Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2025

Mối liên hệ giữa tình và tài trong thơ Lương Thị Đậm

Mối liên hệ giữa tình và
tài trong thơ Lương Thị Đậm

Nhà thơ Lương Thị Đậm là một người con của huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà, vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Vốn xuất thân là dân kinh tế (tốt nghiệp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội), sau theo học dược sĩ nhưng chị lại có thể chuyển sang lĩnh vực thơ ca rất “ngọt”! Nhà thơ là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà từ năm 2012. Đến nay, tuy đã vào tuổi thất thập (chị sinh năm 1949) đã lâu nhưng chị vẫn rất trẻ cả về phong thái sống lẫn phong cách thơ.
Năm 1969, chị Lương Thị Đậm thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến chống Mỹ, công tác tại Bộ phận Dược thuộc Ban Dân y Chiến khu Khánh Hoà cho đến ngày đất nước thống nhất. Sau năm 1975, chị công tác tại Công ty Dược phẩm Khánh Hoà, là Phó Giám đốc Công ty Dược phẩm Khánh Hoà từ năm 1994 cho đến khi nghỉ hưu (năm 2004). Từ khi hưu trí, chị có điều kiện thời gian để làm thơ – một cách để cân bằng và bồi đắp phong phú tâm hồn. Tính từ tập thơ đầu tay – tập Tôi về tìm lại chính tôi (2009) – đến nay, chị đã ấn hành mười tập thơ với nhiều thể thơ, có thể chia thành ba mảng chính: thơ haikư (hai tập), thơ Đường luật (ba tập) và những thể thơ khác (năm tập).
Thơ haikư và dấu ấn về thời gian
Nguyên là Chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) thơ haikư Việt Nha Trang, hội viên CLB thơ haikư Việt Hà Nội, hội viên Hiệp hội thơ haikư thế giới (WHA), nhà thơ Lương Thị Đậm có mối quan tâm sâu sắc đối với thể thơ này qua hai tập Về thôi (2017), Tiếng gọi (2022). Chị từng được nhận giải Ba thơ tanka do Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt – Tiệp Hải Phòng trao năm 2020, giải Nhất thơ haikư Việt Hà Nội năm 2021.
Tập Về thôi gồm 247 bài, còn Tiếng gọi gồm 258 bài thuần thể haikư với nhiều đề tài nhưng có lẽ nổi trội và thành công nhất là thơ về thiên nhiên bốn mùa. Thơ haikư có nguồn gốc từ đất nước Mặt Trời Mọc, là thể thơ cực ngắn, mỗi bài chỉ có 17 âm tiết, chia làm ba dòng (5 – 7 – 5 âm tiết) theo kết cấu ba phần (phá – thực – kết) chặt chẽ. Song, từ trong tiếng Nhật đa số là từ đa âm tiết nên 17 âm tiết ấy thường không quá 10 từ. Thơ haikư lại ít dùng từ biểu đạt tâm trạng trực tiếp, kể cả ít dùng tính từ, trạng từ,…Vì thế, thơ haikư rất uẩn uyển, bạn đọc phải tự thấu thị hình tượng, tự đoán nhận âm thanh, tâm trạng, tự lắng lòng mà chiêm cảm tư tưởng, triết lý được nhà thơ ký thác ẩn kín.
Thơ haikư chủ yếu là thơ về thiên nhiên, nhất là thiên nhiên bốn mùa. Nhà thơ Lương Thị Đậm bám sát vào quý đề (kidai) đó, dùng các quý ngữ (kigo, tức là từ ngữ chỉ cỏ cây, hoa lá, cảnh quan, con vật,… đặc trưng của từng mùa) rất nhuần nhị. Mùa xuân là hoa mai, hoa đào, hoa cải vàng, mầm cây, mầm lá…; mùa hè thì hoa sen, hoa gạo, tiếng ve, cánh diều…; mùa thu là hoa cúc, hoa sữa, hoa bằng lăng tím, mưa ngâu, sương mù, bầu trời đùng đục, màn nắng mơ phai, tiếng trống ếch…; mùa đông là gió bấc, lá bàng đỏ, bếp lửa hồng… Với người Việt, đó là những quý ngữ quen thuộc và chân thực, điều đó khiến thơ chị gần gụi mà vi tế, khiến tâm hồn độc giả rung động nhẹ nhàng và thẳm sâu:
Mưa xuân
Cải lên ngồng
Lạc nắng
Lơ lửng cánh diều
đàn trâu đủng đỉnh
thả chiều vào tranh
Cảm thức về mùa ở thơ chị không dừng lại ở cảm thức về dòng thời gian bốn mùa một cách giản đơn mà thông qua dòng thời gian, chị muốn ký gửi vào đó triết cảm về dòng đời – đời người vốn đã vô thường lại nhanh như bóng câu qua cửa sổ:
