Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Tiểu luận của hội viên mới Võ Quốc Việt ở Long An

Tiểu luận của hội viên mới
Võ Quốc Việt ở Long An

Tác giả Võ Quốc Việt sinh ngày 24.3.1988, quê quán ở ấp Rừng Dầu, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Anh tốt nghiệp Thạc sĩ Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm TPHCM; hiện là Nghiên cứu sinh ngành Lý luận văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM.
Tác phẩm của Võ Quốc Việt đã xuất bản: Hạt phù sa sông nước Cửu Long (chuyên khảo, Nxb. Tổng hợp TPHCM, 2021); Dân gian triết (chuyên khảo, Nxb. Tổng hợp TPHCM, 2023).
Quan niệm văn học của Võ Quốc Việt: “Văn chương là quá trình dấn thân vào nghệ thuật ngôn từ để tìm kiếm chính mình và để nhuần nhị tâm hồn mình bằng tình yêu quê hương đất nước, tình yêu giống nòi, cũng như tình yêu đời sống nói chung. Điểm tựa cho quá trình đó: đất nước, dân tộc và nhân bản”.
Nhà lý luận phê bình Võ Quốc Việt vừa được kếp nạp Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
HIỆN TƯỢNG XUYÊN VĂN HÓA TRONG VĂN CHƯƠNG
Với môi trường toàn cầu hóa đa kết nối, sinh thể văn hóa ngày càng tăng sinh trao đổi chất. Việc này gia tăng khả năng xuyên vượt văn hóa trong đời sống cũng như sinh hoạt văn chương. Hiện tượng xuyên văn hóa trong văn chương đề cập đến việc tương tác và trao đổi năng động các yếu tố văn hóa đa dạng trong thực hành sáng tạo. Tác phẩm văn chương cho thấy sự tích hợp, “hôn phối” nhiều quan điểm, ngôn ngữ và dòng chảy văn hóa khác nhau. Xuyên vượt sinh thể văn hóa đơn lẻ, các vấn đề con người được minh định trong đa hệ quy chiếu văn hóa. Cùng với quá trình toàn cầu hóa sâu rộng, hiện tượng xuyên văn hóa ngày càng phổ biến và đa dạng; góp phần thúc đẩy việc đối thoại giữa các sinh thể văn hóa. Trong hiện tượng này, ta có thể nhận ra đồng thời cả ý hướng bảo tồn căn tính lẫn biến sinh đa dạng văn hóa cùng vận động tạo sinh tính lai ghép của thực hành văn chương.
1. Do đó, việc tìm hiểu hiện tượng xuyên văn hóa trở nên cần thiết; bởi việc này không chỉ cung cấp hiểu biết sâu sắc về các giao diện và ảnh hưởng tích hợp giữa các nền văn hóa mà còn cho thấy khả năng khai thông hòa nhập và đối thoại toàn cầu. Trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bản địa bảo thủ và xu hướng bài ngoại vẫn ngấm ngầm len lỏi, việc nghiên cứu hiện tượng đa/liên/xuyên văn hóa chịu nhiều áp lực hơn nhưng cũng vì vậy trở nên cần thiết hơn. Không chỉ giới nghiên cứu mà giới sáng tác cũng nên tìm hiểu hiện tượng xuyên văn hóa. Bởi nó tăng sinh lưu lượng văn hóa cho trang văn; mở rộng đường truyền ngôn ngữ, tư tưởng và nhờ đó mở rộng không gian tri thức, gia tăng khả năng tiếp nhận “cái khác” trong tinh thần tôn trọng đa dạng cởi mở. Hơn nữa, tìm hiểu hiện tượng này còn giúp người cầm bút nhận ra tiềm năng tích hợp đa văn hóa và hòa nhập xu hướng cộng sinh toàn cầu hiện nay.
