Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Tiểu luận của hội viên mới Đặng Thị Bích Hồng ở Hà Nội

Tiểu luận của hội viên mới
Đặng Thị Bích Hồng ở Hà Nội

Tác giả Đặng Thị Bích Hồng sinh năm 1986 tại Phú Thọ, từng là giảng viên Trường Đại học Hùng Vương, hiện là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tác phẩm chính của Đặng Thị Bích Hồng đã xuất bản: Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam. Tiểu luận. Viết chung. Nxb Tri thức. Việt Nam. 2013; Ecologies in Southeast Asian Literatures Histories, Myths and Societies. Tiểu luận. Viết chung. Nxb Vernon. Hoa Kì. 2019; Phản trinh thám và tiểu thuyết Paul Auster. Chuyên luận. Viết riêng. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam. 2021; Giáo trình Văn học tỉnh Phú Thọ. Giáo trình. Chủ biên. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Việt Nam. 2022; Những nghiệm đọc. Tiểu luận. Viết riêng. Nxb Văn học. Việt Nam. 2024.
Các công trình của Đặng Thị Bích Hồng tập trung chủ yếu vào phê bình hậu hiện đại, văn học phản trinh thám và phê bình sinh thái. Chị đã đăng khoảng 30 bài báo trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước, đồng thời thực hiện các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực văn học ở nhiều vai trò khác nhau: thành viên 01 đề tài NCKH cấp tỉnh, 01 đề tài NCKH cấp Bộ, 01 đề tài NCKH cấp nhà nước; Chủ nhiệm 06 đề tài NCKH cấp cơ sở; 01 đề tài NCKH cấp nhà nước.
Nhà lý luận phê bình Đặng Thị Bích Hồng vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
Văn học trinh thám trên thế giới và ở Việt Nam:
Diện mạo, đặc trưng và xu hướng
Mở đầu
Sự phát triển của văn học trinh thám là một trong những hiện tượng mang tính toàn cầu. Kinh qua không ít thăng trầm trong định giá của giới nghiên cứu phê bình, truyện trinh thám đã khẳng định được chỗ đứng trên văn đàn đương đại. Cuối thế kỉ XX, xu hướng phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ tạo ra một hiệu quả bất ngờ: văn học trinh thám vượt ra ngoài định kiến về thứ “á văn chương” để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của lớp độc giả có trình độ tri thức, học vấn cao. Từ góc độ nghiên cứu, nhiều nhà phê bình hình dung đó là một thể loại văn học tĩnh tại và nguyên khối, luôn vừa vặn trong những mô hình, công thức đã được định sẵn. Nhưng sự thể nghiệm sáng tạo truyện trinh thám lại cho thấy một thực tế khác: bộ phận văn học này đã tham gia vô cùng linh động vào quá trình đổi mới lối viết. Từ khi chính thức trở thành một thể loại độc lập, văn học trinh thám đã đi qua chặng đường phát triển gần tròn 2 thế kỉ với nhiều hình thái khác nhau: trinh thám cổ điển, trinh thám đen, trinh thám chính trị, trinh thám tâm lí, phản trinh thám. Và mỗi hình thái truyện trinh thám trong tiến trình ấy lại dự phần vào làm mới diện mạo thể loại.
1. Truyện trinh thám cổ điển
Bắt đầu từ hình thái đầu tiên trong tiến trình phát triển thể loại trinh thám, truyện trinh thám cổ điển được mô tả là những tác phẩm xoay quanh vụ án và hành trình điều tra. Thể loại này chính thức xuất hiện từ tháng 4 năm 1841 bằng sự kiện Edgar Poe công bố truyện ngắn về thám tử người Pháp tài ba Ausguste Dupin: Vụ án đường Morgue. Từ câu chuyện tội ác đầu tiên tại phố Morgue song sinh với đề tài về sự bí ẩn diễn ra bên trong căn phòng khóa kín, truyện trinh thám cổ điển đã phát triển nở rộ ở Anh, Pháp và sau đó lan rộng ra nhiều nước trên thế giới như Nga, Nhật, Trung Quốc… Khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến được định danh là “thời đại hoàng kim của truyện trinh thám”.
