo quần chờ sẵn, đang ngồi đọc báo. Nhung đến ngồi bên :
- Anh xem báo mới, chắc là xuống ăn sáng rồi?
- Anh chỉ uống cà phê thôi, sẵn mua tờ báo, giờ mình đi ăn.
- Em có mua mì đây, chịu khó ăn khô cho xong bữa rồi đi luôn.
- Thôi em cứ để mì đó, phải xuống ăn cái gì cho nhẹ.
Sau bữa ăn sáng. Tâm hỏi:
- Sáng nay mình đi chơi đâu nữa Nhung?
- Đi Suối Tiên.
- Vậy phải mua thêm ít bánh trái đem theo. Nhung gật đầu.
Tâm đến quầy mua một ít trái cây và bánh ngọt.
Hai người lên xe đi Suối Tiên. Nắng lên cao, tỏa sáng lên ngọn đồi thông xanh ngát, ven con đường nhỏ dẫn lên đồi có nhiều loài hoa dại, vươn cánh ra tới bên đường như muốn khoe vẻ đẹp đồi núi ngoại thành. Đi lên một đoạn, đã nghe tiếng nước reo từ trên cao như thúc giục hai người bước vội.
Đến nơi, dòng thác đang tuôn chảy theo sườn đá dựng, bụi nước tung mù như sương như khói, đổ xuống thành nhiều mạch nước chảy quanh qua nhiều phiến đá, tất cả lại trổ vào một dòng khi nước bắt đầu trôi êm thành con suối, gọi là Suối Tiên.
Tâm và Nhung đứng trên gộp đá nhìn quanh lưng đồi, cỏ xanh với nhiều hoa dại khoe sắc thắm tươi, hai người đến ngồi dưới gộp đá gần một gốc cây gần thác nước. Không khí núi đồi và hơi nước từ ngọn thác lan tỏa, không thấy nắng không thấy gió, không gian yên tĩnh mát dịu. Vài tiếng chim hót trên cành cao, líu lo ríu rít rất vui tai.
Tâm xắn quần đặt chân xuống nước, rửa mặt, rửa tay.
Nhung nói :
- Anh tắm luôn cho mát.
- Em tắm luôn nghen? Tâm hỏi với vẻ chọc cười.
Anh vừa cười vừa cúi đầu lòn chiếc áo pull qua khỏi cổ, mặc quần đùi để tắm, đưa áo quần cho Nhung.
- Không có em, anh tắm với Tiên nhé , cũng có được một phút cảm giác Lưu Thần.
Nói rồi Tâm bước tới đứng dưới dòng thác, mặc cho nước tuôn xối xả lên người, vuốt mặt, vuốt tay. Thỏa mái hồi lâu dưới làn nước, anh trở lại. Nhung đưa khăn cho anh lau mình.
- Anh cứ mặc quần dài vào luôn, một lúc quần trong sẽ khô.
- Anh tắm khe tắm suối đã quen, em đừng lo, em cho anh ăn đi, đói bụng rồi.
Nhung trải tờ báo, soạn thức ăn ra, đưa bánh ngọt cho Tâm ăn trước, xong đưa anh trái pom. Nhung nói không có dao cắt làm sao ăn.
Tâm trả lời :
- Ở đây cũng xem như hồng hoang, em cứ ăn quả trái tự nhiên không cần xắt gọt.
Nhìn trái pom tròn trịa, Nhung biểu :
- Nhưng mà anh ăn trước đi.
Nhung đưa trái pom cho Tâm, anh cắn vào vài miếng rồi đưa cho Nhung phần còn lại.
Nhìn ra vạt đồi trước mắt, thấy có nhiều hoa rừng chen chúc nhau nở đẹp, Tâm hỏi :
- Em có thích hoa anh hái cho.
- Thích, anh hái đi.
Tâm vội đứng lên, chân trần dẵm trên cỏ, đến bên những khóm hoa dại chen chúc nhiều màu. Hoa sim tím, hoa mua, những bụi cúc dại trắng và đỏ nhỏ li ti xinh xắn, xen giữa là đám hoa mắc cỡ thắm màu. Vài dây hoa mắc mèo thòng xuống hình lồng đèn với nhiều nụ vàng tươi, khiến cảnh đồi thêm rực rỡ.
Nhung nhìn Tâm chăm chú ngắt mấy cành hoa dại, lòng rộn lên tình cảm thân thương, cô cười thật vui, đưa tay đỡ lấy mấy nhánh hoa sim tím trên tay anh.
- Sao anh hái toàn hoa tím?
- Anh thường thấy các cô gái rất thích hoa tím. Tím Huế đó em.
- Em biết rồi, đẹp lắm nhưng ở đây hoa thật nhiều, anh hái thêm đi.
Tâm quay đi, một lát đem về nhiều nhánh hoa đủ màu đưa cho Nhung. Người thợ chụp hình thấy hai người đang cầm những chùm hoa tươi đẹp, bước đến gần. Tâm nói chụp cho vài pô. Chỉ vài phút là có hình ngay, hai người xem rất vừa ý.
Tâm quàng tay ôm Nhung, kéo sát vào mình :
- Trong khung cảnh nầy, anh thấy mình sung sướng được sống lại những giờ phút thỏa mái khi chưa vào đời. Bây giờ đã qua nhiều vùng đồi núi, hoa thơm cỏ dại không thiếu, nhưng đâu còn ý nghĩa như ngày xưa, khi trên vai mang nặng chiếc ba lô. Điều tình cờ hôm nay mới là đáng nhớ, và thật hiếm hoi, khiến anh nhớ câu “ Không có ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Mai đây, khi nhớ về nhau là nhớ tới giờ khắc này đây, với một cành hoa dại anh hái tặng em, tuy mộc mạc, nhưng không thể nào có lại lần thứ hai đâu em. Chúng ta hãy trân quý cả những gì đơn sơ nhất.
Lời nói dông dài của Tâm, Nhung nghe như lời bộc bạch tâm tư đầy biểu cảm, cô tưởng như đang chìm ngập trong những nốt đàn, mà khúc tình ca đầy thơ mộng này, trong khung cảnh hoang sơ này, chỉ có anh và cô. Nhung yêu Tâm, yêu tâm hồn anh đầy mẫn cảm.
Như một thôi thúc dâng lên trong lòng, Nhung choàng tay ôm vai anh. Hai đôi mắt nhìn nhau ngỡ ngàng. Tâm hôn lên mái tóc dài, tưởng như hòa quyện mùi hoa dại vương trong hương tóc.
Biết Tâm đang xúc động, Nhung ngã mình bên vai anh khi anh vừa đưa vội cánh tay đỡ lấy lưng cô, đồng thời với xúc cảm ngây dại ngập tràn. Mắt ngước lên bầu trời, mây trắng trôi chầm chậm trên kia, vài cánh chim vút qua, tiếng hót líu lo. Hai người không còn muốn đi đâu về đâu nữa.
Về đến phố trời đã ngã chiều. Tâm nói nên ăn tối rồi về luôn, Nhung gật đầu.
- Lúc nào cũng thấy em gật đầu.
Nhung cười đồng ý :
- Thì anh nói điều gì nghe cũng hợp lý.
Đường phố lại đón bước chân hai người sau khi rời khỏi quán ăn. Tiếng hát từ những quán cà phê vọng ra, không trọn câu nhưng ai cũng nhớ “ Dìu nhau đi trên phố vắng. Dìu nhau đi trong ánh nắng, dắt dìu về dưới gian nhà ...”
Đường phố giờ này không còn nắng, ở đây trời xa cảnh lạ, không có gian nhà cho hai người, nhưng vẫn có được một tổ uyên ương thắm thiết, tuy cả hai cùng chung niềm mong manh những giờ phút sắp xa nhau. Tâm biết tối nay Nhung sẽ buồn, anh đưa cô vào rạp chiếu bóng.
Vào rạp, Nhung không nói năng gì, chỉ tựa đầu vào vai Tâm, nhìn lên màn ảnh. Anh nhìn nét mặt Nhung thoáng nét buồn nên không nói gì, bởi nếu nói ra thì không phải là lời vui.
Hai bàn tay đan nhau, nắm chặt như sợ thời gian trôi mất. Thật lâu Tâm mới lên tiếng :
- Em nhận xét cô gái trong phim thế nào?
- Rất chân thật và tự tin. Nhưng tiếc thay, niềm tin bị khước từ.
- Có vậy phim mới hay. Khi sống với nhau rồi, anh sẽ không làm mất niềm tin yêu với em, em cũng đối với anh như vậy nghe Nhung?
Nhung không trả lời, cô siết nhẹ bàn tay Tâm. Tình yêu dâng lên dào dạt trong tim.
Phim tan, ra khỏi rạp gần tám giờ tối. Chưa muốn về, Tâm đề nghị :
- Bây giờ mình đi đâu nữa em. Hay là vào quán nghe nhạc.
- Đúng rồi. Em cũng nghĩ vậy.
Gần một tiếng chìm trong tiếng hát lời ca. Thanh Thúy, Khánh Ly, Tuấn Ngọc, với những khúc hát trữ tình, quê hương, chiến tranh, như trôi như nổi.
- Ở đơn vị, chắc anh cũng thường nghe nhạc ? Nhung lên tiếng.
- Mỗi lần đi trận về là chỉ có nhạc thôi em à. Khi gặp nhạc kích động, lính nhảy với lính, cũng vui, sau đó là đọc thư. Nhớ viết thư thật nhiều cho anh nghe em.
Âm thanh khi dập dồn, khi êm dịu, dâng lên cảm giác muộn buồn, mang hơi thở của tình yêu xa cách, đời lính, nỗi buồn chiến tranh.Tiếng nhạc dặt dìu đưa chân hai người rời khỏi quán.
Ra đường, Tâm dìu tay Nhung cùng bước nhanh về.
Vào phòng, Tâm nằm sà xuống giường, đưa mắt nhìn khắp căn phòng một lượt, vẻ uể oải. Nhung đến ngồi bên, mở xắc tay, tìm kiếm.
- Em quên gì ?
- Đâu có, em lấy mấy tấm hình mới chụp.
- Ờ, đem ra anh xem với.
Tâm nhìn thấy cuốn sách trong xách tay Nhung, cầm lên. “Chúa Đã Khước Từ” – Lê Khắc Cầm dịch và ghi tặng Nhung.
Em quen Lê Khắc Cầm? – Tâm hỏi.
Nhung gật đầu. Tâm hỏi tiếp:
Lâu chưa?
Cũng khá lâu. Anh Cầm có đến nhà em, nhưng thường gặp nhau ở quán café bên cầu Đông Ba, với anh Ngô Kha và vài nam nữ sinh viên đại học.
Chắc hẳn là anh ta…yêu em. Nhìn em ai mà chẳng mến chẳng thương. Em nói thật đi.
Thì em nói thật rồi, anh Cầm đến nhà tặng sách cho em, và em cũng có đến nhà anh ấy vài lần. Em đem cuốn này theo đây để anh về đơn vị xem. Anh cũng biết dân Do Thái khốn cùng như thế nào với chính sách diệt chủng của Hitler, những người trốn thoát được, không bị lùng bắt, không bị tra tấn bắn giết, không bị hơi ngạc, nhưng lại chết cả đoàn vì lý do khác, mới có nhan đề cuốn sách “Chúa đã khước từ”.
Họ chết vì sao ?
Em muốn dành kết cục khi anh đọc phần cuối truyện.
Tâm hỏi nửa đùa nửa thật:
Còn kết cục chuyện tình của em với Lê Khắc Cầm?
Nhung trả lời ý nhị:
Thì kết cục là em đang ở với anh đây.
Như có sự đồng cảm giữa hai người, Tâm đỡ Nhung nằm xuống bên cạnh, cùng xem chung từng tấm hình.
- Anh thấy hình nào đẹp nhất ? - Nhung hỏi.
- Hình nào cũng đẹp, nhưng anh thích nhất tấm hình em với mái tóc dài bay bay trong gió. Em đừng cắt tóc ngắn nghe Nhung.
- Anh còn sợ em thề với ai nữa?
Tâm ôm siết Nhung vào người, cười rạng rỡ :
- Anh mê em như thế này là quá đủ. Em không được thề với ai nữa nghe không.
Nói xong, Tâm nghiêng người, đắm đuối ôm gọn Nhung trong vòng tay. Một giây, Tâm nghe tim mình như ngừng đập, nhìn Nhung với ánh mắt như đằm xuống.
Nhung thấy hình như anh cố nén sự yếu mềm. Cuối cùng, Tâm gọi nhỏ :
- Nhung, em sẽ là vợ anh. Còn anh, như đã chứng tỏ với em rồi, mai anh rời khỏi đây - Vừa nói Tâm vừa lật tới lật lui mấy tấm hình - Em đưa anh giữ vài tấm, về đơn vị có mà nhìn cho đỡ nhớ.
Cành sim tím bỗng rơi ra từ bao đựng ảnh. Nhung cầm lên, ngắm nghiá. Tâm tiếp:
- Em thấy không, sau này em có thể mua bất kỳ các loài hoa rực rỡ, sang trọng một cách dễ dàng, nhưng cánh hoa tím hoang dại này, sẽ không có lại lần thứ hai.
Nhung nghiêng mình bên vai Tâm, xúc động :
- Tâm hồn lính mà phong phú lãng mạn lắm, em sẽ giữ mãi cánh hoa tím này.
- Gĩư đến suốt đời thì e khó, anh muốn nó còn đến ngày cưới - nén tiếng thở buồn, anh tiếp - Chúng ta sắp xa nhau, được cùng em trên nệm ấm giường êm như thế này, anh đã thực sự hưởng được hai ngày thật hạnh phúc. Mai đây, lại phải ngủ bụi ngủ bờ. Hai ngày rồi có em, anh tạm quên tất cả.
Chắc em cũng biết Quãng Ngãi là vùng đang giao tranh quyết liệt, cộng quân quyết đánh chiếm vùng này để còn tiến chiếm nhiều tỉnh khác. Mỹ bị mất nhiều quân đội khắp các vùng chiến thuật, đổ quân ồ ạt vào Việt Nam và vũ khí đạn dược tối tân, càn quét khắp nơi nhưng bất phân thắng bại, quân lực bộ đội rất mạnh, hai bên tử trận rất nhiều, cuộc chiến vẫn kéo dài.
- Em có nghe nói đến những trận đánh ác liệt đang diễn ra ở Đức Phổ, Điện Bàn, cả làng bị bắt bớ tàn sát, nhà nào cũng có hầm, bộ đội ở trong dân.
- Đúng vậy, sau cuộc tổng công kích Mậu thân, các đơn vị Bắc Việt rút lui nhưng vẫn tiếp tục chủ trương đánh chiếm rất qui mô khắp các tỉnh miền trung, gài đặt bãi mìn hầm chông dày đặt khắp các lối tiến quân của đồng minh, lính Mỹ dính chông chết thê thảm, không biết mình bị bắn từ đâu. Du kích ẩn hiện khó lường.
Suy nghĩ một lúc, Nhung nói thêm:
- Trên tivi thường thấy những chiếc hòm lính Mỹ đưa lên tàu chở về nước. Chắc anh đã từng hành quân nhiều trận nguy hiểm?
Tâm chầm chậm từng lời :
- Anh nhiều lần may mắn thoát chết chỉ trong gang tấc, nhưng mà em đừng lo, có lẽ anh ở ngoài sự nguy hiểm, anh cảm tính như vậy.
- Anh đừng chủ quan quá, nhớ bảo trọng, em thường cầu nguyện.
- Tất cả đều có số mạng, đừng suy nghĩ nhiều nữa em.
Rồi Tâm dịu dàng hòa nhập vào Nhung như sợ đánh mất điều quý giá. Bỗng nhiên anh hỏi :
- Em nghĩ thế nào nếu chúng ta có con?
Nhung hơi lúng túng sau câu hỏi bất ngờ, một lát cô trả lời :
- Em nghĩ là không có gì.
Tâm nhìn sâu vào mắt Nhung :
- Em nghĩ sai ý anh rồi. Anh rất sung sướng nếu chúng ta có con. Má anh thường ao ước có cháu nội, mà em cũng sắp ra trường.
Nhung nghĩ thầm, mọi sự cũng sẽ đơn giản nếu mình có con hôm nay, bởi hoàn cảnh không thể khác hơn. Cô nhớ lại trong khóa học có hai chị mang bầu vẫn lên giảng đường bình thường, nhưng cô cũng nói để không mất lòng anh:
- Anh xem vậy mà tham lam, một lần lại muốn được nhiều thứ.
- Nhưng mà anh muốn thế, hè này em ra trường, mình sẽ làm đám cưới. Anh đã bàn chuyện với mẹ rồi.
- Em đã đọc điều này nhiều lần trong thư anh rồi.
Lòng cô chợt rộn ràng bởi thấy ở anh một tâm hồn trong sáng, hòa nhã mà đầy ắp. Cô nhìn ngắm khuôn mặt anh thật gần để ghi khắc, để khó quên. Trong tay nhau, Tâm còn dặn dò :
- Thi xong, em đánh điện ngay cho anh nghe Nhung.
Nhung gật đầu xúc động.
Như chìm trong đôi cánh vỗ về tình yêu, đôi mắt Tâm khép lại trông thật hiền, gương mặt thanh thản. Tâm hồn này, thân xác này, chỉ trong vài lần gần gũi, đã khắc ghi vào Nhung những ấn tượng khó phai. Cô hân hoan đón nhận đến tận cùng cảm xúc, tận tâm hồn. Can trường mà lịch lãm, đam mê nhưng không dung phàm. Cô trân quý anh như món quà số phận trao cho, tin tưởng anh sẽ mang đến cho cô hạnh phúc trọn đời.
Dưới ánh đèn mờ, căn phòng yên lặng, nệm giường chăn chiếu đã lắng nghe hết những ngọt ngào trao thương, cùng những thoáng xuyến xao bùi ngùi, vì mai này hai người sẽ xa nhau, hơi hướng đó, rồi đây sẽ bỏ lại. Ánh đèn như có đôi mắt chứa chan, chạnh lòng chứng kiến cảnh đôi trai gái ngủ vùi trong tay nhau, nét mặt đượm buồn.
Buổi sáng, khi thì giờ không cho phép hai người chần chờ được nữa. Tâm và Nhung quyến luyến rời khỏi phòng. Trước khi khép lại cánh cửa, anh siết vai Nhung, nhắc nhở:
- Em hãy nhìn lại căn phòng, đừng bao giờ quên hai ngày vàng ngọc này. Thi xong về sớm nghe Nhung. Anh sẽ chờ em ở Huế.
CHƯƠNG XI
N hiều ngày sau, niềm nhớ thương vơi đi nhẹ nhàng, nhường chỗ cho niềm vui, vì Nhung nhận thư của Tâm liên tiếp, đầy ắp lời yêu thương, hỏi cô đã ép những cánh hoa tím vào trang vở chưa, và không quên nhắc cô thi xong hãy về sớm. Nhung trả lời thư anh, hứa thi xong sẽ về ngay. Chỉ gần một tháng nữa thôi.
Thời gian còn ít ỏi để chị em nội trú tâm sự cùng nhau. Trường đã cho nghỉ học để ôn thi, Thu và Nhung thường qua giảng đường để học bài, và chia sẻ tâm tình không giấu nhau điều gì.
Cũng như Nhung, Thu đang chờ thi xong, về Nha Trang làm đám cưới với Lâm, Trung úy phi công, anh chàng cũng đã đôi lần về trường Sư phạm thăm Thu, ước mơ của hai người đang chắp cánh.
Cả Diệu, Thương, Cầm cùng phòng, ra trường xong, người nào cũng lên xe hoa. Nhung nghe rộn ràng trong lòng, không bao lâu nữa sẽ gặp lại Tâm, lời nói, cử chỉ còn ghi đậm dấu ấn trong tâm tưởng, và chừng như còn hơi hướng đâu đây.
Những lá thư Nhung mới nhận, chứa chan bao lời thương yêu của Tâm khiến cô bâng khuâng trông đếm từng ngày. Hình bóng An thỉnh thoảng trở về, nhưng hình ảnh Tâm đã làm cho phai nhòa. Mấy tấm hình kỷ niệm ép trong vở học, Nhung thường mở ra xem, không còn là những lá thư chia tay buồn bã của An, mà bây giờ là tấm hình chụp chung với Tâm tươi cười rạng rỡ, và cánh hoa sim tím như lời nhắc nhở thân thương.
Nhiều lúc Nhung ôm cuốn vở vào lòng và ngủ quên trong giấc mơ, khi thức giấc lại học thuộc bài rất nhanh như có động lực thôi thúc. Ngày thi sắp đến, Nhung yên tâm khi đã hoàn tất hầu hết bài vở. Không bận rộn với thư từ gì nữa vì Tâm đã dặn cô hãy tạm ngưng viết thư cho mình để thời gian học bài thi.
Ngày thi sắp tới, mỗi buổi trưa, xấp thư trên tay chị lớp trưởng chỉ ít ỏi năm ba lá. Chị đứng trước cửa phòng cũng không ai buồn hỏi han. Nhưng mà, sao chị lại gọi tên Nhung, cô ra cầm lá thư, không phải thư Tâm mà là thư Cúc, em gái của anh, thật là cảm động, chắc là Cúc viết thư thăm mình đây.
Mở thư Cúc ra đọc, bỗng Nhung giật thót tim sau khi đọc mấy dòng thư. Cô không bao giờ nghĩ Tâm sẽ bỏ cô ra đi như thế này được. Nhung vào giường nằm vật, mở lớn đôi mắt, đọc kỹ lại mấy dòng chữ của Cúc “Anh Tâm bị trúng một mảnh đạn sau đầu khi bị pháo kích vào Bộ chỉ huy, không cứu được”. Nhung đặt tay lên ngực, cố đè nén con tim đang thắt lại từng cơn. Có thể sự thật như thế này đước sao.
Khi Thu vào phòng quăng xấp bài trên giường, Nhung cố ngăn dòng nước mắt đang tuôn trào.
- Thuộc bài hết chưa Nhung ? Thu hỏi.
- Thuộc rồi.
- Đi ăn cơm cho rồi.
- Thu ăn đi, tự nhiên thấy mệt trong người không muốn ăn.
- Sao lúc chiều không báo trước ? Thôi để mình lấy cơm lên cho, tí nữa khỏe, ăn sau.
Nhung dứt khoát :
- Không cần đâu Thu, đừng lấy lên mất công, mình không ăn nổi – Câu nói nghẹn như có gì chặn ở cổ.
Mọi người trong phòng lần lượt xuống lầu. Nhung không cầm được nước mắt, để mặc cho tuôn trào. Cô lại thấy Tâm, rõ ràng trên sân bay như mới vừa hôm qua, gương mặt thoáng buồn nhưng tràn đầy hứa hẹn. Bàn tay siết chặt như còn vương hơi ấm. Tất cả nguồn sống của anh không phải chỉ bùng lên chừng đó, anh đã dặn rằng sẽ chờ em ở Huế.
Tất cả. Tất cả...Và dòng nước mắt không còn ngăn được nữa, cô úp mặt xuống gối khóc vùi, cho đến khi nghe tiếng bước chân của các bạn ngoài hành lang. Nhung im lặng, nén cơn thổn thức.
Các bạn trở vào lấy sách vở đi ra ngoài, tản mạn qua các dãy lớp học để ôn bài. Chỉ vài người ngồi lại học ở ngoài hành lang. Thu vào, hỏi Nhung :
- Có đỡ không Nhung? Đưa cạo gió cho.
- Thôi được, đỡ rồi.
- Có ra ngoài học cho mát không ?
- Mình học thuộc hết rồi, để yên mình nằm một tí.
Thu ôm vở đi. Nhung với tay lấy chai nước, cổ họng khô khốc nhưng uống nước vào lại thấy nghẹn, tim đau thắt khó thở. Cô suy nghĩ, hãy khoan cho cho Thu biết chuyện này, để mai thi xong hẳn hay. Lại suy nghĩ miên man, nhớ lại, mới năm ngoái đây, cũng ngay trên giường này, Nhung đã khóc thầm một lần với những tờ thư của An. Bây giờ, Tâm không chối từ, nhưng anh đã nằm xuống, anh đào huyệt chôn cô thêm một lần. Như những cơn bão đi qua, cuốn mất Tâm rạng ngời yêu thương, cuốn luôn cả lẽ sống đời cô. “Tâm ơi. Anh đã hứa không làm em đau khổ.”
Khi nghe giường mình rung nhẹ, Nhung biết Thu đang leo lên giường trên. Một lát sau, cả giường dưới giường trên đều yên lặng.
Sáng ra, Nhung gượng dậy làm một số công việc cần thiết xong lại lên giường, cầm xấp bài, nhưng chỉ để che giấu dòng nước mắt tràn mi. Thu không ngạc nhiên nhiều, vì giữa khuya có nghe tiếng sụt sùi dưới giường mình, Thu nghi trong bụng nhưng nghĩ Nhung bị cảm sổ mũi, vì vậy mà không ăn cơm chiều hôm qua.
Đợi phòng vắng bớt người, Thu ngồi bên Nhung, khẽ hỏi :
- Nhung, có chuyện gì sao không nói cho mình biết, hình như Nhung có khóc ?
Chưa nghe hết câu của Thu, đôi mắt Nhung không ngăn được giòng lệ. Chưa hiểu gì nhưng thấy Nhung khóc, Thu có chút nghi ngờ. Chờ bớt cơn xúc động của bạn, Thu cầm tay Nhung bóp chặt như muốn cùng chia sẻ:
- Nhung có chuyện gì vậy ?
Biết không thể giấu, Nhung nói thật nhỏ :
- Thu xuống công viên ngồi, mình kể hết cho nghe.
Lựa một góc vắng, hai người ngồi trên một băng ghế hơi khuất dưới bóng cây. Chưa kịp nói gì, Nhung lại khóc, Thu linh tính một điều không may nên ngồi yên để cho bạn khóc, chờ cho bớt cơn xúc động, Thu mới hỏi:
- Chắc là quan trọng lắm phải không Nhung?
- Anh Tâm mất rồi Thu ơi ! Nói rồi Nhung úp mặt lên hai bàn tay, nước mắt tuôn trào.
Thu sững sờ :
- Anh Tâm mất rồi hở Nhung. Thật không?
Nhung chỉ gật đầu.
- Vì sao ?
- Bị pháo kích vào Bộ Chỉ huy.
Thu không khơi động gì thêm, cầm chặt lấy bàn tay bạn lạnh ngắt trong tay mình, nỗi bàng hoàng khiến Thu xao động, rồi cổ họng Thu cũng thấy nghẹn, nước mắt rưng rưng.
Thu biết rằng, giờ phút này không nên nói gì cả, chỉ có nước mắt mới làm nhẹ bớt nỗi đau mà thôi.
Thật lâu, Nhung mới ngẩng lên :
- Có lẽ mình không dạy ở Huế đâu Thu à, mình không còn muốn về đó nữa.
- Hay là… vào Nha Trang dạy với mình luôn đi Nhung.
- Có lẽ thế, nhưng phải đỗ cao mới tự chọn được.
Thu an ủi bạn :
- Bây giờ đời lính tráng không thể biết trước được điều gì. Nhiều khi mình cũng lo ngại anh Lâm nhưng đâu dám nói ra. Nhung bớt buồn đi, dù sao cũng phải ráng ôn bài, còn mấy ngày nữa thi.
- Thi xong Thu về liền hay chờ có bảng?
Nhớ tới lời dặn của Lâm, Thu trả lời:
- Mình phải về liền, nếu Nhung còn ở lại thì xem kết quả giùm mình.
Sực nhớ ra, Nhung nhắc lại :
- Ờ, mà Thu phải về để chuẩn bị đám cưới, mình ở lại chọn nhiệm sở cho. Nếu không chọn được Nha trang, Thu chọn đâu?
- Không chọn được Nha Trang thì hai đứa mình xin lên Đà Lạt. Nhung làm sao chọn hai đứa được một chỗ, xong nhớ đánh điện cho mình.
Nhung nói thêm:
- Mình sẽ cố gắng chọn Nha Trang, không muốn lên Đà Lạt.
- Sao vậy?
- Đang buồn thế này, lên đó sống sao nổi.
- Ờ đúng rồi. Vậy thì lo học đi, đỗ cao mới tự chọn được.
Cố đạt được ý nguyện, Nhung nén lòng lo học riết ngày đêm, mà đêm nào cũng thao thức đâu có ngủ được.
Ngày thi trôi qua nhẹ nhàng vì Nhung làm được bài khá đầy đủ. Trước ngày Thu về Nha Trang, Nhung dặn :
- Khi nào cưới, nhớ gởi thiệp cho mình biết.
Sau khi có bảng, Nhung đỗ thứ 25, Thu 29, cả hai có quyền chọn nhiệm sở tại Nha Trang, Nhung lên máy bay về Huế. Về đến phi trường Phú Bài, đám bạn vui cuời bước xuống cầu thang, Nhung đi chậm phía sau. Chuyến xe đưa tất cả về phố chừng hai mươi phút.
Thúy đón chị ở văn phòng Air Việt Nam, đường Trần Hưng Đạo. Chờ lấy hành lý xong, hai chị em lên xe cyclo về nhà. Câu chào trước tiên của mẹ là “Tâm mất rồi con biết chưa? Mẹ nghe Cúc nói”. Nhung chỉ gật đầu dạ một tiếng rồi đi ra sau, tránh cơn xúc động trước mặt mẹ.
Buổi chiều, Nhung về nhà Tâm. Má anh đang ngồi ủ rũ trên tấm phảng. Thấy Nhung, nước mắt bà trào ra, không kịp chào hỏi một câu, nét mặt tiều tụy thật thảm thương. Thấy bà, Nhung chỉ nói được câu “Con chào bác”, xong đến ngồi vào ghế, mắt nhìn lên bàn thờ Tâm đang nghi ngút khói nhang, mặc cho nước mắt chảy dài. Hai người cùng khóc.
Lâu lắm, má Tâm mới hỏi được:
- Con về lúc nào ?
- Dạ, con mới về hồi sáng.
- Con vừa thi xong phải không? Bác biết con không về kịp, một tuần nay rồi.
Câu nói của mẹ Hòa bị ngắt quãng nhiều lần bởi cơn xúc động. Bà nhìn Nhung qua làn nước mắt, rồi vừa khóc vừa than :
- Sao mà đành đoạn vậy con ơi ! Còn đầu xanh tuổi trẻ, sắp sửa có vợ có con.
Tất cả chỉ còn nước mắt và nước mắt.
Cúc từ dưới đi lên, đến ngồi bên Nhung:
- Chị Nhung…chỉ gọi được có thế, rồi nước mắt Cúc cũng tuôn trào.
Nhung gật đầu nhìn Cúc :
- Chị nhận thư Cúc nhưng gần ngày thi nên không về được.
- Em có nhận thư chị rồi, chị đang bận thi.
- Anh Tâm bị trúng đạn chỗ nào mà không cứu được?
- Chỉ bị một mảnh nhỏ sau đầu thôi, nhưng trúng chỗ hiểm, anh mất ngay. Chị Nhung, em có giữ cái này.
Rồi Cúc đứng lên, đi vào phòng trong, cầm ra một gói nhỏ đưa cho Nhung :
- Mấy hình này ở trong túi anh Tâm, em giữ để đưa lại cho chị.
Nhung dần mở phong bì, mấy tấm hình chụp chung với Tâm và lá thư chưa gởi. Nhìn gương mặt anh trong hình, Nhung không còn dằn lòng, cúi xuống gọi nhỏ “Anh Tâm” và cố nén tiếng nấc.
Hôm sau, Nhung và Cúc đi thăm mộ. Ngôi mộ đất mới, hoa cúng hôm qua vẫn còn tươi. Đặt bó hoa xuống, cắm xong thẻ nhang trên mộ, Nhung ngồi lên thềm đá, tay áp sát trên nền đất mới, dưới đó là Tâm, không còn đi đứng, không còn nói năng, dù chỉ một lời cuối cùng. “Sao anh không chờ gặp em lần cuối”. Nhung nhủ thầm trong nghẹn ngào rồi tựa đầu bên vai Cúc. Cả hai cùng khóc, không ai dỗ dành ai.
Về nhà, Nhung ăn uống qua loa rồi vào giường nằm. Tâm đã thật sự nằm xuống. Nhung trách trời sao đành đoạn với anh, đào huyệt chôn vùi cuộc đời anh quá sớm, ở cái tuổi tràn đầy niềm tin và sức sống, cô tiếc cho anh và đau xót cho mình, xót xa tại sao trách anh yêu cuồng sống vội. Cái chết của anh đã là bằng chứng hùng hồn vô cùng thống thiết, giữa thảm khốc của cuộc chiến và lòng khao khát sống.
Bao kỷ niệm còn đây, vội vàng nhưng vô cùng sống động. Cánh hoa sim tím dại còn ép khô trong trang vở trở thành kỷ vật khắc ghi, luôn văng vẳng lời nhắc nhở đau lòng “Sẽ không có lần thứ hai nữa đâu em”. Bởi tổ uyên ương đã vỡ tan tành khi con chim phượng hoàng gãy cánh.
Nhung thầm hiểu, tình yêu với Tâm, cô cho đi không hề hối tiếc, nhưng tình yêu kính cha mẹ vẫn hơn, và còn nhiều thứ khác nữa, sẽ không thể để mẹ buồn lòng vì mình, ngoài sự trớ trêu đầy khắc nghiệt mà cô không thể tự ý quyết định.
Đời sống của cô sẽ được hiểu như thế nào đây, khi kiếp hồng nhan đã vướng vào cuộc tình trường, mà nhiều lần Nhung tự xét, và tự thấy mình không hề yêu thương mù quáng.
Thôi thì anh cứ ngủ yên, không cần thiết phải lưu lại gì trên đời này nữa, vì chính anh đã thể nghiệm được lẽ tử sinh trước cuộc chiến tàn khốc không riêng ai, nhiều lần anh đã nói như thế rồi. Đau thương như vầy là quá đủ.
Những ngày hè còn lại, vài ba hôm Nhung về nhà Tâm thắp nhang cho anh, đi thăm mộ một mình. Bước đi về hơ hỏng chơi vơi, cô âm thầm sống với những kỷ niệm vỡ vụn, xem đi xem lại mấy tấm hình, cành hoa sim tím ép khô trong trang vở để mườn tượng rằng, Tâm vẫn luôn bên cô, dù anh đã đến và đi trong đời cô bất chợt như ánh sao băng.
Tình sống vài năm với An là tình nhớ. Tình sống võn vẹn vài tháng ngắn ngủi với Tâm là tình ghi khắc thiên thu. Có ai nghĩ rằng, hai người cùng hợp thành cơn bão đầy giông gió, không biết sẽ xô đẩy cuộc đời cô trôi dạt về phương nào giữa dòng đời thác lũ.
CHƯƠNG XII
Mấy tháng hè rồi cũng trôi qua, Nhung chuẩn bị vào Nha Trang nhận nhiệm sở. Sau khi mua vé máy bay, Nhung đánh điện cho Thu.
Những ngày đầu mùa thu ở thành phố sắp rời xa, Huế với những con đường thân thương bỗng trở buồn như người tình hắt hủi, lá phượng lá me thi nhau trút lá, như vẫy như chào.
Vì đâu mà sóng nước sông Hương không còn reo vui như khi hai người qua mấy nhịp cầu Trường Tiền với đôi tim hòa nhịp, bao nhiêu nhịp cầu là bấy nhịp yêu đương. Nắng bên bờ Đập Đá ngày nào rực rỡ là thế khi hai người chở nhau đến đó, thêm giờ phút gắn bó mặn nồng trước ngày xa Huế. Vậy mà giờ đây nắng vàng hiu hắt, đường phố thênh thang, đông chưa qua mà nghe lòng băng giá.
Huế sẽ chẳng cầm chân được ai trong ba người, mỗi người trôi dạt một phương. Những kỷ niệm gom góp sau cùng, những hàng cây vẫy tay chào tiễn biệt. Thôi cũng đành phải bắt đầu một hành trình mới lạc lõng xứ người.
Phi cơ từ Huế đến Nha Trang chỉ gần một giờ bay, bắt đầu qua vùng biển xanh bao la, mặt biển không xao động, bình yên phẳng lặng bát ngát dưới tầm mắt. Mây bềnh bồng trắng phau la đà bên cửa kính, cho đến khi xuất hiện vùng hải đảo xa xa, phủ nhẹ những dải mây trắng bay thấp nhởn nhơ la đà đẹp như tranh thủy mạc.
Thấp thoáng dải cát trắng dưới hàng dương xanh, tỏa bóng đến cuối tầm mắt, bờ biển trải dài gợn sóng xôn xao. Trên bờ, dưới nước, những người là người, nổi bật với đủ màu sặc sỡ của những chiếc áo tắm. Ý tưởng đông vui bắt đầu nhen nhóm khiến Nhung ngỡ ngàng, mắt đăm chiêu nhìn cảnh nhìn ngươi.
Phi trường ngay trong thành phố, chỉ cách biển một con đường. Xuống khỏi cầu thang máy bay, Nhung đã thấy Thu chờ sẵn ở dưới.
Hai người cùng về bằng xe Honda.
Thu nói :
- Mình đi hết vòng biển rồi về. Người nào mới đến đây cũng phải đi hết con đường biển này.
- Ấn tượng đầu tiên mà Thu, ngồi trên máy bay đã thấy biển đẹp rồi, dọc cả bờ biển không chỗ nào là không người, có cả Tây cả Mỹ.
- Mình là dân ở đây, còn mê biển huống gì ở đâu mới tới, thắng cảnh thế giới chứ bộ. Tây với Mỹ là mấy Nhung. Thu lập lại để Nhung cười.
Nhung không nói gì thêm, lặng ngắm hàng dương xanh nghiêng bóng trên triền cát. Thẳng tầm mắt trông ra là màu sáng trắng óng ánh của hòn đảo nhỏ không xa, lấp lánh như giác bạc. Nhung hơi thắc mắc về màu sáng chói ấy nhưng không hỏi han gì, định bụng sẽ từ từ tìm hiểu, chỉ hỏi Thu hòn đảo đó là gì. Thu nói đó là Hòn Yến, nơi chim yến làm tổ, mình ăn yến sào chính là ăn tổ yến đó Nhung.
Nhung đã hiểu và đang hít thở vào phổi làn gió hào phóng từ ngoài khơi đưa vào, nghe như có mùi hương biển ngọt lành, khác với gió ở những biển khác khi nóng khi lạnh. Đường biển người xe tấp nập, không vội không vàng, như đi dạo biển.
Xe dừng trước nhà Thu. Qua căn phòng khách rộng rãi, Nhung đi theo Thu lên lầu. Phòng Thu ở tầng một, phía trước, nhìn qua cửa sổ đã thấy dưới đường xe cộ qua lại đông vui.
Đặt hành lý xuống, Nhung nói:
- Tưởng hai đứa không được dạy cùng một chỗ, cũng may có nhà Thu ở đây.
Thu nói như dẫn chứng:
- Còn mấy giáo sinh ở Nha Trang nhưng nội trú phòng bên nên Nhung không biết, ở đường Độc Lập gần đây thôi. Nhung cứ ở đây, vài hôm nữa xem nhiệm sở chỗ nào rồi tính, anh Lâm lâu lắm mới về vài bữa. Cưới xong có mấy ngày là đi liền.
Sực nhớ, Nhung hỏi thêm:
- Sao Thu không ở nhà Lâm?
- Bên anh Lâm có nhiều người. Hai vợ chồng người anh với hai đứa con ở lầu trên, ba mẹ với hai đứa em còn đi học ở dưới, nhà chỉ một tầng, vì vậy mình xin về đây với anh Lâm, ba mẹ anh vui vẻ bằng lòng.
Thu nói thêm:
Nhà mình ít người, hai anh đã có gia đình hiện ở Sài Gòn, mấy chị đã lập gia đình đều ở nhà riêng, ở đây chỉ còn hai đứa em còn đi học, tụi nó ở lầu trên. Ban đêm đông đủ một tí, còn ban ngày lại vắng. Ba đi làm bên Quân nhu ngày hai buổi. Mẹ ngồi ngoài chợ cả ngày.
- Nhà Lâm gần đây không?
- Cách có ba con đường, đi loanh quanh chưa tới hai cây số.
Nhung cười :
- Vậy bồ dọn cho mình cái phòng phía sau cho rồi, ở tạm vài hôm.
- Được thôi - Lúc này anh Lâm bay suốt, lâu lắm mới về được vài ngày. Chuyển quân và lái trực thăng tiếp tế, ớn lắm.
- Mình ở vậy là vừa, phải không Thu?
- Mặt bồ mà ở giá, trời đi khỏi.
Câu nói của bạn khiến Nhung suy nghĩ. Cảnh lạ, người chưa quen. Con đường biển vừa đi qua như còn dư âm tiếng sóng, nghe như sóng vỗ vào lòng dư âm tình đã xa người, còn mang theo đến tận nơi đây.
Không phải đây là lần đầu tiên Nhung đến một thành phố lạ, mấy năm học xa nhà cũng đã quen, nhưng lần này mang thêm nhiều ý nghĩa, cô đang cần một khung cảnh mới, cần những công việc, tìm nguồn vui với đám học trò, và buồng tim cần thở một luồng không khí mới, không phải để tìm quên, chỉ mong được nguôi vơi.
Nhung nhận nhiệm sở ở một trường cách thành phố gần tám cây số. Việc tìm chỗ để ở lại nhiệm sở không khó vì các giáo viên trong trường đã biết rõ nhà nào thường là nơi ở tạm cho những giáo viên mới chuyển đến.
Nhà ông Ban ở gần trường, không rộng nhưng có sẵn một phòng dư, Nhung được giới thiệu đến đó.
Hai người con gái của ông Ban đã có chồng, chỉ độc nhất một người con trai nhưng đã lên chiến khu mấy năm nay rồi, nên nhà chỉ có mấy người. Ông Ban đã gần sáu mươi, sáng sớm vác cuốc ra đồng cùng với người con dâu chăm sóc mấy sào ruộng và vườn cây ăn trái, sau khi ăn no một bụng cơm do vợ ông dậy nấu lúc gà vừa gáy giấc đầu.
Hai đứa cháu nội, một đứa chín tuổi, đứa em bảy tuổi, chẳng đứa nào nhớ rõ mặt cha. Lúc đầu có ai hỏi, chị Huệ đều nói chồng đi làm ăn xa. Dư luận trong làng cho rằng con trai ông Ban đi theo cách mạng, lâu không thấy về chắc là chết rồi. Trong làng vẫn có vài người lên chiến khu cũng không thấy về, điều này cũng không sai.
Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay, thôi vậy cũng tốt, để được ăn yên ở yên với phía quốc gia. Nhà có thầy giáo cô giáo vô ra cũng được nể nang phần nào, nên ông ít bị chính quyền làm khó dễ. Mà chính quyền được gán cho là ác ôn kìm kẹp đủ điều, nhưng những việc truy dò như thế này lại hơ hỏng lơ là như vô tình.
Có những đêm khuya khó ngủ, Nhung bật nhỏ cassette nghe nhạc, bỗng nghe nhiều tiếng chân dẫm nhẹ lạc sạc và tiếng trao đổi khe khẽ ngoài rào, nhiều lần như thế. Những lần ngồi soạn bài, nghe dưới nhà vợ chồng ông Ban và chị Huệ trao đổi về việc du kích về làng hoạt động ban đêm. Thỉnh thoảng thấy chị Huệ nấu cả nồi xôi lớn, trút lên mâm, ghém lại thành từng vắt đặt trong lá chuối, rồi không biết mang đi đâu, chỉ để lại trong nhà chút ít ăn buổi sáng. Gia đình này chỉ sống với mấy sào ruộng chứ đâu phải mua bán gì. Sao lại có hiện tượng này?
Một buổi sáng Nhung đi dạy, khi vừa tới cổng trường, thấy một đám đông người đứng gần chân cầu bàn tán, ở đó có ba xác du kích nằm sắp hàng trên bãi cỏ. Vào trường, nghe các giáo viên kể, lúc đêm khuya, hai bên có bắn nhau khi lính quốc gia phát hiện du kích lợi dụng bóng tối đêm ba mươi bơi qua sông. Lính quốc gia chết một người đã chở đi.
Một lúc, đã thấy chị Huệ hớt hãi ra nhìn kỹ từng khuôn mặt ba xác chết. Thầy Hiệu trưởng cho kiểng học sinh vào lớp để khỏi bị giao động, ảnh hưởng đến việc học.
Nghe nói tháng vừa rồi, du kích về dẫn Minh, em trai của cô Hạnh lên núi. Minh đang học đại học năm thứ nhất, vừa mới về thăm nhà. Người anh ruột của Minh đang là Đại úy bộ binh quốc gia. Rồi hai anh em nhà cô Hạnh sẽ như thế nào đây, cũng không ai thắc mắc chi nhiều vì cũng đã có nhiều gia đình, anh em kẻ Bắc người Nam.
Nghe tin đó, mỗi buổi chiều, sau tiếng kẻng bãi lớp, giáo viên nam vội vã rú xe về nội thành, kể cả giáo viên địa phương cũng không dám ngủ ở nhà. Tình hình này lâu nay là như vậy, cũng không ai dám luận bàng. Chính Nhung cũng có một ông cậu (em bà ngoại) đã tập kết ra Bắc, làm việc ở Bộ Giáo dục ngoài đó.
Nhung kể chuyện tai nghe mắt thấy ở trường cho ba mẹ Thu nghe, ba Thu nói sẽ nhờ người bà con làm ở Sở Giáo dục chuyển về gần. Trường Thu dạy cách nhà chỉ ba cây số, dạy xong lên xe lam về ngay.
Được ba của Thu hứa hẹn nên Nhung cũng tạm yên bụng.
Mỗi tuần, sau buổi dạy thứ bảy, Nhung lên xe lam về nhà Thu. Nghỉ ngơi ăn uống xong, trời xấp tối là hai bạn chuẩn bị một ít bánh trái mang ra biển ngồi chơi. Trời vào thu nhưng khí hậu vẫn còn nóng, người thật đông ngồi hóng mát từ trên sân gần mặt đường, đến người bơi lội dưới nước giỡn đùa từng con sóng nhỏ.
Trên đường, các quán giải khát và quán bar, âm nhạc xập xình, lính ngoại quốc ra vào liên tục. Dân thường chỉ ngồi trên các ghế đá hoặc các quán nhỏ ít người. Bờ biển sáng rõ nhờ ánh đèn từ các quán nước chiếu xuống, thấy rõ từng đợt sóng lăn tăn. Trăng mười sáu vành vạnh treo trên ngọn hải đảo ngoài khơi, một lúc lại treo lơ lửng giữa trời đêm, một lúc lại treo nghiêng trên ngọn dừa cao, thật là quá đẹp và thơ mộng làm sao.

