Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

Cảm tưởng khi đọc sự "Nhìn mắt bão…"

Cảm tưởng khi đọc sự "Nhìn mắt bão…"

Nhà thơ Tạ Hùng Việt vừa được nhận Giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hòa năm 2024 cho tập thơ 1-2-3 “Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay”. Để hiểu hơn về tập thơ này, xin giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình Nguyễn Chí Hoan.
Tập thơ “Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay” của Tạ Hùng Việt gieo một ấn tượng khác thường từ bầu không khí khác thường của nó: không khí của một mối nghĩ ngợi u sầu lạ lùng, đầy kìm nén, mối nghĩ bao trùm và xuyên suốt tất cả những nỗi riêng chung được trình hiện trong thơ này.
Đấy là một mối u sầu với tầm nhìn rõ ràng – dẫu hầu hết được biểu đạt thông qua các thủ pháp tượng trưng – được biểu thị rất tập trung về phương diện cảm xúc; và miền mục tiêu của tầm nhìn đặc trưng ấy thể hiện rõ ngay trong bài thơ mở đầu tập thơ này, giống như một lời tuyên ngôn nhưng bằng giọng hoàn toàn chia sẻ:
“1. Lấp lánh vầng trăng trôi dạt dưới chân cầu
Rơi bóng xuống dòng sông mê mải đục – trong con nước
Tròng trành những gương mặt người trong hạnh ngộ cơn say 
Những cung bậc thảo nguyên, vô thức sự sinh tồn tàn khốc
Thế gian những tầng cao thấp, phũ phàng sự chiếm hữu vô tâm
Tất cả mọi niềm vui đều cũ, chỉ nỗi buồn là mới nguyên.”
Dạng thức đoản thi “1-2-3”, đặc thù, khuôn tạo bài thơ này, cũng như với tất cả một trăm bài của tập này, dạng thức do nhà thơ Phan Hoàng kiến tạo và khởi xướng, hẳn đã cho thấy trong thơ này của Tạ Hùng Việt một trường hợp “đồng thanh tương ứng” điển hình. Ở đây, nhìn vào các hình ảnh thơ trong bài, có thể thấy ngay khuynh hướng từ ngữ thi ca của nó: các hình ảnh vươn tới mức khái quát tinh thần cao như có thể cho những điều hay những ý mà hình ảnh ấy chứa đựng, và lối để khái quát như thế đều là lối của tượng trưng – tính tượng trưng cũng thấy được ngay, ở chỗ các hình ảnh này mau chóng tách xa hoàn toàn khỏi tính chất mô tả thực tại thường gặp cho một câu chuyện-thơ. Duy chỉ câu/đoạn thơ thứ “1” là gần với một mô tả trình hiện thực tại: bóng trăng dưới chân cầu. Các hình ảnh tiếp  đó: dòng sông-đục-trong-con nước, những mặt người “tròng trành”… thì đã là các hình ảnh hoán dụ và biểu trưng hoàn toàn; và tuy nhiên, do phương thức hoán dụ dựa trên các phẩm tính (chẳng hạn: “đục-trong”) mà các hình ảnh này dù đầy tượng trưng vẫn biểu hiện một thái độ vừa trực diện vừa kìm nén của lời lẽ thơ.
Dĩ nhiên tuyến của liên tưởng vẫn rõ rệt và vẫn có tính trình hiện, tức là logic tính của bản thân chuỗi hình ảnh đó, đi ra từ hình ảnh “bóng trăng trôi dạt” và “chân cầu”; nhưng liên tưởng này đi ngay vào hoán dụ, trở nên hình ảnh về một “dòng” triền miên “mê mải” theo những cơn “đục-trong” của “con nước” ấy , và, ở đó, “những gương mặt người” cứ “tròng trành” “cơn say”… – và hoán dụ này ngay tức khắc cho cảm nhận trực tiếp sống động một sự bùng lên thăng hoa của một xúc cảm nung nấu, từ rất sâu trong tâm cảm người thơ này, mà định hướng một cái nhìn, một tầm nhìn.
Độ xa, tính bất ngờ và tính trọn vẹn về cảm năng của một liên tưởng thi ca – từ hình ảnh hay  ngữ cảnh khơi nguồn cho tới hình ảnh/hàm nghĩa đích của biểu đạt cụ thể nhắm tới – đấy luôn luôn là những biểu hiện hiển nhiên và gây rung cảm nhất của một chuyển động thăng hoa nghệ  thuật. Người ta thường ví von gọi đấy là một cảm giác “bay bổng”; song, chẳng phải lúc nào nó cũng nhẹ nhõm.
Và thăng hoa nghệ thuật đó luôn mang theo nó nét riêng đặc biệt của mỗi nhà thơ, của mỗi bài hay tập thơ đạt đến độ chân thực và, do đó, độ mạnh đủ của cảm xúc biểu hiện. Ở đây, nét đặc trưng phong cách tác giả ấy hiển lộ mạnh nhất trong câu thơ thứ nhất của đoạn thứ ba: “Những cung bậc thảo nguyên, vô thức sự sinh tồn tàn khốc”. Xin được lưu ý rằng hình ảnh hoán dụ, hoàn toàn nằm ở mức tượng trưng, của “thảo nguyên”, là một hình ảnh còn trở lại hơn một lần trong tập thơ này, cùng với hàm ý như ở bài thơ này, nhất quán, không đổi. Còn, trong câu thơ đang dẫn ở đây, có thể thấy hình ảnh này hiện đến rất bất ngờ trong văn cảnh chuỗi liên tưởng mở đầu từ “bóng trăng”-“dòng sông”-“những gương mặt người”. Và tuy hiện đến bất ngờ như vậy, liên tưởng xa này vẫn mang tính trọn vẹn về cảm năng cho chuỗi liên tưởng này, tức là về sự đẹp hữu lý, của tương phản và cân đối, và cách nào đấy khá là truyền thống: “dòng sông”  tương hợp được với “thảo nguyên”. Có thể nói đến một tầm nhìn, cả nghĩa đen với nghĩa bóng, là bởi vậy  – khi mà sự thăng hoa nghệ thuật không chỉ vọt lên theo bề cao mà còn mở ra các khoảng rộng hiển thị tính không gian, rõ rệt như ở đoạn thơ này.
