Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Gia đình có bốn chị em gái: Chủ nghĩa thân tộc hay khủng hoảng xã hội

Gia đình có bốn chị em gái: Chủ nghĩa
thân tộc hay khủng hoảng xã hội

“Gia đình có bốn chị em gái đã chỉ ra những tù đọng trong xã hội cũ, nhưng thay vì được khắc phục và sửa đổi, chúng lại trở thành hiện trạng của đời sống đương đại hôm nay, đó là lý do tác phẩm không kết thúc với viễn cảnh về gia đình của An, mà bằng cuộc ăn mừng cho sự ra đời của công ty NEPO – công ty duy nhất được trao quyền nhập mặt hàng thuốc lá phi truyền thống vào Việt Nam nhưng lại kết hợp với một công ty phân phối vốn chỉ là bản “lậu”, kém chất lượng, trên tiền đề sao cho dòng họ Nguyễn Hữu có thể kiếm tiền và tiếp tục làm lũng đoạn thị trường” – nhận định của nhà phê bình Nguyễn Mai Anh về tiểu thuyết Gia đình có bốn chị em gái của nhà văn Phạm Thị Bích Thủy được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
Gia đình có bốn chị em gái là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Phạm Thị Bích Thủy, xoay quanh một gia đình có tứ nữ là Hiền Thương, Thuận Ái, Khánh An và Bảo Yên. Bên cạnh sự phức tạp về mặt cảm xúc trong mối quan hệ giữa các chị em với nhau, nhà văn đã khai thác mặt khuất nơi môi trường làm việc của các doanh nghiệp, công ty, để từ đó khắc họa hệ luỵ của chủ nghĩa thân tộc khi quan niệm “Một người làm quan cả họ được nhờ” bị biến tướng theo chiều hướng thực dụng và vị kỷ. Điểm đặc sắc trong lối viết của Phạm Thị Bích Thủy nằm ở việc mỗi nhân vật, tình tiết, sự kiện đều được nhà văn kể một cách tỉ mỉ, khiến người đọc cảm nhận rằng câu chuyện đang diễn tiến trên trang giấy không chỉ là những hư cấu văn chương, mà đó còn là quan sát và trải nghiệm có thực được đúc kết từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện được kể với thái độ đủ tỉnh táo để nhìn nhận vấn đề một cách trung thực, nhưng vẫn hàm chứa cái tình, nỗi xót xa trước những nghịch cảnh của con người trong đời sống đương đại.
Bốn cái tên của tứ nữ được đặt theo nguyện ước của ông Bình rằng “các con phải biết yêu thương nhau và mưu cầu sự an yên cho mình, cho gia đình”. Thời bao cấp khi gia đình còn nghèo khó, Thương là người chị cả luôn hết sức bao bọc, nhường nhịn và chăm sóc các em. Khi vô tình ăn phải một miếng mỡ, Thương cũng vội nhè ra để nhường cho em Yên ăn. Song khi tất cả trưởng thành và có công việc, gia đình ổn định, Thương lại là người thiếu hụt về cả vật chất và tinh thần nhất. Chứng kiến sự chênh lệch giàu nghèo không thể bù đắp giữa mình và ba người còn lại, tâm lý của Thương ngày càng trở nên méo mó. Cô cho rằng mọi người đều phải có trách nhiệm với cuộc sống hiện tại của cô, phải sắp xếp cho con trai cả của Thương là Hùng Thuận một công việc nhà nước ổn định, lương cao mà không phải chịu vất vả, bởi Thương là người đã gánh chịu tất cả sự cực nhọc lúc xưa kia. Mầm mống thù hằn không chỉ phá hoại tinh thần của Thương, mà còn trở thành liều thuốc độc tiêm nhiễm vào hai đứa con trai, từ đó dẫn tới vụ án liên quan tới cái chết của Thường – chồng Ái, khiến Thương trở thành tội phạm bị tình nghi giết em rể khi tất cả bằng chứng của vụ án đều chĩa về phía Thương.