Đèn đánh cá ngoài khơi nối dài lấp lánh như thành phố đêm trên biển.
Nhung nói lên ý nghĩ :
- Đúng là thành phố biển, ra đây không xa, muốn đến muốn về lúc nào cũng được. Biển ngoài mình xa thành phố hơn mười cây số, một năm xuống biển đâu có bao nhiêu lần, trừ những người mê biển. Khi nào đi là tổ chức như một cuộc picnic với chị em trong nhà hoặc bạn bè. Nhiều lúc ở lại ban đêm mới ngắm được trăng treo lơ lững giữa trời, không đồi không đảo.
Thu nói thêm:
- Vào mùa nóng, ở đây đông kín người gần như không còn chỗ, họ mang thức ăn ra đây, ăn uống ngồi mát cho đến khuya . Biển đêm lúc nào cũng đông vui, nhìn cứ tưởng như đầu hôm.
Nhung nói vui :
- Không như thành phố đi ngủ sớm của mình. Chưa tới bảy giờ tối là phố xá đóng cửa, buồn hiu.
Thu chỉ tay ra bãi cát:
- Đó, người ta trải chiếu nằm cả nhà thỏa mái cho tới khuya, đó là chưa kể mấy cặp đôi hẹn hò, trai gái.
Nhung nhìn Thu, hỏi vui:
- Trước khi cưới nhau, Lâm và Thu chắc cũng thường ra đây tâm sự? Thu cười hể hả:
- Ui dà, búa lua xua, ai mà không khỏi ra đây. Một lúc Thu hỏi :
- Mình hỏi thật, ở đây khá lâu rồi, ra chơi đây nhiều lần, đã bớt buồn chưa?
- Làm sao mà hết được – hòa nhập như thế này cũng phải cần thời gian.
- Dù sao anh Tâm cũng đã mất rồi, cũng phải biết chôn chặt, không lẽ buồn mãi - Thu an ủi bạn.
- Biết vậy, nhưng anh Tâm đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên lắm Thu à.
Tâm chợt trở về với Nhung với hình ảnh đang hái cho cô những cành hoa dại trên đồi. Anh đã nói đúng. Những kỷ niệm đơn sơ nhất lại là điều đáng ghi nhớ nhất, như anh đang còn tắm dưới ngọn thác và nói chuyện Lưu Thần. Khó mà quên được.
Trong hoài niệm nhạt nhòa, Nhung nghe rõ tiếng nói của Thu :
- Đồng ý vậy, mình thương Nhung lắm, nhưng ở đây không khí vui vẻ, có chỗ vui chơi giải trí, chắc rồi sẽ vơi đi.
Thu tránh nhìn Nhung, nhưng trong tâm tư dâng lên niềm xót xa thương bạn. Thu cầm tay Nhung đứng lên, cho xe chạy thêm một vòng đường biển trước khi về nhà.
Những sáng chủ nhật tiếp theo, Nhung ra biển đón bình minh. Mặt trời đỏ ối tròn như trái banh khổng lồ trồi lên từ phía chân trời, rồi từ từ cao dần lên nép bên sườn núi, tỏa ánh sáng chói lòa giữa bao la biển nước, thành một thảm lân tinh óng ánh trải dài đến cuối tầm mắt. Nhung say sưa đứng ngắm.
Vài đàn én bay ngang tô vẽ thêm vẻ đẹp quyến rũ của biển sớm. Trời xanh, nước xanh, người người trên bờ dưới nước đã xuống đây từ sớm. Buổi chiều ra ngắm hoàng hôn khuất dần phía đảo xa, gió đại dương lồng lộng mát lành, người tắm nhiều hơn buổi sáng, chẳng khi nào biển vắng người.
Tất cả cuộc sống như ào tới đón chào, rộn ràng như không bao giờ dừng lại. Nhung vui lây, cũng nghịch đùa với cát, với sóng, với mấy chú còng chạy lạc. Thấy bạn vui, Thu thầm hiểu, thành phố này không phải chốn u buồn để Nhung chìm mãi trong quá khứ.
Tối chủ nhật, Thu và Nhung ngủ chung, tâm sự vài dòng rồi cả hai cùng ngủ, đi vào giấc mơ riêng. Sáng thứ hai, mỗi người về một trường. Nhung định mua xe máy để đi, nhưng nhớ lời Tâm dặn, sẽ rất nguy hiểm vì xe rờ-mọt của Mỹ thường di chuyển trên đường quốc lộ.
Hơn nữa, cô bắt đầu thấy thích khung cảnh làng quê, không khí trong lành, yên tĩnh. Nhiều lúc cô cũng viết được vài câu thơ tức cảnh tức tình, lòng thấy vui vui, tâm hồn lắng dịu.
Tuy vậy cô vẫn theo dõi tin tức mỗi ngày trên đài báo, chiến trường khắp nơi ngày càng khốc liệt, bộ đội chiến đấu rất kiên trì, quyết chiến quyết thắng cho dù đồng minh Hoa Kỳ mở nhiều chiến dịch đặc biệt với những trận bom kinh hoàng, nhưng vẫn bị mất đất giành dân.
Cũng vì sinh viên học sinh các tỉnh biểu tình chống chiến tranh, chống chính quyền, đuổi Mỹ về nước. Nổi bậc nhất là ở Huế, sinh viên học sinh toàn là cơ sở nội thành, lên đường xuống đường tranh đấu Phật giáo, biến loạn liên tục, chính quyền bất lực.
Hơn hai mươi năm dài nồi da xáo thịt, đổ biết bao xương máu nhưng hoà bình thì còn xa vời vợi, dân lành sống không yên, chỉ mong đến ngày không còn bom rơi đạn nổ, đất nước an bình. Cô chợt nhớ đến An đang ở trong quân ngũ, và cầu nguyện cho anh.
Những lúc rãnh rỗi sau giờ dạy, Nhung đến nhà vài cô bạn dạy cùng trường, đi dạo quanh làng với vài học sinh, xem dân quê gieo mạ, nơm cá. Chiếc nơm đặt kề miệng cống, chừng vài tiếng đã thấy cá quần quẫy đầy nơm. Những chị nông dân xắn quần nơm tép trên những ruộng nước lạnh cóng trong khí lạnh mùa đông.
Những con đường quê cỏ dại, những khu vườn nho nhỏ trồng đủ loại cây trái trông thích mắt, nhà nào cũng có đủ loại trái cây ăn quanh năm, bóng mát quanh làng.
Những đêm trăng tỏa sáng bàng bạc trên những mái ngói, mái tranh xen lẫn giữa những cây cau, hàng tre, soi tỏ con đường quê có những đôi trai gái đi bên nhau. Cảnh đồng làng vắng vẻ yên ả, nếu không có chiến tranh lấn sâu vào từng làng mạc, thì cuộc sống nơi đây sẽ thanh bình êm ả biết chừng nào.
Buổi sáng sớm, vừa thức dậy đã nghe tiếng chim ríu rít trên cành cao. Dọc đường tới trường, trên từng lá cỏ còn đọng những hạt sương trong suốt lung linh như chào đón ngày mới tươi sáng, trong lành. Nhung thấy yêu mến gần gũi nơi đây như đã ở từ lâu lắm. Vì vậy cô không còn muốn về Nha Trang mỗi tuần, mà có khi đôi ba tuần.
Mỗi lần về phố là cô nhớ mua một số sách báo để dành về trường đọc. Đối với cô, đây là điều cần thiết để tìm vui, để mở mang tri thức. Đôi lúc tình tiết những câu chuyện lại lôi kéo cô về miền ký ức, những nhân vật có cuộc đời đa đoan chìm nổi mặc cho sóng đời xô dạt, nhưng không chỉ riêng ai.
Sau đó lại có lúc trầm tĩnh rất lạ trước vắng lặng của khung cảnh, trước những trang sách gợi suy. Nhiều lúc lòng thấy nhẹ tênh như không còn ưu tư buồn bã, thanh thản thả dòng tâm tưởng lên xuống nhịp nhàng như những đợt triều, từ những tư duy triết lý hiện sinh,về trải nghiệm đời sống.
Thỉnh thoảng Nhung được phụ huynh mời ăn giỗ, cũng là dịp các vị cao tuổi lão làng giới thiệu một vài thanh niên con cháu của họ cho cô giáo. Có người cùng nghề dạy học, có người đang ở trong quân ngũ, nhưng cô hờ hững, trả lời qua loa như đã có chỗ có nơi rồi. Đối với cô, tình cảm không phải dễ dàng đặt để bất kỳ nơi đâu. Vài lần như thế, Nhung tự dò hỏi tâm tư mình, và vẫn còn nghe cảm giác e ngại của cánh chim hơn một lần trúng đạn.
Bây giờ trái tim đã qua đi những xúc động đầu đời, như đã cạn vơi đi tình cảm luyến ái. Hơn nữa, những tuyệt vời cô nhận được từ hai mối tình son sắt rạng ngời ấy, cũng đủ cho cô đau đáu một đời. Vì không ai có thể là An, không ai có thể là Tâm được nữa. Đau kín nhưng thắm đượm, mất rồi nhưng còn mãi. Từ đó cô lại càng khó khăn hơn với chính mình.
Thu qua đi, đông lại tàn. Tết đến, Nhung về Huế thăm nhà. Nhiều lần đi qua những con đường quen, phố vắng mùa đông mênh mang mưa rơi. Vào ngồi quán nhạc, nghe Tuấn Ngọc “còn đó biết bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vơi…”, lòng cô chùng xuống theo cung đàn trầm lắng. Dù không giữ được nhau nhưng không oán trách một lời, bởi người xa vắng rồi, tình như gió thoảng mây trôi.
Hết mấy ngày tết rồi lại ra đi, dù không muốn rời xa ba mẹ và các em, nhưng cũng phải tiếp tục cuộc dấn thân như hạt bụi cuốn theo chiều gió, bởi cô cảm nhận đời mình như một định mệnh, phải đi, và không thể là loài chim di trú nơi này.
Vào đến Nha Trang, trước khi về trường, Nhung ở lại nhà Thu, biếu mấy gói mè xửng và hạt sen khô. Thấy bụng Thu hơi lớn, Thu nói sẽ sinh vào tháng hè. Nhung ở lại chơi thêm một ngày, mua thêm một ít sách báo để dành về trường đọc. Ba Thu nhắc lại lời hứa, sang năm sẽ xin cho Nhung về gần hơn.
Thu hỏi thăm Nhung về những ngày tết ở Huế, Nhung kể lại một vài tình cảm ấm áp khi về ăn tết với gia đình, cô còn nhớ đến mẹ, miệng cười tươi vui nhưng mẹ cố giấu nỗi buồn trong khoé mắt.
Thu nói thật lòng:
- Rồi mọi sự cũng qua đi, chờ khi nào bồ chào thua nỗi buồn, mình sẽ giới thiệu cho một chàng.
Nhung rùn vai:
- Chuyện đó cũng không khó khăn chi, ở trường cũng có người muốn làm thân nhưng …
- Nhưng thế nào? Thu hỏi để tỏ rõ tình ý của bạn.
- Quan trọng là có hiểu nhau hay không, mình thấy ai cũng xa lạ, nhất là lính, mình ngại lắm, chưa thấy mặt mũi đã không muốn gặp. Kỳ này mình về trường ở lại luôn tu kín, hay là lên núi theo cách mạng.
- Nói thiệt hay giỡn vậy Nhung? Thu nhấn mạnh – Hè này tui sinh nghe bồ, nhớ thỉnh thoảng lên về, có chi giúp giùm, không thể ăn nói vớ vẩn được. Ở Sư phạm thấy bồ đan thêu giỏi lắm, định nhờ đan giùm áo len và vài đôi tất cho em bé. Dân Nha Trang như mình không rành việc này đâu. - Được thôi, mình sẽ đan xong sớm.
Có công việc của Thu giao cho, Nhung thấy thời gian qua mau. Nghĩ đến em bé, đến ngày Thu làm mẹ, niềm vui lan theo mỗi lần thấy bụng Thu ngày càng lớn. Loay hoay lại sắp đến hè, Nhung chưa vội về, ở lại chờ Thu sinh xong, phụ giúp cho hai mẹ con gần nửa tháng.
Trong thời gian bận dạy dỗ thêu đan thì quên chuyện nhớ quê nhớ cảnh, nhưng khi rãnh rỗi thì rất nhớ ba mẹ, nhớ các em, nhất là em Thúy. Cô biết mẹ rất mong cô về, mẹ hiểu hết nhịp điệu buồn vui trong trái tim con gái, bởi mẹ tận mắt chứng kiến đầy đủ từ đầu đến cuối hai cuộc tình đầu đời của Nhung, trong lòng vẫn còn đọng lại tình cảm xót thương hai chàng rễ hụt.
CHƯƠNG XIII
N ghỉ xong hè, Nhung vào Nha Trang thì con Thu đã ngồi được, em bé thật bụ bẫm, kháu khỉnh. Nhung ở lại với Thu mấy ngày, ẳm bồng nựng nịu em bé không chán. Nhìn bạn âu yếm con mình, Thu nghe lòng xót xa, nếu Tâm còn sống, giờ này Nhung cũng có em bé ẳm bồng như Thu rồi. Hình ảnh đứa bé nhắc nhở cho Nhung điều ao ước của Tâm trong những phút giây gần gũi, với câu nói như còn đâu đó, khiến tim cô đau thắt. Cuối cùng, những ngày ngắn ngủi bên nhau, anh hoàn toàn mất trắng, chẳng có gì lưu dấu, còn chăng chỉ là lửa tàn than mọn.
Thấm thoắt đã xong học kỳ một, thời gian khá rãnh rỗi. Con Thu đã đi chập chửng, thích được ngồi xe chở đi ra đường, Thu nói phải mua cái ghế nhỏ gắn nơi xe để chở bé đi chơi.
Sau buổi cơm tối, Thu chở Nhung và em bé ra biển. Thu đứng bên đường ẳm con chờ Nhung gởi xe, bỗng nghe có tiếng gọi từ mấy bàn ăn gần đó :
- Thu – cô Thu.
Thu nhìn tới và chợt kêu lên :
- Trời, anh Định - về hồi nào vậy?
- Mới về hôm qua, Thu vào đây uống nước luôn. Chà, đã có em bé ẳm rồi, nhanh quá.
Nhung gởi xe xong đến gần, Thu giới thiệu:
- Đây là anh Định, anh Hòa, bạn thân của anh Lâm.
- Định với Hòa tính đến thăm hai người đây, nhưng ngang qua biển sẵn ngồi chơi một tí. Sao cô Thu, Lâm có về tết không?
- Không, phải bay liên tục.
Định kéo thêm ghế cho hai người ngồi, Hòa đến quầy gọi thêm hai chai nước ngọt.
Hòa về đến chỗ, Thu giới thiệu :
- Đây là Nhung, bạn của Thu, cùng khóa.
Hòa tự tay rót nước ngọt vào ly cho hai cô.
Thu nhìn Định thắc mắc:
Lính cấm trại hết, tết có ai về được mà anh Định về ?
- Về phép hẳn hoi cô Thu à – Định vỗ tay vào túi áo - Tết này xin phép về cưới vợ.
Thu cười lên mấy tiếng:
- Xạo quá, về cưới vợ mà giờ này còn ngồi nhậu.
Định chưa kịp trả lời thì Hoà lên tiếng :
- Lâu lâu anh em gặp nhau, vợ thì vợ mà nhậu thì nhậu một tí không sao. Cận tết thế này mà cưới với hỏi, ông Định nói đùa đó, hai cô đừng tin.
Thoạt nghe giọng Huế trọ trẹ của Hòa, Nhung hơi nhíu mày ngạc nhiên. Không rõ con người này thế nào mà bào chữa cho Định với cái giọng điệu có vẻ gàn gàn. Có điều, tiếng nói có pha phách nhẹ nhàng chứ không như tiếng Huế rặt, chắc hẳn người này đã ở đây khá lâu.
Hoà cầm bàn tay bụ bẫm của em bé, lắc lắc:
- Cô Thu thấy Định với Hòa dỡ hơn Lâm chưa ? Lâm đã có em bé rồi mà bọn này vẫn còn lêu bêu. Nói xong Hòa nhìn sang cô gái lạ, cũng là một cách tự giới thiệu mình còn độc thân.
Thu bật cười:
- Tại mấy anh chưa muốn chớ người đẹp thiếu gì. Anh Định để cho Hương chờ mãi, hơn hai năm rồi, tình yêu kiểu gì lạ vậy anh Định. Định nhướn mắt lên :
- Cũng không có gì lạ đâu, tại Thu chưa biết đó thôi. Không ai có được tình yêu bền bỉ như Định với Hương, cũng có lý do.
Nhung nghe hơi lạ nhưng không dám tham gia câu chuyện, chỉ lắng nghe thử vì lý do gì. Có lẽ do Định hơi cà gật vì mới uống xong mấy chai.
Hoà xen vào câu chuyện :
- Bữa nay Định nói năng hơi khó hiểu, mình đây còn thắc mắc huống gì cô Thu - Thật tình mà nói, Hương đợi ông khá lâu rồi đó, nếu là tôi, chắc không đủ kiên nhẫn bắt người ta phải chờ đợi lâu vậy.
Định châm xong điếu thuốc, trả lời:
- Đó, thấy chưa, ông mau mắn vì ông yêu là cưới, nhưng mà sao giờ này vẫn còn ở không? Còn tôi á…vừa có giấy phép chuyển về làm văn phòng đây, mới dám nói chuyện vợ con, nhưng cũng vài tháng nữa. Hương đồng ý chờ lâu vì tôi hay kể chuyện quân đội chết trận quá nhiều, cứ hẹn để yên yên, nhưng biết khi nào yên. Lính chiến đi trận mãi cũng sợ lỡ có bề gì làm khổ người ta, con gái mới lấy chồng đã thành quả phụ.
- Ai xin cho về? Hòa hỏi.
- Cũng do may mắn thôi. Trong đợt xét hồ sơ vừa rồi, tự nhiên cấp trên ký quyết định cho về.
Hòa ngẩm nghĩ một lúc:
Cũng vì ông có hai cái chứng chỉ, cho ra chiến trường thấy tội.
Định bào chữa:
Nhiều tướng tá có bằng cấp tới gì cũng phải ra trận, mình nghĩ là nhờ may mắn mà thôi – Định đưa cao ly bia – bây giờ hãy nâng ly chúc mừng cho Định.
Hòa cầm chai bia hỏi Nhung :
- Cô Nhung uống bia nghen?
- Đừng anh Hòa, Nhung không biết uống bia – Nhung nhẹ giọng từ chối.
Hoà chú ý nhìn Nhung sau câu nói đó và galant một câu :
- Không sao đâu cô Nhung, có gì bọn này sẽ đưa cô về. Không ngờ lại gặp người đồng hương ở đây, cô Nhung người Huế?
Nhung chỉ cười. Thu giới thiệu rõ hơn:
- Huế chính gốc đó anh Hòa, biết đâu “hữu duyên thiên lý ...”
Định uống cạn ly bia, nhìn Hòa chỉ cạn nửa ly. Định hơi ngạc nhiên:
Sao Hòa không uống hết? Bữa nay thấy có vẻ ít át, thường ngày đâu có vậy.
Hoà đáp từ tốn:
- Thì cũng chúc mừng cho ông, nhưng hôm nay tôi cũng không được uống nhiều, dù sao cũng phải lịch sự trước người lạ, phải không cô Nhung?
Nhung chỉ mỉm cười gật đầu.
- Cô Nhung có vẻ kiệm lời. Các cô gái Huế thường ít nói, mới nhìn dáng vẻ là tôi đã ngờ ngợ rồi.
Định góp cười:
Mấy người còn độc thân họ hay có cái nhìn ngờ ngợ lắm, phải đề phòng nghe cô Nhung.
Ai cũng bật cười theo câu nói của Định.
Hòa tô vẽ thêm:
Được gặp cô gái Huế, người của sông Hương núi Ngự, làm tôi nhớ Vỹ Dạ, Nam Giao…
Chưa diễn đạt hết ý, Định vội ngắt ngang:
- Hoà bắt đầu làm thơ đó cô Nhung, ông ấy có tâm hồn lắm, hay đọc thơ Hàn Mặc Tử, Apollinaire, Verlaine…cho bọn này nghe. Mà tôi đã giới thiệu với cô Nhung, Hoà là thầy giáo chưa. Bộ ba của bọn tôi có lọt vào một nhà mô phạm rất chịu… nhậu.
Tất cả lại cười. Không khí trở nên cởi mở. Thu giải thích với Nhung :
- Tại lúc trước ba người cùng học một lớp nên rất thân nhau. Thôi mình về kẻo em bé sắp ngủ.
Hoà nói với Định:
- Thôi, ta đưa hai cô về.
Bốn người ra chỗ gởi xe, Định đưa ý kiến :
- Hòa chở cô Nhung để Thu chở em bé cho nhẹ xe, tôi đi xe của tôi. Nghe vậy, Hoà mau mắn dắt xe ra đường, ngồi lên yên chờ Nhung. Thu nói thêm:
Nhung để anh Hòa chở không sao đâu, uống chừng đó mà nhằm nhò gì.
Nhung không ý kiến, lên ngồi yên sau. Thái độ của Hoà không gây được cảm tình nhưng cũng khiến cô thấy vui vui.
Qua một đoạn đường hơi xóc, Nhung lúng túng níu lấy lưng áo Hoà.
Anh lên tiếng :
- Không sao đâu Nhung.
- Coi chừng té anh Hòa – Nhung cẩn thận nhắc khéo.
- Nhung đừng sợ, mười Nhung anh chở cũng không sao - Hoà nói có vẻ hơi bông lơn khiến Nhung tức cười.
- Vậy là có lần anh chở mười cô?- Nhung vui vẻ đùa lại, nghĩ bụng con người nầy có tính ưa bông đùa.
- Đó chỉ là ví dụ - Hoà nói trớ - Giờ này tĩnh táo lắm chứ đừng nghĩ Hòa say, để chở Nhung ra biển lại một vòng xem có sao không.
- Sắp đến nhà rồi còn đi đâu nữa - Nhung phản đối.
Hòa thắng xe trước cửa nhà Thu, nói lớn cố ý cho Thu nghe:
- Ngày mai Hòa đến, đi uống nước dừa.
Nhìn Nhung một lần nữa Hoà mới quay xe.
Tối lên giường, Thu nói với Nhung:
Lúc nãy có nghe anh Hòa nói mai trở lại, không biết đi một mình hay đi với anh Định ?
Nhung hỏi :
- Thu có biết nhiều về anh Hoà không, bạn thân của anh Lâm mà. Mình cũng nên biết chút ít lỡ mai anh Hòa đến cho dễ nói chuyện.
Thu hơi thắc mắc :
- Thường thì mỗi khi có anh Lâm, thỉnh thoảng ba người về đây nhậu, nay anh Lâm không có, nếu mai anh Hòa trở lại một mình chắc là có ý gì rồi.
- Chẳng ba người hay nhậu nhẹt lắm? Nhung dò hỏi.
- Cũng lai rai mỗi khi có dịp gặp nhau.
- Mình thấy hai ông có vẻ tửu lượng?
- Người nào sức uống cũng khá, nhưng không mấy khi say sưa. Anh Hòa quen với Trang khá lâu, nhưng không rõ sâu đậm thế nào. Ai cũng nghĩ sẽ tiến tới nên mình không tìm hiểu, thái độ vừa rồi của anh Hòa cũng khiến mình suy nghĩ.
- Là sao?
- Anh Hòa có cái nhìn và cách nói hơi khác chắc là có ý gì rồi. Nếu Nhung có chồng con như mình thì lời nói cử chỉ Nhung sẽ khác, không khiến anh Hòa lưu tâm, ngó vậy chứ họ có cái nhìn sành sõi lắm. Hôm qua thấy anh mau chân ra xe ngồi sẵn để chở Nhung, nhớ không, còn dặn mai đến.
Nhận xét của Thu khá chính xác, Nhung cũng nghĩ vậy, nhưng vẫn thắc mắc:
- Anh đang quen Trang mà.
- Biết đâu, nhiều khi vẫn có bạn gái, nhưng khi quyết định lấy vợ thì muốn chọn người hợp ý hợp tình. Thường mấy ông uống nhiều hơn nữa chứ ăn nhằm gì chừng đó. Anh Hoà là bạn thân của anh Lâm, Nhung là bạn thân của mình, cũng là người thân cả, không thể nào anh Hoà có thái độ như vậy là quá vội vàng.
Nhung nói xuôi :
- Mình cũng nghĩ như vậy. Thật ra, có nhiều điều khó hiểu hơn nhưng mình vẫn hiểu ra, còn chuyện này thấy hơi lạ. Thôi cho qua đi, đừng quan tâm nữa. Ngủ đi Thu.
Sáng hôm sau, khoảng chín giờ Hoà đến, thái độ vui vẻ tự nhiên. Thấy Hòa đến một mình, Thu ra tiếp rất vồn vã. Thật lòng, ý Thu muốn Nhung vui nên sốt sắn tiếp Hòa. Nhung bưng ly nước ra, Hòa đưa tay đón lấy.
Làm như mình là chủ nhà, Hòa mời:
- Nhung ngồi đi.
Thu nói qua loa vài ba câu rồi ra sau trông em bé, có ý để hai người nói chuyện. Hoà có dịp bộc lộ một vài chuyện liên quan đến nghề nghiệp dạy học của anh, hỏi han một ít về giờ giấc đi về của Nhung. Ý Hoà thích làm lính bay nhảy như Lâm, như Định chứ không thích nghề dạy học mà anh cho rằng hơi khuôn khổ.
Hiểu một phần nào tính cách của Hoà, Nhung dò hỏi:
- Anh Hoà có vẻ thích bay nhảy?
- Không phải vậy, nhưng ít thích gò bó công thức.
- Bây giờ mà còn thích đi lính tức là khá gan dạ.
Hoà dứt khoát :
- Sống chết còn do may rủi. Hòa có hai anh trai đi lính rồi, nên muốn cũng không được, mỗi lần nói tới là mẹ khóc, nếu không Hòa đã vào Không quân rồi.
Nghe đến Không quân, Nhung chợt nhìn đôi chân dài của anh đang vắt chéo nhau dưới bàn, và suy nghĩ, mỗi người có một bản tính khác nhau, nhưng cá tính của Hoà có vẻ hơi năng động. Lính tráng đang chết như rạ, Tâm của cô cũng đã ra đi. Hòa lại muốn dấn thân vào. Qua cách nói chuyện, Nhung có cảm tưởng anh như người quen thân đã lâu. Tiếng nói của anh trầm ấm, dễ gây cảm tình nơi người nghe, tạo được sự gần gũi, nên Nhung cũng bớt đi sự dè dặt.
Khi Thu bồng em bé trở lên, Hoà nhắc lại lời hứa hôm trước :
- Hoà mời Thu với Nhung đi uống nước dừa.
Thu từ chối khéo :
- Thôi để Thu ở nhà, có em bé đi không tiện. Anh Hoà với Nhung đi đi.
- Em cũng còn bận một số công việc - Nhung ngần ngại từ chối.
- Nhung có việc gì phải bận đâu?
Biết Hoà rõ mình không nói thật lòng, Nhung đáp:
- Nhưng mà, thôi để lúc khác.
- Chiều nay được không ?
- Để xem.
Hoà nhìn Nhung với đôi mắt thân tình lẫn chút hài lòng vì anh đã hiểu “để xem” tức là bằng lòng.
- Chiều nay khoảng sáu giờ anh đến?
Thấy Nhung không nói gì thêm, Hoà vui vẻ đứng lên và lên tiếng chào Thu.
Gần sáu giờ chiều, Hoà chở Nhung đi vài vòng qua các đường phố, xong ra tới biển thì trời sắp tối, anh dừng xe trước một quán nước. Hoà gọi nước dừa xong, mắt nhìn mông ra khơi, muốn nói gì đó để bắt đầu câu chuyện, nhưng anh chỉ vu vơ tả cảnh.
Nào trăng hôm nay lên sớm, mới đầu hôm đã treo trên đỉnh ngọn đảo ngoài khơi xa khiến cảnh biển trở nên huyền ảo. Nào hôm nay mười bốn, đêm mai rằm chắc là trăng tròn và đẹp hơn. Nào Nhung có hay ra biển. Ra đây với ai ? Rồi đưa tay chỉ ra xa -Tàu đánh cá ngoài khơi vừa mới lên đèn, Nhung thấy đẹp không?
- Giống như thành phố nổi. Nhung trả lời.
- Vậy là đã có cái nhìn giống nhau rồi, thành phố nổi nhưng trong suốt, không bị khuất lấp, rất thích nhìn.
Rồi anh lại hỏi nhà Nhung ở Huế đường nào, hiện đang dạy ở trường nào.
Anh muốn suy nghĩ điều gì thêm để nói nhưng chưa nghĩ ra nên im lặng một lúc lâu, sau đó nói vài điều gì đó, nhưng hình như tiếng nói loãng vào làn gió thoảng bay đi mất, chỉ để lại âm thanh loáng thoáng. Không phải Nhung không chú ý nghe, nhưng dù không nghe rõ cũng đoán biết Hòa đang nói những lời tả cảnh biển mà thôi.