Về thôi
bờ sông níu gió
chân trời níu mây
Với tài thơ haikư, nhà thơ Lương Thị Đậm còn sáng tác không ít những bài thơ “ngoài mùa” đậm triết cảm. Kết hợp nghệ thuật thi hoạ, một số tác phẩm thơ haikư của chị dường như đã chạm đến chân lý có thể “đóng khung treo tường”, đưa đến lẽ huyền vi về cuộc đời:
Lặng câm
mảnh gỗ hoá thạch
nói lời triệu năm
Ngưỡng mộ đại thi hào Nguyễn Du, đến với quê hương của Người, nghe những lời thơ Kiều như từ cõi xa xăm nào vọng lại, chị liên tưởng thành tiếng khóc “đoạn trường” của nàng Kiều, độc đáo hơn nữa là nàng Kiều đến khóc bên nấm mộ người sinh thành ra nàng – cụ Nguyễn làng Tiên Điền của chúng ta:
Lạc vào hư vô
nghe như Kiều khóc
bên mồ Nguyễn Du
Thơ vốn hàm súc, thơ haikư càng uẩn súc, thâm trầm. Thơ haikư của Lương Thị Đậm có được phẩm tính ấy, đưa thơ vào địa hạt tương thông, tương giao, không chỉ giữa những nhà thơ với nhau mà quan trọng là với bạn đọc thơ, mở ra những lối đi như nhà thơ Chế Lan Viên từng đúc kết:
Trái đất rộng thêm ra một phần vì bởi các trang thơ
Vì diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ
Họ chỉ trồng một hàng dương đã mở lối cho ta về bể
(Sổ tay thơ)
Thơ Đường luật, sáng tác và xướng hoạ
Yêu thích thơ haikư Nhật Bản, nhà thơ Lương Thị Đậm còn trân trọng di sản thơ thời Đường của Trung Hoa. Thơ Đường luật đã có bề dày lịch sử đi đôi với tiến trình văn học thành văn của dân tộc ta. Cho đến nay, thể thơ Đường luật vẫn tiếp tục gặt hái tinh hoa.
Làm thơ Đường luật, nhà thơ Lương Thị Đậm khiêm tốn tự bạch: “Chỉ đến khi nghỉ hưu, qua các anh chị đi trước, qua bạn bè, tôi mới được gần, tập làm thơ cũng như tập hoạ thơ và xem đó là niềm vui mới.” Hơn mười lăm năm làm thơ, chị đã in riêng ba tập thơ luật Đường: Vết thời gian (2013), Khúc chuyển mùa (2017), Chiều buông (2022). Trong mỗi tập, tác giả kết cấu thành hai phần: phần thứ nhất gồm những sáng tác của bản thân, phần thứ hai là thơ hoạ.
Thơ sáng tác của chị thường là những bức tâm cảnh, tức cảnh sinh tình với một năng lực biểu thị nội tâm cao. Chẳng hạn, ngày cuối năm bao giờ cũng rộn ràng nhưng ngày cạn cùng của một năm cũng làm thi sĩ chạnh lòng vì tuổi càng cao, quỹ thời gian càng ngắn lại. Cảm thán để rồi thanh thản trước quy luật:
Ngày cuối một năm đã đến rồi
Một mùa xuân nữa sẽ dần vơi
Bóng câu tựa nắng trôi qua cửa
Tuổi tác như mưa rớt xuống đời
Đã thấy ánh chiều vương đỉnh sóng
Và nghe sương cát chạm dòng khơi
Lặng thầm đếm bước thời gian chuyển
Tóc đã phai màu…Thanh thản thôi!
(Bước thời gian)
Giữa thơ tứ tuyệt và thơ thất ngôn, có vẻ tác giả tâm đắc thể thứ hai hơn, có thể vì được gửi vào thơ nhiều tâm tư hơn cộng thêm sở trường đối khá chuẩn:
Tà áo em bay trắng cả chiều
Tóc cài hoa nắng bước nâng niu
Trời cao mây trải vương đầu núi
Biển rộng nước xô chạm đỉnh triều
Vóc liễu thanh tao duyên thục nữ
Hồn mai e ấp dáng thiên kiều
Thuỳ dương dìu dặt ru tình khúc
“Một thoáng…” Quê mình tựa gấm thêu.
(Áo dài Việt Nam)
Song, tài năng thơ Đường luật ở chị thể hiện rõ nhất là thi hứng xướng hoạ. Không ít bài thơ của chị đã trở thành bản xướng cho thi hữu hoạ lại nhưng đáng chú ý là những bản hoạ thi của chị. Hoạ thơ có cái khó là phải phụ thuộc vào bài xướng, hoạ sao cho hợp chủ đề nhưng hay hơn là chủ đích. Có nhiều trường hợp, với một bản xướng, chị không chỉ hoạ thuận vần mà còn đảo vận hoặc hoán vận. Chẳng hạn, một bài tứ tuyệt như sau:
Lá sợ nặng cành, bay xuống thơ
Da trời ai nhuộm đã xanh lơ
Sen hồng giếng ngọc hoa phai sắc
Khóm cúc vàng sân dáng đợi chờ!
