Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Luận đề "Gia đình có bốn chị em gái"

Luận đề "Gia đình có
bốn chị em gái"

“Sự lộn ngược của luận đề “Gia đình có bốn chị em gái” thực ra hầu như đã hoàn tất sau ba chương truyện đầu tiên. Lý thuyết sinh ra từ châm ngôn “Một người làm quan cả họ được nhờ” đã tỏ ra đắc dụng và đắc thắng trong thực hành thực tế của một lòng tham, mang tính tham tàn, mang tính cấu trúc nó khiến cái phiên bản lô can của thứ được gọi như là “tư bản thân hữu” này trở nên một ý-luận, mà có thể được một trong các đúc kết sinh động minh họa trong diễn đạt đầy thỏa mãn của nhân vật Sỹ, chồng nhân vật cô em út tên Yên” – nhà lý luận phê bình Nguyễn Chí Hoan nhận xét về tiểu thuyết “Gia đình có bốn chị em gái” của nhà văn Phạm Thị Bích Thủy vừa được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
Tiểu thuyết “Gia đình có bốn chị em gái” là một tiểu thuyết luận đề, nhưng, ngược với mẫu luận đề kinh điển, lại có cái kết không ưu ái cho các ý-luận lành mạnh đương đại hay tốt lành thuộc truyền thống, luôn được xiển dương rõ rệt và phổ biến, trong cuộc đương đầu với sự tha hóa biến chất bắt nguồn từ chính các ý-luận đó. Như vậy, nó thành một tiểu thuyết luận đề lộn ngược trên phương diện một mô hình – và tình thế lộn ngược này, mỉa mai hay trớ trêu, hoàn toàn tương hợp với cái phần của hiện thực cũng lộn đảo mà nó mô tả-phản ánh bằng bút pháp thực tại luận riết róng, tỉ mỉ, mà cung giọng phê phán thấy rõ.
Tình thế lộn ngược đó có một trong các biểu hiện đầy chủ ý và nhuốm vẻ hài hước đen  ở một dàn tên nhân vật mà, chỉ trừ một vài, còn thì đều sắm những vai mà tính cách, thân phận, ứng xử đối nghịch cái tên, chẳng hạn tên là Thương lại luôn luôn “cay nghiệt cãi bố”, chửi các em gái em rể hay rủa xả mắng nhiếc chồng mình, hay có ba gã trai kia tên Đạt tên Hạnh tên Phúc thì ở vào các cảnh bần hàn tục tĩu ngỗ nghịch; và vân vân. Các nhân vật, như thế, được kiến tạo bởi luận đề, cô đọng vào mình phần thực tại tương ứng với phần hiện thực ngoài kia – nơi mà cái viết theo thực tại luận quy chiếu về, chặt chẽ; bởi thế nhân vật ở đây bước ra ngoài một khuôn khổ quen được gọi là nhân-vật-điển-hình của chủ nghĩa hiện thực được xem như truyền thống. Dàn nhân vật như thế làm hiện thân của lối luận đề.
Sự cố ý trong tình tiết những cái tên nhân vật như vậy sẽ cho phép gợi nghĩ về ý nghĩa bên trong cái tên của chính tiểu thuyết: cái gia-đình-có-bốn-chị-em-gái gồm Bình Bằng (ông&bà) Thương Ái An Yên ; và hẳn người ta có thể nhận ra ở đó, cách không thể nhầm lẫn, cái ý hướng tiểu thuyết này đề cao về loại hình mẫu gia đình lý tưởng dựa trên hai trụ cột – công bằng và thương yêu. Vậy nên cái tên tiểu thuyết này chứa đựng phần chính đề cho cuộc luận giải dưới hình thức văn chương tiểu thuyết.
Phản đề đã ở ngay trong cái nền tảng lý tưởng đó cùng cái trụ cột thứ ba, thuộc thực tế sống, thiết thân còn thiếu của nó, đã được luận giải và bày ra mâu thuẫn cản trở ngay trong ba chương truyện đầu tiên. Chương thứ nhất, mở đầu, dẫn nhập, gồm hai trường đoạn, rất minh bạch khúc chiết, mà với một chút tưởng tượng có thể nhận ra đấy thực chất là màn độc thoại của nhân vật An. Toàn bộ tinh thần cốt lõi của chính đề trong luận đề của tiểu thuyết này được gói gọn trong những câu cảm thán hùng hồn, chẳng hạn: … “Phải chăng Chúng ta đã quá ích kỷ, đã quá tha hóa, chúng ta đã nghĩ mình là trên hết, mình là duy nhất đúng? Chúng ta đã quên đi mất những giá trị của tình yêu thương, sự ruột thịt máu mủ đồng loại.”…
Loạt câu hỏi tu từ thống thiết, thốt ra trên bối cảnh những đường phố vắng tênh vì dịch bệnh, làm xuất hiện một hiệu quả sân khấu. Hiệu quả đó tiếp liền ở cảnh lặng lẽ kéo dài, trong trường đoạn thứ hai của Chương 1, nhân vật An làm bữa giỗ bố, một mình, vì tình trạng cách ly trong dịch Covid-19, cứ ngóng chờ một cuộc điện thoại hỏi han từ các chị em gái của cô ta vào cái ngày đặc biệt này của gia đình họ. Nhưng chẳng có gì; cho đến cả tuần sau đó. Độc thoại và câm lặng – cả hai trường đoạn này tạo một ấn tượng bi kịch khởi phát, cân đối với các màn kết thực sự bi kịch của tiểu thuyết này, về sau, hoàn tất cuộc lộn ngược luận đề của nó.