Ở Việt Nam, cuộc giao thoa tiếp biến văn hóa phương Tây diễn ra những năm đầu thế kỉ XX là bối cảnh thuận lợi để nhiều tác phẩm văn học trinh thám bằng tiếng Pháp của Edgar Poe, Conan Doyle, Gaston Leroux, Maurice Leblanc, Georges Simenon… được dịch sang tiếng Việt. Một số nhà văn Việt Nam đã mô phỏng, vận dụng cách viết truyện trinh thám của các nhà văn phương Tây. Phạm Cao Củng với khoảng 20 tiểu thuyết và truyện ngắn về đề tài trinh thám được coi là người viết truyện trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam. Trong thế giới nhân vật thám tử của Phạm Cao Củng, nếu Kì Phát gần với Sherlock Holmes của Conan Doyle thì Tám Huỳnh Kì lại mang dáng dấp của Arsène Lupin – một kiểu nhân vật phản Sherlock Holmes của Maurice Leblanc. Cùng với Phạm Cao Củng, Thế Lữ cũng là cây bút có nhiều đóng góp cho văn học trinh thám Việt Nam thời kì này. Các tác phẩm của ông xoay quanh câu chuyện điều tra của hai phóng viên Lê Phong và Mai Hương. Sau năm 1945, truyện trinh thám Việt Nam gián đoạn một thời gian. Từ những năm 80 của thế kỉ XX đến nay, hình thức cổ điển của thể loại văn học này xuất hiện trở lại dưới dạng tiểu thuyết điều tra với Hồ sơ chưa kết thúc của Phùng Thiên Tân, Kế hoạch J96 của Trần Tử Văn, Phía sau một cái chết của Võ Duy Linh, Cổ cồn trắng của Nguyễn Như Phong, Vũ điệu tử thần của Trần Thanh Hà, Trại hoa đỏ của Di Li…
Năm 1928, Van Dine đưa ra 20 nguyên tắc được coi như “khuôn vàng thước ngọc” của truyện trinh thám mà Todorov tóm gọn lại trong 8 điểm khi bàn về thể loại văn học này, đó là: “1. Cuốn tiểu thuyết phải có nhiều nhất là một thám tử và một thủ phạm, và ít nhất là một nạn nhân (một xác chết). 2. Thủ phạm không được là một tội phạm chuyên nghiệp; không được là thám tử; phải giết người vì lí do riêng của cá nhân. 3. Ái tình không có chỗ trong tiểu thuyết trinh thám. 4. Thủ phạm phải có một tầm quan trọng nào đó: a. Trong đời: không phải là một nam hay nữ hầu phòng. b. Trong sách: là một trong các nhân vật chính. 5. Mọi sự đều phải được giải thích một cách duy lí; cái kì ảo không được chấp nhận ở đây. 6. Không có chỗ cho miêu tả cũng như phân tích tâm lí. 7. Với các thông tin về truyện, cần tuân thủ sự đối ứng sau: “tác giả: độc giả = tội phạm: thám tử”. 8. Cần tránh các tình thế và các giải pháp tầm thường tẻ nhạt”(1). Những nguyên tắc mà Van Dine đưa ra nằm trong khuôn khổ của tiểu thuyết ẩn ngữ, ứng với chặng đầu tiên trong tiến trình phát triển song hành và nối tiếp của ba hình thái truyện trinh thám: tiểu thuyết ẩn ngữ, tiểu thuyết đen và tiểu thuyết phân vân hồi hộp. Tiểu thuyết ẩn ngữ vinh hiển trong khoảng giữa hai cuộc đại chiến. Kiểu tác phẩm này luôn chứa đựng hai truyện: truyện về tội ác và truyện về cuộc điều tra, trong đó truyện về tội ác kết thúc trước khi bắt đầu truyện thứ hai. Tzvetan Todorov đánh giá Michel Butor là người khái quát hay nhất về đặc trưng của thể loại này khi kí thác vào lời nhân vật George Burton trong Thời gian biểu rằng: “mọi cuốn tiểu thuyết trinh thám đều xây dựng trên hai vụ giết người, vụ thứ nhất do kẻ sát nhân tiến hành chỉ là cơ hội cho vụ thứ hai trong đó y là nạn nhân của sát thủ trong sạch và không thể bị trừng phạt, nạn nhân của người thám tử”2.