Bên cạnh đó, với xu hướng giải quốc gia hóa căn tính (denationalizing identities), văn học dân tộc-quốc gia phải tái thiết để thích ứng với hệ hình văn hóa xã hội đã và đang tiếp tục biến đổi. Sự gặp gỡ, thụ phấn, phối tạo, lai ghép, đột biến và xuyên vượt đã và đang tiếp tục diễn ra trong các nền văn học ở nhiều cấp độ. Hiện tượng xuyên vượt (thậm chí đột biến) văn hóa trong cộng đồng chữ nghĩa toàn cầu khiến cho các khái niệm về gắn bó, bản ngã, căn tính dần chuyển sang thể khí và được biểu thị trong quá trình sáng tạo văn học nghệ thuật. Không ngoại lệ, giới cầm bút Việt Nam ngày càng tiệm cận sinh hoạt văn chương thế giới, bởi không gian trao đổi chất về mặt văn hóa ngày càng đa dạng rộng mở, tạo ra nhiều cơ hội tiếp biến-xuyên vượt văn hóa. Từ những hoạt động của Hội Nhà văn Việt Nam, công chúng nhận thấy xu hướng cộng hưởng khuếch trương sinh hoạt văn chương xuyên quốc gia, như: hợp tác với Hội Nhà văn Thái Lan ấn hành hợp tuyển Hoa sen nở trong dòng chảy văn học (2013); hợp tác cùng Ủy ban Đoàn kết Ấn Độ – Việt Nam xuất bản tuyển tập Hợp dòng văn học Việt Nam – Ấn Độ (2021); giao lưu với Hội Nhà văn Hangeul (Hàn Quốc, 2022). Và theo Báo Nhân Dân, ngày 15/10/2024 tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác với Viện Văn học Pakistan; trong đó có những hoạt động như “tổ chức giao lưu, tìm hiểu thiên nhiên, đất nước con người ở mỗi nước; tổ chức hội thảo, trao đổi nghề nghiệp, đào tạo chuyên môn giữa nhà văn các nước; tổ chức dịch giới thiệu các tác phẩm văn chương của các nước; quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới về Việt Nam”. Có thể nói, Hội Nhà văn Việt Nam ngày càng chủ động và đóng vai trò quan trọng hơn nữa trong việc gia tăng tính linh động văn hóa trong sinh hoạt văn chương, góp phần phát triển thế hệ nhà văn xuyên văn hóa đương đại và tăng cường thương hiệu văn chương Việt trên thế giới.
2. Có thể chưa đầy đủ, song cần thiết nói đến vài khía cạnh cốt yếu của hiện tượng xuyên văn hóa trong tác phẩm văn chương như là tính chất giao thoa, thấm nhuần, hóa hợp, chuyển biến, xuyên vượt giữa các căn tính văn hóa, nhất là những căn tính văn hóa vốn hiện diện trong tình thế nhị nguyên, như: phương Tây-phi phương Tây, bản địa-thực dân; giai cấp thống trị-bị trị; văn hóa – phản văn hóa; da trắng – da màu; dị giới – đồng giới; … Hiện tượng xuyên văn hóa trong văn chương phản ánh quá trình tái định hình căn tính và tái thiết lối suy tưởng tập thể trong nỗ lực điều chỉnh tầm nhìn hướng về giá trị quốc tế rộng rãi và cập nhật thời đại (liên quan đến nhiều phương diện đời sống như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, …). Thử nhìn vào địa hạt văn học phi hư cấu, các tác giả nữ cho thấy ý hướng xuyên văn hóa rất đa dạng đặc sắc, như: Krishnabhabini Das (A Bengali Lady in England, 1885, Ấn Độ); Tam Mao (撒哈拉的故事/Câu chuyện Sahara, 1974-1976, Đài Loan); Yū Miri (ピョンヤンの夏休みわたしが見た「北朝鮮」/ Summer vacation of Pyongyang – I have seen “North Korea”, 2011, Nhật Bản gốc Hàn); Phan Việt (Một mình ở Châu Âu, 2013, Việt Nam); Nguyễn Phương Mai (Con đường Hồi giáo, 2014, Việt Nam); Úna-Minh Kavanagh (Anseo, 2019, Ireland gốc Việt); … Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của dòng chảy thịnh thế ở vị trí chính lưu của nền văn học nhưng thực tiễn cho thấy các nền văn học ngày càng đa dạng hơn với sự phân chia nhiều tiểu lưu và phạm vi lưu vực của một nền văn học vì thế cũng không ngừng mở rộng. Từ trường hợp Han Kang, công chúng ít nhiều nhận ra có hệ trường lực tác động đến việc tiếp nhận hay không tiếp nhận nền văn hóa nào, dịch hay không dịch nền văn học nào, phân phối hay không phân phối tác phẩm văn học của quốc gia nào ra thế giới, … đó là thực tiễn và thay vì than phiền về sự bất bình đẳng hay “bá quyền” của trường lực văn hóa nào đó thì ta có thể tận dụng hệ trường lực này để thúc đẩy khả năng phân phối văn học Việt Nam ra thế giới. Nhìn từ góc độ này, quả thực Hội Nhà văn Việt Nam với nhiều hoạt động thiết thực đã chủ động và ngày càng nhạy bén hơn trong việc xây dựng thương hiệu và xuất khẩu văn học Việt Nam ra nước ngoài.
Từ góc độ cá nhân, những người trực tiếp tham gia vào hệ trường lực này không ai khác chính là những văn thi sĩ. Nửa đầu thế kỷ XX, Phùng Tất Đắc giới thiệu Cạm bẫy người (1934) và Kỹ nghệ lấy Tây (1936) của Vũ Trọng Phụng như sau: “Không những ngòi bút ấy đã ghi được sự thực, lại còn ghi được cả cái thực trạng của sự thực nữa: ghi được cái trạng thái biến hiện trong chớp mắt, cái trạng thái phức tạp hỗn độn và bình dị linh hoạt của sự thực hằng ngày xô đẩy quanh mình”[1]. Thực trạng mà Nhà xuất bản Phương Đông gọi là “Đông tây điều hòa với nhau, “ăn nằm” với nhau mà đẻ ra một đứa con. Một đứa con dị hình, dị tướng. Đứa con ấy là “Kỹ nghệ lấy Tây””[2]. Nhận định của Phùng Tất Đắc và nhà Phương Đông khi ấy cũng cho thấy ảnh hưởng/đột biến/di chứng phức tạp do văn hóa thực dân phương Tây để lại trong nền văn hóa Việt. Trong văn học miền Nam trước 1975, Minh Đức Hoài Trinh với Lá thư hải ngoại (Bách Khoa số 95-96, 1960), Lá thư Alger (Bách Khoa số 97, 1961); hay Trần Văn Khê với Lá thư Thụy Sĩ (Bách Khoa số 154, 1963); Lá thư Jerusalem (Bách Khoa số 161-162-163, 1963) cho thấy quá trình du hành giữa các nền văn hóa, bộc lộ khả năng xuyên văn hóa rất thú vị. Có thể nói, bằng chính trải nghiệm cá nhân hết sức đa dạng trong cuộc sống di động toàn cầu, trong môi trường văn hóa khác biệt, phải thích nghi với lối sống ngoại quốc, người cầm bút dần biểu thị tâm thức xuyên văn hóa. Tuy nhiên, sự du hành văn hóa không chỉ thay đổi không gian sống; mà cốt tủy du hành xảy ra trong địa hạt tinh thần. Qua giáo dục và truyền thông hiện đại, sự du hành văn hóa xảy ra muôn hình vạn trạng. Điều này lý giải vì sao người cầm bút thời nay ngày càng cho thấy tâm thức xuyên văn hóa khi đến với trang viết.