Chương thứ hai, hồi tưởng về lịch sử gia-đình-có-bốn-chị-em-gái, và chương thứ ba kể một bữa giỗ mẹ của bốn-chị-em này, trong buổi đó ông bố tuyên đọc di chúc của ông. Hai chương truyện này, như đã nói, trình bày và luận giải hình mẫu lý tưởng một gia đình – tinh thần trí thức, đồng cam cộng khổ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, giữ cốt cách và nề nếp thanh cao, cùng dốc lòng cho sự nghiệp phụng sự xã hội cũng ngang như dốc lòng vì gia đình cùng họ hàng thân thích – tất cả, một hệ những thực hành đạo hạnh khắc kỷ vị tha, tạo nên một hệ giá trị được dán nhãn “Gia đình” và rồi sẽ thành một ý-luận; và nút thắt, hay cái đầu mối của phản đề, tức tiến trình dường như tất yếu của tha hóa và biến chất, bắt đầu hiện diện rõ rệt trong cuộc tranh cãi con cãi bố chị cãi em xung quanh một châm ngôn cũ nói “Một người làm quan cả họ được nhờ.”
Luận đề của tiểu thuyết này, phần chính đề, không chỉ thuần lý thuyết, hiện thân ở nhân vật ông Bình (bố) và cô An, những người tùy theo mức văn minh hiện đại của thời đại mình thụ hưởng mà diễn giải/thực hành châm ngôn đó theo hướng phụng sự xã hội. Và bữa cỗ đó chứng kiến các quan điểm thuộc chính đề đó rơi tõm vào im lặng. Phản đề nổi lên quyết liệt qua nhân vật người chị cả tên Thương – sự quyết liệt, trong tuyệt vọng bức bối, của cái người tin cả vào, đặt hết tham vọng và sĩ diện vào lý thuyết cậy thân-cậy thế-cậy thần; và nổi lên qua những phô phang đắc ý của hai gia đình nhỏ của cô em gái thứ hai và thứ tư – những nhà thực hành thành công trong thực tiễn của lý luận cậy thân-cậy thế-cậy thần đó.
Sự lộn ngược của luận đề “Gia đình có bốn chị em gái” thực ra hầu như đã hoàn tất sau ba chương truyện đầu tiên. Lý thuyết sinh ra từ châm ngôn “Một người làm quan cả họ được nhờ” đã tỏ ra đắc dụng và đắc thắng trong thực hành thực tế của một lòng tham, mang tính tham tàn, mang tính cấu trúc nó khiến cái phiên bản lô can của thứ được gọi như là “tư bản thân hữu” này trở nên một ý-luận, mà có thể được một trong các đúc kết sinh động minh họa trong diễn đạt đầy thỏa mãn của nhân vật Sỹ, chồng nhân vật cô em út tên Yên. Anh ta, giữa lúc rượu vào lời ra, khen nhân vật “thằng rể tương lai” của mình, bảo:
“Đấy! Thằng này giỏi, mọi thứ không qua được cái chủ trương, cái chỉ đạo, cái luật lệ của nhà mình. Mình mới là người đưa ra, mình ban hành!… Đại để là mọi con đường đều dẫn về cái ao nhà ta!”
Dĩ nhiên, nói cuộc đảo lộn đã hầu như hoàn tất, thì chưa phải thực chấm dứt. Vả lại, nơi có kẻ thành công sẽ phải có nhiều người thất bại. Luận đề “Gia đình có bốn chị em gái” là luận đề-tiểu thuyết, một tiểu thuyết thực tại luận, cho nên nó chuyển biến, theo biện chứng. Sau ba chương như đã nói, chương truyện thứ tư đánh dấu khởi sự một bi kịch mà xuất nguồn chính ở cái ý-luận gia đình trị “Một người làm quan cả họ được nhờ” đó. Tức là từ mối mâu thuẫn nội tại của cái lý luận và thực tiễn tha hóa biến chất đó. Gói thuốc chuột cố ý (?) bỏ quên (?) trong cái túi đựng chai nước mắm mà nhân vật Thương đem biếu nhân vật Thường em rể mình, chồng của cô em gái tên Ái – tình tiết nắm một đầu dây của nút thắt kịch tính truyện này, đầy tính kịch, và do đó, tính tượng trưng và luận đề.
