Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

Người khai sinh và thử nghiệm thể thơ mới 1-2-3

Người khai sinh và thử
nghiệm thể thơ mới 1-2-3

Nhà giáo, nhà nghiên cứu Lê Xuân là cây bút kỳ cựu ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tại cuộc Tọa đàm “Thơ 1-2-3 trong không gian văn học đương đại” do Hội Nhà văn Cần Thơ và Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trường Đại học Cần Thơ tổ chức ngày 6.11.2024, ông đã phát biểu những ý chính trên cơ sở tiểu luận nghiên cứu công phu mấy năm qua về thơ 1-2-3. Vanvn trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của bậc lão thành Lê Xuân.
Nhà văn Lỗ Tấn (ở Trung Quốc) có nói: “Trên trái đất làm gì có đường, người ta đi nhiều thì thành đường thôi”. Đúng vậy, mỗi con đường sẽ được định hình khi người mở đường đi tiên phong và sau đó nhiều người cùng đi thì con đường ấy được “mặc định”. Với văn chương cũng vậy, khởi thủy là “văn sử bất phân”, rồi sau này từng bước qua nhiều thập kỷ, nó được phân loại. Các thể cùng từng bước ra đời, trải qua thời gian dần dần ổn định, hoặc phát triển hoặc bị lãng quên. Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng cũng không nằm ngoài khỏi quy luật ấy. Bạn đọc và thời gian là trọng tài vô tư để thẩm định.
1- Trữ tình ngoại đề:
Để hiểu thêm về sự ra đời của thể thơ 1-2-3 mà nhà thơ Phan Hoàng “khai sinh” và “thử nghiệm” ta hãy bàn thêm về các thể thơ truyền thống của Việt Nam như lục bát, song thất lục bát và thể thơ Đường của Trung Quốc, thể thơ haiku của Nhật Bản để thấy sự ổn định và cách tân của nó như thế nào. Còn đối với thơ tự do, đặc biệt là phong trào Thơ mới (1932-1945) là sự phát triển có kế thừa theo trào lưu phương Tây và có Việt hóa. Các thể thơ Đường luật có: thất ngôn bát cú (có 8 câu, mỗi câu 7 từ); thất ngôn tứ tuyệt (có 4 câu, mỗi câu 7 từ); ngũ ngôn tứ tuyệt (có 4 câu, mỗi câu 5 từ); lục ngôn tứ tuyệt (có 4 câu, mỗi câu 6 từ). Thơ haiku của Nhật Bản (có 1 câu 17 từ), nhưng khi dịch sang một số tiếng nước ngoài và ở Việt Nam thì vẫn giữ nguyên 17 từ và được chia thành 3 dòng: dòng 1 có 5 từ, dòng 2 có 7 từ, dòng 3 có 5 từ).
Còn ở Việt Nam có thơ lục bát và song thất lục bát có luật bằng – trắc đã ổn định hơn hai trăm năm nay mà đỉnh cao của thơ lục bát là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và thơ song thất lục bát là “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn.
Với thể thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đường luật đưa vào Việt Nam, ở thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã có sự cách tân trong “Quốc âm thi tập” (viết bằng chữ Nôm), một số bài thơ “thất ngôn” đã được ông cách tân bằng câu “lục ngôn” vào để tạo điểm nhấn. Ví dụ bài “Ba tiêu” (Cây chuối):
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem.
Hoặc bài “Tùng”, thơ thất ngôn liên hoàn, Nguyễn Trãi cũng đã xen 3 câu lục ngôn ở 3 đoạn:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay
Hổ phách phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này.
Những câu lục ngôn này xen vào những câu thất ngôn ở mỗi đoạn có người cho là hay, vì nó tạo cảm giác nhấn mạnh đề tài, chủ đề bài thơ. Nhưng cũng có người cho rằng đó là những “hạt sạn” không tuân theo luật hài âm của tiếng Việt, đọc lên thấy ngắc ngứ. Sự cách tân này của Nguyễn Trãi không được thi nhân đời sau tán thành nên sau một thời gian thì im hơi lặng tiếng, nhừng chố cho thể thơ “thất ngôn trường thiên” phát triển.
