Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

Hoài Khánh thức với tình biển

Hoài Khánh thức với tình biển

“Thức với khơi xa” (NXB Văn học – 2024 ) của Hoài Khánh chỉ có 51 bài nhưng sức nặng nội tại của nó vượt sức tưởng tượng của tôi.
Là một Cựu chiến binh, tôi “hào hển”- chữ dùng của Hoài Khánh, đọc hết tập thơ mà lòng thầm cảm phục sức viết của nhà thơ đất cảng. Chủ đề của tập thơ là biển đảo Việt Nam với nhiều góc độ khác nhau, trong đó viết về đề tài “Người lính biển” đã có mươi bài, đủ khắc hoạ hình ảnh của các chiến sỹ Hải quân Việt Nam đang vượt qua sóng gió gian nguy để giữ bình yên mỗi tấc biển của Tổ quốc thân yêu.
Các chiến sỹ Hải quân qua ánh nhìn của nhà thơ như những ngôi sao biển. Trong đêm tối những ngôi sao ấy quây quần bên nhau để cùng phát sáng soi tỏ mỗi vùng biển của Tổ Quốc: “Nắm tay đứng bên nhau/Lòng không chút mỏi mệt/Những ngôi sao kia cũng biết/Chúng là đồng đội của nhau…” (Giữa khơi xa). Ánh sáng trong trái tim và khối óc của mỗi người lính được khơi nguồn từ thuở ông cha: “Bao thế hệ giương buồm chinh phục biển/Nối ngàn đời nhớ huyền thoại Các Ông/Ngày chống bão, đêm lại ngăn giặc đến/Pháo Thần công đặt vững ở tim hồng” (Đến Cát Bà để yêu). Câu thơ vang lên như tiếng hịch truyền ngàn năm trước: “Ào ạt gió reo/Bập bềnh giọng biển…Mồ hôi chúng tôi chát mặn/Chát mặn cả máu đào nhuộm đỏ ánh ban mai” (Cột mốc giữa khơi xa).
Ánh nắng ban mai là ánh sáng của bình minh, báo hiệu một ngày mới bình yên. Thế mà trong ánh mắt của nhà thơ Hoài Khánh, nó lại rực sáng lên màu máu, vị chát mặn của máu các anh hùng hoà vào nước biển ngay cả lúc đất nước tưởng như bình yên đấy, Gạc Ma ơi. Nói về các chiến sỹ Hải quân, Hoài Khánh không quên những con người đã làm nên đường Hồ Chí Minh trên biển, “Huyền thoại sử vàng tuyến đường trên biển/Toạ độ nơi này khơi mạch máu Việt Nam” (Đây, Vũng Rô) Những địa danh nổi tiếng như Bến K15, Vũng Rô được lịch sử ghi nhận như những cột mốc oanh liệt, mãi mãi khắc ghi trong sử vàng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Người chiến sỹ của đoàn tàu không số năm xưa nay sống sót trở về tưởng nhớ những đồng đội cũ: “Người sỹ quan Hải quân già lặng ngắm ban mai/Thương nhớ đồng đội xưa hy sinh trong bom cày đạn xới”. Và ông vui vì đất nước hôm nay: “Ánh ngày sáng tươi muôn cánh hoa biết nói/Để Phú Yên sớm nhất đón mặt trời” (Đây, Vũng Rô)
Những chiến sỹ Hải quân được Hoài Khánh ví như những người con của Lạc Long Quân theo cha ra trấn giữ biển cả: “Chúng tôi như năm chục chàng trai/Thuở theo cha Lạc Long Quân ra biển/Canh lớp lớp sóng bình yên/Ngăn ngàn cơn bão tố/Vượt mọi hiểm nguy dẫu xương tan máu đổ/Giữ muôn đời từng tấc biển vẹn nguyên…Dẫu núi đá Vọng Phu, đảo bạt ngàn mộ gió/Chúng tôi vẫn vững vàng như cột mốc giữa khơi xa” (Cột mốc giữa khơi xa). Hình tượng Lạc Long Quân không phải ngẫu nhiên được tác giả nhắc lại những bốn lần ở bốn bài thơ trong tập, bởi vì, truyền thống oai hùng của tổ tiên nay được cháu con Hồ Chí Minh tiếp bước: “Bác Hồ vẫn dõi trùng khơi/Giọng Người trầm ấm quyện lời nước non/Bước chân lịch sử vang dồn/Gập ghềnh dốc đá vọng hồn cha ông” (Lễ thượng cờ trên đảo Cô Tô).
