Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Tiểu luận của hội viên mới Chế Diễm Trâm ở Khánh Hòa

Tiểu luận của hội viên mới
Chế Diễm Trâm ở Khánh Hòa

Tác giả Chế Diễm Trâm sinh năm 1965 ở Khánh Hòa, tốt nghiệp Khoa Văn – Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn năm 1987, từng dạy học ở Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn ở Nha Trang.
Chế Diễm Trâm là cây bút đa năng, viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tùy bút, thơ và đặc biệt sở trường nghiên cứu văn học và văn hóa, đã xuất bản các tác phẩm: Nghệ thuật tùy bút Vũ Bằng (Chuyên luận, 2015); Những ô cửa nhìn ra vườn văn (Nghiên cứu – Phê bình, 2017); Tám phút mười chín giây (Tập truyện ngắn, 2020); Thương thiệt thương thà (Bút ký – Tùy bút, 2022); Những mảnh ghép đa chiều (Tùy bút – 2023); Âm vang của chữ (Chân dung – Phê bình văn học, 2024).
Tiến sĩ văn học Mai Bá Ấn nhận định: “Với ba tập sách thuộc thể loại nghiên cứu – phê bình, Chế Diễm Trâm đã khẳng định được tên tuổi của mình với những chuyên luận và tiểu luận tạo được dấu ấn trên lĩnh vực lý luận phê bình của khu vực miền Trung nói riêng và cả nước nói chung. Nếu Nghệ thuật tùy bút Vũ Bằng là một chuyên luận công phu, có nhiều khám phá về những nét độc đáo của một tác giả Tùy bút tiếng tăm nhưng còn chịu nhiều khuất lấp; Những ô cửa nhìn ra vườn văn là một tập nghiên cứu, phê bình với nhiều bài viết đa dạng có độ sâu về cảm thụ và đậm tính khoa học lôgic của một cô giáo chuyên Văn; thì Âm vang của chữ là một tập sách mang tầm khái quát cao hơn, sâu hơn, toàn diện hơn với cấu trúc ba phần rõ rệt”.
Nhà lý luận phê bình Chế Diễm Trâm vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 2024.
ĐẶNG TƯỜNG giới thiệu
PHỨC ĐIỆU TÀI TÌNH CỦA BƯỚC GIÓ TRUYỀN KỲ
Có bao giờ bạn tự hỏi trước khi mở trang đầu tiên của một tập trường ca: Nhà thơ sẽ ứng xử với nỗi khó của thể loại trường ca như thế nào? Bởi, muốn dựng lên một thiên trường ca, cái tứ rất quan trọng và bước thơ (kết cấu), lời thơ, giọng điệu,… cũng không phải là dễ dàng. “Câu chuyện” (chất tự sự) trong trường ca (tính trữ tình) được xử lý thế nào để có tác phẩm thơ quy mô mà không bị đơn giản, đơn điệu?
Tâm thế ấy có lẽ là của chung nhiều bạn đọc trước khi bắt đầu bước vào thế giới nghệ thuật của Bước gió truyền kỳ của nhà thơ Phan Hoàng. Thế và, trước khi tiếp xúc với cảm giới “gió” trong Bước gió truyền kỳ, có lẽ trong tâm cảm phần đông độc giả đều có ấn tượng của cái gió Tuy Hoà “chuyên cần và phóng túng” trong bài thơ Nhớ máu (Trần Mai Ninh). Liệu tác giả của Bước gió truyền kỳ – một người được sinh ra từ vùng đất Phú Yên – sẽ làm mới ngọn gió quê hương mình như thế nào?
Tuy nhiên, đi vào không-thời gian nghệ thuật Bước gió thần kỳ, bao băn khoăn kể trên đều được hoá giải. Cái gió Tuy Hoà trong bài thơ Trần Mai Ninh hào sảng để xốc tới mặt trận Nha Trang – Khánh Hoà, còn cái gió trong Bước gió truyền kỳ “mở đường bay”, gió “tiếp sức ước mơ”, gió “khẩn hoang”, gió “xuôi chín khúc sông rồng”, gió “cõng hương qua núi đồi”, gió “dựng thành luỹ biên cương”… Gió trong bước bay “truyền kỳ” của nhà thơ Phan Hoàng đa diện, đa thanh, phức cảm nhờ sở trường của tác giả trên thể trường ca.