Về thể thơ độc đáo, ngắn nhất của thế giới thì có thơ haiku của Nhật Bản. Đây là một thể thơ của người Nhật có từ thế kỷ 16-17 và nhà thơ thiền Matsuo Basho (1644 –1694) là người khai sinh và đưa nó lên tầm cao mà cả thế giới đều yêu thích. Nội dung và triết lý của thơ haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc. Người viết không miêu tả mà chỉ gợi. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên: “Bài thơ anh làm một nửa mà thôi/ Còn một nửa để mùa thu làm lấy”. 17 từ trong bài haiku được chia làm 3 dòng, ứng với số lượng từ của các dòng là:
Dòng 1: Có 5 từ – Giới thiệu
Dòng 2: Có 7 từ – Tiếp tục ý dòng 1 và chuẩn bị cho dòng 3.
Dòng 3: Có 5 từ – Kết lại, không rõ ràng, mở ra suy nghĩ, cảm xúc cho người đọc ngân nga, lan tỏa.
Về tứ thơ: Thơ haiku khơi gợi cảm xúc một khoảnh khắc hiện tại bằng lối dùng “quý ngữ” (từ chỉ mùa trực tiếp hoặc gián tiếp theo cách biểu đạt tượng trưng). Ví dụ khi nói đến mùa xuân là phải có hoa anh đào; mùa hè phải nói đến chim đỗ quyên (con cuốc), hoặc tiếng ve; mùa thu phải có các hình ảnh như mùa sương, chiều thu, gió thu; mùa đông là phải có mưa giăng, áo tơi… Ví dụ bài thơ “Mùa thu”:
 Lệ tràn nóng hổi
 tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
Dòng 1 giới thiệu tâm trạng nhân vật trữ tình.
Dòng 2 nâng lên một tầng nghĩa mới cụ thể.
Dòng 3 kết lại gợi lên không gian thời gian mùa thu.
Qua những hình ảnh tượng trưng ấy nhà thơ nhằm diễn tả tâm trạng nhân vật trữ tình ở các thời gian và không gian nhất định và luôn gắn con người với thế giới thiên nhiên.
Nói dông dài một chút để thấy rằng việc một thể thơ được khai sinh hay một sự cách tân nào đó đều phải được đa số người làm thơ, người yêu thơ thẩm định. Và phải có thời gian mới có thể “mặc định” nó. Đối với thể Thơ 1-2-3 – một thể thơ mới, cũng không nằm ngoài quy luật sàng lọc ấy.
2- Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng:
Thể thơ 1-2-3 có luật lệ khá chặt chẽ như sau: Mỗi bài thơ là một chỉnh thể độc lập gồm 3 đoạn, 6 câu.
Đoạn 1 chỉ có 1 câu, tối đa 11 từ hoặc ít hơn, đồng thời cũng là tên bài thơ, nhằm tránh trùng lắp tên những bài thơ đã xuất hiện.
Đoạn 2 có 2 câu, với mỗi câu tối đa 12 từ hoặc ít hơn.
Đoạn 3 có 3 câu, với mỗi câu tối đa 13 từ hoặc ít hơn.
Chữ càng tinh lọc càng đa nghĩa càng giá trị.
Đề tài Thơ 1-2-3 hoàn toàn tự do, nội dung chủ yếu đi từ ngoại cảnh dần vào chiều sâu nội tâm tác giả muốn biểu hiện.
Đặc biệt khuyến khích tính độc lập từng câu thơ trong mối tương quan toàn bài, đồng thời giữa câu 1 và câu 6 có sự hô ứng để nội dung bài thơ chặt chẽ, thống nhất trong một không gian thẩm mỹ riêng biệt.
Không khuyến khích biến thể các loại thơ truyền thống: lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn… thành thơ 1-2-3.
Như vậy ta sẽ có bố cục sau:
Đoạn 1: 1 câu, tối đa 11 từ
Đoạn 2: 2 câu, mỗi câu tối đa 12 từ
Đoạn 3: 3 câu, mỗi câu tối đa 13 từ.