Kiểu ngôn ngữ này Nhung cũng đã từng nghe, và nhận biết rằng, khá lâu, bây giờ mới ngồi với một người thanh niên gần gũi như thế này, cũng bớt đi sự lẻ loi, và biết Hoà đang muốn chứng tỏ tình cảm thân thiện, dù chỉ mới biết nhau.
Tuy vậy, cả hai bình thản ngồi bên nhau, không trao đổi gì thêm. Đôi lúc Hòa có những khoảng im lặng nhìn mông lung trời biển mà không biết khơi thêm chuyện gì. Hóa ra, người như thế mà vẫn có lúc kẹt đề tài. Nhung cũng ít nói, nhưng để xoá sự yên lặng, cô lên tiếng:
- Nghe Thu nói anh dạy ở Tuy Hòa?
- Anh đang là Hiệu phó ở đó.
- Anh ra đó lâu chưa?
- Hơn ba năm, hết năm nay đủ thâm niên xin chuyển về Nha Trang. Khi nào rãnh rỗi, Nhung về nhà anh chơi?
- Anh vào đây lâu chưa ?
- Cũng khá lâu rồi, ba anh chuyển vào đây làm việc ở Bưu điện. Lúc đó anh đã xong cấp hai trường Quốc Học. Hai người anh đã vào lính, có vợ con rồi. Anh đầu ba đứa con, anh sau hai đứa - Hòa sơ lược thêm về người chị đã có chồng, gia đình đang ở Sài Gòn. Ba anh đã mất cách đây ba năm.
Rồi Hòa nhìn lên mặt trăng đã rời xa ngọn đảo ngoài khơi, treo tròn trên ngọn dừa cao ven biển. Ngàn vì sao nhấp nháy ánh kim cương, thỉnh thoảng một ánh sao băng thả rơi những tia sáng chớp li ti giữa không gian, biển đêm thêm phần huyền ảo. Trên bờ, rặng liễu khẽ lay trong làn gió nhẹ.
Và bằng lời lẽ tế nhị, Hòa đã gõ được cánh cửa lòng của Nhung, kèm theo vài cử chỉ dịu dàng. Có lẽ anh thấy mình và Nhung không còn ở tuổi mới lớn để phải có những câu tỏ tình non nớt. Đọc được ý nghĩ của Hoà, Nhung cũng thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng, dễ chịu, cho đến khi Hoà cầm tay cô đứng lên.
Những ngày cuối tuần tiếp theo, Hòa về trường Nhung chở cô về phố. Buổi tối ngồi ở biển với những trao đổi về sở thích âm nhạc, phim ảnh, sách truyện, rồi lưu luyến chia tay. Lâu dần, rồi điều cuối cùng cũng được khơi gợi, dù bình thường như mọi điều bình thường khác, nhưng là ý nghĩ chung của cả hai người, là chấp nhận tình cảm lâu dài.
Gặp Nhung rồi, Hòa cảm nhận đây chính là nửa phần đời anh muốn tìm, trầm tính, từ tốn trong lời nói, không đi đứng hấp tấp, nói cười rộn ràng như Trang. Cũng tại anh thường nghe mẹ nói “con gái chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên”.
Anh đề cập đến một vài ý định trong suy nghĩ bấy lâu:
- Lâu rồi anh không về Huế, chắc năm nay về ăn tết quê hương.
- Anh còn bà con ngoài đó không?
- Sau Mậu thân, bà con đi xa khá nhiều, lên Đà Lạt, vào Đà Nẳng, nhưng vẫn còn gia đình ông chú và bà dì ngoài đó.
- Vậy tết này về Huế cho vui, có chỗ ở lại rồi - Nhung gợi ý.
Hòa đưa mắt cười tình:
- Không, anh sẽ ở lại nhà em.
Bốn mắt nhìn nhau và trao nhau nụ cười đằm thắm, cũng là lý do để Hòa cầm bàn tay Nhung đặt vào lòng mình :
- Anh không nghĩ rằng… mình sẽ lấy vợ Huế.
- Vậy lâu nay đã đón đưa ai? Nhung thăm dò.
- Thì cũng có, nhưng chỉ đưa chứ có đón được ai đâu.
- Coi vậy mà khéo chọn.
- Không phải, cũng tại trời cho gặp được em, anh rất mãn nguyện.
Câu nói thật lòng biểu lộ được ước mong thầm kín trong lòng anh. Nhung cũng tự hiểu rằng, chính tâm tư mình cũng như anh, không quen nghe tiếng xứ người, ở chung cũng là điều khó hòa hợp. Đó cũng là điểm hợp nhất trong cuộc ngẫu nhiên này khiến cả hai cùng tâm đắc.
Câu chuyện trao đổi trở nên thân mật :
- Cả tuần nay công việc ở trường em thế nào?
- Cũng bình thường.
- Buổi tối có ngủ ngon không ?
- Thì cũng ngủ bình thường.
- Cái gì cũng bình thường - Hòa cười theo, ánh mắt xa xăm - Anh lại khác, thấy hơi khó ngủ.
- Sao vậy ?
- Tại suy nghĩ bâng quơ – Hòa nhìn sâu vào mắt Nhung - thấy một tuần thật dài. Mình đi dạo một vòng đi em.
Hòa đứng lên, đưa tay ra, Nhung cũng đưa tay cho anh nắm. Hai người đi cạnh nhau gần bờ nước, từng đợt sóng nhẹ không xô tới chân, chỉ khỏa nhẹ lên bờ cát rồi rút đi thật êm, bọt sóng tan nhanh, trả lại lối đi mịn màng.
Cứ thế đi được một quãng xa, khi quay trở lại, chợt Hòa cầm tay Nhung bắt qua sau lưng mình. Nhung im lặng đi theo anh chầm chậm, bất chợt nghe cảm giác một vòng lưng không đầy đặn so với bề rộng của chiếc áo sơ-mi. Đúng là thầy giáo gầy.
Đi lên đi xuống vài vòng hai người trở lại ghế ngồi, Hòa ôm qua vai Nhung, hình như anh tự mình tiến hơn một bước sự thân thiện khi biết ý Nhung cũng muốn đón nhận cử chỉ này.
Mặt biển bát ngát ngoài kia hình như là chỗ dừng của đôi tầm mắt, dào dạt bao la làm cho lòng người xao xuyến, nhưng cả hai đều nhận biết, có chăng là sự vươn lên trong tình cảm với niềm mong ước được lâu dài, mặc dù tình cảm nảy nở này chưa từng được bón xới nuôi dưỡng trên một khu vườn yêu đương tươi xanh, chưa từng được tưới tẩm từ nhiều tia nước suốt trong tinh khiết. Nhưng bằng sự nhạy cảm, chính Hòa cũng nhận thấy anh đang có, đang đạt một ước muốn sắp được hình thành. Và Nhung, cũng đang tin tưởng anh sẽ là nơi đáng tin cậy để trao đặt đời mình.
- Nhung đang nghĩ gì vậy ? Hòa hỏi.
Nhung không trả lời, chỉ mỉm cười.
- Cũng cười chứ không trả lời. Hôm trước vừa nhìn thấy em, tự nhiên anh nghĩ em đang một mình, nhưng chắc đã có người thương yêu, và em cũng đã yêu. Phải không?
- Em không biết yêu – Nhung đùa.
- Không biết yêu hay không muốn?
Câu nói lấp lững của Hòa đầy ý nghĩa, gần như một biểu cảm cùng tâm trạng giữa cả hai người. Và khoảng lặng trong chốc lát như để Hòa và Nhung cùng nhận ra rằng, lời anh vừa nói ra cũng chính là sự đồng cảm chung. Ở tuổi này mà nói chưa qua một lần yêu là không thật.
Hòa tiếp lời :
- Anh nói vậy em đừng suy nghĩ chi nhiều. Anh cũng vậy, bạn gái vẫn có đó, nhưng một người vợ hợp tình hợp ý là điều khác, sống chung cả một đời. Tuổi chúng ta đã trưởng thành, cũng không nên khép kín quá.
Im lặng một lúc, Nhung hỏi:
- Vậy anh với Trang thế nào?
- Sao Nhung biết ? Chắc nghe Thu nói.
- Chuyện có gì bí mật đâu mà không biết, thì cũng là Thu nói, nên em rất ngại.
Hòa hiểu ý, cười phân giải :
- Thì ở tuổi này ai mà chẳng có quá khứ, nhưng mà anh không còn với Trang nữa, chuyện qua rồi.
Nhung chỉ cần chính cửa miệng Hòa câu nói ấy, và không hỏi thêm tại sao. Theo lơi Thu, Nhung biết Trang cũng được người nhưng có lẽ không vừa ý Hòa một vài điểm nào đó, lại hơn Hòa mấy tuổi, ít khi thấy hai người thân thiện.
Nhung nghĩ thầm, người con gái nào cũng tự đánh giá được ưu và khuyết điểm của mình, biết điều để tự ty và biết điều để tự tôn. Nhung cảm tưởng mình có lẽ là người vừa ý với Hòa, vì nhìn qua dáng dấp phong cách cũng biết Hòa không thiếu gì bạn gái, bây giờ chưa vợ cũng do anh nhiều đắn đo cân nhắc. Một phần cũng do duyên số, cô rất tin vào số phận.
Với sự hiểu biết không còn non trẻ, chỉ cần trao đổi đôi lần, thoáng vài cử chỉ là như thấy rõ được lòng dạ nhau. Hình như Hòa cũng nghĩ như vậy, anh biết mình sẽ phải làm gì, và hiểu Nhung cũng đang cần một nơi để đặt tình cảm, gởi gắm đời mình, người đó là anh.
Trước khi đứng lên, Hòa nói thêm:
- Em đừng suy nghĩ gì nhiều nghe Nhung. Mọi chuyện hãy cho qua hết đi.
Dừng xe trước nhà Thu, Hòa hẹn Nhung sáng mai chủ nhật.
Đúng hẹn sáng chủ nhật, Hòa đưa Nhung đi Hòn Chồng. Từ ngoài đường, hai người bước qua nhiều tảng đá lớn nhỏ gập ghềnh mới ra tới Hòn Chồng, cảm giác vui như còn tuổi nhỏ, gió biển từ ngoài khơi lộng vào phơi phới. Hai người cùng nhảy tránh những đợt sóng đập vào bờ đá, nước bắn lên tung tóe, vài chú dã tràng chạy lạc trên bờ cát vừa lên thủy triều, Nhung bước chậm trên những phiến đá, hít thở không khí mát lành, tận hưởng giây phút nhẹ nhàng thư thái.
Hòa ngồi cạnh Nhung trên một phiến đá, mắt nhìn nghiêng về hướng dãy núi trải dài ngoài khơi xa, có dáng nằm của một phụ nữ, anh nói đó là núi Cô Tiên.
- Anh đã ra đó chưa ?
- Ai mà dám qua đó. Hòa lắc đầu
- Sao vậy?
- Ai mà chẳng biết đó là căn cứ của mấy “ông”.
- Mấy dãy núi liền nhau, cũng có thể là căn cứ của họ.
- Nghe nói lính Quốc gia có hành quân qua, nhưng không nghe có đánh nhau bên đó.
- Vì sao?
- Có thể cả hai bên đều không muốn đụng trận.
- Là sao ?
Câu hỏi của Nhung cũng là cái cớ để Hoà ôm cô sát vào mình:
- Em cũng thích nói chuyện chính trị? Rồi anh tiếp tục giải thích - Chiến tranh có nhiều cách của nó. Nhiều khi lính Quốc gia hành quân đi qua, biết đó, nhưng đôi khi tránh chạm nhau, bên kia cũng vậy. Đánh nhau nhiều quá sẽ gây thêm chết chóc đổ máu. Chuyện chiến tranh nhiều lúc khó hiểu, nhưng cũng dễ hiểu nếu biết suy diễn, chiến tranh kéo dài quá rồi, không chỗ nào yên.
Có lẽ đây là suy nghĩ của Hòa mà cũng là suy nghĩ của tất cả. Mọi người mọi giới đang ở trong tình trạng lo lắng đợi chờ một trong những giải pháp hòa bình từ các diễn biến thời cuộc.
Hòa chỉ mấy con còng chạy nhanh trên cát, nói lãng sang chuyện khác:
- Anh sắp có quyết định chuyển về Nha Trang.
- Ba của Thu cũng hứa sẽ xin cho em về gần.
Công việc tạm ổn định khiến hai người thấy thỏa mái, tương lai trước mắt khá ổn định. Chỉ còn chờ thời gian để hợp thức nếu mọi việc chìu theo lòng người.
Vài phút yên lặng bên nhau. Mây trắng trên đầu trôi chậm, vẽ ra nhiều hình dáng khác nhau trông thật đẹp. Từng cụm mây bông nõn tan ra rồi hợp lại lượn lờ quyện cao dần trên bầu trời xanh mây, xa xa ngoài khơi là những hòn đảo nhiều hình dáng, tô điểm thêm vẻ đẹp trước mắt nhìn. Ở đây đủ lứa đủ đôi, thiên nhiên rộng mở, nhìn những đôi trai gái tự tình, Nhung nghe lòng mình ấm áp, một cảm giác mơ hồ vừa chớm.
Hòa cầm tay Nhung đưa lên, không siết chặt như thường khi, mà làm một cử chỉ khiến cô ngạc nhiên. Anh gỡ chiếc nhẫn vàng trên ngón út của mình, xong nhẹ nhàng đeo vào ngón áp út của Nhung, kèm theo lời nói :
- Anh gởi ... em đeo giùm.
Nhung xúc động nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình. Bốn mắt nhìn nhau, không lời nói nhưng cùng hiểu rằng, đây là một lời giao ước đính hôn, không phải trao đổi lời qua tiếng lại như tuổi trẻ mới biết yêu.
Hòa ôm Nhung sát vào ngực mình. Nắng vàng in bóng hai người trên biển sớm, tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng, gió chan hòa thoang thoảng như ru.
Ngồi thêm một lúc, nắng lên cao dần, nhìn nhiều người đã trở vào các quán tránh nắng, gió bắt đầu thổi mạnh.
Thôi mình về em. Hòa cầm tay Nhung đứng lên.
CHƯƠNG XIV
N hững tuần kế tiếp, hai người đều đặn gặp nhau vào chiều thứ bảy. Với những lời trao đổi thân tình, Hòa đề cập đến dự định sắp đến, không vội vàng nhưng cũng không muốn kéo dài, có lẽ đã nằm trong sắp đặt của anh và gia đình.
Như đã hẹn, Hoà đưa Nhung về nhà gặp mẹ. Lễ cưới hỏi phải chờ đến hè mới rộng rãi thời gian, và để còn thăm lại quê xưa, sông Hương núi Ngự, Vỹ Dạ-Nam Giao như anh nói. Việc sắp đặt mọi việc với mẹ anh xem như chu tất. Biết vậy nên Nhung tự nhủ phải yêu thương Hoà, phải làm quen với mọi thói quen của anh, sẽ làm tròn bổn phận người vợ, đó là cách sống mai đây với anh để vợ chồng có cuộc sống ấm êm lâu bền. Cánh cửa hạnh phúc bắt đầu mở ra, cô sẽ gởi gắm đời mình vào đó, bởi cô cũng cần một tình thương, một mái ấm.
Nhung thường kể lại cho Thu nghe, nhất là việc Hòa đeo vào tay cô chiếc nhẫn, và việc anh mong cho mau tới ngày cưới.
Thu tức cười :
- Chắc là anh chàng mừng lắm khi gặp được bồ, nên vội tròng vào chiếc nhẫn kẻo sợ bồ đổi ý. Mình nghe mấy người bạn nói sau khi gặp Nhung, anh Hòa không còn gặp Trang nữa, biết vậy nên Trang cũng chấm dứt luôn. Tình chung tình phụ cũng ở chỗ đó Nhung à. Người nào cũng đến tuổi nên vợ nên chồng. Đàn ông ngó vậy chứ họ mau tay, vừa ý rồi là muốn sở hữu.
- Hồi anh Lâm có vậy không Thu?
- Sao lại không, mình vừa ra trường là cưới liền không thấy sao?
Nhung hỏi thêm :
- Lâm có yêu em bé nhiều không?
- Thương lắm, lâu lâu về cứ nựng mãi thằng nhỏ, bồng ẳm cả ngày không rời tay.
Nhung đùa:
- Chỉ nựng thằng bé thôi sao?
Thu cười mấy tiếng, nhéo nhẹ vào tay bạn.
Hoà với mẹ về Huế, ở lại nhà người chú. Như đã sắp đặt, tiệc cưới sẽ tổ chức bên nhà Nhung, mẹ cô đã dành một phòng riêng cho hai người. Tư trang lễ cưới cho cô dâu, mẹ Hòa đã lo sẵn, chỉ cần thêm mấy người bà con bưng lễ vật.
Tiệc dọn khoảng xế chiều. Khách mời bên nội ngoại của Nhung khá đông, một vài bạn cũ của cô đã lập gia đình, vợ chồng đi dự đủ đôi.Thêm một số khách không mời là bạn bè của Bảo, Bình, có cả bạn trai của Thúy. Lời chúc tụng của đám trẻ này có vẻ vụng về vô tư khiến ai cũng cười, buổi tiệc trở nên vui nhộn.
Tiếp theo là những cánh tay đưa cao đòi chú rể cụng ly. Một ly-hai ly-ba ly-nhiều ly. Và khi hơi men bốc cao, nhiều người cứ nhằm vào chú rể bắt cụng ly. Nhung sợ Hòa say nhưng thấy anh vẫn tĩnh bơ đi hết bàn này sang bàn khác để chụp hình. Cô bấm nhẹ vào tay anh biểu đừng uống nhiều nhưng anh gật gù:
- Em đừng lo, anh không say đâu.
- Đúng rồi, anh Hoà không say, uống nữa đi - dô - dô. Tiếng phụ hoạ từ các bàn trẻ vang lên.
Nhung đưa mắt cầu cứu Bảo nhưng Bảo vẫn nói:
- Không sao đâu chị Nhung.
Mà thật vậy, cô nhìn đám trẻ chung quanh, thấy chúng còn đang tiếp tục trăm phần trăm, cười đùa vui vẻ thỏa mái, chưa đứa nào xỉn.
Tiễn khách về hết, Hoà phụ dọn dẹp xong, xuống bếp dông dài vài câu với mẹ anh, rồi quay sang mẹ Nhung, con cà một đổi nữa mới quay lên góp chuyện với anh em Bảo đang còn ngồi ở nhà trên. Nhung ở sau bếp với Thúy rửa dọn chén bát, cũng mất gần cả tiếng đồng hồ.
Lúc vào phòng, thấy Hòa nằm im nhắm mắt, Nhung nghĩ bụng chắc anh đã say, uống nhiều quá còn tĩnh gì nổi. Cô thay nhanh đồ xong ra ngoài phụ mẹ dọn dẹp thêm các thứ gọn gàng đến chín giờ mới đi nghỉ. Vừa khẽ đặt lưng lên mé giường nhưng đã nghe cánh tay Hoà vòng qua lưng mình kéo sát vào. Cô ngạc nhiên cảm tưởng như anh đang nằm chờ chứ có say xỉn gì đâu. Có thể Bảo nói đúng, Bảo chưa say thì anh làm sao say được. Trong vòng tay anh, Nhung bắt đầu cảm nhận đây là người đàn ông đích thực của đời mình, không còn là bóng hình ảo ảnh xa vời.
Đám tiệc xong, mẹ Hoà ở lại vài ngày với gia đình chú và dì, rồi vào Nha Trang trước. Hoà và Nhung ở lại thêm gần nửa tháng, anh còn muốn đi xem cảnh đẹp quê hương, thăm lại trường xưa bạn cũ.
Trước khi trở lại Nha Trang, Nhung cùng với Thúy đi thăm mộ Tâm. Cô muốn về nhà anh nhưng sợ mẹ anh buồn. Nén nhan thắp lên, nỗi niềm xưa chợt lung linh trên từng đốm lửa, lòng se lại trong lời khấn nguyện. Cũng là những ngày hè như thế này, cách đây vừa hai năm, cô đã đến đây ngồi trên nấm mộ mới chưa kín cỏ, bây giờ chung quanh đã xanh um, có cả loài hoa sim tím.
Nhớ lại kỷ niệm xưa mà lòng như muối xát, giờ đây cô bước sang ngang, chắc Tâm cũng không muốn cô đánh mất tuổi thanh xuân. Thúy cũng nói cho chị biết, xong khóa học Cán sự Y tế, Thúy sẽ lên xe hoa. Nhung cười buồn nói ra tâm trạng bấy lâu mang nặng trong lòng :
- Vậy là mẹ trút được hai gánh nặng, chị và em.
Hai chị em cùng cười, lòng Nhung nhẹ đi. Mới biết nỗi vui buồn của con cái cũng chính là nỗi lòng người mẹ. Nhung đưa mấy tấm hình chụp chung với Tâm cho Thúy :
- Em giữ mấy tấm hình này cho chị, cũng phải để một hai năm.
Nhung nhìn lại khuôn mặt Tâm lần nữa trong hình, lòng trầm vắng như phím tơ chùng. Qua cử chỉ của Nhung, Thúy biết chị mình vẫn còn trân trọng mấy tấm hình, rất còn thương nhớ Tâm.
Thúy nhắc nhở chị:
- Chị sinh em bé sớm cho mẹ vui.
- Biết rồi.
Vào Nha Trang đã thấy mẹ dành căn phòng sau cho hai vợ chồng Hòa. Phòng khách phía trước, trên bàn salon luôn có bình hoa giấy, bên trái là chiếc kệ ba tầng để khá nhiều sách truyện, từ điển, báo chí các loại, tủ buffé xoay ra mặt đường. Trên tường treo vài khuôn ảnh hoa cảnh. Đặc biệt là bức sao nàng Mona Lisa, thêm một bức tranh nữ ca sĩ ngồi bên phím đàn piano.
Nhìn qua phòng khách, gợi cho Nhung suy nghĩ về Hòa, đây cũng là một tâm hồn khá phong phú về nghệ thuật, mỹ thuật. Tối tối, cô thường thấy anh nghiêng đầu bên trang sách, tình cảm quý mến thân thương chợt dâng lên trong lòng cô.
Ba của Thu đã xin cho cô về dạy một trường trong thành phố. Nhờ có mẹ Hòa, cô đỡ vất vã phần nào trong việc cơm nước chợ búa. Thỉnh thoảng gặp những món ngon, cô mua thêm vào cho bữa ăn dồi dào. Mẹ khá dễ tính, chăm sóc cho Hòa từng bữa ăn, xếp từng cái áo. Việc bếp núc mẹ làm hết, làm cá, lặt rau, nấu cơm, để thời gian cho Nhung làm việc, nghỉ ngơi.
Lâu lâu có vài điều bất ý với Hòa nhưng cô không phàn nàn cãi lẫy, bởi cô hiểu vợ chồng không thể nào tránh khỏi những lần bất ý. Hạnh phúc không chỉ đơn điệu khép khung trong những công việc nhỏ nhặt, cũng không thể luôn bó chân anh ở nhà, không bè không bạn vui chơi giải trí. Nhung với mẹ anh gần như hoàn tất mọi việc trong nhà, do đó anh có nhiều thời gian rãnh rỗi vì đã được đổi về dạy gần Nha Trang, chỉ cách nhà gần ba cây số.
Ngoài giờ dạy, thỉnh thoảng Hòa gặp Định và vài người bạn cũ phê pháo, lai rai vào tối thứ bảy hoặc ngày chủ nhật, thân thiện thêm vài người bạn ở trường mới, cứ thế thành quen, Nhung không hề ý kiến, ai cũng phải vậy mà thôi. Khi nào anh về đúng bữa cơm thì cùng ăn, khi nào về trễ thì cô để phần. Cũng là học theo nếp nhà của mẹ cô ở Huế, không nói năng không phàn nàn kiến sự. Nhiều lúc cô còn giả vui để giữ sự yên ấm vì biết tính anh không thích ngồi yên trong nhà, đọc sách nhiều cũng mệt.
Có vài chủ nhật anh đi từ sáng sớm, nói rằng đi uống cà phê tí về, nhưng nhiều lúc đến trưa mới về, người không được tĩnh táo. Nhung không nói năng gì mặc dù Hòa không giấu được cử chỉ cà gật sau mỗi buổi cụng ly cụng chén. Anh thường nói đồng nghiệp và bạn học cũ của anh khá nhiều, một số ở trong quân ngũ lâu lâu về phép.
Tổng cộng mỗi tháng cũng năm ba lần gặp gỡ hàn huyên, nhiều lúc không phải lai rai mà nhậu thật sự, khi về bước thấp bước cao, hơi bực mình nhưng cô rất hiểu đó là việc giao tiếp của anh, không thể khác được. Hòa hay nói “Cho anh đi một chút về liền” sau khi làm vài cử chỉ điệu bộ để Nhung vui lòng. Mẹ Hòa thường chứng kiến việc này nên xuề xòa giải thích, là do bản tính hay cả nể bạn bè, lại ham vui.
Bà kể lại lúc nhỏ Hòa rất ham chơi, nhưng khi vào học thì học rất chăm và thuộc bài rất nhanh. Ngoài hai buổi tới trường, còn bao nhiêu là ở ngoài đường, chơi hết mấy đám bạn trong xóm, gọi đứt hơi mới chịu về nhà ăn cơm, xong lại thức tới khuya học bài, làm bài tập đầy đủ không hề thiếu, tháng nào cũng vị thứ cao, năm nào cũng có phần thưởng. Cuối năm đệ nhị đệ nhất chở về cả xe cyclo nhiều sách vở và từ điển Pháp Việt, Anh Việt thật dày, tới bây giờ vẫn còn trên kệ sách.
Mẹ còn nói “Nó không muốn làm nghề dạy học đâu, một hai đòi đi lính. Hai anh đầu đã ở quân đội rồi, mẹ khóc lóc mãi mới chịu thôi”. Bà khuyên Nhung nên biết ý chồng bởi Hòa rất thanh niên tính, biết chìu chuộng một tí để vợ chồng khoan hòa vui vẻ. Vài cô giáo lúc trước dạy cùng trường thỉnh thoảng đến nhà chơi nhưng Hòa có chịu ai đâu. Bà vừa nói vừa cười, ý như con trai mình cũng biết kén chọn chứ không phải hời hợt dễ dãi.
Qua đó, Nhung hiểu thêm phần nào bản tính của Hòa, cô yên tâm vì dù sao anh vẫn có phẩm chất mô phạm, tin tưởng anh sẽ không quá sa đà ngoài đường. Chỉ vài lần bạn đồng nghiệp của anh đến nhà chơi lâu cả tiếng đồng hồ, trao đổi chuyện thời sự, phim ảnh, sách truyện văn chương nghe khá thanh tao lành mạnh, cô thấy cởi mở trong lòng, nhưng khi bạn đứng dậy chào về, tưởng anh ra cửa tiễn bạn rồi trở vào, không ngờ lên xe đi luôn, một hai tiếng sau mới về. Có khi bình thường vui vẻ, khi thì nồng nặc hơi men, nhưng lúc nào cũng có gói bánh gói quà mang về cho vợ, một cách làm hòa.
Nhung thông qua cho xong mọi chuyện vì hiểu rằng anh cùng đi với mấy người bạn đó, và họ cũng như anh thôi, người nào cũng học hành trình độ. Thỉnh thoảng vài buổi sáng chủ nhật, cô chỉ cho mẹ thấy Hòa uể oải nằm ráng gọi hoài không dậy. Bà chỉ cười “Thôi kệ, để từ từ nó dậy”.
Hòa đọc được ý nghĩ trong ánh mắt Nhung, nhiều lúc muốn lấy lòng, lăng xăng giúp cô bưng cơm lên, dọn cơm xuống. Ngồi trong bữa ăn, gắp thức ăn cho mẹ cho vợ, cũng thể hiện phần nào ý thức của người có học. Biết ý Hòa thích đọc sách, cô hay mua ít nhiều sách truyện để cầm giữ chân anh.
Nhiều hôm ở nhà đọc sách say sưa không biết trời trăng, đến khi bắt đầu chán, lại dấp dỏm muốn đi. Nhung giả bộ cản trở vài câu thì anh tỏ ý bứt rứt không yên. Có thể anh đúng, vì lâu ngày không ra ngoài gặp bạn bè giải trí, anh như thiếu điều gì, bởi chính cô vẫn có vài người bạn ở trường, thường trao đổi về chuyên môn, về học sinh hoặc vài cảm nhận về tình hình bên ngoài, những ca sĩ và bài hát mới trên tivi. Nhất là có Thu. Có Thu mới có Hòa hôm nay, phải thường hay lui tới để giúp Thu những việc cần.
Những lần Hòa về nhà nồng hơi men, Nhung vẫn không nói gì, tìm cách ngủ riêng. Thấy thái độ tránh trút của vợ, anh trách cô sao mau lạnh nhạt, còn thương nhớ ai mà không mặn nồng với anh. Lời nói đó khiến cô thêm buồn, vì hơn lúc nào hết, cô đang cần một mái ấm an vui. Sau những lần dùng dằn giận dỗi, cuối cùng Nhung mang thai, cô thấy mình có được niềm hạnh phúc tuyệt vời.
Một đôi tháng đầu tiên, vì ảnh hưởng thai nghén nên Nhung không được khỏe, ăn uống khó khăn, nhiều lúc phải nghỉ dạy. Một thời gian bắt đầu khỏe lại, cũng nhờ mẹ Hòa chăm sóc lo liệu hết mọi việc, cô tập trung sắm sửa các thứ và đan thêu áo mũ cho em bé, nhịp tim hòa theo từng đường kim mũi chỉ, tình mẫu tử chợt dâng lên khi mong ước thành hình. Hòa cũng thật sự vui mừng khi biết Nhung có thai, tự nhủ sẽ không làm gì để vợ buồn.
Chiều chiều anh chở Nhung đi quanh các đường phố, vào quán café nghe nhạc. Hết buổi chiều long nhong ngoài phố, lại ra biển. Buổi tối ngồi ăn cơm với mẹ, Hòa kể nhiều chuyện ở trường và tin tức thời sự vừa được nghe. Nhung cũng kể thêm vài chuyện để góp vui. Nhà có mấy người, ai cũng muốn được ấm êm hạnh phúc.
Nhưng không hiểu sao lại có một lần Hòa về hơi tối, thấy Nhung còn thức, đan thêu và sắp xếp nhiều thứ, sợ vợ mệt nhưng lại phát biểu một câu nghe dễ mích lòng:
- Những thứ này sao không ra chợ mua cho khỏe, đan đóm gì đến giờ này cho mệt, thấy tôi về là ưa sinh chuyện.
Nhung đưa mắt nhìn Hòa, rõ ràng là anh muốn sinh chuyện chứ không phải cô, sau nữa là anh chạm đến công dung của mình nên cô tự ái:
Rõ ràng là anh muốn sinh chuyện chứ không phải tôi, anh coi tôi như không có gờ ram nào chứ không phải vì chuyện đan đóm, tôi có nói tiếng nào đâu.
- Cũng tại cái mặt lạnh lùng, thiệt là chán nãn.
Nhung nói như thách thức:
- Đúng rồi, có chán nãn anh mới đi suốt, đã tỏ rõ như thế thì được rồi, bữa nay muốn làm gì thì làm, tôi không quan tâm. Uống rồi là ưa sinh sự.
Thấy thái độ căng thẳng của vợ, biết mình sai, đến gần dịu giọng giải hòa :
- Đó là do em nói chứ không phải anh đâu nghen. Thôi, để bữa nay sẽ ở nhà với em suốt ngày. Đừng có xưng tôi nữa.
Câu nói khiến Nhung tức cười, đúng là có giận có vui, cuộc sống chung cũng lắm điều đa sự. Tính anh xuề xòa nhưng nếu thật sự ở nhà suốt ngày thì chắc sẽ nổi khùng. Nhung xác định như vậy, bởi sự hiểu biết của cô về cách cư xử phải trái với mọi người đã là bản tính, và từ những sách báo học làm người. Không chứng tỏ không thể hiện. Hòa cũng biết tính tình cô như vậy.
Nhưng lời nói đâu có đi đôi với việc làm, có lần gần mười giờ khuya mới nghe tiếng xe ngoài cửa, một người dìu tay Hòa dẫn vô nhà, cả hai đều liêu xiêu.
- Hôm nay Hòa hơi quá chén, cô Nhung đừng phiền nghe.
- May mà ngày mai chủ nhật, gặp ngày thường không biết sáng ra có đi dạy nổi không? - Nhung hơi nhăn.
- Cô Nhung đừng lo, Hòa cũng biết ngày mai chủ nhật mới uống xã láng, thấy Hòa vui tính nên cả bàn cho uống gục.
Hòa lè nhè:
- Thôi đi ông Huy ơi, phiền cái con khỉ gì, vợ tôi còn phải cám ơn ông nữa kìa. Không có ông là tối nay tôi không về, không về là vợ tôi mất đứt ông chồng yêu quý- quay qua Nhung - cám ơn Huy đi em.
Rồi hát lên một khúc “ Đêm nay ai đưa anh về …đêm nay Huy đưa anh về”.
Huy ra khỏi nhà, Nhung đóng cửa, tắt đèn lớn, biểu Hòa nằm trên divan. Hòa ngả mình ngay không kịp cởi áo, một lát đã nghe tiếng nôn ọe. Cô nhanh chân xuống bếp lấy cái thau, chưa kịp đưa tới, Hòa đã nôn ra một vũng giữa nhà. Nhung nghe ruột gan lộn tùng phèo muốn nôn theo, vội ra bếp hốt tro, bịt mũi lau dọn.
- Rót cho anh ly nước.
Nhung mang lên ly nước, anh nốc cạn hết xong nằm nghiêng mở mắt nhìn vợ đang nước mắt rưng rưng.
Nhung biết mình đang nếm mùi vị cay đắng. Dọn vén xong, cô ra sau lấy cái mùng đặt lên divan:
Treo mùng đi mà ngủ.
Sao vậy?
Nồng nặc quá không vô đó được. Ai ngờ gặp phải thế này.
Hòa ngồi dậy sau câu nói, đến gần đặt tay lên bụng vợ :
Cái bụng thế này rồi còn ngờ với không ngờ. Mau sinh cho anh một thằng nhóc.
Nhung nín cười đứng lên đi vào phòng trong. Hòa nhìn theo nói lớn cho Nhung nghe:
Không thằng nào có vợ mà ngu như mình.