(Cảnh thu, Trương Hữu Hạnh)
Bài hoạ thứ nhất:
Lá vàng nghiêng nhẹ đậu trang thơ
Mây trải lụa hồng bay lửng lơ
Lửa lựu đầu tường thôi thắm sắc
Bằng lăng nở muộn gợi ai chờ!
Bài hoạ thứ hai, đảo vận:
Chức Nữ – Ngưu Lang mãi đợi chờ
Ngân hà ngan ngát một màu lơ
Mưa ngâu tháng Bảy ai mừng đón
Ô thước bắc cầu qua bến thơ!
Trong hai bài hoạ, tác giả vẫn trung thành với đề tài mùa thu, vừa ước lệ (lá vàng, mưa ngâu, ngân hà, Ô thước) lại vừa vượt ước lệ (mây hồng, hoa lựu tàn, hoa bằng lăng muộn, dòng ngân hà màu lơ, Ô thước bắc cầu qua bến thơ). Bài hoạ thứ nhất vẫn thiên về cảnh [như bài xướng] nhưng bài thứ hai lại nghiêng về chuyện, gắn với một điển tích nổi tiếng. Bài xướng gợi nhớ thơ Yên Đổ, còn bài hoạ của chị thì tiếp thu thơ Kiều nhưng cũng có làm khác đi.
Thơ luật Đường, như chính nhà thơ Lương Thị Đậm nói, đó là “cuộc chơi” nhưng đó quả là cuộc chơi trí tuệ tao nhã, thơ thuận nghịch độc là minh chứng. Chị sáng tác và cả hoạ không ít loại thơ này. Bài Tàn thu, đọc xuôi:
Vàng úa lá thương tiếc ngẩn ngơ
Thẳm xa thuyền đợi bến mong bờ
Vang âm tiếng sáo đưa bài hát
Vọng phím cung đàn dạo khúc tơ
Tan bóng nắng chiều phơi sóng nhạc
Khuất dòng sương khói đọng tình thơ
Tàn thu buốt giá ai mong đợi
Mang nặng chút tình trọn ước mơ.
Đọc ngược:
Mơ ước trọn tình chút nặng mang
Đợi mong ai giá buốt thu tàn
Thơ tình đọng khói sương dòng khuất
Nhạc sóng phơi chiều nắng bóng tan
Tơ khúc dạo đàn cung phím vọng
Hát bài đưa sáo tiếng âm vang
Bờ mong bến đợi thuyền xa thẳm
Ngơ ngẩn tiếc thương lá úa vàng.
Bài nghịch độc tuy chưa phải là toàn bích nhưng âm vận chuẩn chỉnh, cả bài thơ là một chỉnh thể nghệ thuật khá hài hoà, cho thấy một bút thơ Đường luật nghiêm túc và tâm huyết.
Thơ thấm đẫm ân tình
Trừ đi hai tập thơ haikư, ba tập thơ Đường luật kể trên, nhà thơ Lương Thị Đậm còn năm tập thơ: Tôi về tìm lại chính tôi (2009), Dấu xưa (2011), Bến bình yên (2014), Mùa đi qua (2017), Hoài cảm (2022). Đây mới thật sự là thế giới tâm hồn – tâm tưởng của nữ sĩ. Ở đây, bạn đọc có thể bắt nhịp với tiếng lòng hoài niệm hoà ca với niềm tự hào, lòng thương cảm trọn tuổi thanh xuân gắn bó với chiến trường Trường Sơn, với đồng đội, với tình yêu và nỗi nhớ:
Đêm Trường Sơn đã bao lần anh nghĩ về em?
Khi trận tuyến vẫn chưa ngừng tiếng súng
Người thao thức giữa rừng trên cánh võng
Người dặm đường ra trận phía trời xa!
(Năm tháng Trường Sơn)
Tôi chơi vơi trong nỗi đau còn mất
Hương bay lên trời thành khói thành mây
Mười ngàn trái tim, mười ngàn đồng đội
Đã anh dũng hi sinh và nằm lại nơi này!