Các chữ số 1-2-3 tương ứng với cac số 11-12-13 ở ba đoạn giúp người làm thơ dễ nhớ để không bị sai luật. Còn việc “Không khuyến khích biến thể các loại thơ truyền thống: lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn… thành thơ 1-2-3” là nhằm làm cho thể thơ này có sự khác biệt mới lạ, không bị “tạp lai”. Việc câu 1 và câu 6 có sự hô-ứng giúp cho bài thơ có cấu tứ chặt chẽ về hình thức và nội dung, tránh đi xa đề.
Sự quan trọng của câu mở đầu và câu kết trong một bài thơ, nhà thơ Hữu Thỉnh nói: “Câu thơ mở đầu phải như một tiếng pháo nổ, và câu kết phải như một tiếng chuông ngân”. Ta có thể xem tiếng “pháo nổ” là câu 1và tiếng “chuông ngân” là câu 6 trong thơ 1-2-3. Đó chính là sự hô ứng sự gắn kết trong tứ thơ hoàn chỉnh theo một chủ đề nhất định, vừa kết lại vừa mở ra cho bạn đọc một chân trời mới.
Như vậy, ta thấy thơ 1-2-3 của nhà thơ Phan Hoàng có luật chặt chẽ về số câu, số chữ, nhưng không bị gò bó về vần. Tính nhạc hay tính họa do sự phối âm tài tình của mỗi nhà thơ tạo nên. Nhưng nếu muốn có bài thơ 1-2-3 hay rất cần có các yếu tố “thi tứ”, “thi ngôn”, “thi ảnh”, “thi nhạc” kết hợp hài hòa.
Nói về sự thống nhất về nội dung và hình thức của một bài thơ, nhà phê bình văn học người Nga Nicolai Eva đã viết: “Không một hình thức nào lại không chứa đựng nội dung, và không có nội dung nào nằm ngoài hình thức. Nếu ta phá bỏ hình thức là phá bỏ nội dung và ngược lại phá bỏ nội dung sẽ phá bỏ hình thức”. Thể thơ 1-2-3 của nhà thơ Phan Hoàng cũng theo quy luật này. Nó có cấu trúc chặt chẽ về mặt hình thức, nó là cái “áo mặc” cho nội dung, nhưng để diễn tả nội dung nó lại không bị cậu nệ về vần. Nghĩa là nó có “biên độ” rộng về nội dung và chặt về hình thức thể hiện.
Cho đến nay tôi đã đọc gần nghìn bài thơ 1-2-3 của một số bạn thấy đa số theo đúng luật thơ, nhưng một số bài theo tôi thì chỉ là thơ 6 câu thôi. Vì câu đầu và câu cuối không có sự hô-ứng để kết dính bài thơ, hoặc có bạn xen cả thơ lục bát vào cho êm tai nhưng lại phá hỏng bài thơ… Ngay thơ tứ tuyệt cũng vậy. Câu khai (câu 1- mở đề) và câu hợp (câu 4- kết bài) vừa có sự mở ra, đóng lại các ý và hướng tới trường liên tưởng cho người đọc người nghe. Vậy chúng ta có thể xem câu 1 và câu 6 của thơ 1-2-3 là những “thần cú” (câu thần), vô cùng quan trọng. Cảm thụ thẩm mỹ của người đọc được nâng lên mức cao hơn, hoàn chỉnh hơn chính là nhờ ở hai câu này. Và dĩ nhiên 4 câu 2,3,4,5 mỗi câu phải làm được mỗi nhiệm vụ riêng nhưng phải dính kết để làm sáng tứ thơ của bài thơ.
Ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về một bài thơ 1-2-3 của nhà thơ Phan Hoàng. Anh cho biết: Trong một chyến đi du lịch ở nước Nga mùa thu năm 2018, khi máy bay dừng nghỉ ở Qatar bên vịnh Ba Tư, anh đã sáng tác chùm thơ, trong đó có bài “Từ những trang thơ cái đẹp gọi tên” theo thể thơ 1-2-3 được nhiều bạn đọc yêu thích:
Từ những trang thơ cái đẹp gọi tên
Đàn ngựa phi nước đại trong tuyết rơi rừng vắng
đột ngột dừng dựng bờm hí vang bến sông sâu
Trăng mờ ảo sau cơn mơ kỳ lạ
Moskva về khuya như thiếu phụ khát yêu thương
Tôi rót ly vodka nhớ Yesenin và những thi sĩ tha phương.