CHƯƠNG XV 
Quân y viện Pleiku sáng nay nhận thêm mười mấy thương binh được chở về bằng trực thăng. Những chiếc băng ca đưa thẳng đến phòng cấp cứu. Những người bị thương nặng nằm im như chết, những tấm poncho trùm lên ngang mũi, ngang cổ, máu thấm ra ngoài. Một số nhẹ hơn nằm im thiêm thiếp, thỉnh thoảng nhăn mặt rên khe khẽ. Đa số đều là lính trẻ.
An mở mắt nhìn lên trần, nghe dưới chân đau buốt tê cứng. Quạt trần xoay tít khiến anh chóng mặt. An không rõ số phận cái chân mình sẽ thế nào và cũng không còn đủ sức gượng dậy lật tấm drap ra nhìn, mà cũng có thể không đủ can đảm để nhìn.
Nửa mê nửa tĩnh, An biết mình đang được đưa lên bàn mổ, một lúc thì không còn biết gì. Đến khi tĩnh lại, thấy mình nằm trong phòng hồi sức với nhiều thương binh nằm gần kín phòng, một số người mặt mày trắng bệch, đờ đẫn, chắc là những thương binh mới vào.
Nằm được một buổi thì An được biết chân mình bị gãy và đang băng bột, anh mừng thầm, may mà không bị cưa. Sau một lúc định thần, An đưa mắt nhìn quanh gian phòng một lượt, như định vị nơi mình sẽ ở lại không biết bao lâu, cho đến khi sức khỏe phục hồi mới ra khỏi viện.
Mấy chiếc quạt trần quay đều, gần mỗi đầu giường có một tủ nhỏ dùng chung cho hai người sát giường, nhìn chung khá sạch sẽ tiện nghi. Người nữ trợ tá mang thuốc đến giường An, dặn chia ra bốn phần, mỗi ngày uống hai phần.
Vài thương binh gần giường cười chào vui vẻ khi An mở mắt sau một lúc mê mệt khá lâu, chắc là nhờ có thuốc giảm đau nên vết thương không quá đau nhức như anh tưởng.
Trời về chiều, các phần ăn được mang đến tận giường, người cơm, kẻ cháo, sữa. An chỉ uống một ly sữa, xong lại thiếp đi. Khi thức giấc, lại thấy mọi người đang ngủ. Cảm giác đói bụng làm anh khó chịu, nhưng miệng khô đắng không muốn ăn uống gì. Mớ lùng bùng trong trí nhớ hiện ra, trận đánh ác liệt tổn thương khá nhiều, đồng đội lao lên rồi ngã xuống, khói đạn, tiếng thét, người chết người bị thương, và An nhớ mình ngả xuống sau một tiếng nổ kinh hoàng.
Lặng đi khá lâu, tiếp là hình ảnh Nhung. Không biết giờ đây Nhung đang ở đâu, đời sống sẽ như thế nào? Lòng anh cuộn lên biết bao xót xa, lòng mong ước nếu giờ này có Nhung bên cạnh. Đau đớn cả tinh thần lẫn thể xác, An thấy tâm hồn quá trống trải, lúc nặng nề trì trệ, lúc như đang nhấc bổng lên cao.
Khí lạnh đêm khuya ở vùng cao thấm vào tận ruột gan, đêm miền núi tĩnh lặng, hoang vắng, chỉ còn nghe tiếng vọng lúc gần lúc xa của đại bác dội vào đâu phía núi, trên đỉnh đồi, lời nhắc nhở không quên của chiến tranh đạn lửa. Rồi An chẳng còn biết gì, cho đến khi ngọn nắng yếu ớt mang theo chút hơi ấm mặt trời chiếu vào phòng bệnh, rét buốt mới tan dần.
An mở mắt, cười chào với mấy thương binh bên cạnh giường và muốn được sự cảm thông vì từ ngày hôm qua đã quá mệt mỏi đau đớn nên chưa chào hỏi ai được. Người gần gũi trước tiên là Phúc, nằm cạnh giường, bất ngờ An nghe Phúc nói tiếng miền Trung xứ Huế. Phúc cũng nhận ra An là đồng hương nên hai người thân thiện nhau rất mau. Có thể là do sự ngẫu nhiên, hoặc bệnh viện có chủ ý cho những thương binh cùng quê nằm gần nhau.Tuổi tác hỏi ra, Phúc hơn An tám tháng tuổi, xuất thân từ Thủ Đức, cũng vừa đến nằm đây gần một tuần. Tuy vết thương khá nặng ở cánh tay, cũng đang băng bột, nhưng trông Phúc vui vẻ khỏe khoắn.
Trao đổi thêm câu chuyện, được biết gia đình Phúc định cư ở thành phố Pleiku này gần sáu năm nay vì ba Phúc chuyển lên đây làm việc. Trước kia gia đình ba mẹ Phúc ở Huế, trong Thành nội. Phúc có người anh là Trung úy Thông tin đóng quân ở Đà Nẳng, một chị gái đã có chồng, một em gái đang làm ở bệnh viện tỉnh này, ngành Hộ sinh, và một em trai còn đi học. Hai người trao đổi thêm vài chuyện nữa thì thấy có vài người qua lại ngoài hành lang, tay xách giỏ. An nhìn ra và đoán là người đi thăm bệnh nhân.
Phúc nói:
- Hôm nay chủ nhật, thân nhân vào nhiều hơn thường ngày. An mới vào hôm qua, chắc không có ai. Có báo tin cho người nhà biết không, tôi sẽ nhờ người đánh điện giùm?
- Chưa cần Phúc à, thoát chết là may rồi, gia đình anh em ở xa khó mà lên đây thăm được, nói chi cho mẹ tôi thêm lo - An đáp xuôi và không biểu lộ buồn vui gì trên nét mặt. Đầu óc anh đang nhớ đến mẹ và dặn lòng sẽ không cho mẹ biết chuyện này.
Phúc hỏi tiếp:
- An có vợ con gì chưa?
- Chưa, còn Phúc?
- Lính trận đi mãi nên cũng chưa tính đến chuyện lập gia đình.
- Lông bông vậy cũng khỏe, chẳng phiền lụy đến ai.
Câu nói ấy khiến Phúc nhìn An thật lâu, như vừa hiểu ra một điều gì.

Có vài người đi vào phòng, xách giỏ đến giường người thân để thăm nuôi. Một cô gái đến bên giường Phúc, tóc uốn quăn thả chấm vai từng lọn nhỏ, dáng người thon thả, gọn gàng trong chiếc quần tây màu da bò, áo sơ mi vàng nhạt. Cô lấy trong giỏ ra một gói nhỏ và nói:
- Anh Phúc, sáng nay mẹ bận việc không vô thăm anh được, mẹ biểu em đem đồ cho anh đây. Mấy thứ anh dặn trong gói đó, còn đây là cam, pom, sữa.
Không nhìn thẳng cô gái nhưng tai An đang lắng nghe âm thanh giọng nói quen thuộc quê hương, tiếng Huế nhẹ nhàng trong trẻo, thỉnh thoảng pha vài tiếng địa phương xứ người ngồ ngộ khiến An chợt nhìn sang, một thoáng vui vui dâng lên rồi lắng xuống, ánh mắt hờ hững xa vời, rồi thân thể bỗng nhẹ đi như không còn trọng lượng. An nhắm nghiền mắt vì chóng mặt.
Phúc vẫn nằm trên giường nói với em gái:
- Em gọt pom giùm anh, cắt trái cam luôn.
Cô gái làm theo lời anh, cắt gọt xong, đặt tất cả trên dĩa rồi quay sang dọn dẹp.
- Em gọt xong xuôi hết chưa?
- Dạ rồi.
- Rồi thì em để đó cho ai ăn, ở đây toàn là người què cụt – Phúc cười nhìn em.
Cô gái bỏ vỏ các thứ vừa gọt vào bịch nylon, lấy dĩa trái cây đặt trên giường cạnh Phúc. Phúc chỉ lên tủ nhỏ :
- Em lấy dĩa để ít cam lên tủ cho An.
- An nào? Cô gái vừa hỏi vừa nhìn sang giường bên cạnh có vẻ như chưa quan tâm vì không biết đó có phải là người mà Phúc vừa nói tới.
Phúc không trả lời, chỉ hất đầu qua phía giường cạnh mình:
- Đó, mới vào hôm qua.
- Đang ngủ mà.
- Chắc là chỉ nhắm mắt vì mệt chứ không phải ngủ, em cứ đặt trên tủ cho anh ấy.
Tuy An nhắm mắt nhưng vẫn nghe hết mấy câu đối thoại bên cạnh giường mình, do đó anh mở mắt, nói với nụ cười gượng gạo :
- Cám ơn cô.
Phúc nói:
- Em lấy giùm tờ báo nơi anh Lâm cho anh.
Cô gái bước sang bên giường Lâm lấy tờ báo đưa cho Phúc, nói đùa :
- Què quặt như mấy anh cứ nằm đó mà sai, sướng quá hỉ!
Một thương binh trẻ nằm sát tường lên tiếng:
- Sao em không nằm đây để tụi anh lo cho.
Cô gái nhăn mặt:
- Anh Thăng không được trù ẻo em nghe, xúi quẩy lắm đó.
Cả phòng cười theo. Cô gái nói với anh:
- Thôi em về anh Phúc. Còn dặn gì nữa không?
- Chiều có vô, nếu tiện thì đem thêm cái bình thuỷ.
Cô gái mở to mắt nhìn anh:
- Ở đây cũng có nước sôi, còn đem bình thủy vô đây làm gì, cần thì hỏi người ta.
Phúc trả lời:
- Nhà mình hết con nít rồi Lệ Chi à. Còn ở đây em nhìn xem, toàn là trẻ em chưa biết đi, em tiếc gì cái bình thuỷ mà không mang vào, để mà chế tí cà phê với nước trà uống cho tĩnh táo.
Lệ Chi lại cười :
- Chế nước trà thì phải có cái bình trà, mang vô mang ra phải mệt không. Lại có tiếng của Thăng : -Thôi chịu khó đi Chi, vài bữa chân đi được, anh mang về giùm em.
Chi ngúng nguẩy :
- Cái anh này, không biết thân còn líu lo cái miệng.
- Anh biết thân biết phận lắm Chi à, mới líu la cho nó đỡ sầu, em lại cấm, tội nghiệp anh. Thăng là người vui tính nhất phòng. Khi nào Chi vào, Thăng cũng có vài câu trêu chọc, nhờ vậy mà không khí trong phòng bớt buồn tẻ.
Lệ Chi và vài người thăm viếng xong vừa ra về, căn phòng trở lại yên tĩnh. Người coi báo, kẻ đọc sách. Hai người nằm giường phía bên phải, có vẻ đứng tuổi, đang trao đổi với nhau vài tin tức chiến sự và dự đoán tình hình thắng bại trên các chiến trường, trên hội nghị vừa đánh vừa đàm. Miền Trung biểu tình chống chính quyền, sinh viên học sinh bãi khóa xuống đường, biểu tình phản chiến, đuổi Mỹ về nước, tiểu thương đình công bãi thị. Phong trào phản chiến cũng đang diễn ra ở Mỹ, phản đối chính quyền Mỹ đưa chồng con họ qua tham chiến miền Nam Việt Nam.
Quân Đồng minh tham gia chiến trận với lực lượng hùng hậu, đủ các loại vũ khí đạn dược tối tân, nhưng quân số và hỏa lực của quân Bắc Việt vẫn rất mạnh, gấp hơn nhiều lần, hai bên bất phân thắng bại, các vùng xôi đậu ngày càng nổi thêm dấu xóa trên bản đồ miền Nam. Nhiều trận địa kinh hoàng, bom rơi đạn nổ quanh các tỉnh thành, thương binh tử sĩ có đến hàng trăm. Những xác lính Mỹ cuộn trong poncho đưa về từ trực thăng, những chiếc quan tài vội vàng chuyển lên máy bay C.130 đưa về nước, tất cả hầu như thường xuyên, ngày nào cũng có.
Những câu trao đổi bình luận gần giường khiến An chú ý nghe dù đã biết hết những chuyện này, mở mắt nhìn lên trần nhà, mỏi mệt nhưng không trăn trở được vì chân còn tê cứng. Vài ngày lại có thương binh nhập viện, nhất là mỗi khi nhớ đến đồng đội đang còn ngoài mặt trận. Suy nghĩ miên mang như thế kéo dài khiến An cảm thấy mình suy sụp.
Phúc sợ An mệt mỏi sinh ra nằm mê mệt nên nhắc nhở:
- An ăn tí cam cho khoẻ đi An, tí nữa có nước sôi, khuấy thêm ly sữa uống cho lại sức. Lúc mới vô đây ai cũng vậy, từ từ sẽ khỏe.
An cầm cam ăn, cam ngọt nhưng miệng anh đắng ngắt. Phúc châm điếu thuốc Jet mời An.
- Cám ơn Phúc, miệng tôi đắng lắm - An nói nhỏ.
Phúc rít một hơi xong hỏi An:
- An thích hút thuốc gì?
- Tôi quen hút Con Mèo.
- Để chiều Chi vào tôi biểu mua Con Mèo cho anh.
- Thôi được, đừng làm phiền cô ấy.
- Anh đừng ngại gì cả, cứ xem như em út trong nhà. Mấy anh em nằm đây gia đình ở xa nên cũng hay nhờ em nó mua giùm các thứ, nhà tôi ở gần đây, không có gì bất tiện.
- Hai anh em Phúc, người nào cũng sốt sắn vui tính - An nói lên nhận xét.
Phúc trao đổi cởi mở :
- An cố lên, nguy hiểm qua rồi, vui khỏe lên.
An cười gượng:
- Là do tôi mệt quá. 
Chiều mang các thứ vào cho Phúc, Chi chợt nhìn sang giường An, anh đang nằm im nhắm mắt, mặt đỏ phừng. Chi hỏi Phúc có biết là An đang sốt không? Phúc nói trưa nay An ăn rất ít, người mệt mỏi. Bác sĩ khám và nói không phải do nhiễm trùng.
Nghe vậy Chi suy nghĩ An yếu sức do mới bị thương và dị ứng với khí hậu nên chỉ cảm sốt chứ không có gì đáng lo ngại, uống thuốc sẽ khỏi.
Phúc nhắc nhở :
- Em coi sóc giùm An kỹ một tí, cứ dằng dai trông tội nghiệp.
Chi nhìn sang An một lúc, ái ngại:
- Coi bộ anh ấy mệt nhiều, bác sĩ cho thêm thuốc gì không?
- Có rồi, hình như có thuốc bổ nên An nằm mê suốt buổi, để yên cho An ngủ, em cứ pha sẵn ly sữa để đó.
Đến bên giường An, Chi khuấy sữa xong lấy một tờ giấy nhỏ đậy lên, đưa mắt nhìn kỹ An, khuôn mặt anh hốc hác quá khiến cô chạnh lòng.
Chi bước sang giường Phúc hỏi nhỏ:
- Có nên thức anh ấy dậy uống sữa không? Để nguội khó uống.
- Nếu dậy được thì tốt.
Chi quay qua, khẽ lay tay An:
- Anh An, dậy uống tí sữa.
An mở mắt, cơn sốt làm mắt anh đỏ ngầu, lờ đờ nhìn Chi, nghe miệng lưỡi mình khô đắng, uể oải không muốn dậy. Thấy vậy Chi nói:
- Để em đỡ dậy, ráng lên.
Nói xong Chi đỡ lưng An lên, một tay với lấy ly sữa. Nghề nghiệp của Chi quen đỡ đần chăm sóc phụ sản nên việc này đối với cô không mấy ngượng ngùng.
Phúc nằm bên này nhìn sang, nói với An:
- An ráng uống ly sữa, cần gì cứ nói với Chi. Em nó biết rõ thuốc men lắm, sẽ lo cho mau khỏi thôi.
An nhìn Chi với đôi mắt biết ơn:
- Cám ơn cô - rồi nghiêng người nằm xuống.
Chi hơi băn khoăn:
- Anh có cần nhắn người nhà không? Tình trạng như thế này cần phải có người nhà chăm sóc.
- Cám ơn cô, một vài hôm sẽ bớt, không sao.
- Anh cần gì nữa không?
- Cám ơn, khi nào cần tôi sẽ nhờ cô.
- Thôi anh nằm nghỉ .
Chi chuẩn bị ra về, Phúc dặn theo:
- Chiều mai em cố gắng vô sớm, nhớ mang thêm cam và sữa.
- Dạ.
Gần nửa tháng nằm viện không có người đỡ đần, An phải cố gắng tự lo cho bản thân, mong cho mau khỏe, cũng giống như nhiều thương binh xa nhà trong phòng này. May mà có Chi quan tâm chăm sóc, các nữ trợ tá tận tình, và nhờ anh em chung quanh quan tâm giúp đỡ nhau nên mọi việc có phần nào dễ chịu, tuy trong lòng An không mấy yên ổn, cứ băn khoăn như thiếu vắng điều gì, hình bóng Nhung đâu dễ nhạt nhòa trong tâm tưởng. Nhiều đêm dài không ngủ được nhưng anh không để ai biết, nhất là Phúc bên cạnh.
Chiều hôm sau Chi vào sớm, chưa kịp hỏi gì thì Phúc đã khai:
- Hồi hôm anh An ngủ ít lắm và ho hơi nhiều, sáng nay người vẫn còn nóng. Tay anh như thế này nên không giúp được gì cho An cả.
Chi hỏi:
- Bác sĩ nói thế nào?
- An không cho mời bác sĩ, nói để uống hết thuốc, nếu không bớt mới xin khám lại.
- Vậy để chờ xem.
Chi bước sang giường An, anh vẫn nằm nhắm mắt. Cô sờ tay lên trán, hơi nóng hâm hấp, cô nói nhỏ:
- Anh thấy trong người thế nào, mệt lắm không?
An gật đầu, Chi hỏi tiếp :
– Có rát cổ không?
An lại gật đầu, không nói lời nào.
Đặt tay lên trán An một lần nữa xong Chi kéo chăn lên cổ cho anh, rồi trở lại ngồi bên giường Phúc, lục tìm trong chiếc xách nhỏ một lúc, lấy ra mấy viên thuốc đưa cho Phúc, dặn :
- Gần đi ngủ anh nhớ đưa cho anh An uống hai viên. Chắc là khí lạnh khiến anh ấy ho, uống hai viên thuốc đó sẽ bớt ho.
- Em hỏi thử An có ăn cháo, ở ngoài có bán.
Không hỏi nhưng Chi đi ra ngoài mua tô cháo mang vào, chờ bớt nóng, Chi qua bên giường An:
- Anh An ráng dậy ăn chút cháo cho đằm bụng để uống thuốc.
Sợ phiền lòng Chi nên An gượng ngồi dậy húp hết tô cháo.
Tự nhiên Chi cười, khen:
- Tốt lắm.
Nghe tức cười, đôi môi khô của An cũng nhích lên một tí.
- Tí nữa sắp ngủ, anh uống thêm hai viên thuốc em đưa nơi anh Phúc - Chi lại dặn - Ráng ngủ ngon đêm nay, mai sẽ khỏe.
- Cám ơn cô.
Chi nói nhỏ vừa đủ cho An nghe :
- Sao anh cám ơn mãi vậy.
An bào chữa, giọng yếu ớt :
- À, tại vì … không biết nói thế nào với cô. Nếu không bằng lòng thì lần sau tôi sẽ không nói như thế nữa.
- Cũng không được gọi bằng cô – Giọng Chi làm ra vẻ nghiêm túc nhưng có kèm theo một nụ cười. An thầm nghĩ “hóa ra bây giờ ta trở thành trẻ con, còn Chi như là người chị được quyền sai biểu, cũng hay hay”.
Trước khi đi Chi dặn :
- Anh nhớ đắp chăn kín ngực và cổ.
An không biết nói gì, chỉ giữ im lặng, mắt nhìn theo Chi cho đến khi cô ra khỏi cửa. An biết sự đau đớn thế xác như thế này là do ảnh hưởng từ tinh thần, biết vậy nên anh tự cố gắng bớt suy nghĩ về Nhung cho vơi đi. Không gì mãi bâng khuâng cho bằng tình xa tình nhớ.
Ngày hôm sau tự nhiên An thấy nhẹ trong người, cũng do sức trẻ nên mau vượt qua, và An bỗng nhớ tới một nhân vật trẻ tuổi, trong truyện ngắn của Max Shulman. Khi cảm thấy lòng mình đã yêu rồi, anh ta nói với Polly:“Polly, anh yêu em. Đối với anh em là tất cả thế gian này, là mặt trăng, là những vì sao, những thiên hà của khoảng không vũ trụ. Em yêu dấu, xin em hãy nói là em sẽ chỉ hẹn hò với anh mà thôi, bởi vì nếu không, đời sẽ bằng vô nghĩa. Anh sẽ mỏi mòn. Anh sẽ bỏ ăn. Anh sẽ lang thang trên trái đất này, tiều tụy, tả tơi”.
Bây giờ An mới thấy gần đúng như những lời ấy. Thiếu Nhung, mọi sự hình như không còn ý nghĩa. Biết đâu, lời của Shulmen đã trở thành chân lý. Trước đây, An đã buồn cười vì sự uỷ mị hơi quá đáng đối với trình độ học thức của Shulman, tất cả sẽ “tiều tụy, tả tơi” nếu không gặp được nàng. Chàng ta hơi ngông chăng, ví nàng là tất cả mọi sự trên đời.
An không đặt để Nhung ở ngôi vị tuyệt đối như thế, anh chỉ biết đó là Nhung, tình yêu đầu đời của anh, trái tim của anh. Thiếu Nhung anh thật sự hụt hẩng trống trãi, chỉ cảm thấy khí lạnh của đá và sương muối nơi đây. An đã bị ảnh hưởng câu văn này khá sâu rồi chăng.
Chiều nữa Chi lại vào thăm, Phúc nói thấy An đỡ lắm rồi, ăn uống ngon miệng.
- Vậy cũng được rồi, chỉ cần cái chân mau lành để còn tháo bột.
Phúc kéo tay em gái lại gần, nói thật nhỏ :
– Nè Chi, anh hỏi thật, em đã có người yêu chưa?
- Chi vậy?
Phúc cười:
- Ở đây mà gặp được người đồng hương là quý lắm em à. Em cố gắng chăm sóc cho An mau khoẻ, nói vậy là em hiểu rồi. An chưa có vợ.
Chi đưa mắt sang giường An, suy nghĩ “Mình có thể làm được công việc anh Phúc nói không, với một con người yếu ớt tiều tụy như thế này?”. Nhưng cô tự nhủ, dù gì thì cũng phải cố gắng lo cho anh ấy bình phục chứ không thể kéo dài tình trạng này.
Chi có vài người bạn trai muốn làm thân nhưng cô chưa để tâm yêu thương ai. Ở miền cao đầy nắng bụi mưa bùn này, rừng núi thâm u, tuy sống ở đây gần sáu năm nhưng cô vẫn thấy lạc lõng giữa những người quen biết không cùng chung tiếng nói. Biết An là người đồng hương, tình cảm gần gũi chợt len đến, bỗng dưng cô thấy chạnh lòng trước khuôn mặt hốc hác xanh xao của An, và khó mà hình dung được khuôn mặt thật của anh trước kia như thế nào, giờ này chỉ còn là góc cạnh. Trông An già đi, khô gầy với đôi mắt trũng sâu. Chi hơi tội nghiệp cho An, dù sao thì cũng không thể thờ ơ với anh trong hoàn cảnh này.
Chi bước qua gần An, ngồi cạnh giường. Nghe động, An mở mắt.
Chi hỏi :
- Anh có thấy đỡ chút nào không?
- Có. Đỡ nhiều rồi.
- Hồi hôm ngủ được không?
- Có
- Sáng giờ có ăn uống gì không?
- Có.
Chi bật cười :
- Anh làm như trả bài - Xong Chi đặt tay lên cổ tay An bắt mạch một lúc rồi nói cho An biết : – Mạch hơi yếu nhưng không sao, người nào bị thương mới vào đây cũng vậy, anh ráng tĩnh dưỡng sẽ qua khỏi thôi, chân bó bột cũng khá lâu rồi, khỏe lên mà còn tập đi.
An nhìn Chi tỏ vẻ biết ơn cùng với nụ cười làm vui. Chi nhìn một thoáng vào hai cái hốc sâu đôi mắt An và nói với giọng của một thầy thuốc:
- Em có đem theo nhiều thuốc bổ, uống vào giấc ngủ sẽ dễ chịu hơn.
An chưa kịp trả lời thì Chi đã đứng dậy đi ra ngoài, một chốc mang vào tô phở, lấy đôi đũa quậy sợi phở lên cho nguội. An tự động ngồi dậy, cám ơn Chi trước khi ăn.
- Lại cám ơn - Chi nói nhỏ.
Tự nhiên An thấy ngon miệng, một thoáng vui trong lòng, một phần không muốn để mất lòng cô gái. Thấy An ăn hết tô phở, Chi yên bụng. Trước khi về, cô dặn lại An nhớ uống thuốc của cô đưa. An gật đầu vâng theo.
Ra đến cửa bỗng nghe tiếng của Thăng :
Chi ơi, sao mà chỉ một tô phở vậy, ganh tị lắm rồi nghen.
Cái anh này, chọc quê người ta hoài.
CHƯƠNG XVI
Chừng hơn một tuần Phúc được ra viện, có dặn khi An ra viện thì ra ở lại nhà Phúc để còn tập đi đứng cho mạnh chân mới về quê được. Thời gian này Chi vẫn ra vào chăm sóc cho An. Gần nửa tháng sau An được xuất viện và tận tay cô dẫn anh lên xe về nhà mình.
Cả nhà vui vẻ đón chào, ai cũng mến anh nên sự hòa hợp khá tự nhiên cởi mở, không ai nghĩ anh là khách lạ và xem như người thân trong gia đình, một phần cũng do bản chất dễ dung hòa của An.
Tuy vậy, tâm tư vẫn chút thoáng buồn, nhớ quê nhớ người. Với chân cẳng như thế này, anh không thể về quê gặp mẹ, sợ mẹ buồn. Và không thể về nơi phố Huế, sẽ như thế nào để khỏi gặp bóng dáng Nhung đi về đâu đó trên những con đường quen thuộc thân thương. Ở đây có lẽ là nơi thích hợp để anh dung thân trong thời gian chờ đi đứng được bình thường trở lại.
Mỗi buổi chiều An thường ngồi ngoài hiên cửa nhìn hoàng hôn xuống mau giữa bốn bề núi rừng, cây cối lau lách buồn hiu, vài cánh chim chiều tìm tổ bay về. Thấy vậy, Chi lại xúc động nghĩ rằng, chiều nào An cũng ngồi đợi mình về, luôn trên môi anh một nụ cười chào đón, không vồn vã nhưng thắm tình. An biết Chi đã dành nhiều tình cảm cho mình, biết mình sẽ đón nhận như thế nào cho phải nhân phải nghĩa, bởi Phúc và Chi đã sốt sắn đưa An về nhà chăm sóc chờ ngày tháo băng.
Không tự dối lòng mình khi đôi lần cảm xúc trước chân tình của người con gái Huế, tiếng nói ngọt ngào, bản tính chân thành, quán xuyến. An trông đến ngày đôi chân đi lại được mạnh mẽ để ít ra trước mắt Chi, anh không còn là kẻ tật nguyền để cô khỏi phải vất vả vì mình.
Đến ngày tháo bột, Chi nghỉ làm, đưa An vào viện. Sau đó dặn anh phải chuyên cần tập đi, nhất là những khi cô vắng nhà. Khi có thời gian rãnh rỗi, Chi cầm tay An dẫn đi quanh sân, quanh vườn, đôi lúc vui vẻ cười đùa thân mật tự nhiên.
Hơn hai tháng ở lại đây là khá lâu đối với An, một phần cũng do sự níu kéo của mọi người trong nhà. An biết Chi đang trông chờ anh một cử chỉ, lời nói ân cần, mặc dù trong thâm tâm anh nghĩ không lẽ người con gái này lại thương yêu một người không lành lặng như anh.
Những lúc vườn không, nhà vắng, An có vài cử chỉ thân tình gần gũi với Chi, vừa để tỏ lòng biết ơn, vừa dò xét ý tình. Thấy Chi có vẻ mở lòng mở dạ, lòng anh cũng ấm lên chút tình thương mến giữa miền núi rừng xứ lạ.
Ba má Chi rất quý mến An, cả nhà hết lòng chăm sóc cho anh mau hồi phục, lại không muốn rời xa. Ở lâu trong nhà cũng buồn, An hẹn với Chi ngày mai chủ nhật cùng ra phố uống cà phê nghe nhạc.
Ngồi trong quán, An nhắc lại câu nói lúc ở nhà với Chi :
Tuần sau anh sẽ về nhà, sẽ cố gắng phục hồi sức khỏe và tìm công việc gì đó để làm. Lâu ngày không về, chắc là mẹ trông lắm.
Mẹ anh bằng tuổi mẹ em?
An đoán chừng:
Cũng khoảng gần sáu mươi, thấy còn khỏe mạnh, mau mắn lắm.
Về nhà, anh nhớ cho em gởi lời thăm mẹ.
Câu nói của Chi khiến An xúc động, cầm tay Chi, anh nói nhỏ :
Anh sẽ viết thư cho em.
- Để em đi mua vé cho anh.
- Em bận đi làm, để nhờ Phúc mua giùm.
- Anh đi xe hay máy bay?
- Đi máy bay. Đường bộ lúc này hay bị đặt mìn nguy hiểm lắm.
An cầm bàn tay Chi, cô vẫn để yên tay mình trong tay anh. An cảm nhận sự thân tình phải có trước khi chia tay. Dù sao, An vẫn đang cần đến một bàn tay ấm áp, lời nói dịu dàng, nghe như bản năng của trái tim cần nhịp đập yêu thương.
Đường về quê không còn xa lắc bởi lòng An đang nôn nóng, hơn cả năm nay chưa về lần nào, chỉ vài lá thư thăm hỏi, chắc mẹ trông lắm. Xe hàng ngừng gần ngõ, An bước vội qua cổng, thấy mẹ đang ngồi trước hiên nhà, An cố gắng tạo dáng đi bình thường đến gần mẹ:
Giờ này mẹ chưa nghỉ trưa sao còn ngồi đây?
Mẹ mừng quá đẩy ghế đứng lên :
Uả con về rồi hở? Mẹ có nhận thư của con, bình an cả hai đứa là mẹ mừng. Mẹ vừa ăn cơm xong, chưa muốn ngủ nên ngồi đây, lâu rồi cũng quen.
Câu nói của mẹ hàm chứa nhiều ý khiến An xót lòng,“lâu rồi cũng quen” có nghĩa là mẹ thường ngồi đây trông chờ hai đứa con ở xa trở về. Mẹ côi cút làm sao! Cuối cùng thì An không giấu được việc anh đã bị thương ở chân, nằm viện hai tháng ở Pleiku, giờ về đây kiếm việc gì làm để được gần mẹ. Nghe lời nói của An, mẹ anh rất vui, hai khóe mắt rưng rưng.
Quanh quẩn bên mẹ chừng nửa tháng, An lên phố Huế tìm gặp những người bạn thân lúc còn học trường Quốc học và ở Ký túc xá. Có người bạn đang dạy học ở một trường tư thục biết hoàn cảnh, giới thiệu An vào dạy môn toán cùng trường. An rất vui mừng vì sự may mắn không ngờ tới, và thêm may mắn nữa là được ở tại Ký túc xá với danh nghĩa sinh viên đang học tiếp chương trình cử nhân.
Ký túc xá sinh viên chỉ cách nhà Nhung một cây cầu, nhiều lần đến nhà thăm viếng, An được mẹ Nhung cho biết Nhung đã lập gia đình ở Nha Trang. An rất mở lòng khi biết Nhung đã có tổ ấm, không còn một mình cô đơn nơi xứ lạ quê người, cảm giác vững tin khiến anh càng vui vẻ với công việc, lòng vơi thương nhớ.
Thư đi tin lại với Chi, An nói sẽ lên Pleiku thăm gia đình Chi trong thời gian nghỉ tết. Phúc rất vui khi thấy An trở lại, tức là muốn tiến đến với em gái mình, điều mà Phúc rất mong muốn. Ba của Chi cũng cho biết, trước khi lên đây công tác, gia đình ông ở Huế, đường Mai Thúc Loan trong Thành Nội, hiện cho hai người cháu ở quê lên ở lại, học trường Quốc học. Nếu hai người nên vợ nên chồng thì sẽ về đó ở, lâu nay cũng có nghe Chi nói đã làm đơn xin thuyên chuyển về Huế.
An thấy nhẹ lòng khi nghĩ đây cũng là cuộc hôn nhân trọn tình trọn nghĩa. Anh trao đổi với ba mẹ Chi việc cưới hỏi sẽ vào dịp hè sắp tới cho rộng rãi thời gian. Chi cũng muốn vậy, để có thời gian chờ quyết định chuyển công tác về Huế vì có thâm niên và được sự thông cảm của cấp trên. Nghe đâu sẽ có quyết định vào tháng chín.
Vài ngày ăn tết cùng gia đình Chi thật đầm ấm, niềm vui no tròn. Phúc cũng báo tin cho cả nhà biết mùa xuân năm tới anh sẽ cưới vợ.
Đúng ngày dự tính, mẹ và vợ chồng người chú của An lên Pleiku, cùng với người anh ở Sài Gòn cũng lên tham dự lễ cưới. Nhìn cô dâu chú rể cân xứng vừa đôi, ai cũng thấy lòng mỹ mãn. An thầm nghĩ, tất cả đã được an bài, tự nhủ sẽ làm đầy đủ những gì của một người chồng, cần phải yêu thương Chi hết lòng, đáp lại tình yêu của Chi với muôn vàn ân nghĩa. Kỷ niệm xưa không mất, nhưng dòng đời thì phải cuốn theo, một hạnh phúc dung dị, một mái ấm đơn sơ nhưng thắm thiết chân tình.
Xong lễ cưới, chú thím của An về trước, mẹ An còn ở lại chơi thêm vài ngày. Thấy ba mẹ Chi còn quyến luyến nên An ở lại đến khi hết hè, An về chuẩn bị dạy học vào niên khóa mới. Mọi việc trôi tròn khiến ai cũng nhẹ nhàng thỏa mái. Thời gian sau, Chi được chuyển về Huế, mẹ An cũng đã lên ở với An lâu nay. Ba người ở nhà dưới, hai người cháu ở trên gác.
An rất vui lòng khi thấy mẹ vui vẻ tươi cười hơn khi ở quê, còn quán xuyến việc đi chợ, nấu nướng.
Chi nói:
- Để con đi làm về ghé chợ mua thức ăn, mẹ đi chợ chi cho mệt.
- Chợ gần đây có ba bước, đồ ăn nhiều mà dễ mua, con đi làm về nghỉ ngơi cho khỏe, mẹ làm bình thường có mệt nhọc gì đâu, giúp được cho hai đứa là mẹ vui lắm rồi, chỉ cầu cho có sức khỏe.
Chi thấy mẹ sốt sắn lo cho mình, cô mua khăn len áo ấm cho mẹ lúc trời sắp vào đông, và rất động lòng khi thấy mẹ ôm chiếc áo len vào lòng, thể hiện thâm tình trong lời nói:
Con thế này là mẹ vui lắm rồi, ruột thịt cũng vậy mà thôi. Mới chung sống có mấy tháng, thấy mẹ và Chi yêu thương gắn bó, An cảm thấy ấm lòng, hạnh phúc của mẹ là hạnh phúc của anh, anh phải trân quý giữ gìn.
Cũng nhờ có cuộc sống mới, với mẹ, với người vợ vừa quen hơi bén tiếng, thời gian êm ả trôi qua. Những buổi tối Chi có ca trực ở bệnh viện, An thường ra quán cà phê ngồi một mình, đường phố vắng bóng một người nên đường phố không vui, những ca khúc trữ tình ngân nhẹ như lời vỗ về xoa dịu.
Trời đang thu, những cơn gió nhẹ lay bay, lá sầu đông rơi rụng bên đường như khơi như gợi, không trống vắng nhưng không tràn đầy. Rồi anh trở gót quay về, nơi có Chi với vòng tay hơi ấm, vun đắp yêu thương.
Thời gian nữa, biết vợ có thai, anh thầm cám ơn Chi, nhờ nàng mà anh có được niềm vui và lẽ sống.
CHƯƠNG XVII
Nhung sinh bé gái đầu lòng, càng lớn bé càng giống bà nội nên Hòa rất cưng. Mới mấy tháng mà hai chân cứ chống thẳng muốn đứng lên, hai mắt lúc nào cũng mở to ngơ ngác tròn vo như hai viên bi. Hòa gọi tên con là Bé Bi. Thật tình Hòa rất thích con trai nhưng thường tự an ủi “Con gái đầu lòng cũng được thôi, nhưng đứa thứ hai phải là con trai, nó sẽ làm đầu đảng”. Mỗi lần đi cà phê hoặc đi chơi đâu không mang con gái theo thì lại giả bộ nói với bé, nhưng cố tình cho Nhung nghe “Nếu Bé Bi là con trai thì đi đâu ba cũng chở đi theo rồi”. Lúc nào cũng nếu là con trai thế này, nếu là con trai thế nọ, tức là anh mong muốn con trai lắm lắm. Nhung nghĩ, nếu lần sau sinh con gái chắc là anh sẽ thất vọng nhiều.
Ngày nào gần đến giờ Hòa về, bà nội cũng bồng cháu đứng trước cửa đón. Nghe tiếng xe của Hòa là bé nhào mình ra, hai tay đưa tới. Niềm vui này cầm chân được Hòa ở nhà nhiều hơn lúc trước, giúp được cho Nhung một số công việc, ẳm bồng, khuấy sữa, có khi giặt áo xống của bé. Làm việc nhà khá hăng hái nhưng thói quen đâu có dứt được, thỉnh thoảng có những buổi tối đi quên đường về, nhiều lúc về trễ nhưng Nhung lâu nay hơi thấy lạ, mặt mày ra vẻ nghiêm túc, chỉ sương sương hơi bia, lại cầm một xấp giấy tờ đựng trong cái chemise bằng nhựa màu trắng, xong ngủ ở divan, lâu nay vẫn thế.