Truyện trinh thám cổ điển đòi hỏi cao độ về tư duy duy lí, nhất là trong việc tổ chức các sự kiện. Tzvetan Todorov khẳng định, lĩnh vực văn học này có những chuẩn mực thẩm mĩ bất di bất dịch, làm “tốt hơn” hay “kém đi” những chuẩn mực đó đòi hỏi, truyện trinh thám sẽ không còn là nó nữa. Theo Tzvetan Todorov, nền tảng của trinh thám cổ điển là tính nhị nguyên truyện, trong đó, nếu như câu chuyện về tội ác kể lại điều đã xảy ra thực sự thì câu chuyện về cuộc điều tra lí giải quá trình người đọc (hay người kể chuyện) nhận thức về điều đã xảy ra đó. William Spanos tổng kết nguyên tắc điều tra bao gồm: phải dựa vào sự quan sát nhạy bén với những suy luận chặt chẽ về mối quan hệ nhân quả giữa các manh mối; các manh mối phải được xuất hiện theo trình tự thời gian nhằm gợi mở hướng giải quyết cho vấn đề; vấn đề được giải quyết phải là những điều chắc chắn mà khoa học và tâm lí học có thể chứng minh được theo phương pháp quy nạp. Bắt đầu từ truyện ngắn của Edgar Allan Poe, tiến xa qua những sáng tác của Arthur Conan Doyle, Agatha Christie, Dorothi Leigh Sayers, Ellery Queen… mô hình truyện trinh thám đã minh chứng cho sức mạnh của con người cá nhân để giải mã thế giới bí ẩn mà anh ta đối mặt. Theo đó, khi tiếp xúc với tác phẩm, độc giả hào hứng với niềm tin chắc chắn rằng không gì có thể ngăn được sự thắng thế của lẽ phải dù sự kiện có kì quái hay bề ngoài có vẻ bất khả giải đến đâu đi chăng nữa. Trạng thái chờ đợi hồi hộp, điều bí ẩn, tội ác, sự tác động qua lại không ngừng giữa đúng và sai, tốt và xấu là những nội dung phổ biến và làm nên sức hấp dẫn của truyện trinh thám cổ điển.
2. Truyện trinh thám đen
Truyện trinh thám đen khởi nguồn từ Mĩ trước Đại chiến thứ hai và sau đó nở rộ ở Pháp. Người khởi xướng tiểu thuyết đen tại Pháp Marcel Duhamel miêu tả thể loại này quanh hằng số của bạo lực, tội ác, vô luân… Trong truyện trinh thám đen, tìm tòi khảo sát thay thế cho những hồi cố. Niềm quan tâm thích thú của độc giả chuyển từ sự hiếu kì trên hành trình đi từ kết quả đến nguyên nhân ở tiểu thuyết ẩn ngữ sang sự phân vân hồi hộp trên hành trình đi từ nguyên nhân đến kết quả ở tiểu thuyết đen. Lí giải sự đổi thay này, Tzvetan Todorov cho rằng, “các nhân vật chính của tiểu thuyết ẩn ngữ (thám tử và bạn anh ta, người kể chuyện), theo định nghĩa, là bất khả xâm phạm: chẳng điều gì có thể xảy ra với họ. Tình thế đảo ngược trong tiểu thuyết đen: mọi sự đều có thể, và thám tử nếu không liều mạng sống thì cũng là liều sức khỏe”3. Ở truyện trinh thám đen, những quy tắc mà Van Dine đưa ra đã không hoàn toàn phù hợp nữa. Tzvetan Todorov dẫn chứng, trong tiểu thuyết đen, tội phạm hầu như không bắt buộc phải là một kẻ chuyên nghiệp và không giết người vì lí do cá nhân, ái tình mang tính thú vật thường được ưa chuộng… Sự xuất hiện của truyện trinh thám đen cho thấy xu hướng phủ định lí trí, tạo ra những tác phẩm vừa dữ dội bạo lực, vừa có sự pha trộn độc đáo giữa chủ nghĩa hoài nghi với chủ nghĩa lãng mạn.