Hẳn nên lưu ý ở đây về một đặc điểm nổi bật trong phong cách tiểu thuyết của Phạm Thị Bích Thủy: tác giả này, ngay từ những truyện ngắn đầu tiên, cho thấy một thói quen suy nghĩ văn chương bằng các nhân vật, hơn là bằng cốt truyện. Nhà văn này có biệt tài trong việc rút ra câu chuyện từ các nhân vật của cô. Hẳn đó là một nguồn cơn, ngoài phong cách tiểu thuyết thực tại luận kinh điển nói chung, khiến cô luôn chú trọng vào mô tả, gần như ham muốn tạo ra các phản ánh 1-1 cho những gì mình kể đến; đồng thời cũng chưng cất chúng lên các mức ẩn dụ. Chẳng hạn, tác giả này tả cái cây xà cừ gần cổng nhà nhân vật Thương, khiến thấy hồn cốt nhân vật như đã nhập vào cái cây, và, nói rộng ra là, cả các khung cảnh ấy:
“Từ gốc lên khoảng hai mét, cái cây lại một lần nữa bị vẹo thêm, do ở đó có một cái bướu to bằng chiếc chậu sành với những vết xoắn xoáy trôn ốc gồ ghề nâu đỏ đậm. Nhìn xa người ta có cảm giác đó là một vết máu khô nham nhở trên bắp tay của một võ sỹ, còn bết lại đó sau một vụ đánh chém vừa xảy ra. Vỏ của nó như một bức mosaic hỏng với vô số mảng miếng lớn bé hình thù kỳ dị trộn lại từ rêu, mốc và nấm khô, tất cả tạo nên một màu sắc khổ hạnh, gai góc, thờ ơ, vô cảm và bất cần đến ám ảnh.”
Với cùng phong cách đó, tác giả sẽ đưa vào trình thuật tiểu thuyết cả một trường đoạn như thể trích dẫn nguyên văn bản cáo trạng của bên công tố đối với nhân vật Thương trong phiên tòa xử vụ nghi án đầu độc nhân vật Thường. Có lẽ cũng nên hãy đọc nó như một ẩn dụ khác, một ẩn dụ bậc hai.
Và dĩ nhiên, nói về nhân vật của Phạm Thị Bích Thủy, trong tiểu thuyết này thì nhân vật An, ngoài nhân vật Thương, là gương mặt thực sống động và độc đáo hơn cả. Nhưng cốt yếu hơn, đó là nhân vật gánh cái gánh luận đề của tiểu thuyết này. Cô ta, thông qua những mô tả đầy chăm chút của tác giả, là người đảm trách duy trì cái mô hình lý tưởng ở “Gia đình có Bốn Chị Em Gái” này – lý tưởng mà bố mẹ họ đã trao lại cho họ, một cách tượng trưng thông qua bản di chúc của ông bố. Một truyền thống chỉ còn tồn tại khi, và chỉ khi, nó luôn luôn được nhúng trở lại, liên tục không gián đoạn, vào thực tại biến chuyển, thích ứng theo cách tích cực, tốt lành, tử tế và đồng thời không bao giờ bỏ rơi các yếu tố hay phẩm chất tinh hoa của mình. An là nhân vật đảm trách cái vai như thế trong vở “Kịch Con người”* ở cái gia đình ngày càng lan rộng của cô ta, “Gia đình có Bốn Chị Em Gái.”
Mô tả dành cho nhân vật An xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, không biểu hiện sự phát triển tính cách, trừ ra quá trình hình thành nhân cách đã được mô tả/kể gọn ghẽ trong chương thứ hai. Sự bất biến tương đối này đảm bảo cho nhân vật này đi song song xuyên suốt, như một đối trọng đầy trọng lượng, với các chuyển biến ác hại tham tàn của vết dầu loang gia-đình-trị từ chính cái gia đình của cô. Những trường đoạn mô tả đầy ắp chi tiết về An, trong các ứng xử xã hội, đường phố, công việc, toát ra không khí duy lý văn minh hiện đại, đối lập với những lạm dụng duy tình và duy kinh nghiệm thô sơ, chính là dòng chính đề vẫn tranh đấu để không đứt mạch biện chứng của mình trong nỗ lực chuyển hóa dòng phản đề đồ sộ và lan tràn rộng khắp kia.
Nhưng tiểu thuyết này đã tuân theo logic của chính nó. Những tiếng cười hả hê của mấy thành viên bè Nepotism ở cái công ty “NEPO” trong đoạn truyện kết thúc vẫn để ngỏ thách thức với nhân vật An và công trình của cô và những người như cô.
21/10/2024
Nguyễn Chí Hoan
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...