Biết vậy nhưng Nhung không ý kiến gì, chỉ gợi ý hỏi qua thì anh nói có những việc phải làm mà cô không thể biết được, cô cũng không hiểu anh có việc gì mà bí mật đến thế. Mỗi tuần vài lần, chiều đi dạy về, ăn xong cơm tối lại đi, tám chín giờ tối về thức khuya chấm bài, cộng sổ, rồi lại mở xấp giấy ra xem. Thấy lạ nhưng Nhung chỉ để bụng, không tìm hiểu gì cho thêm nhiều chuyện.
Bé Bi ngày càng già tháng, mọc răng, tập lật tập bò, khi thì sốt cao khi tiêu chảy. Nhung vừa đi dạy vừa chăm sóc con vất vả là thế, đêm hôm khuya khoắt còn canh giấc ngủ cho con. Khi con hết bệnh thì mẹ bệnh, sức khỏe cô có phần sút giảm, người hay bơ phờ mệt mỏi.
Sáng ra, mặt trời lên cao. Hoà mở mắt không thấy Nhung dậy sớm để chuẩn bị đi dạy như thường khi, anh vào phòng thấy mặt vợ đỏ nhừ, mắt nhắm nghiền không biết có anh vào. Anh đặt tay lên trán Nhung và giật mình thấy nóng quá.
Nhung mở mắt thấy Hoà, cô giận dỗi quay mặt vào trong.
Hoà hỏi :
- Em bệnh hồi nào?
- Thôi đi, hỏi làm gì.
Hoà xuống giọng:
- Anh có làm gì mà em bực mình, sao giờ này chưa dậy đi dạy?
- Không thấy sốt à?
- Biết rồi, uống thuốc chưa?
- Rồi
- Ăn gì chưa?
- Có gì mà ăn?
Để anh đi mua.
Kệ tui
- Đừng có nói bậy, để anh đi mua phở.
Thấy hai tô phở đem về với ổ mì, Nhung giục:
- Anh ăn trước đi, còn đến trường xin phép cho tui nghỉ ngày nay, rồi đi dạy kẻo trễ, phần của mẹ để đó.
Những ngày sau Hòa ra vẻ chân chỉ không ai bằng, đi đi về về với nét mặt ưu tư như có điều gì lo lắng. Không thể giấu được với Nhung, anh nói về một số hoạt động của Đảng này Đảng khác như ẩn ý rằng anh đang hoạt động trong một Đảng nào đó, ra khỏi nhà là đi có việc, đi chơi giải trí chỉ là thỉnh thoảng, ly bia ly rượu chỉ là làm cảnh.
Nhung có biết ít nhiều về các Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng là hai Đảng đang hoạt động mạnh trong thời điểm này mà hầu như ai cũng biết. Việc Hòa nói là sự thật, nhưng không rõ anh thuộc Đảng nào. Hai tổ chức Đảng phái này chủ trương phong trào yêu nước, ngấm ngầm chống chính quyền. Gần đây nghe tin một số bị bắt hoặc bị thủ tiêu. Trong lúc ở trường học,chính tay Nhung ký tên mình vào danh sách Đảng Dân Chủ đã được đánh máy sẵn, dành cho giáo viên các trường học. Ai cũng hiểu đây là Đảng của Chính quyền Quốc gia, một hình thức gần như ép buột.
Tình hình thời gian gần đây rất nhiều biến động, dân trong thành phố không yên tâm sinh sống. Lựu đạn nổ ở các rạp chiếu bóng, đường xe tàu thường xuyên bị gài mìn. Các phi trường, cơ quan quân sự, đồn bót thường bị pháo kích, vài ba hôm lại nghe nhà sập, dân chết. Không khí chết chóc bao trùm căng thẳng khắp nơi.
Những bài báo Hòa mang về gần đây nhiều tin tức quan trọng đáng lo ngại. Chiến sự đang khốc liệt trên các mặt trận miền Trung và Lục tỉnh miền Nam. Quân đội Bắc Việt chuyển đủ loại vũ khí có sức công phá rất mạnh, lực lượng rất hùng hậu gấp mấy chục lần lính Quốc gia, áp đảo trên các chiến trường. Theo tin tức báo đài và từ các trận chiến đưa về, bộ đội dùng chiến thuật biển người tấn công vũ bão, quyết chiếm miền Nam.
Những cuộc càng quét của quân đội Mỹ tại các tỉnh Tây nguyên và các vùng quê ngày càng lan rộng. Quân Bắc Việt quyết chiến đến cùng, hai bên chết và bị thương có đến hàng ngàn người trên mặt trận, kể cả lính và nhiều sĩ quan Mỹ tử trận.
Hàng ngày trên quốc lộ, những chiếc GMC chở xác quân nhân về đồn trại ai cũng thấy, rất thương tâm. Nội chiến không biết kéo dài đến bao lâu, biết bao cô nhi quả phụ mất chồng mất cha, tất cả chỉ biết cúi đầu chấp nhận. Đất nước đang chiến tranh, bom rơi đạn nổ ngay trong thành phố, dân lành đứng ngồi không yên.
Lệnh thiết quân luật ban hành khắp các tỉnh.
Nhung thường nhắc nhở Hòa:
- Anh hay gặp nhiều người, nói năng phải dè chừng, không phải ai cũng đáng tin tưởng đâu. Bàn tán nhiều coi chừng tai vách mạch rừng.
Hòa tĩnh như không:
- Là em chưa biết đó thôi. Tình hình này không có nơi nào người ta không xôn xao bàn tán. Ai cũng đang hồi hộp lo sợ, nơi nào bây giờ cũng có thể là trận địa, chẳng đâu ăn yên ở yên được.
- Gần đây một số giáo sư, sinh viên bị bắt ra Côn đảo. Anh coi chừng thận trọng việc đi đứng. Đảng Dân Chủ sờ sờ ra đó, hình như đang dò xét đường đi nước bước với mấy Đảng gì đó của anh.
Hòa như chấp nhận sự đã rồi, dặn dò:
- Em đừng nói đi nói lại với ai nghe không.
Biết Nhung hiểu được phần nào nội tâm của mình, Hòa thấy hơi dễ chịu trong lòng. Thật tâm anh đã sinh hoạt trong Đảng từ lâu, trước tình hình đất nước đang cơn binh loạn, nhiều phe phái, nhiều lực lượng chống đối của thành phần trí thức phản chiến. Lại nghe trên các phương tiện thông tin đài báo, sự hiện diện của quân Bắc Việt vào miền Nam có đến hàng trăm ngàn vừa lính chính qui vừa lực lượng du kích địa phương, với đầy đủ vũ khí xe tăng, đạn pháo hỏa tiễn gấp nhiều lần so với Việt Nam Cộng Hòa, gây xôn xao dư luận trong mọi tầng lớp nhân dân trong nước và trên thế giới.
Tiếp đến là các trận đánh ác liệt liên tiếp ở các tỉnh miền Nam, Đồng Xoài, Bình Gĩa, Mộ Đức, Chu Lai và lan rộng các tỉnh Tây Nguyên, ngày nào cũng có thông tin cập nhật trên đài báo. Quân đội Cộng hòa thua nhiều trận phải tháo chạy, bỏ lại chiến trường có đến hàng trăm xác lính Việt Nam và lính Mỹ, chưa kể số mất tích, bên quân Bắc Việt số lượng thương vong cũng tương đương.
CHƯƠNG XVIII
Khoảng gần nửa tháng 3/1975 Nhung tới trường buổi sáng, bất ngờ thấy trong các phòng học đầy người di tản. Học sinh lần lượt ra về theo lệnh của thầy Hiệu trưởng, một số em tò mò còn ôm cặp đứng ngoài cửa lớp hoặc trước cổng trường nhìn vào nghe ngóng, một đỗi thì không ai biểu ai, tất cả đều hấp tấp chạy về nhà để báo tin cho gia đình, chỉ còn một số giáo viên trong trường phải ở lại theo yêu cầu của Ban Giám Hiệu.
Trao đổi với số người chạy nạn, mới biết họ chạy về từ Ban Mê Thuột. Lính Cộng hòa thua trận rút quân hết. Quân Giải phóng hoàn toàn làm chủ Tây nguyên, tiếp tục tiến về Giải phóng đồng bằng ven biển. Dân Kontum, Daklak trên đường chạy về Phú Yên, Nha Trang, rất nhiều người bị trúng pháo chết giữa đường, vợ lạc chồng, con lạc mẹ. Những người thoát nạn về đây đa số mất dép, chạy bằng chân không, nhiều người hai chân còn rướm máu ung mủ sưng phù.
Các trường học trở thành nơi tị nạn cho người di tản, giáo viên phân phát gạo sấy, thịt hộp cho họ, vừa làm vừa lo lắng nghe ngóng tình hình. Các thầy cô xong việc cũng theo nhau ra về, rồi chẳng thấy ai trở lại trường những ngày sau đó. Không biết số phận những người tị nạn tiến thối thế nào khi hai chân của họ đang còn đau đớn không đi được và nhiều người không còn tiền bạc, bởi nhiều nguồn tin cho biết Quân Giải phóng sắp tiến đánh Nha Trang, hai tỉnh cách nhau chỉ hơn 100km.
Nhung về đến nhà đã thấy Hòa ẳm con đứng chờ ở cửa, nói rằng bộ đội đang tiến về Nha Trang. Một số đồ đạc của mẹ đã cho vào bao bị nhưng Hòa nói là mẹ cứ ở nhà, lớn tuổi rồi không cần phải chạy đi đâu, chỉ có công viên chức nhà nước mới sợ mà chạy thôi.
Nhung vội sắp xếp áo quần và một số đồ dùng cần thiết vào giỏ xách, rồi đưa cho mẹ ít tiền để ở lại chi tiêu. Hòa biểu Nhung ra chợ mua thêm ít thức ăn và bánh trái để dành cho em bé lúc đi đường. Sau đó anh xách xe đi theo dõi tình hình, bởi tin tức từ Đài phát thanh giờ này chỉ là những lời trấn an không còn đáng tin tưởng, chỉ còn biết tin vào những lời đồn ngoài đường và bà con hàng xóm. Người nói sẽ chia từ Nha Trang đến Phan Thiết, người nói chia đến Cam Ranh. Người bảo Phan Thiết mất thì Sài Gòn sẽ mất. Từ đó mạnh ai nấy suy đoán và tự quyết định lấy số phận của mình.
Làn sóng người Nha Trang và các vùng phụ cận bắt đầu di tản ùn ùn trên mọi ngã đường. Xe hơi, xe máy chở đầy người hướng về quốc lộ phía nam. Một số phân vân giữa đi và ở lại, chẳng ai đoán định được tình hình. Người đi thì nổ máy xả ga. Người ở lại thì tìm lánh đến những nơi xa đồn bót, xa phi trường để tránh bom đạn pháo kích.
Lúc trở về nhà, Hòa vẫn chưa dứt khoát nên ở hay đi mặc dù mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng. Anh nói mẹ cứ yên tâm ở lại, vì sẽ không kham nổi chuyến đi, mà cũng chưa biết đi đâu, người ta chạy đâu thì mình theo đó. Sau đó anh liên hệ với người gần nhà gởi gắm mẹ. Hàng xóm có người không đi, mẹ anh mới yên tâm ở lại.
Vợ chồng Hòa nghĩ bản thân là giáo viên không làm gì liên lụy, có thể ở lại hoặc không nên chạy xa làm gì cho khổ vì có em bé. Cho đến tối vẫn chưa quyết định, mặc dù rất sốt ruột vì thấy ngoài đường xe chạy không ngớt về một hướng, thành phố trở nên vắng vẻ lạ thường.
Sáng mai, Nhung hỏi ý kiến Hòa:
- Bây giờ tính sao đây?
- Theo nguồn tin khá chắc chắn là có thể chia từ Phan Thiết, mà cũng có thể đánh tới Sài Gòn, thì chắc chắn Nha Trang sẽ xảy ra trận chiến, mình dạy học, không có gì phải quá sợ, quan trọng bây giờ là tránh bom đạn.
- Nhưng mà nghe nói họ sẽ rút móng tay tất cả.
Nguồn tin này đã truyền khá lâu rồi chứ không phải mới nghe. Nhung lo sợ thật sự và đã cắt tận móng từ mấy hôm nay rồi. Hòa cũng có nghe đồn chuyện này nên không ý kiến gì. Có điều anh đang nghĩ tới chuyến đi sẽ rất vất vả. Nếu không đi thì thôi, đi thì phải đến tận Sài Gòn bởi ai cũng nghĩ quân Giải phóng không dễ gì đánh vào Sài Gòn.
Suy nghĩ một lúc, Hòa quyết định :
- Ngoài đường nhiều gia đình con cái còn nhỏ họ vẫn đèo đi trên xe, em thấy không.
- Hay là chạy về nhà quê ?
- Thôn quê có thể là bàn đạp của du kích nằm vùng, có thể họ sẽ kết hợp với quân chính qui từ Ban Mê Thuột xuống.Thôi chuẩn bị đi em, mình đi cho rồi.
Nhung giấu kỹ một số tư trang trong lai áo của Bé Bi, chỉ để một chiếc nhẩn vài phân phòng lúc đi đường, nhưng cũng giấu vào nơi kín đáo. Cô ôm con ngồi sau, trước hai chỗ móc xe là hai giỏ xách đầy ắp thức ăn vật dụng và một bình xăng đầy.
Ra tới quốc lộ, mọi loại xe máy đều nhập vào nhau cùng đi, lâu lâu có những chiếc xe nhà binh và xe hơi nhà chở đầy người vượt qua rất nhanh. Qua khỏi cải lộ tuyến, xe kéo dài thành từng đoàn đầy đường. Tiếng hỏi thăm tình hình hòa với tiếng xe nổ khiến không khí giữa đường sôi động hẳn lên, ai cũng phập phồng nôn nóng.
Chạy thêm chừng vài cây số bỗng nghe nhiều tiếng nổ lớn từ phía sau dội lại. Người thì đoán đang đánh nhau ở Nha Trang, người thì chắc chắn là kho xăng nổ vì thấy cột khói đen bốc cao, rồi tất cả vội xả ga cho xe chạy thục mạng. Không có xe chạy ngược chiều nên xe nào cũng thuận đà rú ga. Những xe yếu máy hoặc chở trẻ em thì chậm lại phía sau nhưng cũng tăng hết tốc độ. Sau đó là những tiếng nổ long trời liên tiếp phía sau.
Nhung nói vừa đủ cho Hòa nghe:
- May mình chạy kịp, không biết ở Nha Trang bị gì?
Gần trưa xe đến Cam Ranh, Hòa nói có người em bà con tên Hiền ở đây, chắc phải ghé lại nghỉ ngơi, lo cho em bé ăn uống rồi đi tiếp. Bất ngờ khi đến nhà Hiền thì trong nhà đã đầy người di tản, một số là bà con của vợ chồng Hiền, một số là người đi theo cùng đoàn, tất cả đang suy tính không biết nên đi hay nên ở. Ngoài quốc lộ, xe hơi xe máy vẫn chạy liên tục khiến ai cũng nóng lòng.
Quân, chồng của Hiền và người em trai đều là sĩ quan quân đội Cộng Hòa vừa chạy thoát về đây cách mấy tiếng, thấy xe chạy ngoài đường không ngớt, vội ra sau vườn đào lên mấy cây súng, hấp tấp từ biệt vợ con, lên xe jeep đi ngay vì biết quân Bắc Việt lấy được Nha Trang thì lấy Cam Ranh là việc dễ dàng, chỉ cách nhau chừng 50km, phải lo mà chạy.
Vài tiếng súng nổ rất gần khiến Nhung và Hiền giật mình, vừa nghe nguồn tin có cướp rất nhiều trên đường, bắn chết cả người đi đường lấy của, ai cũng lo lắng bồn chồn, nhưng gần nửa tiếng sau thì xe jeep của Quân quay trở lại, nói rằng quân cướp bắn phá đầy đường không thể đi qua được vì là xe nhà binh, tụi nó sẽ bắn trước. Quân nói thấy cướp chặn lại thì phải giấu súng, chẳng lẽ bắn nhau, biết ai sống ai chết, nhưng những xe di tản vẫn liên tục chạy vì không thể nào trở lui được.
Một đêm căng thẳng trôi qua. Suốt đêm không ai dám nói tiếng to, không dám để đèn sáng. Nghĩ đến cướp mà khiếp hãi còn hơn sợ Việt cộng tràn vô. Đến khi trời rạng, trong nhà vẫn chưa ai có ý kiến, cho đến khi có tiếng xe qua lại ngoài đường mới dám mở cửa, người di tản trên đường càng lúc càng nhiều. Quân lái xe jeep ra một góc đường quang cách xa chừng vài trăm mét, bỏ xe lại đó và chạy bộ về nhà.
Trên đường bỗng có nhiều xe máy chạy ngược lên hướng trên, người trên xe toàn là thanh niên ăn mặc thường dân, có người còn mặc quần đùi, kẻ mặc áo may-ô, một lúc lại thấy họ chạy trở về, trên xe có mấy bao gạo và nhiều bao đồ đạc, nghe nói họ lấy ở các cửa hàng tạp hóa không có chủ. Một vài xe jeep nhà binh chở thanh niên mặc civil, tay người nào cũng bồng súng trường súng lục chĩa mũi lên trời. Hỏi ra thì biết họ là những quân nhân đang tháo chạy vì có nguồn tin Cam Ranh đang tiếp tục bị đánh chiếm. Nghe vậy, không ai còn kịp suy nghĩ, cả nhà vội ăn lót lòng rồi lên xe chở nhau lên đường. Vợ chồng Quân và mấy người con chạy đến chỗ để xe jeep, lên xe phóng nhanh. Vợ chồng Hòa cũng lên xe vội ra đường.
Ra khỏi thị xã vài cây số, thấy nhà cửa hai bên đường đóng kín. Thỉnh thoảng có một vài xác chết đắp chiếu nằm bên lề đường, quang cảnh thật khủng khiếp lạnh người. Đi thêm một quãng nữa thì những xe phía trước bị chặn lại.
- Bị cướp rồi.
Hòa kêu nhỏ và nhìn phía trước thấy bọn cướp đang dùng súng uy hiếp, lục lạo trên những chiếc xe bị chặn.
Hoà phanh xe lại quan sát tình hình. Nhung sợ khiếp ẳm con sát vào lòng chờ Hòa quyết định. Bỗng anh quay xe lui khi thấy bọn cướp cho những chiếc xe kia chạy đi, sợ nếu đi tới sẽ bị chặn khi chúng đang rãnh tay, nhưng đằng sau lại có hai chiếc xe hơi nhà và mấy xe máy khác đang nhanh đà vượt lên rồi bất ngờ bị nhiều mũi súng chặn lại. Một xe hơi và hai chiếc xe máy đang bị lục soát, số kia chạy thoát. Thừa cơ, Hòa quay xe lại, phóng qua đám cướp cùng với đoàn xe đang từ phía sau tiến lên. Chưa kịp mừng thì Hòa thắng gấp xe. một mũi súng lục ngăn bánh xe trước. Tên cướp mặc đồ lính còn rất trẻ, khoảng trên dưới hai mươi, mặt đỏ gay bị mấy vết sướt đang rướm máu, giọng lè nhè :
- Có gì tự động đưa ra không tao bắn.
Thấy bộ dạng của nó khó thuyết phục, hình như vừa mới đụng độ cướp giựt của ai rồi, Nhung vội mở banh miệng cái xách ra, giọng mất bình tĩnh:
- Anh cứ mở ra xem, toàn là quần áo với mấy đồ dùng em bé chứ không có gì hết. Tôi có ít tiền đi đường đây.
- Không biết - tên cướp lắc đầu - Vàng đâu, không đưa tao lục có tao bắn.
Bé Bi thấy thái độ hung hãn của tên cướp sợ qúa khóc to lên. Nhung vội lấy hộp phấn mở ra, đưa khâu vàng cho tên cướp, năn nỉ :
- Tôi chỉ có chừng đó, nếu anh lục mà có thêm thì tôi chịu. Anh cho cháu đi.
Tên cướp cầm lấy khâu vàng, mắt liếc quanh người Nhung một lượt rồi nhìn sang em bé đang khóc, buột miệng:
- Thôi cho đi.
Hòa hú hồn cho xe nổ gấp, nhưng phía trước lại còn một đám cướp khác đang chui đầu vào chiếc xe hơi lục lọi, anh liều mạng phóng qua luôn. Đi thêm một quãng khá dài qua hết khu thị xã, không thấy gì thêm nhưng vẫn chưa hết hãi hùng.
Lại phải đối đầu với nguồn tin khác trên đường, nếu đi vào Sài Gòn thì phải qua Rừng Lá, nơi đó đang giao tranh quyết liệt, bom đạn nổ sát đường không thể liều mạng qua được. Nhưng nếu quay trở lại thì không xong, do đó Hòa cứ cho xe chạy liều tới trước cùng một số xe khác đang quầng lui quầng tới tiến thối lưỡng nan. Thêm được vài cây số thì gặp một chiếc xe GMC chở đầy người đang lừng khừng đứng giữa đường vắng, lưỡng lự không biết nên đi tiếp hay quay lại, cũng vì nguồn tin Rừng Lá đang đánh nhau. Có người trên xe ý kiến rằng nếu sợ qua Rừng Lá thì xe cứ vào tới Phan Thiết rồi hãy tính, trong đó có ghe thuyền nhiều, có thể tiếp tục vào Sài Gòn bằng tàu thủy.
Hoà tới trước đầu xe trao đổi một lúc với người tài xế, xong đưa cho ông ấy một số tiền rồi quay lại đưa hai mẹ con Nhung lên sau xe. Nhung hỏi Hoà sao không đưa xe lên luôn? Hoà nói xe quá chật, không thể nào chen chân người huống gì là xe.Vì thấy có em bé tội nghiệp nên ông tài xế nói với bà con nhín cho một chỗ trên đống đồ đạc ngổn ngang. Hai cái xách đưa lên sàng xe làm chỗ lót ngồi. May mà trời không nắng gay gắt nên mọi người đỡ vất vả.
Hoà bịn rịn nói với Nhung :
- Anh sẽ chạy xe theo phía sau.
- Liệu có chạy theo kịp không? – Nhung lo lắng.
- Không sao, xe chạy tốt lắm, em cứ lo cho con.
Lời nói vội vàng đó gần như lời tạm biệt đầy lo ngại, trong cảnh chạy đua sắp tới khó mà biết được mọi sự sẽ diễn ra như thế nào khi chồng một nơi vợ con một nẻo. Nhung rưng rưng nước mắt khi xe GMC nổ máy. Cô thấy Hòa đạp vội cho xe nổ máy ngay và bám sát phía sau xe lớn. Có những đoạn đường bị ổ gà, hoặc khi xe GMC chạy nhanh quá Hoà không đuổi kịp, hai xe cách nhau một khoảng hút tầm mắt, khuất sau đám bụi mù. Những lúc ấy cảm giác sợ hãi xâm chiếm lấy Nhung, những người trên xe cũng đang hồi hộp dõi theo anh. Chắc anh cũng biết khôn khéo giữ vững tay lái né tránh, chỉ cần một trục trặc nhỏ từ phía Hòa thì chỉ có trời mới biết được mọi sự sẽ như thế nào. Thật là một tốc độ chết người. Nhung chỉ biết ngồi yên cầu nguyện.
Quãng đường khó khăn rồi cũng vượt qua, xe dừng lại nghỉ ở trại thuốc lá Vĩnh Hảo. Trại bỏ không chẳng còn một ai. Mọi người trên xe xuống hết, người đi vệ sinh, người tìm giếng nước rửa ráy, xong tất cả dỡ thức ăn ra ăn vội vàng.
Vợ chồng Hòa ăn mì với thịt hộp, may mà em bé chịu ăn mấy miếng. Hoà rất yên bụng khi đang ở cạnh vợ con. Nhung hỏi anh có thấy mệt lắm không? Anh trả lời vẫn bình thường.
Nhung thắc mắc :
- Anh coi xe còn đi nổi tới Phan Thiết ?
- Không sao, xe đi rất ngon, vừa mới đổ thêm xăng. May nó không lấy bình xăng với không lục túi anh.
- Vào Phan Thiết rồi làm sao đi tiếp?
- Nghe người ta nói Phan Thiết sẽ có ghe đi Sài Gòn, để tới đó rồi tính. Nhiều người chứ đâu phải một mình mình, em đừng lo.
- Chắc là phải đi ghe chứ còn tính toán gì nữa. Đường bộ sẽ bị cướp, không dám đi xe nữa, sợ quá rồi. Hoà biểu đồng tình :
- Đúng rồi, đường bộ cũng rất nguy hiểm, kiểu như hồi sáng đã thấy ớn lạnh, nhưng hình như chỉ đoạn đường đó thôi, qua khỏi Cam Ranh không thấy gì. Mà sao em gan dữ vậy - dám cam đoan với nó.
Nhung kể lại :
- Tại thằng đó nó say em mới chịu mất chỉ vàng vì sợ nó bắn ẩu, chứ nếu nó không say thì hy vọng năn nỉ được, cùng lắm thì chỉ có nước liều thôi.
Hoà còn thắc mắc :
- Em nói vậy chứ may mà nó không lục, anh hồi hộp quá trời, lính mà cũng ăn cướp, thấy mấy thằng chứ không phải một.
- Em đã khâu lận trong áo quần, có lục nó cũng không tài nào tìm thấy mới dám nói liều, chỉ sợ nó lấy luôn cái xách mới thua, nhưng không lẻ nó bắn thật.
- Chớ không à, mấy cái xác phủ chiếu bên đường là do cướp nó bắn chứ ai.
Ăn uống vừa xong, tài xế vội vàng lên xe, mọi người vội lên theo. Nhung định nói với Hoà tìm cách đưa xe lên, nhưng thấy xe chật quá không chen chân lọt nên lại thôi. Cuộc hành trình tiếp tục theo cách cũ, cũng hồi hộp không khác gì cảnh xe đua trong phim ảnh.
Đoạn đường trường tiếp nối có vẻ yên hơn trước, xe chạy nhanh nhưng không quá khẩn cấp, chỉ mong mau cho đến Phan Thiết. Gần ba giờ chiều, xe sắp vào thành phố nhưng phải ngưng lại hỏi người qua đường vì thấy phía trước một cột khói bốc cao lên trời, tất cả hoang mang không hiểu điều gì. Một người đàn ông nhìn lên xe trả lời thật lớn:
- Coi chừng cướp.
- Cướp đâu? – Người lái xe hỏi.
- Bên đường không thấy sao? nhưng mà yên rồi, tụi nó vừa mới rút đi.
Mọi người nhẹ nhõm. Nhung thấy Hoà đang hỏi thăm mấy người qua đường ở dưới. Tài xế cua xe qua đường Đồng Khánh, hai căn phố kề nhau đang cháy dỡ, lửa ngọn đã tắt nhưng khói đen còn bốc cao ngùn ngụt. Hai căn phố này là nguyên nhân của cột khói lúc nãy, hai cửa hàng bị cướp và bị đốt. Xe đổ gần một cây xăng, tất cả leo xuống. Hoà cảm ơn người tài xế rồi đỡ hai mẹ con Nhung xuống xe. Thấy nhiều người vào quán, Hòa đưa vợ con vào một quán nước ngồi nghỉ. Bé Bi mệt phờ nhưng không khóc lóc gì, có lẽ bé đã hiểu có điều gì đáng sợ đang diễn ra chung quanh. Hoà gọi nước ngọt, xong kéo ghế ngồi gần vợ, ôm con vào lòng như lâu ngày mới gặp nhau, xong ôm qua vai Nhung hỏi han:
- Em mệt lắm không?
- Mệt lắm - Cô nói không ra hơi.
- Nếu còn ráng được thì nên đi tiếp vì sẽ có tàu thuỷ cho mình đi, lúc nãy anh có hỏi rồi, ghe nhiều lắm.
- Lúc trên xe cũng nghe người ta nói, họ sẽ đi tàu thuỷ ngay trong đêm nay, ta nên đi luôn cùng với họ.
- Em có ráng được không? Nếu trật chuyến tàu mà phải đi xe thì chắc chắn rất khó khăn.
Nhung nhìn chồng, ánh mắt đầy thương cảm, khi ngồi trên xe cô cũng cảm giác như thế, khi nhìn Hòa một mình chạy băng băng phía dưới, chỉ một khoảng cách nhỏ nhưng biết bao là cách trở tai ương mà anh vẫn cố chạy theo kịp mẹ con cô.
Hoà uống hết phần nước ngọt còn lại rồi giục:
- Bây giờ ta ra bến tàu, nếu gặp chuyến thì đi luôn.
Cảnh bến tàu không ngờ lại đông ngoài sức tưởng tượng. Hoà đưa mắt nhìn xuống bến, ghe tàu đậu san sát có đến vài chục chiếc, ghe nào cũng đông kín người. Trên những tấm ván dài bắt làm cầu, hành khách lách né nhau chạy lên chạy xuống, chen chúc với những người bốc vác, tiếng gọi nhau ơi ới.
Mới nhìn, Hoà chẳng biết ghe nào còn chỗ, tìm cho ra chủ ghe là một điều rất khó. Anh cứ đứng nhìn dáo dác mãi. Nhung phải giục :
- Để xe em trông, anh đi hỏi thử.
Hoà nhập vào đám đông, khoảng mười lăm phút sau anh trở lại và cho Nhung biết tin vui, là tàu sẽ nhổ neo liên tục nhiều chuyến. Nội trong đêm nay, tất cả ghe tàu đều rời bến hết, tàu nào đầy khách thì đi trước. Chuyến tàu mình đi sẽ rời bến vào lúc sáu giờ chiều.
Hoà đưa ý kiến :
- Vậy là mình không cần gấp, còn nhiều thời gian, ta đi kiếm gì ăn trước khi lên ghe.