“Thứ nhất hậu duệ, thứ nhì tiền tệ, thứ ba quan hệ, thứ tư trí tuệ”  – Châm ngôn mỉa mai hay thực trạng đời sống
Hoàn cảnh quyết định lên tính cách hay tính cách mới là điều quyết định lên số phận, có lẽ đây cũng là câu hỏi mấu chốt về cuộc đời của nhân vật Thương. Thương là giáo viên dạy học cho một trường chuyên cấp Ba, còn chồng cô là bác sĩ, thu nhập của hai vợ chồng đủ để duy trì đời sống nhưng không quá mức dư dả, vì thế Thương luôn cố gắng sống tằn tiện, tích cóp hết mức có thể. Hai cô em gái là Ái và Yên không chịu thương chịu khó bằng Thương, nhưng đã có một cuộc sống viên mãn, giàu sang khi cưới được người chồng có chức vị cao. Họ luôn tự hào nói về việc chồng mình có khả năng tài giỏi thế nào để sắp xếp mọi con cháu bên đằng nội vào làm việc trong các doanh nghiệp, học viện. Kể cả khi đó là những người cháu thi đại học chỉ được một điểm rưỡi, thì tất cả cũng được dọn sẵn đường đi, từng bước trở thành những tiến sĩ, thạc sĩ phụ trách hướng dẫn sinh viên. Cô em gái thứ ba là An đã ly hôn chồng và là Tổng giám đốc của một công ty nước ngoài. Trong tứ nữ, chỉ có Thương là vẫn chìm đắm trong những đau đớn và ám ảnh của một tuổi thơ thiếu thốn, tiếp đến là thời kỳ trưởng thành không được như ý muốn, khi thậm chí tới cả cuộc hôn nhân của Thương cũng là theo lời cha mẹ, cô phải lấy một bác sĩ vì mẹ bị bệnh. Việc không được lựa chọn từ thân phận là một người chị cả phải chăm sóc các em, tới một người phụ nữ phải kết hôn dựa trên lợi ích có thể mang lại cho gia đình, cuối cùng là không thể hoà nhập được với con người và kinh tế thời mở cửa, khi xã hội xuất hiện sự bất bình đẳng trong tập trung quyền lực, những điều đó đã khiến Thương đổ ngược tất cả sự bất mãn, không cam lòng của mình lên những đứa em. Thương đặc biệt căm ghét Ái, Ái là người Thương luôn cho rằng thua kém cô, song lại coi thường cô bởi chênh lệch giàu nghèo và không biết bù đắp cho cô khi “chính cô đã gánh khổ thay cho chúng được sung sướng đủ đầy như hôm nay”.
Sự tồn tại của Thương trong tiểu thuyết như thể một quả bom bất kỳ lúc nào cũng có thể phát nổ, nhưng bi kịch nằm ở chỗ, mặc dù luôn trong trạng thái chực trào, dồn nén, Thương cũng chưa từng có lấy một lần đủ tỉnh táo để nhận thức được nỗi khổ của mình thực chất tới từ đâu, để từ đó mà biết cách truyền đạt và xoa dịu nỗi đau. Những lời chửi rủa, oán trách khắc nghiệt Thương dành lên các em vì đã không giúp con trai cô có được một công việc như ý, đặc biệt là lên Ái và Thường trong phân cảnh Thương bị xét xử cho cái chết của Thường dẫu cô không ngừng kêu oan, bản chất của những lời nguyền rủa đó là một cơn loạn trí. Người ta nghe chúng và đánh giá Thương là một người đàn bà cay độc, tâm thần, nhưng không ai có thể thấu hiểu cho những nỗi ám ảnh đã bắt đầu từ thời thơ ấu của Thương: “Cái uất ức về sự bất công ông trời tạo ra như mảnh sành găm vào ngực của Thương, suốt bao năm nay nó làm cho Thương vừa điên loạn về tinh thần vừa đau đớn về vật chất”, “Cô mệt vô cùng, đầu óc căng như dây đàn, người ngợm thì lúc nào cũng như con trâu già bị gã chủ nông dân quật tả tơi mà vẫn cứ phải lê bước để tiếp tục kéo cày hết ngày nay rồi lại ngày mai, ngày kia và ngày kia kia nữa”, “Cô đau khổ tức tối với bất kỳ sự vui vẻ của ai. Cô căm hờn bốc hoả với bất kể một sự đủ đầy nào của những người xung quanh”.