(Khúc Trường Sơn)
Qua thơ, có thể cảm nhận rất rõ tình yêu tác giả dành trọn cho quê hương. Bàn chân chị từng đặt lên nhiều vùng đất nhưng đi là để trở về, đi xa để trọn vẹn ngày về, về với làng quê ân tình mặn nồng, về với phố biển rì rào vũ khúc sóng biển ngày đêm:
Làng quê chín nhớ mười thương
Cau già vắt vẻo còn vương vấn trầu
Chị xưa nắng dãi mưa dầu
Thương em tát trắng miệng gàu đêm trăng
(Trở về)
Biển Nha Trang
Một đời mãi thương, một đời mãi nhớ
Khẽ khàng ru khúc hát dã tràng…
(Biển những đêm không trăng)
Năm tập thơ với nhiều thể thơ (thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi,…) nhưng nổi trội nhất có lẽ là không ít bài viết bằng thể thơ lục bát. Thơ lục bát của nhà thơ Lương Thị Đậm thể hiện ý thức cách tân, sáng tạo thơ lục bát Việt: lục bát hai câu, lục bát bốn câu, lục bát trường thiên,…
Con đường lạc trong nắng mưa
Lối mòn như thấy người vừa đây thôi
Lá thu xao xác bên đời
Chiều buông – chiều đã bỏ rơi ánh ngày
Giật mình – ai thả thơ bay
Vào trong đôi mắt u hoài của em!
(Thơ bay trong chiều)
Bâng khuâng rớt hạt mưa gầy
Để mùa ngâu lỡ… trắng tay mất rồi!
Buồn vui trĩu nặng bước đời
Lênh đênh một cánh bèo trôi theo dòng
(Bâng quơ thu…)
Mẹ ngồi trong bóng chiều trôi
Con mơ mộng kết tơ trời thành thơ
Võng ru kẽo kẹt… ầu ơ…
Câu Kiều đồng vọng tuổi thơ xa vời
Mẹ ngồi chỉ một mình thôi
Nghiêng chiều mẹ đếm bước thời gian đi
Lá bay, lá nói những gì
Phải chăng lá tiễn mùa đi cuối ngày
(Ngày xưa)
Trong cảm thức “Tìm câu lục bát ngày xưa” (1) , sở trường lục bát là khi tác giả tìm về với Truyện Kiều, với đại thi hào Nguyễn Du. Vì vậy, thơ lục bát ở đây nghiêng hẳn sang màu sắc cổ điển. Thơ chị một phần vẫn giữ được vẻ đẹp thuần khiết của phong vị lục bát điệu nói của ca dao dân gian nhưng khi đọc kỹ, thẳm sâu lời thơ lại chất chứa vẻ đẹp hàm súc của điệu ngâm lục bát cổ điển:
Truyện Kiều nét mực còn tươi
Chàng Kim nước mắt đến giờ chưa khô!
Tôi như lạc giữa hư vô
Và nghe Kiều khóc bên mồ Nguyễn Du!
(Đến Khu tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du)
Nhà thơ vận dụng thủ pháp liên văn bản của nghệ thuật “tập Kiều” để tạo ra một sinh quyển cổ điển cho thơ lục bát cất lên lời tri âm với thi hào mà bản thân ngưỡng mộ suốt một đời thơ:
Em là duyên, Nàng là tình
Còn ta thì cũng thẹn mình lắm thay!
Tình duyên ấy, hợp tan này
Cầm sao cho vững, đừng giày cho tan.
(Nỗi lòng Kim Trọng)
Muốn đạt tới hiệu ứng đó, thuộc Truyện Kiều thôi chưa đủ, thi sĩ phải hiểu Kiều, phải thẩm thấu, thử thế vai nhân vật, thể hiện tiếng lòng nhân vật thật “tròn vai”, góp thêm một cách đọc tác phẩm “đồng sáng tạo”. Yêu thích, say mê Truyện Kiều đến như thế cũng là cách mà nhà thơ Lương Thị Đậm trân trọng thơ lục bát của dân tộc – một trong những thước đo văn hoá của người Việt Nam.
Mười lăm năm: mười tập thơ. “Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”, mười tập thơ biết bao công phu nhưng ít khi nghe nhà thơ Lương Thị Đậm tự nói về thơ mình. Thơ chị thâm trầm, nhiều suy tư như chính con người chị ưa sống nội tâm, thường mỉm cười điềm đạm. Thơ ca là sáng tạo nhưng là sự sáng tạo xuất phát từ tư tưởng và tình cảm cá nhân. Nhà thơ Viên Mai (Trung Quốc) từng nói về mối liên hệ giữa tình và tài trong sáng tác: “Tài chính là từ tình phát ra” (Tài giả tình chi phát), thế nên tình sâu thì thường phát ra thơ có sức lay động, thơ có sức truyền cảm thì thơ ấy ắt có độc giả. Đọc thơ của nhà thơ Lương Thị Đậm, ta cảm nhận được sự lan toả của chân tình và cả tài hoa. Tuổi bát tuần trước mắt, chúc chị tiếp tục ra mắt thơ và thêm nhiều cuộc hoạ thơ nhã thú!.
Chú thích:
(1) Tên một bài thơ trong tập Hoài cảm.
21/11/2024
Chế Diễm Trâm
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...