Có thể nói, truyện trinh thám đen ra đời và phát triển vào những năm đầu thế kỉ XX là kết quả sự phản ứng trực tiếp với một số đặc trưng của truyện trinh thám cổ điển. Xuất phát từ quan điểm truyện trinh thám cổ điển quá xa thực tế, “quá Anh” cho nước Mĩ, các nhà tiểu thuyết đen tiêu biểu như Dashiell Hammett, Raymond Chandler, James Hadley Chase đã tạo nên một phong cách mới cho văn học trinh thám – nơi thám tử tin vào sức mạnh tuyệt đối của điều bí ẩn. Trong bối cảnh tội ác trở thành đại dịch, trụ cột của xã hội trung lưu với những đô thị hiện đại, những công dân đáng kính, những định chế của pháp luật và trật tự bắt đầu sụp đổ, tay thám tử bị ném vào trò đuổi bắt thủ phạm, đuổi bắt giải pháp như ném vào một cuộc chơi may rủi. Stefano Tani nhận diện hình tượng thám tử trong tiểu thuyết trinh thám đen là “người anh hùng đơn độc, bám víu vào một mã cá nhân”4. Anh ta thế chỗ cho Dupin hay Sherlock Holmes, sử dụng sức mạnh của nắm đấm, của súng đạn và trở thành một kiểu phản anh hùng mới. Ở tiểu thuyết trinh thám đen, nhân vật thám tử không chỉ chú trọng vào hành động thay vì lí trí mà còn phủ nhận vai trò của lí trí, phủ nhận khả năng của các giải pháp trong một thế giới lộn xộn khôn cùng.
Những thập niên cuối thế kỉ XX, các tiểu thuyết vụ án trong văn học Việt Nam như Người không mang họ của Xuân Đức, Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều, Bí mật những cuộc đời của Nguyễn Như Phong… gần với tiểu thuyết trinh thám đen phương Tây ở khía cạnh: diễn tiến của vụ hình sự thế chỗ cho diễn tiến của cuộc điều tra. Tuy nhiên, khác với trinh thám đen phương Tây thể hiện cái nhìn phủ nhận xã hội, tiểu thuyết vụ án Việt Nam ghi nhận cuộc đấu tranh của công an, của những lực lượng tiến bộ để chống lại cái phản tiến bộ trong đời sống.
3. Truyện trinh thám chính trị
Truyện trinh thám chính trị bắt nguồn từ nước Anh những năm đầu thế kỉ XX. Song hành với các sự kiện chính trị lớn của thế giới, hình thái văn học này chủ yếu khai thác nguồn chất liệu thực tế. Nhà văn đa số là những người có kinh nghiệm trong hoạt động tình báo; nhân vật, sự kiện xuất phát từ người thật, việc thật. Kim của Rudyard Kipling, Điệp viên bí mật của Joseph Conrad là những cuốn tiểu thuyết trinh thám chính trị đầu tiên trên thế giới. Bước vào thời kì chiến tranh lạnh, cùng với sự lớn mạnh của những tổ chức tình báo như CIA của Mĩ, KGB của Nga, MI5-MI6 của Anh, Mossad của Israel…, tiểu thuyết trinh thám chính trị đã phát triển ở nhiều quốc gia khác nhau. Những tác phẩm của Ian Fleming, John Le Carré, Graham Greene (Anh), Yulian Semenov, Vladimir Bogomolov (Nga), Charles McCarry, Tom Clancy (Mĩ)… hấp dẫn đông đảo độc giả phương Tây. Đến cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, một số cây bút trinh thám như Frederick Forsyth, Tom Clancy đã chuyển hướng khai thác hoạt động gián điệp trong cuộc chiến chống khủng bố đầy khốc liệt.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết tình báo – phản gián là thuật ngữ được sử dụng quen thuộc, tương đương với thuật ngữ tiểu thuyết trinh thám chính trị ở phương Tây. Hình thái văn học này bắt đầu xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Nó hé lộ cuộc chiến thầm lặng của những chiến sĩ tình báo, trinh sát bên cạnh cuộc chiến của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc. Sau ngày đất nước thống nhất, nhu cầu nhận thức lại chiến tranh cùng một loạt tiểu thuyết gián điệp của Liên Xô, Anh được dịch sang tiếng Việt đã thúc đẩy sự phát triển của tiểu thuyết tình báo – phản gián ở Việt Nam. X30 phá lưới của Đặng Thanh, Ván bài lật ngửa của Nguyễn Trương Thiên Lý xuất hiện thường kì trên các trang báo. Hữu Mai với hai tác phẩm Ông cố vấn và Đêm yên tĩnh đã trở thành tác gia trinh thám tiêu biểu của Việt Nam tham gia Hiệp hội các nhà văn trinh thám thế giới.