Gần năm giờ rưỡi, hai người lên ghe nhưng không ngờ ghe đã có rất nhiều người lên trước, nhiều người đang ăn uống, nhiều người đã ngủ, tất cả ngồi nằm đến gần hết chỗ. May mà có mua vé, nếu không cũng gay go khi phải kiếm cho ra một chỗ để ngồi. Mặt mày Bé Bi hơi có thần sắc. Hoà ẳm con trên vai, vỗ lưng cho con ngủ. Bé còn phải chịu mệt hơn mười mấy tiếng nữa cho đến sáng mai. Hoà nhìn sang Nhung, cô đã nằm nhừ trên sàn tàu, đầu kê trên xách áo quần.
Trời nhá nhem tối thì tàu nhổ neo. Tuy mệt nhọc nhưng tất cả đều nhẹ nhàng khi nghe tiếng máy nổ của con tàu sắp rời bến. Hai chiếc khác cũng tách bến theo sau nên không gian biển trở nên vui vẻ, mọi người yên tâm tin tưởng vào chuyến đồng hành xuôi về nam.
Biết tàu đã rời bến, Nhung muốn ngồi dậy nhìn quanh một lượt nhưng không dậy nổi, mở mắt lại thấy chóng mặt. Cô nhắm nghiền mắt cho đến khi ngủ quên trong cơn mệt mỏi. Không biết bao lâu, Nhung nghe cảm giác đầu mình được nâng nhẹ lên, cái xách kê đầu dược kéo ra và đầu cô được đặt lên một chỗ êm ái hơn. Nhung mở mắt ra, thấy Hoà ngồi cạnh, tay ôm con vào lòng, đầu cô đang kê lên chân anh. Cô dần dần khoẻ lại, cũng nhờ không khí trong lành và gió biển thoáng mát.
Bé Bi đã ngủ say. Nhung yên tâm vì Hoà đã quấn kín mình con bằng một chiếc khăn lông lớn, và cô bắt đầu làm quen với tiếng nổ đều đều, với nhịp điệu lắc lư của con tàu. Thấy Hòa có vẻ mệt mỏi, Nhung ngồi lên đỡ lấy con:
- Em thấy khỏe rồi, để em bồng con, anh nằm nghỉ một lát.
Trao con cho Nhung xong, Hòa đặt lưng xuống sàn tàu, nhắm mắt. Nhung muốn nhìn tường tận cảnh lênh đênh trên biển đêm mà không bao giờ nghĩ sẽ có lần thấy lại. Con thuyền nhỏ chơi vơi giữa màn đêm bất tận, trời nước bao la, cảm nhận như chạm được bí mật của vũ trụ ngàn khơi, ở đó như vọng lên tiếng nói đầy thách đố của hiện hữu mong manh. Con đây, chồng đó, trong nghịch cảnh thế này, con tàu này có thể trôi êm tùy bao dung của biển cả, thuận lòng cho một cuộc tháo chạy tử sinh. Bầu trời bắt đầu chớp ánh sao đêm. Sóng dưới mạng tàu vỗ nhẹ, cho mọi người cảm giác một niềm tin an lành, đi được là rất mừng mặc dù chưa biết sẽ đến nơi nào.
Dãy núi xa mờ in đậm một phía cùng ánh sáng ngọn hải đăng cho biết tàu chạy gần bờ, để thấy yên tâm không tưởng như đang bấp bênh giữa biển khơi. Mới biết quyền sống trên đất lâu nay tưởng là bất biến, bây giờ trở nên xa vời như không chỗ tựa. Xa xa cuối tầm mắt, di chuyển một vài chấm sáng nhỏ, có lẽ là những con tàu nhổ neo đi trước.
Nhung bắt đầu nghĩ tới mẹ của Hòa, không biết bây giờ ra sao, và cả mẹ và các em cô ở Huế không biết đang ở đâu, mẹ cô rất nhát gan. Trải qua trận Mậu thân kinh hoàng, trận mùa hè đỏ lửa Quảng Trị, ba mẹ sợ súng đạn đã dẫn cả đàn con vô Đà Nẳng ở cả tháng trời, hao tốn bao nhiêu tiền của. Lần này chắc bà sẽ chạy tới trời, không biết có chạy vô tới Sài Gòn không, và chạy bằng cách nào. Hy vọng gặp lại cha mẹ, gia đình thật là điều mong manh, băn khoăn trong ý nghĩ đó, Nhung mỏi mệt ôm con đặt lưng bên Hòa. Mọi người trên tàu hầu như đã ngủ hết, chỉ nghe vài tiếng thì thầm nho nhỏ.
Nhiều người thức giấc trước khi trời rạng sáng, họ ngồi thành từng nhóm nhìn quanh biển. Dần dần cảnh biển rực rỡ buổi sớm mai đã thức tĩnh tất cả, phút chốc hầu như ai cũng tạm quên những nguy nan trước mắt để hưởng phút giây thỏa mái giữa cảnh đẹp thiên nhiên biển trời. Nhiều người thích thú đứng lên nhìn mặt trời mọc trong ánh hồng ấm áp ban mai, thật là một buổi bình minh tuyệt vời trên biển.
Tuy không phải là chuyến tàu du lịch nhưng ai cũng có cảm giác thông thoáng sau một đêm ngủ giữa trời nước mênh mông. Theo tay chỉ của Hòa, Nhung thấy một khối tròn sáng rực trồi dần lên từ đường chân trời, mặt trời đang lên. Ánh dương tỏa sáng khắp cùng như mở ra một ngày mới đầy sức sống, tất cả như vừa được hồi sinh.
Hai người say sưa ngắm mặt trời lên, sóng nhấp nhô lóng lánh đón chào.
Nhìn sang trái, xa xa là những dãy núi đồi nối liền dải đất liền thoai thoải gần bờ.
Nhung nói với Hòa:
- Cả đêm tưởng tàu lênh đênh giữa biển, hóa ra tàu chạy gần bờ.
- Chỉ có em mới tưởng vậy. Ai mà dại cho tàu ra giữa biển. Dải đất liền bây giờ như miền đất hứa đó em.
Nhung tán đồng:
- Biển đẹp quá. Chắc sẽ không bao giờ thấy lại lần nữa.
- Đúng vậy. “Không thể tắm hai lần trên một dòng sông”.
Dòng sông của tâm tưởng. Một cảm giác lãng du trong bối cảnh lưu dân chẳng thể nào quên.
CHƯƠNG XIX
Tàu cập bến Vũng Tàu khoảng bảy giờ sáng. Người trên bến đứng sẵn chật ních từ hồi nào, là người từ những chuyến tàu cập bến trước đó. Đa số dân di tản từ các tỉnh miền Trung và Tây nguyên, họ đi trên những chuyến tàu hàng lớn và những xà lang của Mỹ hoặc của hải quân Việt Nam. Nhiều người ở tỉnh xa, lênh đênh mấy ngày nay, đói và lạnh nên chết khá nhiều, còn bị cướp bắn chết rồi đôi xuống biển. Có xà lang gần như toàn xác chết, không ai còn dám xuống tìm kiếm người thân dù chỉ tìm trong may rủi.
Các ghe nhỏ mới di tản hôm qua từ Phan Thiết thì tương đối bình yên, khi đến Vũng Tàu là họ lên bờ đi ngay. Giữa cảnh hỗn loạn, không rõ số phận của số người chết trên xà lang sẽ như thế nào. Nhung bồn chồn nghi nghi ngờ ngờ, không biết trên những tàu lớn nhỏ đó có gia đình mình không. Mẹ cô rất nhát bom đạn, chắc chắn không bao giờ chịu ở yên một chỗ, nhất là trong cơn đại loạn này, nhưng lực bất tòng tâm, vợ chồng cô chỉ ở lại bến chừng một lúc để hỏi thăm tin tức trong vô vọng giữa rừng người xa lạ, và không còn thì giờ để chần chờ, vội vàng rời khỏi Vũng Tàu.
Không thể tưởng được cảnh thành phố Sài Gòn lại vắng vẻ tiêu điều đến thế. Nhà cửa hai bên đóng kín. Đầu cầu, xác một chiếc trực thăng cháy sém nằm trước một ngôi nhà cửa nẻo tan hoang, những dãy phố tường vách đầy vết đạn. Như vậy là Sài Gòn cũng đã lâm trận, sẽ có đánh lớn tại trung tâm thành phố nay mai, không chừng Dinh Độc Lập sẽ bị bỏ bom, nhiều người đi đường bàn tán như vậy. Càng đi càng thấy đường phố hoang vắng đến lạnh mình, có lẽ tất cả đã tản mác về vùng ngoại ô để tránh giao tranh. Nhung mở địa chỉ nhà cậu Hưng ở khu Trung Chánh và Hòa thẳng xe về hướng đó sau khi tìm đổ thêm xăng.
Càng đi càng thấy đường về ngoại thành có vẻ yên ổn hơn. Dân địa phương biết tình hình căng thẳng nhưng vẫn ở yên vì không biết phải chạy hướng nào.
Cậu Hưng dạy lái xe trong trường Quân vận, bị cấm trại cả tháng nay, mợ có vẻ trông ngóng nhưng theo tin đồn thì tình hình chiến sự còn rất căng thẳng.Tổng Thống Thiệu bỏ rơi Huế, tiếp tục Đà Nẳng bị chiếm đóng, quân lực miền Nam không đủ sức chống cự, cả quân số và vũ khí, là điều thuận lợi quá sức để mở đường cho quân Giải phóng dễ tràn vô Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết. Quân đội Cộng Hòa liên tục thất trận, binh lính dần tan rã, lớp bỏ súng chạy thoát thân, lớp tự sát, lớp bị bắt. Bộ đội vào chiếm đóng nhưng không giao tranh tại thành phố như mọi người lo sợ. Chỉ còn Sài Gòn là yếu điểm cuối cùng, hai bên sẽ có trận đánh lớn và ai cũng nghĩ quân Giải phóng sẽ thắng.
Ở lại nhà cậu Hưng hơn nửa tháng khá yên ổn. Trong thời gian này, lại có thông báo của Bộ Giáo dục Sài Gòn sẽ cho tất cả giáo viên đang tị nạn được lãnh lương vào ngày 1/5. Vợ chồng Hòa yên trí phần nào về thông tin này và chờ đến ngày 1 sắp tới. Với lại đời sống vùng ngoại ô này khá dễ chịu, gạo cơm lúa mới, cá đồng tươi ngon. Ban ngày, cảnh đồng quê với những con đường làng xanh ngát mát rượi, chưa có dấu bom đạn. Mỗi sáng sớm chuông nhà thờ Trung Chánh rung vang đánh thức con chiên đi lễ. Nếu chiến tranh chấm dứt thì người thôn quê ở đây sẽ sống trong cảnh thanh bình no ấm.
Đến ngày 21/4, Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương bảy mươi bốn tuổi, thề tử thủ Sài Gòn, trong lúc trên ba triệu dân thủ đô đang nơm nớp chưa biết giờ nào sẽ bị oanh tạc và pháo kích từ hai phía. Dân chúng miền Nam ngày càng mất tin tưởng khi biết hàng ngàn lính và nhân viên cao cấp của Mỹ, với các tướng lãnh Việt Nam lên máy bay ra khỏi nước.
Mỹ đã bỏ biết bao tiền của, xương máu cố thủ miền Nam Việt Nam, hầu ngăn chặn làn sóng đỏ sẽ bành trướng vào các nước Châu Âu, nên đã đưa cả trăm ngàn lính Mỹ sang tham chiến với vô số vũ khí hiện đại, nhưng hàng trăm cuộc hành quân Mỹ Ngụy đều thất bại vì Quan chức các ngành trong chính phủ và lực lượng lãnh đạo quân đội quá sơ hở, lỏng lẽo chủ quan để đặc công miền Bắc mặc sức cài vô số cán bộ tình báo nằm vùng len lỏi hoạt động tận sào huyệt guồng máy quốc gia, thậm chí còn giữ những chức vụ trong yếu trong Quốc hội, ngay trong Dinh Độc lập, tướng tá chỉ huy trong quân đội Việt Nam cũng là điệp báo Cách mạng, giựt dây, đảo lộn mọi kế hoạch quân sự, ngăn cản các cuộc tiếp quân và khí giới của Cộng Hòa, tạo điều kiện cho quân Giải phóng và vũ khí tràn vào bất tận, kéo Mỹ lún sâu vào vũng lầy chiến tranh, để cho quân dân Việt Nam chìm ngập triền miên trong cảnh chết chóc đạn bom không lối thoát.
Và những ngày tiếp theo cho một Sài Gòn hấp hối cũng nằm trong kế hoạch đã vạch sắn giữa ba bên. Sài Gòn đang bị siết chặt, hàng vạn dân đều nghĩ thành phố này sẽ thất thủ thảm bại, khắp thế giới đang hồi hộp chờ đợi từng giờ từng phút. Trong nước, hàng triệu con tim từ Nam chí Bắc đang hướng về Sài Gòn chờ giờ điểm, bằng một giải pháp nào đó để Sài Gòn không thành bình địa, cứu sống dân lành vô tội theo như suy đoán của dư luận, lo ngại nước đã đến chân.
Sau trận chiến thắng Củ Chi, quân Bắc Việt tiếp tục kiểm soát Hốc Môn, lính Mỹ và lính Cộng Hòa thất trận liên tục tháo chạy, gần như hoàn toàn tan rã. Sáng ngày 28/4/75 từ phía Tây Ninh, quân Bắc Việt từ Hốc Môn tiến về Sài Gòn, pháo binh di chuyển trên trục lộ chính dài dặc, cùng với chiến xa, Molotova chở đầy súng ống đạn dược, bộ đội hiên ngang tiến chậm trên đường từng bước như vào nơi không người, vừa bắn pháo lên phía trên vào các Trung tâm Huấn luyện, các đồn trại hai bên đường dẫn lên thủ đô.
Tiến quân gần cửa ngõ Sài Gòn là nắm chắc phần thắng trong tay, toàn binh đội miền Bắc đã biết Chỉ huy quân đội và Quan chức của chính phủ Việt Nam đã bất lực trước hỏa lực và lực lượng hùng hậu của đoàn chiến binh bộ đội thừa thắng xông lên với ý chí quyết thắng.
Lúc sau thấy cậu Hưng về từ ngã ruộng sau lưng nhà, không còn mặc quân phục, trên người chỉ mặc chiếc áo vải trắng và quần đùi, chân đi đôi dép nhựa. Cậu nói trong đồn mọi người đã chạy hết không còn ai.
Dân trong vùng đang do dự vì sợ ở giữa hai lằn đạn trên đường tiến quân của bộ đội. Cuối cùng nghĩ ra cách phải chạy về Hốc Môn mặc dù quân Giải phóng đang tràn lên từ hướng đó, dân đành phải di tản một bên lề đường, trên đường toàn là bộ đội đang di chuyển.
Bà con bàn tính một lúc rồi quyết định băng ruộng, gia đình cậu Hưng và vợ chồng Hòa cũng đi theo ngõ ruộng, ruộng sát đường cái, may là vừa gặt xong, mọi người chạy tắt trên đồng. Ngoài đường cái bộ đội hoàn toàn làm chủ, tiếp tục tiến dần lên phía trên. Dân làng đang di tản lo sợ sẽ bị pháo từ phía trên xuống và máy bay bỏ bom, ai cũng nghĩ chắc chắn sẽ có chuyện đó, phải đành chịu trận vì giữa giữa ruộng đồng đâu có cây cối gì để núp, gọi là để che con mắt. Hòa ôm chặt Bé Bi trên tay, luôn vỗ về cho bé khỏi khóc.
Di chuyển ven ruộng gần nửa tiếng đồng hồ vẫn không nghe thấy gì, ai cũng nghĩ Sài Gòn đã thua trận tan rã không còn người chiến đấu, nên không nghe thấy bom đạn bắn trả. Trên trời, trực thăng và máy bay Dakota quầng đảo ở một độ cao ngoài tầm, bộ đội bắn tên lửa lên nhưng mũi đạn không chạm tới máy bay, chớp chớp vài giây rồi những tia lửa rơi xuống lả tả, hết đợt này đến đợt khác.
Tuy đang đứng giữa trận địa nhưng mục kích cảnh nầy cũng thích mắt, hấp dẫn và ngoạn mục như đang xem đoạn đánh nhau trong phim chiến tranh. Có điều là hai bên không chạm súng, máy bay Dakota chỉ mục đích dò thám rồi bay đi.
Lâu lâu lại nghe pháo từ trong các lô cốt phía trên bắn ra, đạn nổ giữa đường tiến quân của bộ đội. Có thể những cứ điểm này chưa được lệnh buông súng, còn tử thủ đơn độc quanh thành phố. Vài chiến sĩ bộ đội chết và một số bị thương, các đồng đội đào mấy huyệt bên đường và chôn ngay những quân binh xấu số. Đoàn xe tăng, chiến xa Cộng quân vẫn từ từ tiến lên không nao núng, bắn pháo liên tục lên phía trên, bộ đội đi bộ cầm súng chĩa thẳng về phía trước trực chiến.
Không lâu thì bắt đầu nghe tiếng phản lực cơ từ trời nam rẽ những đường bay xé gió và quầng đảo kinh khiếp trên không. Dân di tản còn giữa ruộng tuyệt vọng vì biết thế nào bom cũng sẽ nổ trên đầu mình, bởi dân di tản và bộ đội đang ở cùng chung một trận tuyến. Nhìn quanh chỉ là cây cỏ bụi bờ lấp thấp, chỉ còn việc chạy cho nhanh giữa đồng không và tin tưởng vào ơn phước rủi may.
Khi máy bay tiến đến gần, ai cũng mất tinh thần mặt mày nhợt nhạt, bắt chước nhau chạy đến núp sau những tấm bia ở những ngôi mả gần nhất. Thật là che mắt chứ không phải che người. Khi không lại chạy vào con đường tuyệt mạng, nhưng B.52 chỉ lướt ngang đầu mà không thả quả bom nào, vài phút sau lại nghe nổ ầm ầm ở một nơi xa hơn. Có thể họ không có lệnh bỏ bom nơi đây hoặc từ trên máy bay họ thấy dân chúng người già em bé di tản rất đông trên ruộng nên mang bom thả vào núi, tránh cảnh đổ máu cho dân lành.
Quân Giải phóng siết chặt vòng vây, tiến dần vào cửa ngõ thủ đô. Trước thế cùng, Trần Văn Hương chọn người kế vị là Đại tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống gần cuối ngày 28/4/75, Lãnh tụ của Thành phần thứ ba, chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc, tuyên bố ủng hộ Cách mạng để hạn chế sinh mạng và tài sản cho dân Sài Gòn.

Tất cả dân cả nước đều bám sát radio để theo dõi diễn biến từng giờ từng phút. Đến ngày 29/4 quân Giải phóng đã tiến sát nội thành, hoàn toàn làm chủ và tuyên bố sẽ tấn công tối hậu vào Sài Gòn vào nửa đêm. Dân thành phố chen lấn nhau di tản trên các bến tàu và phi trường trước những đợt pháo kích kịch liệt từ các phía, chết trên bến tàu và trên sân bay rất nhiều.
Cuộc di tản có chủ ý nhân đạo nên dù chết dù sống, dân chúng đều dồn về các bến tàu và phi trường có tàu lớn thủy quân và máy bay C.130 đợi sẵn. Những chiếc máy bay quân sự và trực thăng lên xuống liên tục di tản gia đình người Mỹ, hàng trăm ký giả báo chí Châu Âu và những gia đình người Việt Nam làm sở Mỹ. Dân thường cũng tràn vào, chen chúc lấn ép nhau lên theo bất kể sống chết. Gần tản sáng, chuyến máy bay di tản các nhân viên sau cùng của Mỹ cùng một số người Việt rời khỏi Tòa Đại sứ dưới những tràng đại liên của quân Cộng xé rách bầu trời.
Lính dù và Thủy quân lục chiến bị đánh bại ở mặt trận Xuân Lộc chưa có lệnh buông súng, được lệnh tập trung về lập vòng đai quanh Sài Gòn chiến đấu bảo vệ thủ đô. Gần trưa 30/4, bộ đội tiến sát bao vây tứ phía. Các mũi tiến công của quân Giải phóng chĩa thẳng vào trung tâm thành phố bắt đầu trận công kích đại qui mô quyết định số phận Sài Gòn. Tin thất trận lan ra tới tấp, binh sĩ Cộng hòa có lệnh buông súng rút quân, tan rã hoảng loạn.
Nhiều người đặt giả thuyết, nếu Mỹ ra tay thả bom để cứu vãng thủ đô thì thành phố Sài Gòn sẽ thành biển máu. Lòng dân vô cùng hoang mang khiếp hãi không biết tính toán của các nhà Lãnh đạo quân sự và Giới chức chính phủ thế nào. Thôi thì Sài Gòn mất hay còn cũng không quan trọng bằng mối hiểm nguy của sinh mạng muôn dân. Cầu trời cho ngưng ngay tiếng súng dù phải chấp nhận giải pháp nào. Đó cũng là điều mong ước của hàng triệu trái tim Việt Nam đang khắc khoải nghe ngóng chờ đợi.
Gần trưa 30/4 chính quyền Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, quân Giải phóng làm chủ Dinh Độc lập, xuất hiện với những chiến sĩ vinh dự thắng trận, giải phóng ách thống trị o ép kềm kẹp mấy mươi năm của Mỹ Ngụy. Cuối cùng, thủ đô không tang hoang như mọi người dự đoán, có lẽ cũng là kết quả đầy mong muốn của giới cao cấp hai phía, cũng như ý nguyện toàn dân. Cuộc chiến tranh tương tàn hơn hai mươi năm thực sự chấm dứt từ giờ phút này. Phải lắng hết can đảm để tin đó là sự thật, để tin đất nước từ nay sẽ không còn bom đạn máu đổ thịt rơi, không còn chết chóc tang thương. Bắc Nam một nhà.
Sáng mùng 1/5, dân chúng khắp thủ đô đều đổ ra đường, biểu ngữ và cờ giải phóng tung rợp trời. Những chuyến xe hàng, xe lam chật ních từ các vùng ngoại ô thẳng hướng về thành phố. Đa số tò mò muốn lên Sài Gòn để biết bộ mặt thành phố như thế nào khi vừa được giải phóng, một số đi tìm người thân và muốn biểu dương tinh thần Cách mạng . Đó là lý do khiến tất cả các con đường Sài thành người xe chen chân không lọt. Đàn bà, trẻ con trong lòng xe, đàn ông, thanh niên ngồi trên mui và đu quanh xe, tay cầm cờ Giải phóng hoan hô vang dậy, cũng là do sự phát động quần chúng của quân Giải phóng. Tất cả đều một lòng chào mừng chiến thắng, chào mừng Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, chào mừng ngày hòa bình thống nhất đất nước.
Ở các vùng lân cận, tất cả đều dồn ra mặt đường, lân la nói chuyện với bộ đội trấn giữ hai bên đường, họ nói chuyện thân mật vui vẻ với dân, toàn là nói tiếng Bắc, nhận thuốc lá của các chú các bác đưa hút. Trước buổi giao thời, dân khắp nới đang lắng nghe tin tức từ người xuôi kẻ ngược, bụng dạ xao động ngổn ngang.
Hôm sau vợ chồng Hòa lên thành phố, đường sá đông người, hầu như ai cũng hối hả, họ đang trên đường hồi cư. Hòa tìm đến Trung tâm tị nạn Giáo dục ở số 4 đường Duy Tân để biết tin tức. Rất nhiều người đã đến trước rồi, nhưng chưa có tin tức gì chính xác dành cho giáo viên từ các nơi di tản đến, tiền lương Bộ Giáo dục Sài Gòn hẹn trả đã đi luôn theo ngày ba mươi tháng tư rồi, không ai có được đồng nào.
Vài ngày tiếp, chính quyền Cách mạng thông báo lưu dung tất cả các giáo viên trước giải phóng, cũng là may mắn lắm rồi. Những giáo viên di tản có thể về nhiệm sở cũ hoặc ở lại miền Nam công tác tùy ý. Hòa và Nhung quyết định về Nha Trang.
CHƯƠNG XX
Về đến nhà, Hoà rất vui mừng khi thấy mẹ và em gái bình yên vô sự. Anh Khang và anh Hiếu đã trở về đông đủ sau khi quân ngũ tan rã. Mẹ hay lập đi lập lại với Hòa, khi kia đừng đi thì khoẻ hơn và hai vợ chồng Hòa đỡ mất gần bảy chục ngàn tiền lương tháng 5. Thành phố Nha Trang chỉ pháo kích vào phi trường và những cơ quan quân sự, nhà dân bị hư sập nhưng không nhiều, chỉ có kho đạn với các trạm xăng dầu là nổ mạnh trong vòng một hai ngày là quân Giải phóng tiếp thu. Ở nhà chẳng có việc gì xảy ra và công ăn việc làm ổn định bình thường gần cả tháng nay rồi. Hòa không nói đi nói lại lời nào, trong lòng chỉ nghĩ, vậy mà ở Sài Gòn mình lại rất lo lắng cho mẹ và em gái ngoài này.
Phần Nhung thì không phải thắc mắc gì vì thư nhà ở Huế nằm chờ sẵn hai lá. Được biết khi xảy ra biến cố, gia đình ba mẹ cô và các em chỉ chạy tới Đà Nẳng ở hơn nửa tháng tại nhà bà dì, rồi trở ra bình yên.Tuy cuộc tháo chạy của quân và dân Huế và các vùng phụ cận Quảng Trị, Quảng Điền, Phong Điền…hết sức khốn khổ và đẩm máu do bị pháo và bị ngăn chặn ở cửa biển Thuận An và trên Đèo Cả, do họ tưởng cứ chạy được vào Sài Gòn là yên.
Tất cả quân nhân công chức của chính quyền cũ bây giờ gọi là ngụy quân ngụy quyền. Mỗi người tự lường được tội lỗi của mình để khai báo, kiểm điểm tự thân và biết việc học tập sẽ lâu hoặc mau. Hai người anh của Hòa cũng đang chuẩn bị chia tay vợ con, đi cải tạo là phải đi và chưa biết lúc nào trở về. Đó cũng là qui luật sau mỗi cuộc chiến, từ trước đến nay.
Hôm sau, vợ chồng Hòa đi trình diện Bộ Giáo dục Nha Trang để nhận nhiệm sở. Nhiệm sở cũ ở thành phố không còn chỗ, hai người phải về dạy tại các huyện. Nhung đang có con nhỏ nên được dạy cách nhà chưa tới năm cây số. Hòa về làm Hiệu phó một trường gần mười cây số. Xe máy có cũng như không vì xăng đắt đỏ hiếm hoi và đồng lương quá hạn chế, chỉ 5 - 7 chục đồng, phần nhiều những người có xe máy đều để không, chỉ dùng xe đạp. Xe máy của Hòa để lâu bị chuột cắn đứt dây phanh dây thắng, rồi cũng đem bán đắt bán rẻ.
Bé Bi được gởi vào nhà trẻ đến chiều mới đón về. Gạo cơm có tiêu chuẩn, thịt cá rau quả cũng phải mua bằng tem phiếu, thậm chí muốn ăn ly chè cũng phải có phiếu, gạo cơm tháng nào cũng độn khoai khô hoặc sắn khô, có tháng độn bắp xay. Kỳ nào gặp được bắp nếp thì hầm thật dẻo, xáo một ít thịt tiêu chuẩn trộn vào, màu mè mắm muối thấm tháp ăn cũng ngon chứ không có cảm giác của món cháo heo. Ngẩm nghĩ kỹ thấy nồi cám heo không hẳn là khó ăn, chắc là cũng như vậy thôi. Khoai sắn độn cơm không quen thì nấu riêng ăn buổi lỡ cho đỡ tiền quà.
Có nhiều giáo viên nam hoàn cảnh gia đình khó khăn phải nghỉ dạy làm nhiều nghề chân tay kiếm sống như sửa xe, đạp cyclo hoặc ra chợ trời mua bán đồ cũ. Giáo viên nữ ngoài giờ dạy còn buôn bán thêm nhiều mặt hàng vặt vảnh như thuốc lá, bánh kẹo, đồ gia dụng như mắm muối, đậu mè. Có cô giáo nghỉ dạy đi buôn hàng chuyến Ban Mê Thuột, cà phê, khoai, sắn, bơ... Có lời được một thời gian, lại bị bắt sạch vốn vì buôn mặt hàng cà phê quốc cấm. Có mấy người bạn giáo viên ngoài Quảng Trị, Đông Hà thì đi buôn đường Lào, thuốc tây, thuốc lá, đồng hồ.
Ở trường, Hiệu trưởng toàn là người miền Bắc, theo sâu theo sát vừa chuyên môn vừa tư tưởng giáo viên lưu dung, việc dạy dỗ đòi hỏi rất nhiều công sức. Ngoài việc soạn giáo án và nhiều loại sổ sách báo cáo rườm rà, giáo viên phải lao động sản xuất trồng bắp trồng khoai nếu trường có đất rộng ở ngoại thành, hẳn nhiên là năng suất không đạt như nhà nông chuyên nghiệp. Mỗi giáo viên buột phải nuôi một con vật hay trồng một cây gì đó ở nhà gọi là có lao động sản xuất (một cây một con) để đạt thành tích và xếp loại trong mỗi lần tổng kết học kỳ.
Những buổi họp phê bình kiểm điểm căng thẳng đủ điều như tra như tấn mỗi tuần một lần, lê thê kéo dài, phần thì Hiệu trưởng phê bình, phần thì giáo viên phê bình nhau ưu khuyết điểm. Những lần phân chia hàng hóa thực phẩm theo tiêu chuẩn thi đua hoặc phân theo hoàn cảnh, hết sức chi li cũng đủ gây nên sự ganh tị chia rẽ giữa các đồng nghiệp. Những buổi xếp hàng chờ mua cá, mắm, gạo, thịt phải so tính chi tiêu từng đồng một cũng khó lòng đủ cho cả tháng, mất hết thì giờ.
Hòa không sống quen được với cảnh nầy, không muốn bị áp lực từ một ai. Từ thuở nhỏ anh đã trực tánh, không thích chìu lòn nịnh bợ. Bây giờ nghe bạn bè chỉ bày cách làm ăn mới, thấy nhiều người ra ngoài làm việc gì cũng kiếm được khá tiền, nhiều hơn tiền lương, lại thỏa mái hơn. Nhìn chung, buổi giao thời cũng có nhiều cách làm ăn kiếm tiền, do đó Hòa cố gắng được ba niên khóa thì xin nghỉ dạy, mặc dù chưa dứt khoát sẽ làm việc gì rõ ràng cụ thể.
Mẹ Hòa không ý kiến, còn kể, Ông ngoại của Hòa lúc trước là Quan Bố Chánh, đất làng quê gần Huế khá nhiều, có ruộng cò bay thẳng cánh, giàu có nhất làng. Mỗi lần đi thăm lúa là ông cưỡi ngựa hoặc đi thuyền. Trong nhà nuôi cả chục thợ cày, thợ gặt. Khi bà mới được sinh về, phải bọc trong tấm vải điều mới đưa lên cho ông coi mặt. Sau này ông làm Công chức ở Hội Quảng Tri tại thành phố Huế, gần cầu Gia Hội. Tính ông quan liêu nghiêm khắc lắm. Hòa càng lớn càng giống tính tình của ông ngoại, không chịu để ai đè đầu cỡi cổ, nói nặng nói nhẹ là anh không chịu.
Nhung biết Hòa nghỉ dạy nhưng sẽ không chịu làm những việc vặt vảnh tay chân như một số bạn đồng nghiệp đã nghỉ dạy như anh, và chính cô cũng không muốn anh làm việc gì ngồi ngoài góc đường góc phố. Anh theo một vài người bạn quen ra chợ trời tìm cách mua bán gì đó cô cũng không rõ, vì chợ trời là môi trường đang phát triển khắp các tỉnh thành miền Nam, mua đi bán lại toàn đồ cũ hoặc những đồ dùng từ nước ngoài gởi về cho người thân.
Hòa mượn tiền của Nhung làm vốn, lâu lâu cũng có ít lời, có khi đem tiền lời về cho vợ, có khi một hai tuần không thấy lời cũng chẳng thấy vốn. Lúc này về nhà hay xỉn, lè nhè những chuyện không đâu. Không biết nghe ai xúi giục mà trong ý nghĩ Hòa lại tin tưởng một chuyển biến tình hình chính trị chính quyền mới. Nhung nghe rất trái tai nhưng không ý kiến đôi co, anh sẽ cho rằng đó chỉ là suy nghĩ của đàn bà, mặc dù cô đã nghe dư luận phong phanh ít nhiều một số thành phần chống đối trong các tỉnh miền Nam, nhiều người đã bị bắt. Riêng cô hiểu đó là điều không tưởng.
Nhung đang giảng dạy ở trường, nhất cử nhất động đều bị theo dõi từng cử chỉ lời nói. Cho đến nhiều năm sau cô mới biết vì sao có nhiều giáo viên bị trù dập, do một giáo viên phụ trách Công đoàn nói lại. Những giáo viên có chồng đi học tập cải tạo bị cho nghỉ dạy, những người có thân nhân ngụy quân ngụy quyền đều bị theo dõi để đánh giá lập trường tư tưởng.
Được lưu dung cho dạy lại là nhà nước khoan hồng lắm rồi, mọi việc đều phải làm theo chỉ thị một chiều của nhà trường. Mỗi kỳ nghỉ hè là phải tập trung các trường học tập chính trị. Thét rồi mọi tư tưởng chính trị, giáo dục đều thuần thục nhuần nhuyễn không ai kém ai trong nhà trường.
Vừa hòa bình thống nhất vài năm, nghĩ đến một cuộc thay đổi lớn là cạn suy nếu không nói là do ý đồ của một số tổ chức phản động ngấm ngầm, rồi cũng phải nhờ bàn tay cường quốc khối Tự do kéo ra khỏi tù ngục.
Nhung thường nói với Hòa:
- Trước mắt là anh nên làm một việc gì đó cụ thể để có tiền lo cho gia đình vợ con. Xem người ta làm được gì thì bắt chước làm, cũng nhiều giáo viên nghỉ dạy họ vẫn làm có tiền mang về cho vợ con dư sống.
- Thì anh cũng đưa tiền chớ không à.
Nhung cười khan:
- Anh có đưa mỗi khi một ít lâu nay cộng lại được nửa số vốn mượn của em, xong là xúy xóa.
- Thôi em mua cho anh cái máy ảnh ra biển chụp hình.
- Không thể làm vậy, em không muốn anh làm việc đó. Nhung trả lời gọn.
- Đó là em nói chứ không phải anh đâu nghen, có gì đừng đổ thừa. Anh làm việc gì cũng được hết.
Không trả lời nhưng Nhung biết Hòa lợi dụng cớ chính đáng để sau này dễ bề tránh trách nhiệm, cô lạ gì bản tính rộng rãi phóng khoáng của anh. Khi đã ra khỏi cái khuôn khổ gò bó được rồi thì còn gì thỏa mái hơn, tuy nhiên cô cũng hy vọng anh cũng biết lo lắng cho gia đình chứ không đến nỗi, chẳng qua là do chưa có công việc thích hợp.
Thời gian gần đây bỗng thấy anh đi ra đi vào đóng thùng hẳn hoi, hỏi thì anh nói đang học sửa máy quạt tủ lạnh gì đó nơi nhà một người bạn tên Hùng.
- Chà - cơm đâu bây giờ còn đi học nghề - Nhung nói nửa đùa nửa thật.
- Tuy chưa làm có tiền nhưng cũng đỡ tiền phê pháo. Lâu lâu có hàng sơn sửa, Hùng đưa chút ít do mình có phụ công. Đây, có mấy đồng Hùng đưa cho anh tiêu vặt đây.
Hòa móc trong túi được vài đồng nhàu nhò đưa cho vợ.
- Thôi cất đi mà tiêu tiện tặn lại.
Thừa cơ, Hòa cất ngay tiền vào túi, cười gượng xong đóng thùng tử tế, lại đạp xe đi. Gần tối Hòa về, dựng xe ở cửa, làm ra vẻ tỉnh táo nhưng nhìn qua Nhung biết là anh có uống.
Cô chỉ hỏi nhẹ :
- Uống rồi phải không?
Hòa gật gù :
- Ờ, sơn xong cái tủ lạnh, Hùng biểu uống với nó một chai cho vui.
- Chớ không đưa tiền ?
Hòa cười cười :
- Có, nhưng mà anh mua quà cho con nó rồi, còn đây một ít nè.
Hòa đưa tay vào túi giả bộ như sắp lấy ra, nhưng sao mà lâu lắc. Nhung im lặng nhìn xem thử anh làm gì. Lại thấy lục qua túi khác, túi trên túi dưới lục mãi được mấy tờ nhỏ.
Đưa tiền cho Nhung có vẻ ít ỏi, Hòa làm ra vẻ ngạc nhiên :
- Cái thằng này nó thối tiền lộn - Hòa giả bộ nhăn nhó.
Nhung cười :