Tuy nhiên, sự mở ra của một tầm nhìn chỉ trở nên tầm nhìn khi cái nhìn hướng đến một miền đích xác định; và ở đây, điều ấy hoàn toàn rõ khi “thảo nguyên” được đưa vào  hoán dụ thông qua phương diện tính cách nó như là miền của những tương quan “vô thức sự sinh tồn tàn khốc” (- các hình ảnh “thảo nguyên” còn xuất hiện ở một số bài khác trong tập thơ này đều theo nghĩa hoán dụ này); và kiểu loại tương quan “sinh tồn” cụ thể đó được minh định tiếp tục trong bước phát triển sang một hình ảnh mạnh hơn về hiển thị không gian đó – nó là một không gian phân “tầng” – trong câu thơ tiếp theo đưa chuỗi liên tưởng này thẳng vào miền đích nó hàm ngụ: “Thế gian những tầng cao thấp, phũ phàng sự chiếm hữu vô tâm” .
Chuỗi liên tưởng ngưng đọng ở đó với rất nhiều dư âm – dư âm từ các biểu đạt thuần cảm giác và cảm thán, cũng đi theo chuỗi: “mê mải”-“tròng trành”-“hạnh ngộ cơn say”-“tàn khốc”-“phũ phàng”-“vô tâm”. Không nghi ngờ gì đấy chính là các biểu hiện từ cái xúc cảm dồn nén đã đi vào thăng hoa ở bài thơ này. Và thật rõ ràng, xúc cảm đó là, hay bởi, cái mối nghĩ u sầu mà các biểu đạt cảm thán kia đã nói lên không thể minh bạch hơn.
Câu kết của bài thơ thứ “1” này, nghe có vẻ khô khan, chính là biểu thị cảm giác hẫng hụt – cái hẫng hụt rất mơ hồ đồng thời rất cụ thể xác thực mà dường như đã gây nguồn cơn cho ngẫm nghĩ u sầu không dứt này. Ta có thể thấy nó ở hầu như mọi chỗ trong tập thơ này; mà dưới đây là vài thí dụ.
“Mở cánh cửa chiêm bao gặp lại tầng tầng những mơ ước cũ
Rưng rưng mơ ước tinh khôi dẫu ngay ngắn đôi khi đau điếng
Mẹ dặn – đừng bớt chút thiện lương trong khốn khó làm người.”
Hay:
“Lộng lẫy thềm nhung thật giả tinh hoa cõi người chật chội
Những ngôi sao vô tình chết đuối nhưng phận người nổi nênh”
Hoặc như ở trọn vẹn một bài khác:
“8. Lời nguyện cuối cùng cho một mùa đông giá
Thật giả người – sẽ hiện hữu cái ngày không ai mong đợi
Trước ngạo nghễ gian trá, trung thần từng cởi áo tu thân
Đáy trời – lem luốc mặt cao nhân, sáng tối âm dương giả dạng
Đắng cay thêm chút nữa để còn nghe tiếng chuông lạnh mỗi chiều
Đau đớn lời nói thật, trên mặt đất buồn xin khóc thiện lương.”
Hoặc hơn một lần nhắc lại:
“Những ngoa ngôn từng u ám chênh vênh đau đớn phận người”
Hoặc như ở một cái nhìn thăm thẳm:
“Sau chông chênh là thênh thang một con đường xuống núi
Lại cao thấp bước đi, ngọt lạt buồn vui, xanh đỏ lòng người
Lạ lùng loài dáng thẳng khư khư cơn mơ lấp bể vá trời.”
Hoặc nữa:
“Khi biết sao băng trên bầu trời chỉ là thiên thạch cháy
Tôi thầm thương cho những đêm mơ mộng cuộc người”
Và đó:
“Mầm hoạ âm thầm từ cánh đồng thăm thẳm lòng tham
Ngút ngàn sóng từ căm giận khôn cùng tối tăm mắt bão”
Và như biểu hiện ở các cụm từ lặp lại rất nhiều lần với nhiều biến thể – gọi tên “cuộc người” “cõi người” “phận người”:
“Bé mọn phận người từng liêu xiêu bởi những tầng ngoa ngữ
Đồng loại từng nhẫn tâm nhau trong cơn cùng quẫn sinh tồn
Tôi tìm về nơi hẹn cũ – một lạ lùng vội vã quay đi.”
Vân vân, và vân vân.
Và câu kết đầy vẻ hẫng hụt của bài thơ thứ “1”, như vừa nói ở trên, lại thực ra thì không hẫng hụt. Câu thơ đó tuyên bố rằng mọi niềm vui đều cũ, chỉ có nỗi buồn vẫn cứ mới nguyên – và ta thấy đúng như thế trong tập thơ này: trăm bài thơ là trăm dáng vẻ và sắc thái của cùng một mối u sầu ấy, mối nghĩ ngợi ấy. Nó được thăng hoa, đầy nội lực, không ngừng hướng tới các giá trị của cái cao cả, theo cổ điển truyền thống.
12/1/2025
Nguyễn Chí Hoan
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...