Sống trong thế giới siêu kết nối, thế hệ cầm bút trẻ tiếp tục cho thấy tinh thần nhạy bén, linh động xuyên văn hóa. Có thể vì di dân, du học, hôn nhân hoặc nhiều lý do khác, môi trường sống và sáng tác của văn thi sĩ trẻ hôm nay ngày càng đa chiều kích. Vụn ký ức (2022) của Yang Phan với truy vấn ký ức mà đúng hơn truy vấn căn tính văn hóa của chàng trai gốc Á (học khoa học vũ trụ, sống ở ngoại quốc). Tác phẩm cho thấy những lằn ranh sắc tộc-quốc gia-văn hóa mờ nhạt bởi cộng hưởng ký ức của bà cụ tám mươi, cô ca sĩ nhạc rock, người mẹ bị cầm tù trong mối tình độc hại. Bể trăng côi (2023) của Huỳnh Trọng Khang lại là những chiều kích đô thị cận kề với tính đương đại nhưng cũng có nét trầm mặc của viễn mộng phương Đông; tình huống truyện của Khang là tình thế lai ghép của những căn tính/cơ tầng văn hóa mà con người thời nay bẩm thụ để làm điểm tựa sống hiện. Ca nhạc sĩ, nhà thơ Trần Đức Dân/ 陳德民 (bút danh khác Đức Cẩu/ 德狗), có mẹ là người Việt Nam cha là người Đài Loan, đã thân tình chia sẻ về dấu ấn văn hóa Việt trong tư duy nghệ thuật của mình; anh ắp ủ tích hợp văn hóa nghệ thuật Việt-Đài trong sáng tác[3].
Những ví dụ trên cho thấy hiện tượng xuyên văn hóa vốn đã tồn tại trong văn học Việt cũng như văn học thế giới qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Song bối cảnh giải lãnh thổ hóa-giải dân tộc hóa, cùng với hiện tượng di dân ngày càng phổ biến và khả năng nối dài hiện diện văn hóa bằng ứng dụng công nghệ, thực sự đã mở ra triển vọng mới cho hiện tượng xuyên văn hóa trong văn học nghệ thuật nói chung. Những lằn ranh văn hóa khu vực/ quốc gia/ dân tộc cơ hồ mờ nhạt (thậm chí tiêu biến) trước tiến vượt công nghệ. Từ thực tiễn xã hội đến trang văn, công chúng dần nhận thấy xuyên văn hóa không chỉ hiện tượng văn chương trong số nhiều biểu hiện mà đã trở nên một trong số đặc điểm chủ yếu của nền văn học thời nay. Do đó, việc nói đến “nhà văn xuyên văn hóa” không phải chỉ là đề xuất khái niệm mà thuật ngữ này đã có ngoại diên cụ thể.