Bài thơ ngắn gọn mà nói được nhiều điều về vẻ đẹp của nước Nga hùng vĩ và lãng mạn.
Đoạn 1, tên bài thơ có 1 dòng 8 từ, tứ thơ nằm trong sự khái quát về vẻ đẹp nước Nga hiện lên trên những trang thơ.
Đoạn 2 có 2 dòng, mỗi dòng 10 từ vẽ lên cảnh thiên nhiên hùng vĩ  với hình ảnh tuyết rơi, rừng vắng, sông sâu, đàn ngựa hí… cho người đọc có thể tuởng tượng những trận chiến đã qua trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và thiên nhiên đầy huyền bí mang vẻ kiêu hùng.
Đoạn 3 có 3 dòng vẽ nên cảnh lãng mạn êm dịu về đêm của Moskva với ánh trăng mờ ảo trong tâm tưởng. Câu 6 – kết bài với 12 từ nói đến ly vodka và nhà thơ Yesenin – nhà thơ nổi tiếng về tình yêu và thiên nhiên của nước Nga và liên tưởng tới những nhà thơ “tha phương” khác đã góp phần làm nên vẻ đẹp ấy: “Tôi rót ly vodka nhớ Yesenin và những thi sĩ tha phương” có sự hô-ứng với câu một – tên bài thơ “Từ những trang thơ cái đẹp gọi tên”. Bài thơ rất giàu tính họa, tính nhạc tạo được những liên tưởng cho người đọc, khơi dậy  mỹ cảm. Đó chính là vẻ đẹp của nước Nga được hiện lên mà thơ ca đã đem lại, và như thế “cái đẹp đã gọi tên”. Sự hô-ứng giữa câu 1 và câu 6 bám sát tứ thơ: cái đẹp của nước Nga hiện lên trên những trang thơ.
Tôi ấn tượng nhiều với tập “Những đóa hoa khẽ hương” của nữ nhà thơ Bùi Thanh Hà với 122 bài thơ 1-2-3. Thơ của chị có sự kiệm lời mà ý dư ba, rất đúng quy định chặt chẽ của luật thơ 1-2-3. Và đặc biệt là các câu 1 và câu 6 rất hô-ứng, rất gắn kết. Chị không bị câu thúc bởi số từ ngữ tối đa của mỗi câu thơ. Phần lớn các bài thơ có nhiều câu thơ ngắn 2-3 chữ. Bài “Gió muốn nói gì cùng em” là một ví dụ nén năng lượng từ:
Gió muốn nói gì cùng em
Trong bóng đêm những vì sao lặn vào biển khát
Lặn vào mắt em
Gió vuốt ve làn tóc
Nơi đảo xa những chàng trai mở căng lồng ngực
Gửi gió về…
Đoạn 1 (câu 1): giới thiệu tứ thư Gió với tâm trạng nhân vật trữ tình là Em
Đoạn 2 (câu 2-3): Hình ảnh thiên nhiên: sao, bóng đêm… nằm trong mắt và tâm hồn nhân vật trữ tình với không gian rộng lớn (trời) và thời gian (đêm)
Đoạn 3 (3 câu): Sự liên tượng về Gió, về đảo xa, về nhưng chàng hải quân cường tráng bảo về biển đảo. Và câu kết (câu 6) chỉ 3 từ Gửi gió về có 3 dấu chấm lửng (…) sau câu gợi nên nhiều điều về Gió, về tâm trạng nhân vật trữ tình. Nó hô-ứng cùng câu 1 – Gió muốn nói gì cùng em.
Bài thơ có cấu tứ chặt chẽ và nén năng lượng chữ để gợi ra nhiều điều cùng bạn đọc “đồng sáng tạo”.