4. Truyện trinh thám tâm lí
Sự xuất hiện của truyện trinh thám tâm lí như là một cách đối thoại với quan niệm từng phổ biến, rằng thể loại văn học này “không có chỗ cho miêu tả cũng như phân tích tâm lí” (Van Dine)5. Đặng Anh Đào khi nghiên cứu về “Nữ tác gia và truyện trinh thám” cũng nhắc đến 8 nguyên tắc mà Tzvetan Todorov đã tóm lược nhưng không phải để minh họa cho những quy tắc đó mà để nhấn vào sự đổi mới của truyện trinh thám trong đời sống văn học hiện đại, đặc biệt là sự bùng rộ yếu tố miêu tả và phân tích tâm lí. Tác giả lập luận, “trong xã hội hiện đại, khi những căn bệnh tâm thần phát triển, cũng như sự tiến bộ của khoa học hình sự dẫn đến vai trò nổi bật và mới mẻ của những chuyên gia, bác sĩ, nhà tâm lí tội phạm, truyện trinh thám hiện đại càng phải khai thác những vấn đề bất ổn của nhân cách, bản năng”6. Trong quá trình phát triển, văn học trinh thám đã trở thành địa hạt khai thác đời sống tâm lí tội phạm với những bất ổn nhân cách, đặc biệt là sự bất ổn ở lớp người có trình độ, hiểu biết trong một xã hội phát triển vượt bậc về khoa học, công nghệ. Truyện trinh thám hiện đại không từ chối những giải pháp tâm lí mà trái lại, coi yếu tố thuộc về tâm lí là cơ sở để truy tìm căn nguyên hành vi con người. Có thể kể tới những nhà tiểu thuyết trinh thám đã kiến tạo tác phẩm đạt tới độ một công trình khai thác tâm lí nhân vật như Georges Simenon (Pháp), Patricia Cornwell (Mĩ), Rut Rendell (Anh), Ingrid Noll (Đức), Alecxandra Marinina (Nga), Lôi Mễ (Trung Quốc)…
Tiểu thuyết điều tra của Việt Nam là hình thức gần nhất với trinh thám cổ điển nhưng vẫn nổi bật yếu tố phân tích tâm lí. Bên cạnh đó, ở tiểu thuyết vụ án, các nhà văn thay vì bám sát hành trình khám phá tội ác lại tập trung vào kẻ phạm tội với những chi tiết phân tích hành vi, động cơ gây án. Một thế giới không có đàn bà của Bùi Anh Tấn, Hồ sơ một tử tù của Nguyễn Đình Tú… là những tiểu thuyết trinh thám đậm đặc yếu tố tâm lí. Sự đan xen yếu tố tâm lí vào truyện kể làm cho cốt truyện trinh thám có độ dư thừa đáng kể, tuy nhiên, đó chính là một trong những con đường để thể loại trinh thám “ăn vào văn chương tiểu thuyết theo lối thực bào, đôi khi cưỡng hiếp nó, nhưng lại cho nó những đứa con thật đẹp”7 như cách nói của Michel Lebrun.
5. Truyện phản trinh thám
Sáng tác phản trinh thám manh nha từ những năm đầu thế kỉ XX trong Vụ án của Franz Kafka và tiếp tục phát triển đến giữa thế kỉ với Chân dung một người xa lạ của Nathalie Sarraute, Bộ ba của Samuel Beckett, Những cục tẩy của Robbe-Grillet, Nạn nhân của trách nhiệm của Eugène Ionesco…  Trong bối cảnh văn chương hậu hiện đại, việc sử dụng kỹ thuật của truyện trinh thám hướng tới thể hiện sự hỗn loạn và những khoảng trống hiện hữu ở hầu khắp nền văn hóa phương Tây. Giải trung tâm, sự bất định, vắng mặt, phi giải pháp, hư vô… là nguồn gốc gia tăng những điều bất ổn trong nền văn minh phương Tây và trở thành các yếu tố nổi bật của mĩ học hậu hiện đại. Chính thế giới phân mảnh, chính sự mất phương hướng về chính trị, văn hóa, chính những trải nghiệm cay đắng về nỗi bấp bênh, tàn khốc từ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai… là nguyên cớ tạo nên những đổi thay cơ bản diện mạo văn học. Nhại (parody), liên văn bản (intertextuality) được sử dụng thường xuyên, thậm chí trở thành đặc điểm phong cách của một thời đại văn học mới. Về xu thế vận động của văn chương, John Barth cho rằng, việc khai thác những hình thức vốn có là cách vượt qua giới hạn của chính nó. Con đường duy nhất vượt lên nguy cơ “lâm nguy” đối với loại hình nghệ thuật này không nằm ngoài nỗ lực “chơi” với các hình thức đã tồn tại trước đó. Lập luận của John Barth đồng thời lí giải cho những biến đổi của truyện trinh thám để thích ứng với ngữ cảnh tồn tại mới.