Dựa trên tiền đề về một gia đình đã từng trải qua sự đói nghèo của thời bao cấp, tới khi tất cả những đứa trẻ đã lớn lên, trở thành trí thức trong xã hội, thì dường như có một lỗ hổng không bao giờ được lấp đầy giữa hiện thực đã qua và thời đại hôm nay, tiểu thuyết của Phạm Thị Bích Thủy có thể nói xoay quanh một vấn đề chính là câu tục ngữ “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Dẫu mang ý nghĩa hết sức tốt đẹp như ông Bình đã chỉ ra cho con cái rằng một ông quan tốt thì muôn dân, muôn họ được hưởng lợi, thì nó lại dần biến tướng thành vấn nạn những người giữ vai trò cao trong xã hội lại lợi dụng vị trí của mình mà sắp xếp công việc cho con cháu, biến môi trường cơ quan, đoàn thể thành không gian thuộc về dòng họ, để cả dòng họ đó nắm toàn quyền quyết định tất cả, chi phối tới cả không gian xã hội. Hệ lụy từ hành động của thế hệ trước để lại là thế hệ sau – những người trẻ vừa mới tốt nghiệp thay vì phấn đấu học tập, lao động, lại chỉ nhàn nhã, lười biếng vì đã được người trong gia đình sắp xếp sẵn công việc bất kể năng lực có thấp tới đâu. Còn những đứa trẻ không có tiềm lực kinh tế, điển hình như hai người con trai của Thương là Hùng Đức và Hùng Thuận, chúng bất mãn vì không được như bạn bè xung quanh, cuối cùng nảy sinh lòng thù hằn nghiệt ngã với những người chú, người dì thành đạt nhưng lại không sắp xếp nổi cho mình một chỗ “ngồi mát ăn bát vàng”.
Sự tan vỡ không diễn ra chỉ bởi ngoại lực tới từ bên ngoài – tức những vấn đề đã trở thành thâm căn cố đế của xã hội, mà nó gây ám ảnh bởi sự mục ruỗng tới từ bên trong. Hiện trạng của con người được Phạm Thị Bích Thủy ví trong tiểu thuyết như thể một loài mối: “Người phụ nữ tự trào, giống như mối, những con người mối trong biển người mênh mông này cũng lao ra tứ tung chẳng hàng lối, kỷ luật nào, cũng đông nhung nhúc và cũng yếu ớt, sức cùng lực kiệt”. Nhân vật Thao thuộc dòng họ Nguyễn Hữu cũng đã ví dòng họ mình là một tổ mối: “kín đáo, âm thầm như một vương quốc ngầm, không bao giờ bị phát hiện ra mà con người có phát hiện ra thì cũng hầu như không thể chế ngự hoặc không thể triệt tận gốc được”. Không chỉ có mình dòng họ Nguyễn Hữu, mà dòng họ của chồng Ái hay chồng Yên đều là những tổ mối, nơi phát sinh “sự tha hóa trong hệ tư tưởng có quyền thì có tiền, có quyền thì ban phát cho cả họ và những kẻ thân cận, có quyền thì sẽ duy trì quyền lực cho con cháu mình, quyền lực là thứ đặc quyền cha truyền con nối”. An mong chờ một cơn mưa mang đến sự đổi thay, gột rửa đi bầu không khí ngột ngạt đặc quánh lưu cữu trên thành phố, song sự kiện thay đổi mang tính quyết định cho câu chuyện lại là một vụ án mạng thương tâm làm tan vỡ gia đình.