Gần sáu năm thử nghiệm thể thơ này, tôi đã đọc gần nghìn bài thơ của nhiều tác giả Bắc Trung Nam, và đặc biệt được đọc các tập thơ  1-2-3 khá hay  tôi lại càng bị cuốn hút, từng bước thấy được những “chân trời mới” của thể thơ này đem lại. Đó là tập “Thủ thỉ phù sa” (xuất bản quý I/2022) của Nguyễn Đinh Văn Hiếu ở Trà Vinh, “Vọng núi” (quý I/2022) của Trần Nguyệt Ánh ở Đắk Lắk, “Những ký tự xê dịch” (quý II/2022) của Trần Thanh Dũng ở Sóc Trăng, “Lối sen sương” (quý II/2022) và “Ủ hồng bếp lửa” (8.2024) của Vũ Thanh Thủy từ Phú Thọ, “Phong hờ hơi ấm” (quý IV/2022) của Hoàng Hải Phương ở TPHCM, “Những cánh hoa mở đêm” (quý II/2023) của Phạm Thị Phương Thảo” ở Hà Nội, “Hoa rong mùa bấc” (12.2023) của Trần Nhã My ở Tây Ninh, “Những đóa hoa khẽ hương” (3.2024) của Bùi Thanh Hà ở Hà Nội, “Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay” (quý III/2024) của Tạ Hùng Việt ở Khánh Hòa, “Ban mai thơm mắt nắng” (10.2024) của Vũ Trần Anh Thư từ Hà Nội, tập “Vụn và lành” của Nguyễn Tiến Nên ở Quảng Bình (10.2024).
Ngoài ra, còn những sáng tác của nhiều tác giả khác như: Đoàn Hữu Nam, Hà Phi Phượng, Võ Văn Trường, Mai Bá Ấn, Trần Thế Vinh, Bình Địa Lộc, Thanh Trần, Đặng Tuyết, Đặng Tường Vy, Bảo Bình, Phạm Phương Lan, Bảo Ngọc, Cao Thanh Mai, Khang Quốc Ngọc, Nguyễn Trung Nguyên, Huỳnh Thị Quỳnh Nga, Trương Mỹ Ngọc, Nguyễn Hữu Thông, Hà Vinh Tâm, Vũ Tuyết Nhung, Lê Thanh Hùng, Mai Thìn, Nguyễn Doãn Việt, Đặng Toán, Đoàn Thị Diễm Thuyên, Đỗ Xuân Thu, Nguyễn Đức Bá, Trần Thị Hồng Anh, Đỗ Thu Hằng, Hoa Níp, Võ Hoàng Phương, Nguyễn Hồng Linh, Lê Đỗ Lan Anh, Huỳnh Khang, Vũ Hà, Võ Thị Như Mai, Trần Văn Chính, Trần Thu Hằng, Trần Huy Minh Phương, Trần Thuỳ Linh, Hồ Loan, Vũ Kim Liên, Đình Giao, Nguyên Trân, Giọt Thu, Hồ Xuân Đà, Đỗ Nguyên Thương, Đinh Hạ, Trần Thị Bảo Thư, Thanh Yến, Hà Nguyên, Lương Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Liên Tâm, Lê Văn Ri, Phạm Tuyết Hạnh, Lê Hải Kỳ, Đặng Văn Thắng, Lưu Minh Hải, Phan Minh Thoại, Trầm Thanh Tuấn, Nguyễn Thị Nguyệt Thu, Chu Minh, Thế Thanh, Lê Kim Phượng, Vũ Khắc Tĩnh, Phạm Thị Kim Khánh, Phan Thảo Hạnh, Lê Văn Hiếu, Nguyễn Quỳnh Anh, Lê Hương, Lê Kỳ Nam, Hoàng Thị Bích Hà, Phạm Thị Hồng Thu, Lê Thị Ngọc Nữ, Lê Tuyết Lan, Lê Phượng, Ben Oh, Lê Lệ Thủy, Quách Mộc Ngôn, Nguyễn Minh Ngọc Hà, Đặng Văn Thương, Phan Phương Loan, Võ Quốc Việt, Lâm