3. Cùng với xu hướng gia tăng cộng sinh-cộng hưởng-khuếch trương xuyên vượt văn hóa trong văn học, ta cũng thấy xuất hiện các biến thể di dân, du hành, hậu thuộc địa và xuyên quốc gia; tạo thành trường cộng hưởng xuyên văn hóa. Tồn tại trong bối cảnh sinh thể văn hóa tăng cường trao đổi chất, không thể đặt vấn đề nên hay không nên thúc đẩy xuyên văn hóa trong văn chương; mà nên nhìn nhận giá trị mang lại và tận dụng giá trị xuyên văn hóa như thế nào. Bên cạnh việc tăng cường khả năng đề kháng và sức cạnh tranh văn hóa của nền văn hóa dân tộc-quốc gia, hiện tượng xuyên văn hóa trong văn chương hiện diện như nỗ lực thích nghi môi trường toàn cầu hóa kèm theo những nguy cơ của nó, cụ thể: xâm thực văn hóa. Không thể đặt vấn đề bảo tồn nền văn hóa dân tộc mà xem nhẹ giá trị xuyên văn hóa, ngược lại chính trong sự xuyên vượt văn hóa có thể góp phần khu biệt căn tính văn hóa dân tộc. Cụ thể hơn, xuyên văn hóa mang lại khả năng mở rộng nhãn quan và chia sẻ kinh nghiệm sáng tác; làm phong phú thêm và tăng cường trao đổi hàm lượng văn hóa; nâng cao nhận thức để đề kháng bá quyền văn hóa; góp phần đa phương hóa đối thoại văn hóa trong thực hành sáng tạo. Trang văn xuyên văn hóa còn giúp người cầm bút tránh vấp phải sự loại trừ/gạt ra bên lề những hiện tượng văn hóa yếu thế-lai ghép; ngược lại càng cho thấy vẻ đẹp của sự lai ghép căn tính văn hóa; tạo thuận lợi cho đối thoại và giải quyết xung đột (đặc biệt là những vấn đề liên quan sắc tộc, tôn giáo). Nhìn bao quát, hiện tượng này thách thức và nhờ đó (gián tiếp hoặc trực tiếp) góp phần tái thiết hệ hình văn học truyền thống, thúc đẩy vận động sinh thể văn hóa dân tộc-quốc gia.
4. Và từ hiện tượng xuyên văn hóa trong văn chương, ta nhận thấy sự vận động từ xu hướng đọc văn hóa truyền thống đến xu hướng đọc văn hóa hiện đại. Xu hướng đọc văn hóa truyền thống nhấn mạnh vào văn hóa của một quốc gia hoặc khu vực cụ thể, thường coi đó là tổng thể mạch lạc và thống nhất: tập trung vào các tiêu chuẩn văn học và bối cảnh lịch sử đã được thiết lập, thường là những tác phẩm đặc quyền được coi là “kinh điển”; phân tích cách thức văn học phản ánh các chuẩn mực xã hội, hệ tư tưởng và cấu trúc quyền lực hiện hành; khám phá cách thức văn học bảo tồn và truyền tải di sản, giá trị và truyền thống văn hóa. Trong khi đó, lối đọc văn hóa hiện đại phân tán tập trung vào sự đại diện và bao gồm các quan điểm văn hóa đa dạng trong một xã hội nhất định. Cách tiếp cận này nhấn mạnh tiếng nói và trải nghiệm của các nhóm thiểu số hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội, thách thức sự thống trị của diễn ngôn văn hóa thịnh thế. Nó cứu xét sự tương tác, trao đổi và ảnh hưởng giữa các nền văn hóa khác nhau. Cách tiếp cận này làm nổi bật khía cạnh đối thoại và quan hệ của những cuộc gặp gỡ văn hóa và khám phá cách thức tương tác hình thành bản sắc và hình thức văn học. Cho nên, đọc văn hóa hiện đại luôn cho thấy ý hướng vượt ra ngoài ranh giới các nền văn hóa cụ thể để khám phá tính trôi chảy/trơn trượt/tính lỏng và tính lai ghép của bản sắc văn hóa. Theo đó, nó xem xét cách các yếu tố văn hóa vượt qua giới hạn, tích hợp và tạo ra các hình thức biểu đạt văn hóa mới, phức tạp hơn; tính đến cả tác động bằng “quyền lực mềm” của chủ nghĩa thực dân mới (neo-colonialism) và chủ nghĩa tư bản giám sát (surveillance capitalism) đối với trường lực sản xuất văn hóa (mà Hoa Kỳ và phương Tây muốn duy trì). Cách đọc văn hóa hiện đại thường thách thức quan điểm “dĩ Hoa vi trung” lẫn “phương Tây trung tâm”, hướng đến đa phương hóa đối thoại văn hóa. Qua đó, ta có thể nhận thấy cách đọc văn hóa hiện đại thường kết hợp các lý thuyết mang tinh thần phê phán (như hậu thuộc địa luận, hậu nữ quyền luận, hậu nhân bản luận, thuyết lệch pha, …) để thách thức bá quyền văn hóa và khám phá sự phức tạp của bản sắc văn hóa.