- Thằng nào mà thối lộn, có mấy đồng mà để người ta thối lộn không biết a. Uống bia rồi tiền trong túi nó bò ra chứ ai mà thối lộn. Làm ăn kiểu này rồi tui cũng chẳng có đồng nào.
- Thì từ từ anh “tốt nghiệp” đã, rồi sẽ mở làm riêng. Mới học có mấy tháng, vừa học vừa phụ chắc phải dài ngày chứ không mau được.
Nghe Hòa nói cũng có lý, thôi kệ để anh làm gì thì làm, miễn có quyết chí trong công việc, việc này phải cần thời gian lâu mà lại thích hợp theo ý của hai người. Mẹ con Nhung cũng còn tiêu chuẩn nhà nước, ráng chi tiêu đủ với mấy chục đồng lương.
Bé thứ hai từ khi sinh ra cho đến nay đã được hai tuổi, vẫn chưa sắm được chiếc mũ đôi giày nào cho tử tế. Hòa đi đâu về thì gọi Bé Bi ra, hai cha con đồng ca “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ, râu Bác dài ...”. Rồi thì “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng ...”, cha con hát hò một lúc thì anh lo tắm rửa, lấy cơm cho con gái ăn.
Kể ra, thành tích chăm sóc con cái cũng khá tốt nhưng tính ra ba bảy hăm mốt bởi thì giờ đến học nghề ở nhà Hùng gần hết cả ngày. Khi cô hỏi thì anh giải thích nghe ra có bài bản thứ lớp làm như đã học việc được rồi nhưng phải phụ giúp cho Hùng một thời gian để cho có tình có nghĩa. Cô nghe cũng xuôi tai, nhìn chung bây giờ gia đình nào cũng có những khó khăn riêng, mà Hòa nói gì nghe cũng có lý.
Sáng mai tĩnh táo thấy dĩa cơm chiên đạm bạc sẵn trên bàn, Hòa ăn qua loa chan tí mắm, để phần trứng gà luột cho hai con, còn mở lời thuyết trình này nọ như để Nhung động lòng không ghét bỏ lạnh nhạt với anh.
Nhiều lúc mượn rượu, Hòa cũng bày đặt ca cẩm:
- Vợ chồng thương nhau hay ghét nhau cũng vì tiền. Có tiền mua tiên cũng được. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi trong nhà này chỉ cần một tháng có chừng một trăm đồng là đầy đủ. Anh sẽ làm có tiền đưa thêm cho em.
Rồi lập lại:
- Có tiền mua tiên cũng được phải không Bé Bi?
- Dạ phải.
Hòa giả vờ đánh trống lãng :
- Ôi. Giỏi quá - còn cu Bin nữa, phải không cu Bin?
Bé Bi đưa mắt nhìn sang em một lát rồi trả lời:
- Em Bin không biết nói.

CHƯƠNG XXI
Nhung chuẩn bị cho chuyến về thăm nhà sau khi nghỉ hè. Hòa ý kiến là để từ từ hãy đi nhưng Nhung nói đã mua vé rồi.
- Mua vé rồi sao không nói.
- Thì cũng định nói, thứ ba tuần sau mới đi.
- Em định đi lâu mau?
- Đi hết hè luôn.
- Làm gì có chuyện đó. Không được.
Nhung cười:
- Nói vậy mà cũng tin, ra ngoài đó mới mua vé vô. Ở lâu hay mau là do anh trong này, coi mà sa đà.
Tàu đến ga Huế, Bảo đi xe đạp lên đón chị, có hai đứa nhỏ nên Nhung phải đi cyclo về nhà. Ba mẹ cô biết trước nên hai người đã ngồi sẵn ở salon, đưa tay ra đón hai cháu ngoại khi mới vào cửa. Bé Bin không nhìn ông bà ngoại mà nhìn vào mấy cái bánh trong tủ và đòi lấy ra, ai cũng tức cười.
Sau Giải phóng, gia đình ba mẹ Nhung gặp cảnh khó khăn, trước nhà phải mở quán bán một số tạp hóa nên cũng đắp đổi mấy năm nay. Bảo đi học tập cải tạo được ba năm đã về, vợ chồng buôn bán tự do kiếm sống một thời gian, đang chuẩn bị đi Kinh tế mới. Bình và người em trai thứ tư mới vượt biên năm ngoái, hiện còn ở Hồng Kông chờ xét duyệt đi nước thứ ba.
Nhung nói cho mẹ biết Hòa đã nghỉ dạy.
Mẹ nói :
- Ở đây giáo viên cũng có nhiều người nghỉ dạy, phải ra ngoài kiếm công việc làm ăn mới đủ chi tiêu chứ lương có mấy chục đồng làm sao đủ sống, gia đình nào cũng chân trong chân ngoài – những người còn dạy học thì vừa dạy vừa kiếm việc làm phụ, hoặc buôn bán gì thêm mới đắp đổi, có giáo viên nghỉ dạy phải sửa xe đạp.
Nghe mẹ nói, cô cảm thấy đỡ băn khoăn phần nào về việc nghỉ dạy của Hòa. Ở đâu cũng tình trạng này, không làm việc này cũng việc khác, phải chấp nhận hoàn cảnh mới mà thôi, mọi sự đều do may mắn và sự kiên trì vươn lên giữa buổi giao thời.
Đem con ra đây, Nhung không định ở lâu. Tính Hòa thì cô biết, anh sẽ hụt hẩng nếu sống thiếu hai đứa nhỏ.
Mẹ nói - Ở lâu mau tùy con, việc ăn uống không bao nhiêu để mẹ lo, tiền lương ít ỏi để dành đi tàu xe - Rồi sực nhớ ra, mẹ nói thêm:
- À, cậu An đi cải tạo về rồi, lâu lâu vô đây mua đồ dùng gì đó có ghé nhà thăm, mang theo khoai sắn cho mẹ.
Nhung hơi ngạc nhiên hỏi mẹ:
- Anh An có ghé nhà hở mẹ - cải tạo về lâu chưa?
- Cũng hơn năm nay. Tội nghiệp, cũng còn nhớ nhà này mà đến thăm.
- Thăm ba mẹ là việc tất nhiên của anh rồi. Mẹ thấy hồi này anh thế nào?
- Ốm và đen hơn trước nhiều. An hỏi thăm con hè này có về không. Mẹ nói một đôi năm con có về dịp hè.
Nhung không thắc mắc gì thêm, trong lòng gợn lên một cảm xúc khó tả. An ghé nhà thăm là điều cô chưa hề nghĩ tớí, bao nhiêu năm nay với biết bao sự cố vật đổi sao dời ảnh hưởng không ít đến tâm tư đời sống, còn đầu óc đâu mà nghĩ tới ai. Mấy năm sau ngày giải phóng, thấy nhiều người vợ bới xách nuôi chồng cải tạo rất khổ nhọc, thỉnh thoảng cô nghĩ đến An cũng đang trong hoàn cảnh đó, nhưng chỉ thoáng qua với suy nghĩ mọi chuyện với An như thế nào đã có vợ con anh lo, thỉnh thoảng có nhớ tới nhưng rồi cũng quên lắng, cứ tưởng chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa.
Nhung thả hồn theo những kỷ niệm cũ để lẫn tránh thực tế hiện tại, một cuộc sống đầy khó khăn với tất cả mọi người, không riêng ai, trước chuyển biến mới của cả một xã hội từ tinh thần đến vật chất, tình cảm ủy mị chỉ là ảo tưởng mà thôi.
Ngay vợ chồng cô cũng đã thay đổi nếp sống bình thường, nhờ cô tạm ổn định với công việc dạy học nên Hòa đỡ vất vả. Dù có lập trường và siêng năng nhưng anh vẫn bấp bênh trước thời cuộc, phập phòng như chiếc bong bóng. Hàng nghìn, hàng vạn người đang như vậy, có hơn kém gì nhau.

Những ngày sau đó Nhung đi thăm bà con và vài người bạn học cũ, ra phố, vào chợ Đông Ba, qua những con đường quen xưa. Cầu Trường Tiền mỗi ngày qua lại bốn lượt nắng mưa quen thuộc thuở học trò. Con đường Lê Lợi rực rỡ màu phượng vỹ với lá me bay trong nắng gió đầu thu nhập học trên lối đi về của nữ sinh Đồng Khánh. Mái tóc thề và tà áo trắng ngày xưa giờ đây nhòa nhạt trên từng bước đi tưởng chừng lạc lõng, tưởng chừng chẳng còn bóng dáng bạn học, chẳng còn bóng dáng ai xưa. Đúng là con đường kỷ niệm trong ca từ thơ nhạc, đang gợi lại hoài niệm đã nhạt phai theo thời gian.
Vài buổi chiều đi lang thang những con đường bên kia cầu Trường Tiền thăm trường cũ thời Trung học, công viên ngoài bờ sông thay hoa đổi cảnh khiến cho trường Đồng Khánh thêm phần thơ mộng dù đã thay tên. Bên kia trường Quốc Học nhìn vắng lặng như thuở nào, Quốc Học luôn bãi về trước Đồng Khánh mười lăm phút, nên chẳng bao giờ thấy bóng nam sinh bãi trường. Lại nghe lòng vắng lặng thêm khi quay xe trở về.
Vừa về đến nhà, Nhung bỗng thấy An ngồi trên ghế salon đang nhìn ra cửa, cả hai lặng người nhìn nhau một lúc. Cảm nhận đầu tiên cô nhìn thấy là đôi mắt An thật ngỡ ngàng sáng lên thoáng mừng rỡ, tuy nét mặt có phần rắn rỏi dày dạng hơn trong nghĩ tưởng của Nhung. Cô không tin đây là sự thật, thế mà đã bao nhiêu năm gần như quên lãng. Nhung ngồi trên ghế đối diện, im lặng một lúc mới nghe tiếng An:
- Nhung đi đâu về ?
- Đi qua mấy ngã đường và thăm trường cũ. Anh đến lâu chưa ?
- Chờ Nhung lâu lắm rồi. Mẹ không biết Nhung đi đâu. Anh định về cho kịp xe. Sẵn vô đây mua vài vật liệu làm việc nên ghé đây xem thử Nhung về đây chưa.
- Bây giờ anh đang ở đâu – mẹ anh còn khỏe không?
- Mẹ vẫn khỏe, cả nhà anh đã đi Kinh tế mới.
- Lên đó gia đình làm gì để sinh sống?
- Làm nông chứ còn làm gì nữa - An ngửa hai bàn tay ra trước - Nhìn xem hai tay nè, đốn cây vác củi, cuốc đất trồng khoai chuyên nghiệp hơn ba năm trời.
Vừa nói An vừa cười rất tự nhiên. Nhung nhìn tay An, hai bàn tay thư sinh ngày xưa không còn nữa, dày lên với nhiều vết chai sạm. An tiếp :
- Ở trong trại cải tạo phải lao động khổ cực gấp trăm lần làm nông ở nhà. Có thuê được mấy sào đất trồng mía, đang chờ thu hoạch.
- Còn Chi ?
- Chi bị nhà nước cho nghỉ làm vì là vợ ngụy quân, cũng đang ở trên đó.
Nhung chia sẻ thêm:
- Cải tạo về ai cũng phải đi Kinh tế mới, Bảo cũng cải tạo về, kể ở trại họ bắt làm cực lắm, phải đốn cây cưa gỗ, đóng tủ đóng bàn ghế, còn bắt rèn cuốc xẻng dao rựa, có người tập cúp tóc cho nhau, phòng khi ra trại có nghề mà sống. Đúng là rồng hóa cuốc, nhất là mấy ông tướng tá.
- Ở trại nào cũng vậy, tướng tá còn bị hành hạ ra xương. Sau khi được thả về, lính tráng cấp nào cũng phải làm nghề tay chân vặt vảnh vậy thôi. Anh thì đang sống với đất. Vợ chồng Nhung còn tiếp tục dạy học là may mắn, thiếu đủ cũng tạm yên.
- Lương có mấy chục đồng, sống khó khăn chật vật, anh Hòa nghỉ dạy rồi.
An hỏi với một thoáng ngạc nhiên:
- Tiền lương thế này, giáo viên cũng nhiều người nghỉ dạy. Hiện giờ Hòa đang làm gì?
- Lúc đầu ra chợ trời mua bán gì đó, lúc có lúc không, sau này gặp người bạn sửa quạt máy, tủ lạnh, đang học nghề cũng được gần năm nay rồi.
- Như vậy là tạm được rồi, sau này sẽ có công việc ổn định, khỏi ra vô chợ trời. Còn Nhung có làm gì thêm?
- Có chứ, đặt tủ kem bán trước nhà lâu nay, còn kèm thêm kẹo bánh tự làm. Lúc học Đồng Khánh có môn Nữ Công gia chánh do cô Kim Cúc dạy nên làm được.
- Phải cô Cúc người tình của Hàn Mặc Tử không? Nghe nói cô Cúc dạy bên Đồng Khánh.
- Đúng rồi, lúc đó cô lớn tuổi nhưng vẫn độc thân một mình.
An chuyển hướng câu chuyện :
- Nhung định ở lâu mau ?
- Mới ra được tuần lễ nên chưa tính được.
An nhìn đồng hồ tay:
- Anh phải về cho kịp chuyến xe đò - Đưa mắt nhìn quanh một lúc, An hỏi thêm - Các cháu của anh đâu rồi?
Nhung vội đứng lên, gọi bé Bi :
- Chào bác đi con.
An vẫn ngồi trên ghế, hai tay ôm vai bé kéo sát vào mình, nhìn Nhung:
- Cháu gái giống em quá, còn cháu nhỏ đâu rồi?
- Chắc là đang ngủ. Thôi anh về kẻo không kịp xe.
Hai người dừng lại ở cửa một lúc. Biết An nhìn mình nhưng cô không nhìn lại, tiễn An ra khỏi hiên nhà, nhìn bóng anh xa dần trên chiếc xe đạp cũ.
Ở Huế được hơn tuần, từ sáng sớm đã thấy người đưa thư gọi ngoài cửa. Nhung đi ra và nhận điện tín của Hòa - “Em và các con có khỏe không? Nhà vắng quá, anh rất nhớ hai con. Khi nào mới vô?”. Biết Hòa rất nhớ con, nhưng Nhung vẫn luyến lưu ngôi nhà thân thương này, nơi cô đã lớn lên từng ngày, con sông bến nước trước nhà, hàng sầu đông đến mùa hoa tím lay bay, mỗi lần về thăm là muốn ở lâu.
Tha hương lâu ngày, nhớ từng con đường, từng ngõ phố. Thời gian rãnh rỗi, Nhung đạp xe lòng vòng những con đường cũ, lòng cảm thấy bâng khuâng. Nước dòng Hương trôi êm ả dưới mấy nhịp cầu, trước bến Văn Lâu thuyền trôi lơ lững, bốn cửa Thành dẫn vào Đại Nội, những con đường bóng mát che râm, cành lá nghiêng nhau như thì thầm nhắc nhở kỷ niệm xưa. Nhìn quanh một lượt, những mái cổ tường rêu, tứ bề thành quách. Trên đường về còn ngậm ngùi bao hình ảnh cũ, lãng đãng mơ hồ.
Biết mấy cho vừa, để rồi mai đây còn mang hình ảnh quê hương về nơi xứ xa. Đời sống áo cơm không thể khác trước những khó khăn đang chờ đợi, hình ảnh bến nước, cây cầu vẫn luôn là nỗi nhớ bên lòng. Trách sao con người ở đây tâm hồn không mơ màn thơ thẩn, bởi những con đường Huế cứ man mác gợi buồn. Trách sao những người đi xa vẫn còn hỏi lại “Huế bây giờ buồn lắm không em?” Huế mộng mơ nhưng Huế thật buồn.
Vài ngày sau An trở lại, lần này Nhung không bở ngỡ, không vui như lần gặp trước, chỉ nghe một cảm giác đủ lay nhẹ trái tim ngủ quên. Căn phòng khách này vẫn không thay đổi, bàn, ghế, những bức tranh treo tường nơi đây vẫn còn giữ nguyên. Người xa bao năm bây giờ trở lại, ngồi trong không gian cũ, có thay đổi chăng là tuổi đời với bao nhọc nhằn hằn trên nét mặt An, anh không còn dáng dấp thư sinh ngày nào, đôi vai giờ đây như trĩu xuống, không còn muốn vươn lên.
Cả hai cùng mỉm cười nhìn nhau, và hai đôi mắt cùng dừng lại ở phía tủ buffé. Hai cánh hồng nhung đỏ thắm An vừa mới cắm trong bình, còn đọng những giọt nước long lanh. Đây mới là giây phút ngỡ ngàng đầy xúc động thấu suốt gan ruột hai người. An vẫn còn nhớ đến hoa hồng nhung thuở nào tặng cô học trò tuổi mười sáu. Trong sâu thẳm tâm hồn, Nhung nghe xúc cảm trào dâng.
Phút im lặng thật lâu, không ai biết phải nói lên điều gì dù rất nhiều điều để nói. Dòng sông trước mắt xanh thẳm dưới màu trời hạ, thấy rõ từng đám bèo chầm chậm trôi qua thật êm ả dưới hàng sầu đông xanh lá. Cho đến lúc có tiếng gọi mẹ của bé Bi, như kéo hai người về hiện tại. Bé Bi đến sà vào lòng mẹ.
An cười nhìn Nhung : - Đôi mắt của cháu thật giống mắt em, lớn lên sẽ rất xinh.
- Bởi vậy mới đặt tên Bi, mắt to tròn như hai viên bi. Anh được mấy cháu? Được hai đứa trước 75, giờ đã trên dưới mười tuổi, ở Kinh tế mới chăn bò giỏi lắm.
- Tội chưa. Vậy nhà cửa trong Thành nội thế nào?
- Đã bán rồi. Thời gian đi cải tạo, Chi còn ở Huế, bày buôn bán trong nhà cũng tạm đủ, lo cho mẹ và hai đứa con. Khi cải tạo về, đi Kinh tế mới nhưng mẹ không đi, còn nhà cũ ở quê, mẹ ở đó để giữ nhà, thỉnh thoảng lui tới để thăm chừng.
Nhung chia sẻ :
- Có ít tiền nhà, chắc anh đỡ khó khăn.
- Cũng mua được cặp bò.
- Hai đứa còn nhỏ vậy mà bắt chăn bò? - Nhung phản đối.
- Đâu có, chỉ nói cho vui thôi, phải nhờ người cắt cỏ. Thấy bò hai đứa thích lắm, cứ săm soi như nuôi chó trong nhà, lâu lâu cỏ quanh nhà mọc cao, anh cũng cắt cho bò ăn.
- Cũng vui, đúng là vật đổi sao dời, anh Hòa đâu có tưởng tượng ra nổi cảnh này.
An bào chữa :
- Tại Hòa sống đầy đủ thỏa mái quen rồi, chưa chịu cảnh gian khổ của người lính trận, của tù nhân trong trại cải tạo. Nhung còn tiếp tục dạy học nên Hòa ỷ lại, thiếu đủ cũng tạm ổn nếu biết tiện tặn.
Nhung phàn nàn:
- Tại anh Hòa không biết lo xa, hay nói “sinh bất phùng thời”, chắc phải cho đi cải tạo vài năm cho sáng mắt ra.
- Câu nói đó có thể là để bào chữa, mà có thể là kết quả của sự trăn trở. Anh cũng nhiều lần suy nghĩ như Hòa, nhưng mà, anh nhớ mang máng một tư tưởng gặp ở đâu đó “Cảnh khổ và sự thất bại là một kho tàng cho người có chí và là một vực thẳm cho kẻ yếu hèn.”
Cần nhất là em nên giữ thăng bằng cho tâm hồn và đừng làm cho Hòa phải băn khoăn rối trí. Em cứ nghĩ, bọn anh ở trong trại nhiều lúc tuyệt vọng cùng cực, vậy mà vẫn vượt qua được đến hôm nay.
Thấy Nhung buồn không muốn nói gì. An nói như muốn lấy chuyện cũ để chứng minh:
- Điều khổ tâm ngày trước, khi anh xa em, em biết nó hành hạ anh trong thời gian nằm viện Pleiku như thế nào, vì vậy đằng đẵng bao nhiêu năm nay, có lúc nào anh không nhớ đến em. Gặp nhau như thế này không phải sự tình cờ, lẽ ra phải sớm hơn nữa nhưng vì thời cuộc. Dẫu không gần gũi, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn chẳng bao giờ phai nhạt được.
Nhung trầm ngâm:
- Anh quá đa cảm, trong lúc bên cạnh còn có Chi với mấy đứa con nữa.
- Thì cũng là …tình chồng nghĩa vợ - An cười nhẹ – nhưng mà nhờ em, thôi thúc anh làm được tất cả, vượt qua tất cả. Ngay cả những gì đang tiếp tục hôm nay.
- Em không hiểu.
- Chính anh nhiều khi cũng không hiểu, nhưng đúng là như vậy. Chi là hình, mà em là bóng, không là một nhưng luôn đi bên nhau. Đây, em xem đây .
An lấy chiếc bóp trong túi ra, đưa tấm hình nhỏ cho Nhung xem. Nhung hơi lặng người khi nhìn tấm hình của cô lúc còn đi học.
- Hình này anh còn giữ tới bây giờ. Chi không nói gì ? - Nhung thắc mắc.
- Chi rất quý trọng những gì là kỷ niệm của anh. Chi đã chứng kiến tận cùng sự tồi tệ của anh khi cô ấy chăm sóc anh ở bệnh viện Daklak. Sau này anh có nói cho Chi biết lý do khiến anh không vui. Chi rất cảm thông và thỉnh thoảng có hỏi thăm em.
- Chi đúng là người có tấm lòng đáng quý.
- Chi đã biết cuộc tình lỡ của anh và em. Biết anh vẫn còn nhớ em nhưng cư xử rất tế nhị. Anh quý Chi ở điểm đó, và anh không thiếu sót bổn phận với Chi, chính hoài niệm đã nuôi dưỡng tâm hồn anh. Trên đường đời đầy chông gai vất vả này, anh có thêm được một bóng mát, đó là Chi. Nhiều lúc Chi đùa “tâm hồn anh không nên để xơ hóa”. Và anh cảm thấy may mắn khi có người vợ Huế như Chi, công dung, nền nếp.
Nhung nói ra cảm nghĩ:
- Đức tính của phụ nữ Huế đó anh.
An nhắc :
- Nhung đưa lại ấm hình cho anh.
- Hình phai màu rồi, anh giữ làm gì.
- Vậy mà quý gấp mấy lần hình mới, đó mới chính là Nhung của ngày xưa, kỷ vật đó Nhung.
An nhìn đồng hồ: - Chiều rồi, thôi anh về. Khi nào em vào, mua vé chưa? - Chưa, chắc là thứ ba mới đi mua. - Thứ ba anh sẽ vào cùng đi mua vé với em, để biết ngày em đi.
An cầm lại tấm ảnh, siết chặt bàn tay Nhung.
An đi rồi, hoài niệm trở về như dòng nước lũ. Không nói, nhưng ai cấm được tâm hồn cô không được nhớ, dù chẳng còn tình. Và nếu còn tình chăng nữa thì cũng là tình chỉ để mà nhớ.
Và ai ngăn được cô, tắm mình trong dòng thánh kỷ niệm. Chỉ có người vô tình mới không biết nhớ, dù nỗi nhớ có bị cắt khúc như từng đoạn phim đang từ từ ghép lại. Nhung buông xuôi dòng cảm xúc, cho nó tung tràn như con nước vỡ bờ. Cô tự nhũ, nhiều lúc không nên vì một điều gì đó mà đành tâm bóp chết trái tim. Tất cả chỉ là nỗi nhớ về rất thầm kín. Hết sức thầm kín.
CHƯƠNG XXII
Vài hôm sau Nhung nhận điện tín của Hòa “Em thu xếp đưa con vào, anh đang bệnh”. Nhung tức cười, biết Hòa nói xạo. Một năm mười hai tháng chưa khi nào thấy anh uống viên thuốc nào, bây giờ bỗng dưng bệnh mới là chuyện lạ. Một ngày suy suy nghĩ nghĩ, sáng hôm sau, cô đi trả lời điện tín: “Mẹ cũng đang bệnh, phải ở lại hơi lâu. Cuối tháng mới vào được”. Cũng là khích nhau cho vui thôi, để xem anh phản ứng ra sao.
Tính Hòa hay rộn ràng, còn cả tháng hè có gì mà vội, chỉ do anh nhớ con mà điện tín kiểu đó thôi. Cô đã quen với tính nết của chồng bao nhiêu năm nay, điều gì thích hay không là nói ngay, nhiều khi cũng vui cửa vui nhà nhưng nhiều lúc cũng đến bực mình.
Nhung nói với mẹ vài hôm nữa sẽ mua vé vào.
Mẹ nói :
- Mẹ cũng muốn con ở lâu cho vui một thời gian. Mấy đứa sắp đi hết rồi.
- Con cũng muốn ở lâu với mẹ, thứ ba con đi mua vé.
Sáng thứ ba, Nhung lo cho hai đứa nhỏ ăn sáng xong rồi chuẩn bị đi mua vé. Đang soi gương chải tóc bỗng nghe tiếng xe máy nổ trước nhà, nhìn ra thấy An xuống xe đi vào. Anh hỏi:
- Nhung sắp đi à, sao không chờ anh ?
- Thì đang chờ đây, anh có dặn hôm nay. Bữa nay anh đi xe máy?
An đùa :
- Thì phải chở Nhung, đi công tác mà.
Nhung cười theo:
- Bữa nay nói năng toàn giọng cách mạng.
- Nhung định mua vé ngày nào?
- Hôm nay thứ ba, chắc là chủ nhật mới vào, mẹ nói ở lại thêm vài ngày.
An chào ba mẹ Nhung xong ra xe máy ngồi trước. Nhung ngồi lên xe, hỏi:
- Xe này chắc là xe cũ còn?
- Gần cả chục năm rồi đó, nhờ chiếc Dam cũ này mà chạy lui chạy tới nuôi con tạm đủ.
- Nhưng mà xăng cộ khó khăn đắc đỏ, xe anh Hòa để lâu không đi, chuột cắn đứt dây dợ hết, đã bán rồi, đi dạy hai vòng bằng xe đạp xa xôi mệt nhọc, mỗi kỳ hè phải học chính trị trên mười cây số nên mới nghỉ dạy.
- Đúng rồi, phần nhiều viên chức đều đi xe đạp, đồng lương không đủ mua xăng.
Xe qua khỏi cầu Trường Tiền, con đường Lê Lợi dẫn lên ga rợp bóng mát khiến cả hai phơi phới nhẹ lòng. Ngoài kia, mặt nước sông Hương bừng sáng trong màu nắng hạ ban mai. Cả hai như đang chìm đắm trên con đường tình xưa, hai người thường chờ nhau song song trên xe đạp. Chàng nam sinh Quốc học, nàng nữ sinh Đồng Khánh, còn gì đẹp hơn.
Đi thêm một quãng, bỗng Nhung nghe có tiếng gọi tên mình thật lớn. An thắng xe lại, nhìn qua bên kia đường. Từ phía đó, ánh mắt Hòa sáng quắc chiếu từ bên trong chiếc xe cyclo. Cô nói khẻ với An “Anh Hòa mới ra mà không nói trước”.
An nói nhanh “ Nhung qua đó đi. Mình chia tay ở đây luôn”.
Nhung băng qua đường, đối đáp với Hòa mấy câu rồi ngồi vào cyclo, mắt còn nhìn sang phía An. Hòa xoay đầu cô lại. An vẫn đứng đó, nhìn theo phía sau xe cho đến cuối tầm mắt.
Biết Hòa đang cay cú, thái độ tốt nhất của Nhung là im lặng. Xe chạy ngược qua cầu Trường Tiền, đến phố, Hòa mới bắt đầu nặng nề lên tiếng :
- Phải An đó không ?
- Phải.
- Em ra đây để đi chơi với hắn?
- Không phải.
- Vậy thì đi đâu ?
- Đi lên ga mua vé.
- Ai mua vé ?
- Thì em mua chứ ai.
- Em mua vé thì dính dáng gì tới hắn?
- Thì ... ảnh chở giùm.
- Hừm. Chở giùm!.