Long Hồ, Nguyễn Thị Hằng, Hoài Thơ, Châu Mộng Thúy, Võ Văn Thọ, Võ Văn Hân, Nguyễn Duy Chung, Lương Sơn, Nguyễn Trọng Lĩnh, Lương Ngọc Đại, Hà Ngọc Yến, Quang Hoài, Ngô Mậu Tình, Giang Đăng, Tặng Vũ, Đào Nguyên, Hồng Nhạn, Trần Thị Thùy Vy, Trần Ngọc Tuyết, Trần Mai Ngân, Đào Tấn Trực, Huỳnh Thanh Liêm, Châm Võ, Phạm Hồng Soi, Nguyễn Lan Hương, Hạ Như Trần, Chử Lê Hoàng Điệp, Thiên Trúc, Nguyễn Đại Duẫn, Chiên Nguyễn, Lê Hoành Phò, Văn Luân, Nguyễn Thị Lai, Đào Nguyên, Nguyễn Tấn On, Nguyễn Trọng Văn, Từ Dạ Linh, Nguyễn Ngọc Hưng, Văn Diên, Nguyễn Thị Thanh Long, Đỗ Mạnh Hùng, Mai Xuân Thắng, Nguyễn Bá Hoà, Ngô Làm, Phạm Quỳnh Loan, Doãn Thuỵ Như, Doãn Minh Trịnh, Hà Nguyên, Vũ Lam Hiền, Khét, Mai Thanh Hằng, Đỗ Toàn Diện, Cao Ngọc Toản, Hồ Trung Chính, Thái Bảo – Dương Đỳnh, Tuấn Phạm, Trần Thị Kim Cúc, Hoàng Cẩm Thạch, Thanh Trắc Nguyễn Văn, Vương Xoan, Đoàn Hạnh, Dương Vũ, Nguyễn Đình Phê, Đăng Ngọc, Phạm Thế Chất, Nguyễn Ba, Đỗ Thu Yên, Lê Nguyên, Đỗ Quảng Hàn, Vương Thanh Lan, Sang Trương, Phan Duy, Niê A Dũng, Hoàng Trung Vũ, Mai Hân Hạnh, Bùi Thị Hiền, Nguyễn Thị Hoà, Trần Ngọc Sương,…
Đọc thơ 1-2-3 ta không thể đọc nhanh như đọc thơ lục bát hay thơ tự do mà phải đọc chậm để suy ngẫm. Những bài có “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) có những “tảng băng chìm” thì phải đọc ít nhất ba lần. Lần thứ nhất là đọc kiểu “bì phu” (sờ ngoài da) để nắm tổng thể bài thơ. Đọc lần thứ hai theo lối “cốt nhục” (đụng tới xương thịt bài thơ) để đi sâu một bước thu nhận những hình ảnh và sự liên tưởng theo trí tưởng tượng. Và đọc lần thứ ba với hình thức “hút tủy” để thấy được những gì là tinh túy nhất của bài thơ, đặc biệt những gì mới lạ mà tứ thơ đem lại. Cố nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã viết:
Túi nhà thơ có ba ngăn
Tứ, Từ, Tư đủ quanh năm tiêu xài.
Nghĩa là thơ trước hết phải có Tứ, rồi sau đó mới dùng Từ ngữ để biểu hiện, diễn đạt. Và bài thơ luôn phải có Tư (nội dung, tư tưởng tốt). Xin lấy ví dụ về bài thơ “Lối sen sương” trong số 154 bài thơ 1-2-3 của nhà thơ Vũ Thanh Thủy ở Phú Thọ (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) trong tập “Lối sen sương”:
Lối sen sương
Thuyền độc mộc rẽ lối sen sương nung ngân ngấn đợi
Ban mai ngan ngát gọi
Lứa hoa nào đượm hương
Người thưởng thức tinh thơm sảng khoái
Nhấp ngụm trà lắng đọng Việt Nam.