Nhận thức về nguồn cội và sự đứt gãy thế hệ
Văn chương của Phạm Thị Bích Thủy cuốn hút người đọc không phải bởi những ẩn dụ, biểu tượng nghệ thuật, hay những khoảng trống bỏ ngỏ mà mỗi người đọc đều phải tự có cho riêng mình một câu trả lời; mà bởi cảm giác ngột ngạt trước những lớp lang dày đặc của một hiện thực quá trần trụi, một hiện thực bị vắt kiệt tới cực cùng. Không gian mang tính thơ mộng nhất chính là khoảng sân vườn trong nhà của An, nơi có cây khế quanh năm xanh mát, có tổ chim với chim bố và đàn chim con, không gian được Thường mô tả rằng bất kể ngoài đường có ồn ào tới mấy, thì khi bước qua cánh cổng vào trong sân, người ta liền thấy “lòng rất trong”, như thể mọi tạp nham, bụi bẩn và hỗn loạn của đời sống đều đã bị chặn lại. Khoảng không gian sân vườn nhà An tưởng chừng như một thánh địa khi đặt song song với những không gian khác của tác phẩm: nhà của Thương, nhà của Ái, trong những nhà hàng, khách sạn đặt tiệc tùng, trong những căn phòng họp rộng thênh thang của quan chức cấp cao… Không gian sân vườn cũng chính là không gian từng vang lên tiếng cười nói của cả gia đình, nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự lặng vắng sau biến cố. Sự liên tưởng về vẻ tĩnh lặng và trong lành của sân vườn càng làm bật lên những cơn sóng hỗn loạn của lòng người, kể cả dù trong ngày giỗ của bố, những cô con gái cũng không có cách nào tụ họp lại như ngày xưa. Cuối cùng, trong không gian sân vườn có sức mạnh gột rửa, khiến lòng người được thanh sạch, yên bình như mong ước của ông Bình khi đặt tên cho tứ nữ, nơi ấy đã chỉ còn lại mình An.
Gia đình có bốn chị em gái kết nối quá khứ thời bao cấp và đời sống đương đại ngày hôm nay không chỉ bởi những quan niệm cũ, những tín niệm đã bị bóp méo, những nỗi vất vả và thiếu thốn không cách nào được bù đắp, mà còn chính bởi sự mất mát của những điều cao đẹp, thiêng liêng đáng nhẽ con người phải gìn giữ. An bị những người khác đánh giá là quá trong sạch, liêm chính và công bằng, một tính cách tốt đẹp như thế lại trở thành một sự đáng tiếc, điều này đã chỉ ra được sự nhiễu nhương và gian trá của đời sống xung quanh, khi người ta đã quen với những xảo trá và xu nịnh. Nhưng An cũng là con người luôn hoài niệm về quá khứ, về cha mẹ và nguồn cội của mình: “Giờ mình ăn bao nhiêu thứ nhưng không hiểu sao em vẫn cứ phải nuốt nước miếng mỗi khi nhớ tới mắm tép của bà, của mẹ. Em cứ nhớ tới cái màu áo cháo lòng của bà, của mẹ giống màu của tấm khăn xô màn bịt miệng vại mắm. Em cứ thấy dáng mẹ gầy còm xương xẩu lom khom nghiêm cẩn bên vại mắm mỗi chiều hè. Cứ cảm giác như bà sẽ ngất đi mất nếu chẳng may phát hiện ra vại mắm bị làm sao!”. Trong chuỗi hồi tưởng ấy, An nhìn ra khoảng sân trong veo dưới ánh sáng mùa xuân và như trông thấy hình ảnh của mình và mẹ từ trong quá khứ sống dậy. Những hồi ức trong trẻo và tràn đầy thương yêu đó chỉ xuất hiện trong An, chính Ái sau đó đã phản bác và cho rằng An chỉ bịa chuyện. Những hồi ức ấy đến từ một thời kỳ con người phải sống trong cảnh nghèo đói, khổ sở, nhưng chúng lại như một ánh lửa thắp lên dạy An về tình yêu thương, về lòng biết đủ, về cách sống bền bỉ, kiên cường và trong sạch. Vì thế mà chúng trở thành ánh sáng hiếm hoi soi chiếu toàn cảnh của câu chuyện, chúng khiến người ta phải day dứt trước tâm thế của mình khi nhìn về quá khứ.