Hòa muốn gằn giọng thật lớn nhưng sợ ông cyclo nghe nên cố nén lại - Người sao mà nhẹ dạ. Biết trước mà.

Để một lúc Hòa dịu lại, cô nói nhỏ :
- Chỉ là tình cờ…
- Có tình cờ cũng không được quyền.
Xe dừng trước nhà. Ba mẹ Nhung ngạc nhiên khi thấy Hòa về cùng chung xe với Nhung. Hòa chào ba mẹ vợ xong, ôm con vào lòng, hôn lấy hôn để. Suốt từ đó cho tới chiều, anh chuyện trò thăm hỏi thật vui vẻ với mọi người trong nhà, thái độ đó khiến Nhung thấy dễ chịu hơn nếu anh hằm hằm mặt lạnh.
Tối đến, Nhung treo mùng trên divan, nói với Hòa :
- Treo mùng rồi, anh ngủ đó đi.
- Còn em ngủ đâu ? Hòa thắc mắc.
- Ngủ với hai đứa trên phảng - Nhung đáp nhỏ.
- Không được, dẹp mùng đi.
Biết Hòa bực mình, Nhung im lặng dẹp mùng, thật lâu không thấy anh lên phảng, đang ngồi vắt chéo chân lên táp-đờ-nuy. Điếu thuốc hút hết một nửa, một chốc, hết một điếu, rồi hai điếu, ba điếu. Miệng nhả khói từ từ, vẻ mặt bình thản, nhìn cũng hay hay, một thái độ trầm tỉnh hơi bất ngờ. Gạt tàn đầy dần, nhưng không thấy cử chỉ gì khác, dù Hòa hiểu lầm nhưng Nhung khó thể giải bày trong tình cảnh này, mà có giải bày anh cũng không tin, việc còn sờ sờ ra đó, đúng là oan Thị Kính. Cô nhắm mắt nghĩ ngợi miên man những việc vừa xảy ra, cho đến khi ngủ quên. Bỗng nhiên có vòng tay ôm siết lấy mình khiến Nhung thức giấc. Bốn mắt nhìn thẳng vào nhau như có đốm lửa. Nhung nghe bên vai mình hơi đau, hiểu được ý nghĩa vết cắn của Hòa, cô im lặng nén chịu.
Biết Nhung đau dù anh chỉ cắn nhẹ, anh nhìn sâu vào mắt cô với một thoáng buồn, rồi nghiêng đầu bên vai vợ, nằm im sợ hai đứa nhỏ thức dậy. Nhung nhìn đồng hồ treo tường, mười hai giờ khuya. Trong không gian riêng biệt này, ánh sáng mờ của ngọn đèn ngủ như muốn xóa nhòa hết những xáo trộn trong ngày, để mãi mãi là những giờ phút êm thắm, bình yên. Cũng là thái độ của người có hiểu biết, Nhung cảm thấy yên tâm.
Sau giấc ngủ này, liệu Hòa còn bực tức? Bây giờ trông khuôn mặt anh sao mà bình thản, vô tư. Cô không giận chồng nhưng cảm nhận đây là dấu ấn khó phai, ghi khắc giây phút ngọt bùi tình chồng nghĩa vợ. Người xưa nói đúng“Thương nhau lắm cắn nhau đau”.
Nghĩ kỹ cũng không trách anh được. Nếu Hòa là người nóng tính thiếu suy xét thì chẳng hiểu việc gì sẽ xảy ra, cô thầm cám ơn cách cư xử khá tế nhị của anh. Gần sáng, Hòa thức dậy sớm, ra ngồi trước nhà châm thuốc hút. Đến khi thấy con ngủ dậy là anh lo rửa mặt mày cho hai bé, xong biểu Nhung cùng con đi ra quán gần nhà ăn sáng. Nhung không có thói quen này nhưng vẫn nghe theo lời anh.
Ăn sáng xong, Hòa nói:
- Mình tới quán cà phê ngồi đi.
Không có tiếng “em” dịu tai sau câu nói mà như ra lệnh. Nhung hiểu ý, im lặng dẫn con đi theo.
Nhìn qua ly cà phê, ánh mắt Hòa đầy rẫy những dấu hỏi, và cô cũng đã nghĩ tới điều này nên chuẩn bị tinh thần.
Hòa lên tiếng:
- Ra đây em đi chơi với An mấy lần?
- Không đi lần nào.
- Không tin.
- Hỏi kiểu đó, dù có nói thật anh cũng không tin.
- Kiểu đó là kiểu gì ?
- Lúc nào cũng nói đi chơi, là đi đâu ?
- Chở nhau ngang nhiên kiểu đó, không đi chơi còn đi đâu ? Vẻ mặt hắn còn nghinh nghinh nữa chứ.
Nhung tức cười nhưng cố nén. Cô nhớ lại cái nhìn của An buổi sáng hôm qua, rõ ràng là An nhìn rất tự nhiên để biết ai gọi, làm sao lại nghinh với Hòa cho được.
Nhung thử chống chế :
- Lúc trước anh An dạy kèm ở trong nhà, bây giờ lui tới thăm viếng ba mẹ cũng là việc phải, có gì đâu quan trọng. Cái gì cũng phải từ từ.
Hòa lập lại :
- Hừm! Từ từ ... Tui mà không ra kịp thì còn lộng hành tới đâu.
Hòa nói vậy quả là rất đúng, nhưng cái lập luận áp đảo thế này thì cô không nói năng giải thích gì được nữa.
Thời gian trước, những lúc vợ chồng cởi mở, cô vui miệng kể lại cuộc tình không thành với An. Tưởng mọi sự rồi cũng qua đi, ai ngờ cớ sự như thế này, đúng là không còn đường chối cãi.
Thấy Nhung im lặng, Hòa nhìn thẳng vào mắt vợ :
- Đúng tội rồi chứ gì. “Tình cũ không rũ cũng tới”.
- Anh An không tầm thường như anh nghĩ. Bây giờ có nói gì anh cũng không tin.
- Đúng là An không tầm thường, nhưng anh không ngu để mà hiểu theo cách em nói. Mà An cũng không ngu để chỉ nhìn bằng mắt khi em bước chân về đây. Hai người đã một thời với nhau rồi mà. Hắn chiếm đoạt em rồi, giờ này gặp nhau làm sao khỏi.
- Thôi đừng nói thêm gì nữa, cũng đừng suy diễn nhiều điều. Người nào cũng gia đình con cái, phải biết tôn trọng nhau chứ.
Tự nhiên mắt Nhung rưng rưng. Cô khóc vì An và cô gặp nhau hoàn toàn trong sáng, thứ hai là An không ăn mà chịu, anh đã giữ gìn cho cô từ thuở ban đầu.
Và nước mắt đã làm mềm lòng Hòa, anh nắm chặt bàn tay Nhung :
- Thật tình... em có phản bội anh không ?
- Không.
- Chắc chắn không ?
- Chắc chắn.
Một phút xúc động khi nhìn đôi mắt rưng rưng của vợ, Hòa có vẻ dịu giọng:
- Thấy vợ ngồi chung xe với người tình cũ, hỏi ai không tức, suy đi nghĩ lại cũng tại anh không lo gì được cho em, nhiều lúc cảm tưởng như em lạnh nhạt. Em có biết anh thương yêu em chừng nào không?
Không trả lời, đang ngồi trong quán nên Nhung cố ngăn xúc động, cô cầm tay Hòa siết chặt như cảm nhận tình cảm tuyệt đối Hòa dành cho cô.
CHƯƠNG XXIII
Về đến Nha Trang, Hòa tiếp tục công việc sửa máy với Hùng, có khi về sớm có khi về muộn, do việc làm và giao tiếp với bạn hàng sửa máy, đàn ông phần nhiều là vậy. Phải có phê pháo, phải qua lại vài ly bia bọt bàn chuyện thời sự mới vui vẻ thỏa mái được.
Tính cách ăn nói và đối xử của Hòa tương đối được lòng bè bạn. Nhiều người bạn học cũ đến bây giờ vẫn còn gắn bó, kể cả bạn đồng nghiệp dạy học lâu nay. Thỉnh thoảng có dịp gặp gỡ nhau, chính những người bạn anh cũng muốn vậy, gặp nhau năm điều ba chuyện trao đổi tin tức là niềm vui chung. Nhung hiểu điều đó nên không hề phàn nàn anh điều gì.  
Vào năm học mới thì bụng Nhung hơi lớn, phải hoàn tất công việc ở trường, nào sổ sách giáo án, hội họp kiểm điểm, công tác thi đua… còn chăm sóc hai con dại và thêm một cái bầu, không phải dễ dàng. Thấy Nhung thức khuya dậy sớm, mỗi cuối tháng, Hòa thường cộng sổ, sắp vị thứ giùm vợ, phụ giúp nấu nướng dọn dẹp, tắm rửa giặt đồ cho hai con. Xong rồi thì anh như chim sổ lồng, vài hôm chủ nhật Hòa đi biền biệt tới tối mới về. Nhung nói đôi điều là anh cự ngay:
- Đàn ông bây giờ ai chẳng vậy, cứ ra đường mà xem, quán sá nơi nào cũng đông người. Mà đâu phải chỉ có dân thường, cán bộ cấp thấp cấp cao không thiếu, họ uống bia rượu cao cấp chứ đâu cần uống ba cái thứ rẻ tiền như mình. Uống là uống cay uống đắng với bạn bè trao đổi thông tin để biết ngõ mà lần, không phải lúc nào cũng dễ nuốt đâu. Đừng tưởng.
- Có gì mà  tưởng với không tưởng, họ làm có tiền nhiều họ uống, mình làm gì có được như người ta, cứ so bì theo thì so bì sao nổi.
Câu nói nhẹ nhàng nhưng có sức bật khiến Hòa nổi nóng :
- Chẳng tôi ngu dốt lắm sao không biết chuyện đó. Coi thường người ta vừa vừa chứ, đủ thứ chuyện trên đời.
- Tôi làm gì đủ chuyện ?
- Làm gì thì tự biết, đừng có giả bộ.
Nhung tự ái nguýt dài :
- Hừm, người ưa dàn cảnh.
Hòa lớn tiếng thách thức :
- Dàn cảnh gì ? Biết quá rồi, muốn đổi giọng với tôi mà. Muốn gì thì cứ nói trắng ra đi.
- Như vậy là anh muốn chứ không phải tôi, anh muốn gì cứ nói thẳng ra đi.
- Hừm, còn muốn gì nữa, hai đứa con là đủ tiêu chuẩn rồi, thêm chi đứa nữa.
Câu nói của Hòa xác định quá rõ ràng cái bụng bầu này chắc gì của anh. Tính Hòa rất kham con, sao lại phản ứng khi sắp có đứa thứ ba. Hóa ra trong lòng anh có những viên sỏi nhọn mà sống chung bao năm nay không thấy, chỉ mới thể hiện thời gian gần đây. Vậy là trong đầu anh đã có vấn đề, khiến cô càng cảnh giác trong từng cử chỉ lời nói, mặc dù ngoài ra hai người không có điều gì mâu thuẩn.
Cũng may Hòa hay nói vậy rồi thôi, ít khi mặt hờn mặt lạnh nhưng lần này không hiểu sao anh lại không chịu dừng, còn dai dẳng lý sự :
- Lúc nào đầu óc cũng nghĩ tôi là thứ người bê bối vô tích sự. Mỗi người mỗi cách sống khác nhau chứ, đâu phải ai cũng như ai, sống cái kiểu này, phải chờ ngày sinh xong rồi mới tính, nãn lắm rồi.
Hòa nói vậy là cô đã hiểu, cô trả lời ngay:
- Cần gì sinh xong, đã nói rồi không tin thì thôi, đứa con này không phải của anh thì cứ quyết định đi, chưa muộn, sống bao nhiêu năm mà không hiểu tính tình của tôi thì thôi.
- Gần nửa tháng ngoài đó chứ đâu phải ít, tính đi. Một lần bất tín vạn lần bất tin. Từ nay cấm không được về ngoài đó nữa.
Sau đó là búa lua xua những lời gì Nhung không còn nghe rõ, đầu óc quay một vòng ba trăm sáu mươi độ và nước mắt tự do tuôn trào. Thấy Nhung khóc, anh thay áo quần xách xe đi.
Bực mình thì cô nói vậy thôi chứ thật lòng ai mà muốn vợ chồng ly tán, bản tính cô một dạ thủy chung, hai cuộc tình đầy ngang trái đã là quá đủ, Hòa đã mang lại hạnh phúc cho cô với hai đứa con xinh xắn, còn muốn gì hơn.
Cú sốc ở Huế vừa rồi khiến Hòa thấm đau nên còn ấm ức. Nhung dặn lòng phải thận trọng từng cử chỉ với Hòa vì không muốn gia đình xáo trộn, chỉ muốn vui hòa. Cô thầm nghĩ, nếu có một mối tình để mà nhớ tới, thì có gì sai trái? Sao lại cấm được tình cảm của con người. Trong thơ, trong nhạc, thiếu gì những bài gợi nhớ tình xưa, cũng là đáng để trân trọng.
Yêu một người thì nhớ thương muôn thuở, mà người yêu phản bội thì khó mở lòng tha thứ rồi đến chỗ ly dị bỏ nhau. Kiểu này Hòa sẽ nhớ mãi không quên nếu anh là người ích kỷ, thiếu suy xét để nhận ra sự trong sáng giữa cô và An. Tuy vậy, mỗi sáng Hòa vẫn đều đặn chở bé Bi đi học, bé Bin đi nhà trẻ, sẵn mua thức ăn sáng cho Nhung và chở cô đi dạy.

Hình như Hòa biết lời nói hơi chuyên quyền của mình, nhưng việc xảy ra chỉ mới đây, khó mà lắng lòng lắng dạ chứ anh biết Nhung không có tính dễ giải buông lung. Ai gặp phải cảnh này cũng phải nghi ngờ chứ không phải riêng anh, mà anh cũng không nhất quyết một hai. Cũng còn nhiều lý do để khỏi nghĩ oan cho Nhung.
Được hơn một tháng vui vẻ, sáng nay thấy quá giờ mà Hòa vẫn chưa đi làm. Nhung hỏi:
-Sao giờ này anh chưa đi làm?
Hòa ngoắc tay gọi vợ lại gần :
- Em đến đây, anh có chuyện muốn nói.
Thấy vẻ nghiêm túc trên nét mặt Hòa, Nhung hơi lo không biết muốn sinh sự gì nữa đây.
Hòa bắt đầu mở đề :  
- Còn lâu mau nữa em sinh?
- Khoảng một tháng.
Im lặng một lúc, Hòa hỏi :
- Em về Huế sinh được không?
Sao Hòa lại có quyết định lạ lùng như vậy, mới đây anh cấm cô không được về Huế, chẳng lẽ quên rồi.
Cô im lặng chờ anh nói tiếp.
- Anh sẽ  đi xa.
- Ủa, đi đâu?
Hòa thấp giọng, nhìn Nhung thăm dò :
- Mấy người bạn rủ anh vượt biên.
- Vượt biên à. Rồi anh định thế nào?
- Thấy em gần sinh nên chưa trả lời dứt khoát với người ta, nhưng khi họ chuẩn bị xong, nếu mình muốn đi là phải đi ngay.
- Việc đó tùy anh, nhưng bây giờ nghe nói vượt biên khó lắm, phần bị công an bắt giữ, phần cướp giựt đủ thứ trên tàu. Chưa kể gặp khi gió bão.
- Chuyện đó biết rồi, nhưng nhiều người vẫn đi trót lọt, vấn đề là phải đủ số người trên một chuyến ghe, với một cây vàng. Em có lo được không?
- Thì có tiền bán chiếc xe, lo thêm một ít cũng đủ, nhưng mà anh quyết định chưa?
- Để chờ thời gian xem tình hình thế nào rồi tính.
Chừng một tháng sau thì Nhung chuyển bụng, Hòa vội chở vợ đến nhà hộ sinh. Cô đỡ khám xong nói rằng phải một hai tiếng nữa mới sinh. Nhung biểu anh ra ngoài ăn sáng rồi mua cho cô ổ mì. Khi Hòa về thì cô mụ nói đã sinh xong và đã chuyển phòng, anh mau chân đi nhanh vào phòng em bé:
- Trai hay gái em ?
- Con gái.
- Thôi cũng được, có chị có em chơi với nhau. Để xem có giống bé Bi không.
Nhung mạnh dạn:
- Xem đi.
Hòa buông một câu xanh dờn :
- Nó mà giống ai là anh giết chết em.
Hòa nghiêng xuống gần mặt em bé, cười cười đánh trống lãng:
- Con gái giống cha giàu ba họ. Vừa nói anh vừa ôm cả hai mẹ con trong vòng tay mình rồi hôn nhẹ vào trán bé.

Nhung biết em bé ra đời là lý do để anh dẹp bỏ tự ái, vui cười giải tỏa nỗi niềm bấy lâu, để sau này không còn nhắc nhở chuyện cũ tích xưa. Và đối với Nhung, đây cũng là giờ phút thỏa mái trọn vẹn nhất khi thấy anh vô tư đón nhận hai mẹ con với câu nói “con giống cha…”. Lòng cô ngập tràn hạnh phúc.
Chăm sóc mấy mẹ con tròn một tháng thì đến mùa mưa. Nhung cứng cáp đi ra đi vào được rồi, An nhắc lại chuyện ra đi của mình:
- Một mình em với ba đứa nhỏ như thế này làm sao anh bỏ đi được, rồi ai đưa hai đứa đi học.
- Em cũng định hỏi anh chuyện đó và quyết định không để anh đi trong hoàn cảnh thế này, với lại mùa mưa bão sắp tới.
- Anh cũng nghĩ vậy, không thể bỏ hai đứa lạc lõng ở trường, với lại lúc này công an canh bãi gay gắt quá, nhiều ghe bị bắt, bị nhốt hết nên chưa ai dám hành động. Anh đã nói lại với người ta rồi, hẹn lúc khác.
Nhung chọc quê:
- Cũng biết thương vợ thương con đó chứ.
CHƯƠNG KẾT
Đằng đẵng bao nhiêu năm, bỗng Nhung nhận được một lá thư của An gởi đến trường.
“Nhung, Khi mà em tưởng mọi chuyện đang trôi theo cuộc sống áo cơm và bổn phận rồi quên đi tất cả. Những lần vô Huế, anh có ghé thăm ba mẹ em, biết lâu nay em ít về vì ba đứa con còn nhỏ. Nghe mẹ em nói vậy và anh cũng không hỏi han gì nhiều, để em an tâm lo cho gia đình con cái. Tất cả sẽ lắng dịu theo thời gian.
Từ lần chồng em bắt gặp anh chở em lên ga mua vé tàu, một cuộc chia tay như vậy vẫn còn nhiều điều ngổn ngang chưa nói hết, nhưng anh tự nhủ sẽ không bao giờ khuấy động đời sống của em thêm nữa. Chúng ta không sai, nhưng với Hòa thì anh có lỗi, khiến anh băn khoăn mãi trong lòng, không biết Hòa nghĩ gì về anh. Và em cũng hiểu tâm trạng anh như thế nào khi quay xe trở về một mình, em quay lưng bước lên cyclo với Hòa không một lời từ biệt, hình bóng ấy vẫn mãi trong lòng anh.
Thư này gởi đến em là báo với em một tin, anh sẽ rời khỏi Việt Nam. Chắc em có nghe tin những người học tập cải tạo về, được đi Mỹ theo diện HO. Vài lần cùng gia đình vào Sài Gòn phỏng vấn, anh định ghé Nha Trang thăm em nhưng không được vì nhiều lý do chắc em cũng hiểu. Bây giờ đã có giấy báo rồi, anh đã mua vé tàu đi Sài Gòn ngày thứ năm tuần tới, sáng hôm sau tàu tới Nha Trang. Vào Sài Gòn ở lại nhà người bà con vài ngày rồi lên máy bay đi Mỹ.
Anh có nói với Chi là sẽ ghé Nha Trang vài tiếng, Chi biết là gặp em để chia tay. Chi hiểu tính anh và mến em nhiều nên rất đồng cảm, thường nói:
- Em và Chi - và anh, cùng là Huế với nhau, không nên làm xa lạ.
Anh may mắn có được người vợ có tâm lành. Chi vào Sài Gòn trước anh, vé từ Nha Trang đi tiếp đã mua sẵn.Tàu đến Nha Trang vào sáng thứ sáu, em cố gắng dàn xếp thời gian ra ga gặp anh”.
Hai đứa nhỏ đã đến trường, Hòa đi làm. Nhung xin nghỉ dạy hôm nay. Tàu đến ga Nha Trang. An dẫn theo con gái đi ra cửa chính.
Thấy Nhung, An giới thiệu con mình:
- Đây là bé Hạnh, gái út của anh - An biểu con - Đây là cô Nhung, chào cô đi con.
- Dạ. Con chào cô.
Nhung gật đầu nhận lời chào của bé, xong chỉ tay bên kia đường:
- Chắc là chưa ăn uống gì, ta qua quán cho cháu ăn sáng.
Ba tô phở trên bàn, An gọi thêm hai ly cà phê.
Nhung hỏi :
- Gái út của anh lớn thế này, học lớp mấy rồi?
- Năm nay lớp ba, sinh ở Kinh tế mới. Nhung cười :
- Cũng là tăng gia sản xuất, vượt tiêu chuẩn thi đua. Nhưng mà cần con hơn cần của.
- Nhung cũng ba cháu, nhà trường không nói gì?
- Ngành giáo dục dễ giải hơn, không ai nói gì, còn cho ăn lương cả ba đứa, Hiệu trưởng còn vui vẻ chúc mừng.
Nhung hỏi thêm:
- Vé đi tiếp mấy giờ lên tàu?
- Gần bốn giờ chiều lên tàu, vé có sẵn đây rồi. Bây giờ mình đi đâu đây, bé Hạnh đòi xuống Nha Trang là muốn đi biển.
- Sao mà bé biết có biển trong này?
An cười:
- Mấy hôm gần đây cả nhà hay nói biển Nha Trang đẹp lắm, đứa nào cũng muốn xuống đây đi biển.
Ăn uống xong, An gọi xe thồ trước quán, Nhung đạp xe theo, chừng mười lăm phút đã tới biển, bé Hạnh reo lên:
- Biển ba ơi, biển đây rồi.
Mặt biển bao la lung linh dưới ánh mặt trời, ngoài khơi là những dãy núi thấp cách nhau không xa, trước tầm mắt là vài hòn đảo nhỏ như tô vẽ thêm cảnh đẹp biển Nha Trang. Từng đám mây xanh trôi lơ lững trên nền trời, in bóng xuống biển làm cho mặt nước xanh hơn, ít nơi nào có được.
Nhung chỉ hòn đảo nhỏ trước mắt cho bé Hạnh:
- Kia là Đảo Yến, chim Yến đến đó làm tổ, mình ăn Yến là ăn tổ của nó.
Bé thắc mắc:
- Sao mà ăn tổ của nó được, con chưa ăn lần nào.
An và Nhung nhìn nhau cười. An gỡ rối :
- Thì để từ từ vô Sài Gòn ba mua cho con ăn, trong đó có bán nhiều lắm. Nhung chỉ vài cánh chim chớp cánh lượn vòng trên trời, nói cho Hạnh biết đó là chim Yến.
Ba người đi dọc theo bờ cát, bé Hạnh muốn dẵm chân đùa sóng, An phải cầm tay bé dẫn đi. Mắt anh nhìn mãi cảnh biển, từng lớp sóng theo nhau vỗ vào bờ cát trắng dài hút tầm mắt, xa xa vài dãy núi chắn sóng cho phố biển bình yên, hàng thùy dương nghiêng theo chiều gió. Vẻ đẹp thiên nhiên hữu tình sẽ ghi mãi trong trí nhớ người đi. An hít thở làn gió ngoài khơi thổi vào với tâm thái an lành. Anh nói với Nhung:
- Ở thành phố có cảnh biển đẹp như thế này, không khí trong lành, nhà Nhung gần đây, lúc nào muốn ra biển cũng được. Nhung nói thêm :
- Biển chiều rất vui, công viên biển có nhiều trò chơi cho trẻ nhỏ, nhìn chúng chơi nhiều trò chơi rất vui mắt, và thả diều. Không gì đẹp hơn nhìn những cánh diều bay trên sân biển buổi chiều.
An nói đùa:
- Rồi thả hồn theo cánh diều bay, không chừng thành thi sĩ.
Nhung cười theo :
- Cũng đúng, tinh thần nhẹ nhàng thư thái khi ra đến đây, không còn bận tâm điều gì. Vào mùa nắng, đến khuya biển vẫn còn đông người, trông như mới đầu hôm. Đèn trên tàu đánh cá ngoài khơi sáng lung linh như thành phố nổi.
- Thành phố du lịch mà, ở đây một lúc, thấy khách Tây khách Tàu các nước đi qua đi lại khá nhiều, họ còn tắm dưới kia kìa, anh cũng muốn ở đây luôn.
Nhung đùa theo:
- Vậy là anh quên rồi, sắp lên tàu đi xa còn muốn ở đây luôn thì giữ lấy lời. An cười như hiểu câu nói hàm ý của Nhung, xong cầm tay Nhung và bé Hạnh ngồi xuống. Có vẻ mỏi chân nên bé ngồi phịch xuống cát, hai tay chống ra sau muốn nằm. An vội lấy tấm khăn nhỏ trong xách tay trải ra cho bé.
Ngồi trên cát, dưới bóng dừa xanh, An cầm tay Nhung :
- Lần gặp gỡ hôm nay, được gần gũi như thế này, không thể ngả vào nhau, nhưng cứ nghĩ rằng chúng ta luôn là bóng mát của nhau, không ai phụ bạc ai, chỉ do số phận.
- Anh tin vào số phận?
- Anh tin, và thường tự xoa dịu mình bằng dòng thơ của Paul Verlain “Tình yêu là một khu vườn đầy hoa, nhưng không ai bước vào mà không nhỏ lệ”. Tuy xa cách nhau nhưng trong tâm hồn chúng ta luôn nở những cánh hoa. Thời gian qua, anh và em đã có mái ấm gia đình và sống yên vui, không phân tâm chia trí vì nhau. Không “hắt hiu chờ nhau, xót xa chờ nhau…” như lời ca của Vũ Thành An. Bởi chúng ta không có gì vướn mắc. Phải không?
Nhung gật nhẹ đầu sau câu nói thấm ý thấm tình của An, còn thêm thắt ý thơ lời nhạc, cũng là tâm hồn đa cảm.
An tiếp lời:
- Nay mai sang đất Mỹ, đời sống mới sẽ cuốn theo cả gia đình anh, cũng như em khi trở về với công việc và bổn phận, mọi sự sẽ trôi xuôi giữa bộn bề cuộc sống, không phải bận lòng, đó là điều anh mong muốn ở em.
Nhung cảm nhận như một lời chia tay, nghe lòng lắng dịu, nhưng sóng biển kia vẫn xô bờ, cô trầm ngâm nghe lòng dào dạt.
Chợt nhìn đồng hồ, An vội vàng:
- Gần trưa rồi, nên cho bé ăn để còn đi.
Nhìn lên phía trên, An chỉ tay vào quán ít người.
Ba người bước vào, vài món đặc sản đưa lên bàn. Cầm đũa một lúc, An khen cua mực ngon không kém gì cá mực ở Thuận An.
Anh vừa ăn vừa gợi chuyện :
- Thời gian còn ở lính, vài lần có dịp ngang qua Nha Trang, nhưng không được ở lâu như hôm nay, xe quân sự có ngang qua Tháp Bà, Xóm Bóng, nhưng Lầu Bảo Đại, Hải học viện thì chỉ nghe nói thôi chứ chưa đến được. Không biết có còn dịp trở về.
Nhung thêm nhận xét:
- Phần nhiều người mình qua đó lo làm có tiền gởi về giúp gia đình, họ ít khi về.
An phân tích:
- Nhiều người cả mười năm vẫn chưa thấy về mặc dù họ khá thành công giàu có, đầy đủ nhà cửa xe cộ bên đó, cũng tại công việc làm ăn không thể gián đoạn. Nhưng mà lâu nay Hòa không có ý định đi tìm đất mới?
Nhung trả lời:
- Trước đây anh Hòa định vượt bên với mấy người bạn nhưng mấy đứa con còn nhỏ quá, em thì xa cha mẹ anh em chẳng nhờ cậy được ai nên hoãn lại, sau có nhắc lại vài lần nhưng không có ý định đi.
- Nhung có muốn đi không?
- Không. Biết chấp nhận hoàn cảnh và đời sống hiện tại tạm ổn, vị trí trong xã hội cũng bình thường nên không muốn thay đổi xáo trộn. Anh Hòa biết tính em ngại sóng ngại gió, không mơ không tưởng xa vời, nên không còn nghĩ tới chuyện đó nữa.
- Anh biết tính Nhung không đua đòi, thích cuộc sống giản dị bình thường. Chẳng qua người ta ra đi vì nhiều lý do, ngoài việc bất kể sống chết hàng ngàn người để ra khỏi nước trong trận tháng 4/75, sau này phần đông vượt biên vì họ muốn tìm tới đất nước tự do, nhất là ngụy quân ngụy quyền cũ.
Nhung thêm ý kiến:
- Mười mấy năm nay, thấy chính sách nhà nước có phần thay đổi cởi mở hơn, công nhân viên chức không quá gò bó, dân tình chợ búa mua bán tự do là được rồi. Ở đâu cũng ăn ngày ba bữa.
An tức cười:
- Thôi ăn đi Nhung, em nghĩ quá đơn giản, nhiều người không sống nổi với những thất bại về tiền bạc và chức vị nên họ phải ra đi, cần phải có tự do.
- Đúng rồi, em cũng có nghĩ đến điều đó chứ.
Nhìn sang bé Hạnh, Nhung hỏi – Con ăn no chưa, biển Nha Trang đẹp không?
- Dạ biển đẹp lắm – xong bé quay sang An – mình xuống bắt con cua đi ba.
- Đó là con còng chứ không phải con cua – An nói rõ từng tiếng cho bé Hạnh nghe, rồi cùng cười với Nhung. Cô nói với An:
- Bốn giờ chiều mới lên tàu, anh chưa đi Lầu Bảo Đại và Hải Học Viện, giờ có nên đi không. Lên tàu rồi nghỉ ngơi cũng được.
- Cũng phải đi cho biết, mà có xa không?
- Khoảng năm cây số, xe đạp cứ để đó, về rồi lấy không sao, giờ gọi hai xe thồ để đi.
An trả tiền bàn xong, Nhung mua thêm ít bánh và nước ngọt đem theo. Hai người lên hai xe, bé Hạnh ngồi cùng xe với An.
Đến Hải Học Viện, vừa vào phòng trước là bé Hạnh đã mở mắt há miệng nhìn bộ xương cá voi to lớn dài đến cuối phòng, xong đi qua nhiều bể nước lớn bằng kính trong, đủ mọi loại thủy sản bơi lội trong đó. Bé Hạnh biết gọi tên con rùa con rắn, cá heo cá mập, mà cả An cũng không ngờ loài cá ăn thịt này được nuôi ở đây. Hơn cả ngàn loài cá thể sinh vật, động thực vật biển Đông, mở rộng tầm mắt cả ba người về sinh vật đại dương.
Đi quanh vài vòng xem đi xem lại như được lưu trí tận mắt tất cả loài vật biển giàu ấn tượng. Xong An biểu đi Lầu Bảo Đại.
Hải Học Viện gần Lầu Bảo Đại, chỉ đi bộ một lúc là đến. Lầu Bảo Đại gần bờ biển, trên một ngọn đồi thấp, không nguy nga lộng lẫy như ai vẫn tưởng. Năm ngôi biệt thự từ trước ra sau chỉ một tầng lầu, chung quanh có những hàng cây đủ các loài hoa rợp bóng che nghiêng, mỗi Biệt Thự được đặt tên một loài hoa ( Hoa Sứ, Bông giấy, Hoa Xương rồng, Cây bàng, Phượng vỹ). Trước các khoảng sân là những khu vườn xanh mướt, đủ loài hoa khoe sắc bốn mùa.
Các cửa sổ từ trước ra sau kín đáo theo kiểu dáng thế kỷ trước từ thời Pháp thuộc, sáng chiều đón gió mát lành từ phía biển, đêm về Vọng Nguyệt Nghinh Phong. Nghiêm cật khiêm cung, cao sang quyền quý cho những ai còn hoài vọng một thời Hoàng cung Vua Chúa.
Tầng dưới nhiều phòng được dùng làm phòng Họp, phòng Chiêu đãi quan khách, phòng Giải trí…phòng nào cũng trưng bày trang trí những ảnh tượng mang tính nghệ thuật ấn tượng của Phương Tây và tinh thần Á Đông rất quý phái sang trọng. Tầng trên là nơi nghỉ của vua và hoàng hậu. Phòng nào cũng có chân dung Vua và Hoàng Hậu Nam Phương.
Rời Lầu Bảo Đại hơn ba giờ chiều, về tới ga chuẩn bị chờ tàu tới.
Ngồi ở phòng chờ, An cầm tay Nhung, xúc động:
- Nhung… có lẽ lần chia tay ở đây là lần đưa tiễn cuộc tình mình. Anh đã sắp xếp thời gian để em về nhà kịp với gia đình con cái. Anh sắp khóc đây… Nhớ giữ gìn sức khỏe và hạnh phúc gia đình nghe Nhung…
Tiếng còi tàu thúc giục khách lên tàu, hai người rời tay, hai mắt chào nhau không lời.
Nhung chờ tàu chuyển bánh mới bước chậm từng bước ra khỏi sân ga, tay đè lên ngực không nén được lòng. Trái tim không phải là sắt đá để không ngậm ngùi trong phút giây này. Lời dặn dò của anh như một lời lưu luyến chia tay.
Trên đường về, Nhung nhớ lại câu nói của An “Tình yêu là một khu vườn đầy hoa, nhưng không ai bước vào mà không nhỏ lệ”. Và cô đã để vài giọt lệ rơi trên đôi má.
Dù An có lòng nhắc nhở cô giữ gìn hạnh phúc gia đình, nhưng trong lòng cô “Vẫn còn một chút gì để nhớ để thương” trong lời ca tiếng hát còn âm vang đâu đây. Và, cũng là một dấu son điểm trang tâm hồn cho những ai có được tình yêu tuyệt đẹp như An và Nhung.
23/7/2023
Hồng Vinh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xuân trên những nụ non

Xuân trên những nụ non Đông dần vơi để lại bâng khuâng trên những tờ lịch cuối. Xuân non xèo vừa tượng hình nhu nhú trên những chồi non, v...