Có thể nói, truyện phản trinh thám đã đảo ngược, lật đổ toàn bộ những điều kiện tưởng chừng bất di bất dịch của truyền thống trinh thám. Khác với yêu cầu về tính nhị nguyên mà Tzvetan Todorov từng tổng kết, truyện phản trinh thám không chia thành hai tầng rành mạch. Câu chuyện đầu tiên (chuyện về tội ác) không nhất thiết phải kết thúc trước khi câu chuyện thứ hai (chuyện về cuộc điều tra) bắt đầu. Có khi chúng là hai tuyến đồng hành thúc đẩy sự phát triển cốt truyện. Điểm này khiến cho cốt truyện phản trinh thám gần hơn với cốt truyện trinh thám đen. Câu chuyện đầu tiên không phải là tất cả hiện thực, câu chuyện thứ hai vốn được mô tả như một kĩ thuật phơi bày tiến trình của câu chuyện đầu tiên cũng trở thành vô nghĩa lí. Ranh giới giữa sự thật và giả tạo, hiện thực và tưởng tượng, hiện tại và quá khứ dần bị xóa nhòa.
Kết thúc hành trình truy tìm sự thật trong truyện phản trinh thám là cái kết không trọn vẹn. Stefano Tani phân biệt ba cách khác nhau để một tiểu thuyết gia trinh thám hậu hiện đại xử lí các giải pháp, đúng hơn là ứng xử trước những tình huống không có giải pháp, ứng với ba kiểu truyện kể: tiểu thuyết phản trinh thám kiểu mới, tiểu thuyết phản trinh thám giải cấu trúc và tiểu thuyết phản trinh thám siêu hư cấu. Ở tiểu thuyết phản trinh thám kiểu mới, các giải pháp ban đầu được đưa ra làm thất vọng sự mong đợi của độc giả và kết cục, giải pháp cuối cùng lại là một sự đánh đố oái oăm. Loại tiểu thuyết này gặp gỡ với truyền thống tiểu thuyết đen ở sự trăn trở về những vấn đề xã hội. Sang tiểu thuyết phản trinh thám giải cấu trúc, các giải pháp bị bỏ lửng và câu chuyện kết thúc trước cả khi cuốn sách đi đến những trang cuối cùng. Nhân vật thám tử thực hiện nhiệm vụ truy tìm sự thật liên quan đến bản thể tồn tại. Ở tiểu thuyết phản trinh thám siêu hư cấu, độc giả trực tiếp trải nghiệm hành trình khám phá những văn bản hoặc ẩn đi, hoặc được viết ra trong truyện kể. Nó nhấn mạnh vào khả năng tự quy chiếu của văn chương. Các giải pháp không được đề xuất công khai trước bạn đọc. Họ phải tự mình kiến tạo nghĩa căn cứ vào các mối quan hệ giữa văn bản và liên văn bản, giữa sự thật và hư cấu, giữa thế giới thực và thế giới tưởng tượng, giữa tác giả và nhân vật.