Trong Gia đình có bốn chị em gái còn tồn tại sự đứt gãy về thế hệ và văn hóa, đơn cử như một tình tiết về món mắm tép thời xưa được bà, được mẹ làm một cách kỳ công. Trong khi An cho rằng đó là món mắm tép ngon nhất trên đời, thì Ái lại nói rằng thứ mắm đó không thể nào ngon bằng thứ mắm chỉ cần gọi phút chốc là được giao hàng tới, còn Bảo Phúc – một cậu thanh niên trẻ mới đi du học về lại liên tục chê bài mùi mắm, nói rằng Tây gọi nó là dead food, và không hiểu sao người ta lại có thể ăn trong khi còn đầy đồ ăn “vừa ngon, vừa Tây”. Liệu có thể gìn giữ và truyền đạt một nét văn hóa đẹp thuộc về đời sống cũ tới thế hệ sau thế nào nếu chính người từng trải nghiệm nó như Ái cũng đã lãng quên mất? Đây là một tình tiết điển hình trong tác phẩm, khi trước một vấn đề, tác giả trình diện những luồng quan điểm không phải để chúng xung đột hay mâu thuẫn với nhau, mà trong chính sự song hành đầy đối nghịch của chúng, người ta cảm nhận được một sự mất mát trong văn hóa, trong lối sống, trong cách con người cư xử với nhau.
Gia đình có bốn chị em gái đã chỉ ra những tù đọng trong xã hội cũ, nhưng thay vì được khắc phục và sửa đổi, chúng lại trở thành hiện trạng của đời sống đương đại hôm nay, đó là lý do tác phẩm không kết thúc với viễn cảnh về gia đình của An, mà bằng cuộc ăn mừng cho sự ra đời của công ty NEPO – công ty duy nhất được trao quyền nhập mặt hàng thuốc lá phi truyền thống vào Việt Nam nhưng lại kết hợp với một công ty phân phối vốn chỉ là bản “lậu”, kém chất lượng, trên tiền đề sao cho dòng họ Nguyễn Hữu có thể kiếm tiền và tiếp tục làm lũng đoạn thị trường. Theo tiến trình của tác phẩm, Phạm Thị Bích Thủy để dòng thời gian khi gia đình An đã tan nát làm mở đầu, còn ở những trang cuối khép lại cuốn sách lại là sự ra đời của NEPO như một điềm báo cho việc những gia đình khác cũng có thể tan nát như thế trước nguy cơ của bất bình đẳng cơ hội và bất công trong tập trung quyền lực ngày càng gia tăng, từ đó hình thành một kết cấu vòng lặp. Mặt khác, Gia đình có bốn chị em gái cũng có thể xem như một thử nghiệm của người viết, là câu trả lời tự diễn giải trước câu hỏi mà người viết đã đặt ra trong tác phẩm về mối quan hệ dòng tộc họ hàng và khái niệm trách nhiệm với dòng tộc, làng nước của người Việt, và làm thế nào mà những quan niệm sâu sắc và có ý nghĩa lại bị bóp méo, bị hiểu và thực hành theo hướng thực dụng. Từ không gian gia đình, Phạm Thị Bích Thủy đã khắc họa được thực trạng của xã hội cùng sự suy đồi trong đạo đức của con người. Một trong những ý nghĩa của văn chương phải chăng cũng nằm ở đây: khiến mỗi người đọc phải quay lại chất vấn không chỉ những vấn nạn, bất công, khủng hoảng… mà còn phải chất vấn cả những sự thực, hiện trạng mà mình và xã hội vốn xem là lẽ dĩ nhiên, là bao đời nay đã vậy. Chỉ khi có can đảm đối diện với chúng, người ta mới có thể nỗ lực để hướng tới một tương lai không còn những ngột ngạt, tù túng, bất công và đau khổ.
21/1/2025
Nguyễn Mai Anh
Nguồn: Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...