Bước gió truyền kỳ là những nét phác hoạ con đường dựng nước từ thời tiền cổ đến nay, trong đó có công cuộc chiến đấu, di dân mở cõi và công cuộc xây dựng, bảo vệ bờ cõi. Trong quá trình đó, bao thế hệ nhân dân đổ máu xương, đổ mồ hôi là tất yếu:
âm vang bước gió truyền kỳ
lớp lớp người người
tay kiếm tay cờ
lớp lớp người người
tay rìu tay giáo
mắt chớp lửa mặt trời phương nam
lẹ hơn sóc
mạnh hơn hổ báo
nhanh hơn tiếng hú rừng hoang
lẫm liệt lao mình
máu
máu
máu
mở cõi
máu
máu
máu
giữ nước
Là người con của “đất Phú trời Yên”, hẳn tác giả không quên vị trí Phú Yên trong tiểu quốc Kauthara (gồm Phú Yên và Khánh Hoà) thuộc Vương quốc Champa cổ. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cất quân đánh vào kinh đô Vijaya (Chà Bàn) của Chiêm Thành, toàn thắng, lấy núi Đá Bia trên đỉnh đèo Cả làm ranh giới mới giữa hai nước Việt – Chiêm. Tương truyền, vua Lê Thánh Tông đã cho quân khắc chữ vào khối đá trên đỉnh Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia) để làm ranh giới hai nước. Đến thế kỷ XV, Phú Yên là biên tái, là quan ải xa xôi của đất nước:
Hoàng đế thi sĩ Lê Thánh Tôn mở đường đến đây lấy cây rừng làm bút, lấy đá núi làm nghiên, lấy nước biển làm mực, đề thơ lên thạch trụ cao vút chín tầng xanh.
Phú Yên là vùng đất thiêng, có núi thiêng (núi Đá Bia) tượng trưng cho một linga tự nhiên, cho thần Shiva, có sông thiêng (sông Ba) tượng trưng cho nữ thần Ganga (vợ thần Shiva), có cửa biển thiêng (cửa Vũng Rô), có đất thiêng (tháp Chàm) – trung tâm thần quyền, thờ tự thần linh và tổ tiên. Sau khi nhập vào Đại Việt, Phú Yên là vùng đất duyên hải miền Trung giao thoa, tiếp biến văn hoá, thành điểm tựa, thành bàn đạp để đất nước đi tiếp về phương Nam:
Ngược hướng đường mòn khẩn hoang
hạt nắng phương Nam lặng lẽ địa đầu rừng thiêng phía Bắc,
ta như người lính mới mang thơ canh giữ biên cương
say trắng đêm hầu chuyện cùng linh hồn trấn thủ.
Từ quê hương mình, nơi đất liền nhô ra biển Đông, nằm ở vị trí chính giữa của dải đất chữ S, dường như tác giả chọn làm điểm khởi phát, ngược sử rồi xuôi sử. Âu cũng là thái độ táo bạo, sâu sắc dù khá kín đáo và tinh vi:
Sau mỗi chuyến tốc hành
ta ngược đường bay tìm về ngọn gió biển tuổi thơ,
sân ga cong cong dáng sông dáng núi
lồng lộng Đá Bia
oai linh tinh hoa trời đất
hào hiệp sông Ba
thiêng liêng dòng sữa sinh thành.
Trên dòng lịch sử khoảng bốn nghìn năm ấy, nhà thơ khéo léo điểm những dấu mốc – dấu son bằng giọng điệu vừa tráng lệ vừa bi hùng. Cùng với hình tượng gió chủ đạo, hình tượng con đường, núi, biển, máu,… trùng điệp gợi ra dòng lịch sử dày đặc sự kiện, bức tranh lịch sử dân tộc rộng lớn, tính cách dân tộc vừa kiên cường vừa hồn hậu, vừa hào hùng vừa hào hoa:
Tổ quốc ban mai tráng niên
sau mỗi cơn đêm ngả nghiêng địa chấn,
đất nước huyền thoại những con đường
khởi từ trái tim máu chảy về phía bình yên cỏ hoa.