Tên bài thơ: Lối sen sương là một câu có 3 từ mang tính khái quát là chủ đề bài thơ. Đó là con đường là Lối đi tới hồ sen (đầm sen) từ lúc ban mai để dẫn người đọc tiếp tục khám phá ở những câu thơ tiếp. Nhân vật trữ tình ở đây là Sen, không gian mờ ảo, thời gian tinh mơ của một ngày qua hình ảnh Sương. Tên bài thơ rất gợi và mở trong một không gian và thời gian đa chiều mà Tứ thơ sẽ được khai triển.
Các câu 2-3-4-5 tứ thơ được diễn ngôn qua các hình ảnh và nhân vật trữ tình tạo nhiều liên tưởng: thuyền độc mộc, ban mai gọi, lửa hoa, người thưởng thức tinh thơm…Các từ láy “ngân ngấn”, “ngan ngát” cùng cách ngắt nhịp tạo thêm tính nhạc cho bài thơ. Người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh vào buổi sớm tinh sương có người chèo thuyền độc mộc ra hồ sen lựa chọn từng búp sen vừa đủ độ chín cho hương nhụy đem về ướp “trà sen” để rồi người thưởng trà sẽ nhấp từng ngụm một trong mùi hương tinh thơm sảng khoái mà thấy được sự độc đáo của “liên trà” lắng đọng vẻ đẹp của con người và cảnh vật Việt Nam. Từ vẻ đẹp tao nhã này – một nét ẩm thực tuyệt vời từ xưa của người Việt Nam, ta có thể liên tưởng đến kiểu thưởng thức “trà đạo” rất đẹp và kỳ công của Nhật Bản và loại “Trảm mã trà” độc nhất vô nhị và có phần tàn nhẫn của vua chúa phong kiến Trung Hoa ngày xưa.
Câu kết “Nhấp ngụm trà lắng đọng Việt Nam” tạo được sự hô ứng với câu 1 “Lối sen sương” và làm nổi bật chủ đề, đề tài bài thơ là vẻ đẹp của Sen trong ẩm thực của người Việt Nam được nâng lên tầm văn hóa “liên trà”. Nhà thơ Phan Hoàng rất có lý khi nhận xét ở Lời giới thiệu tập thơ có 81 bài Thơ 1-2-3 này khá hay: “Sống cho mình, sống cho mọi người. Đó là bản lĩnh mà cũng là cánh cửa khai mở hành trình thơ nhiều chông gai và đầy thi hứng sáng tạo của Vũ Thanh Thủy với chiều sâu cảm thức văn hóa cội nguồn và nhân sinh”.
Ở tập thơ 1-2-3 “Vọng núi” với 154 bài của nhà giáo, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh ở Đắk Lắk và tập “Thủ thỉ phù sa” gồm 111 bài của nhà giáo, nhà thơ trẻ Nguyễn Đinh Văn Hiếu ở Trà Vinh cùng nhiều tác giả khác mà tôi đã được đọc với nhiều bài hay, và sẽ có dịp đề cập đến ở một bài viết khác.
Thơ là “rượu được chưng cất”, là “con rồng thần thấy đầu chẳng thấy đuôi. Có khi trong mây chỉ ánh lên một cái vảy” (Văn tâm điêu long). Thơ 1-2-3 là thơ gợi những lời hay ý đẹp thật cô động được chắt lọc từ “quặng chữ” để có được miligam uraniom làm nên sự bùng nổ trong tâm tưởng người thưởng thức. Nhà thơ Phan Hoàng – người có công khởi xướng, khai sinh và thử nghiệm thể thơ mới này, góp phần làm giàu kho tàng thơ ca Việt đang được đông đảo bạn đọc đón nhận. Xin mượn lời anh để kết lại bài viết tản mạn này về một thể thơ mới mà mình yêu thích: “Trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng đi tìm phương thức mới để biểu hiện bao giờ cũng rất khó, và càng khó hơn khi không dễ được bạn đọc tiếp nhận, chia sẻ. Chỉ có sự đam mê và dũng cảm mới giúp chúng ta tự tin tìm tòi, khám phá” (Lời giới thiệu tập thơ “Vọng núi”).
14/11/2024
Lê Xuân: 
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...