Từ thực tiễn sáng tạo tiểu thuyết phản trinh thám như Tên của đóa hồng của Umberto Eco, Thành phố thủy tinh của Paul Auster, Tên tôi là Đỏ của Orhan Pamuk…, phải khẳng định rằng, các giải pháp xuất hiện trong một truyện kể có khi ứng với những mô tả của Stefano Tani ở cả 3 nhóm. Và dù thuộc bất cứ nhóm nào trong sự phân loại của Stefano Tani thì truyện phản trinh thám vẫn không đưa ra một cái kết gọn gàng. Ở Trần trụi với văn chương của Paul Auster, nhân vật thám tử không bao giờ có cơ hội được truy nguyên những nghi vấn tới câu trả lời cuối cùng, thậm chí, anh ta trở nên vô hình. Vì thế, thể loại văn học này, nói như Stefano Tani, “không phải là một câu chuyện, mà là một quá trình”8. Thám tử trong truyện trinh thám và phản trinh thám kiếm tìm những câu trả lời khác nhau xuất phát từ những quan niệm nhận thức khác nhau của thời đại đã sản sinh ra họ: một đằng tập trung loại trừ trạng thái hỗn loạn nhất thời của thế giới trật tự, một đằng nhấn vào những cái tạm thời ngẫu hứng không phải với mục đích giải thích điều bí ẩn mà ngược lại, để thích ứng với nó. Cũng có thể nói, trong truyền thống truyện trinh thám, thám tử là kẻ bất khả chiến bại trên hành trình giải mã điều bí ẩn còn sang tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, hành trình điều tra của anh ta chỉ còn là một mã biểu đạt. Độc giả ít quan tâm đến việc tay thám tử sẽ thành công hay thất bại mà dõi theo hành trình ấy để tìm ra những cái được biểu đạt khác nhau.
Kết luận
Nhìn lại văn học nước nhà, dễ nhận thấy, Việt Nam không có nền tảng bền chắc về văn học trinh thám cũng như môi trường thuận lợi để thể loại này phát triển mạnh mẽ giống các quốc gia phương Tây – những nền tảng, môi trường liên quan đến truyền thống duy lí, đến trình độ phát triển công nghệ thông tin, công nghiệp vũ khí… Tuy nhiên, không phải vì thế mà văn học Việt Nam không có những tác giả trinh thám nổi tiếng và những tác phẩm trinh thám hấp dẫn. Năm 2023, giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam trao cho 2 tác phẩm văn học trinh thám, trong đó, nếu Nhân sinh kép sống hai cuộc đời của tác giả trẻ Đức Anh nghiêng về mô hình tiểu thuyết trinh thám cổ điển kết hợp tâm lí thì Tuyệt không dấu vết của Nguyễn Việt Hà cho thấy một thể nghiệm lối viết phản trinh thám. Hiện nay, với xu thế phát triển của văn học phản trinh thám, nhiều cây bút có tên tuổi đã sử dụng nguyên tắc thuộc về truyện trinh thám như một phần không thể thiếu để chuyển tải khát khao được khám phá cách con người đối mặt với những vấn đề của tồn tại và cố gắng lí giải ý nghĩa của chúng. Nhà văn Việt Nam hoàn toàn bình đẳng với nhà văn thuộc các quốc gia có thế mạnh về văn học trinh thám trong việc vận dụng nguyên tắc của truyện trinh thám như một cái cớ để đặt ra những câu hỏi sâu sắc liên quan đến bản chất của hiện thực, giới hạn của tri thức, khả năng của sáng tạo văn chương.
Tài liệu trích dẫn:
1. Tzvetan Todorov. 2004. “Loại hình của tiểu thuyết trinh thám”. Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch). NXB Đại học Sư phạm. tr.17.
2 Tzvetan Todorov. 2004. “Loại hình của tiểu thuyết trinh thám”. Bđd. tr.10.
3. Tzvetan Todorov. 2004. “Loại hình của tiểu thuyết trinh thám”. Bđd. tr.15.
4. Stefano Tani. 1984. The Doomed Detective: The Contribution of the Detective Novel to Postmodern American and Italian Fiction. Carbondale and Edwardsville: Southern Illinois UP. tr.22.
5. Tzvetan Todorov. 2004. “Loại hình của tiểu thuyết trinh thám”. Bđd. tr.17.
6. Đặng Anh Đào. 2001. Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Đại học Quốc gia. tr.123.
7. Dẫn theo Đặng Anh Đào. 2001. Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Bđd. tr.121.
8. Tani Stefano. 1984. The Doomed Detective. Bđd. tr.170.
13/1/2025
Đặng Thị Bích Hồng
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...