5. Với nhãn quan này, văn chương thế giới dần trở nên sinh quyển lưu thông văn hóa, khả năng trao đổi chất và đột biến văn hóa ngày càng tăng. Trong môi trường gặp gỡ/va chạm văn hóa ngày càng sâu rộng, người cầm bút hẳn thấu hiểu rất sâu sắc sự lai ghép đang diễn ra mạnh mẽ trên trang văn. Căn tính có xu hướng khu biệt, nhưng nó cũng dao động và vì thế không loại trừ cộng hưởng-cộng sinh. Dù muốn dù không, hiện tượng xuyên văn hóa vẫn đã và đang tiếp tục diễn ra ngày càng đa dạng, dày đặc, sâu sắc, phổ biến. Bảo tồn nền văn hóa dân tộc là quan niệm cần thiết, đáng ủng hộ; nhưng kháng cự xuyên văn hóa có thể khiến cho nền văn học dân tộc trở nên lỗi thời. Trong khi đó, văn hóa-văn học Việt Nam có thuận lợi khi ở ngã ba đường văn hóa và tư tưởng thế giới. Có những yếu tố địa văn hóa nên tận dụng khi Việt Nam nằm ở điểm giao thoa, hội tụ của khu vực văn hóa Đông Á và Đông Nam Á. Không chỉ những đường truyền văn chương vốn có giữa Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản, lãnh thổ Đài Loan, bán đảo Triều Tiên; mà hiện nay giao lưu văn học nghệ thuật Việt Nam với Đông Nam Á và nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng tỏ ra nhiều triển vọng. Bằng chứng là việc chuyển ngữ, giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa lực lượng sáng tác các nước và cả trong nghiên cứu văn học xuyên quốc gia-khu vực.
Từ những bàn luận sơ khởi này, dù chưa thật sự đầy đủ nhưng ít nhiều gợi mở cho bạn đọc về khả năng phát triển văn chương như sản phẩm văn hóa đáp ứng ý hướng phát triển nền công nghiệp văn hóa hiện nay. Trên thực tế, nếu được xem như sản phẩm văn hóa, văn chương có thuận tiện và ưu thế trong việc giới thiệu, chuyển tải và tích hợp giá trị văn hóa Việt Nam độc đáo đa dạng trong môi trường văn chương thế giới. Kỳ thực đã có ý tưởng xây dựng thương hiệu văn hóa-văn học Việt Nam đương đại, nhưng liệu việc này đã được bàn luận và hiện thực hóa tương xứng với tiềm năng vốn có? Truy vấn này không thể được trả lời bằng việc bàn luận mà chỉ có thể được trả lời triệt để bằng những hoạt động cụ thể. Và trong nỗ lực như thế, Hội Nhà văn Việt Nam đã thể hiện vai trò chủ đạo và chủ động với nhiều hoạt động ngày càng đa dạng và thiết thực. Theo đó, công chúng hoàn toàn có thể tin tưởng về việc khuếch trương thương hiệu văn học Việt trong tương lai.
Chú thích:
[1] Kỹ nghệ lấy Tây (phóng sự, Phùng Tất Đắc đề tựa). Hanoi. Nxb. Phương Đông, tr.5.
[2] Vũ Trọng Phụng (1936). Kỹ nghệ lấy Tây (phóng sự, Phùng Tất Đắc đề tựa). Hanoi. Nxb. Phương Đông, tr.3.
[3] Dẫn theo Kiều Bích Hậu (2024). Gặp dòng máu Lạc Hồng tại Đài Loan. Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống – Số 22 Bộ Mới (67), tháng 9 & 10 năm 2024, tr.137-141.
Rừng Dầu, 20/10/2024
Võ Quốc Việt
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...