Tiếng nói yêu nước, tinh thần dân tộc, quốc gia vốn là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo của thể loại trường ca. Bước gió truyền kỳ đã chuyển tải những vấn đề mang tính sử thi ấy thật uyển chuyển, tinh tế với giọng điệu tự hào hào sảng:
Những ngọn gió mở đường
mang linh hồn đất đai
mang giấc mơ chinh phục
mang tinh thần bất khuất
chưa bao giờ ngừng thổi
như những chuyến tàu không ngừng chuyển bánh
và những cánh đồng xanh đến hạt phù sa cuối cùng
chuyển vụ
lại lên xanh
Sự kết hợp hai cảm hứng thẩm mỹ hùng tráng và bi tráng trên suy tư về hành trình chiến đấu và xây dựng đất nước tất yếu tạo nên sự phức điệu trầm bổng của Bước gió truyền kỳ. Bên cạnh giọng điệu hào hùng chủ đạo, nhiều đoạn trầm lắng, cảm thương nhưng không bi ai:
Cảm ơn người mở đường,
hoá thân bước gió truyền kỳ
ta lang thang khắp mọi ngả đường Tổ quốc,
uống dòng hào khí bi hùng ngàn năm
dòng hào khí đánh đổi tinh hoa lớp lớp người người
vẫy vùng thiên tai
hiên ngang chiến trận,
ta ngẩng đầu
nhoà nước mắt
khóc những sinh linh chưa kịp trọn hình hài hoá những vì sao mồ côi
khóc những gái trai chưa một ngày vợ chồng vẫn phiêu bồng khao khát
khóc những cỏ cây vươn xanh trở lại từ núi sông cắt chia hoang phế
khóc những cơn vượt thoát sinh tồn vĩ đại dòng giống rồng tiên.
Sự đan cài, giao hoà giữa hai giọng điệu (bi và hùng) làm cho Bước gió truyền kỳ hào hùng và lãng mạn, bay bổng mà sâu lắng, vừa có tính sử thi vừa đậm nét trữ tình. Bên cạnh đó, giọng điệu triết lý, chính luận – đích đến của thể loại trường ca – cũng được nhà thơ Phan Hoàng thể hiện đậm nét ở Bước gió thần kỳ :
Khi lịch sử gồng mình trước những cơn bão lớn
mọi con đường đất nước đều thẳng hướng biên cương.
Hoặc:
Tổ quốc ban mai tráng niên
sau mỗi cơn đêm ngả nghiêng địa chấn,
đất nước huyền thoại những con đường
khởi từ trái tim máu chảy về phía bình yên cỏ hoa
Trợ lực cho cảm hứng phức điệu, ý thức lựa chọn, hoà trộn các thể loại (thơ, đồng dao, sử thi), hoà phối các thể thơ (thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ bốn chữ,…), đan cài nhiều biện pháp tu từ,… Tất cả hoà điệu, tạo một diện mạo thơ chân thật, cảm xúc chân thành, thần sắc gợi cảm, gần gụi:
Lưng trâu chìm bảy nổi ba
đồng dao nghịch gió trôi ra… dòng đời
nhớ quê nằm mớ trò chơi
sông xưa gió vọng tiếng cười lưng trâu
dòng sông thơ dại dãi dầu
bắc yêu thương những nhịp cầu đồng dao!
Bước gió truyền kỳ gồm năm phần: phần mở đầu, ba chương và phần vĩ thanh rất cân đối, hài hoà, vững chãi. Phần vĩ thanh làm cho bản trường ca tựa bản nhạc giao hưởng hoành tráng, đoạn kết chậm lại, lắng đọng nhưng để lại âm ba “bềnh bồng” trong khát vọng hoá thân kỳ vĩ:
Hoá thân bước gió chủ quyền truyền kỳ
ta bay giữa những đám mây tụ đầy khí thiêng ngàn năm tuổi xanh ra đi nhập hồn núi sông biển đảo
cùng những vì sao nhấp nha nhấp nhổm nụ cười lẩn trốn hơi thở nóng bỏng lứa đôi sum họp bênh bông bềnh bồng đỏ mặt rạng đông.
Cảm nhận Bước gió truyền kỳ (Phan Hoàng), dường như bạn đọc được đứng trên đỉnh đèo Cả, nhìn khắp nam bắc đông tây, nhìn suốt quá khứ – hiện tại, dọc ngang theo hành trình mở mang bờ cõi về phương Nam và ra biển cả. Thế chẳng phải người con đất Tuy Hoà dẫu có đi đâu, sống ở đâu cũng hướng về quê hương, cất lên tiếng nói yêu nước hoà trong tình yêu quê hương, xứ sở. Vì thế, gọi đó là thành công và đóng góp của trường ca Bước gió truyền kỳ, gọi đó là khát vọng và bản lĩnh nhà thơ Phan Hoàng có lẽ cũng không ngoa…
14/1/2025
Chế Diễm Trâm
Nguồn: Chuyên đề Viết và Đọc mùa đông 2024
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...