Trong trái tim người lính biển dạt dào tình yêu Tổ Quốc, bao hàm cả tình yêu dành cho người vợ, người yêu: “Tím chiều buông cho thành phố lên đèn/Con tàu vẫn miệt mài nơi biển cả/Vẫn sáng ngôi sao trên quân hàm xanh lá/Cùng vạn ánh sao trời và có ánh sao em” (Chiến sỹ Hải đội 2 Biên Phòng Hải Phòng). Bai thơ “Thư tình người chiến sỹ cảnh sát biển” thương nhớ hậu phương nơi đất liền “có bến bờ trong nỗi nhớ dịu êm”, sức mạnh êm dịu của tình yêu giữ vững nhịp đập con tim kiêu hùng trước muôn trùng sóng gió. Không sóng gió sao lại: “Chữ viết thư này không thẳng nét đâu em” – thẳng nét thì chỉ có ở trên bờ. Anh lính biển giãi bày với người mình thương nhớ: “…tàu tuần tra vẫn thẳng về phía trước/Mỗi tấc biển đều mang hình Tổ Quốc/Biếc bóng quê nhà và xanh dáng em yêu.” (Thư tình người chiến sỹ cảnh sát biển).
Đừng nghĩ rằng những người lính Hải Quân kiên cường bám biển, hiên ngang như tường thành làm vững chãi miền phên dậu của Tổ Quốc là những người mạnh mẽ đến khô khan. Thiếu thốn đủ thứ, thậm chí thiếu cả nước ngọt và rau xanh nhưng với họ, tình yêu bao giờ cũng chan chứa trong hồn. Họ hiểu lắm nỗi lòng của những người phụ nữ có người yêu là lính biển: “Khi giận dữ, lúc dịu êm/Bao giờ cũng xô bờ làm nũng/Ở bên sóng nhưng hiểu đâu hết sóng/Sóng bạc đầu mà ruột vẫn xanh non” (Người lính Hải quân nghe sóng hát).
Hình tượng “sóng bạc đầu” cũng giống như trong con mắt mọi người thôi, nhưng “ruột vẫn xanh non” thì chỉ có trong cái nhìn của Hoài Khánh! Có được một hậu phương vững chắc làm điểm tựa tinh thần và vật chất, người lính Hải quân luôn hoàn thành sứ mệnh cao cả thiêng liêng của mình trước Tổ Quốc: “Phên dậu vững vàng đầu sóng mênh mông/Cột mốc hiên ngang tạc vào năm tháng” (Giữ bình yên miền cửa biển). Thiết nghĩ, chính những vần thơ mộc mạc và sâu lắng cô đặc của Hoài Khánh cũng dựng thành những cột mốc giữa khơi xa trong lòng các chiến sỹ Hải Quân và trong trái tim người đọc mà không cần phải viết gì hơn. Cũng xứng đáng thôi, vì Hoài Khánh là người cha của một chiến sỹ Hải Quân trẻ đang cùng bao đồng đội của mình thực hiện nhiệm vụ Đất nước giao phó. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, một cựu sỹ quan Hải Quân nói rất đúng về Nhà thơ “Biển” Hoài Khánh: “Anh đến bằng chính bước chân mình, bằng cả tấm lòng mình, và để lại những bài thơ, những câu thơ chắt ra từ gan ruột của một nhà thơ, một công dân hết lòng vì đất nước”.
Các bài thơ về những con người đang bám biển, giữ biển làm sâu nặng tình biển trong tập thơ tình “Thức với khơi xa” của ông. Hơn bốn chục bài còn lại cũng đáng để cho chúng ta nâng niu trân trọng. Gần hai chục bài viết về Hải Phòng, nơi quê hương tác giả. Ngoài ra còn có những bài thơ viết về các vùng đất, vùng trời dọc theo bờ biển của Đất nước, làm cho tập thơ tình biển này như một bức pano toàn cảnh từ Quảng Ninh đến Đất Mũi Cà mau đậm đà màu sắc, âm thanh, dạt dào cảm xúc và chan chứa ân tình. Đọc thơ Hoài Khánh, tôi như được mở ra những góc nhìn mới, đa diện không chỉ về thành phố biển quê hương của nhà thơ mà còn về các miền biển đảo thân yêu của đất nước, có thể chính tôi cũng chưa từng được đặt chân.
Ông viết về Đồ Sơn trong mối giao cảm với người yêu: “Sóng rì rào với mênh mông/Vắng em một chút đã chông chênh bờ/Bến nào nghiêng cả câu thơ/Tôi mang xuân tới ngóng chờ Đồ Sơn”. Nhà thơ đi ìm cái gì hay tìm ai mà đến nông nỗi: “Bỗng nghe gió ở lòng mình cuộn dâng…Mò kim đáy biển thấu hâng hẫng mùa” (Ra biển Đồ Sơn). “Thấu” mà lại “hâng hẫng”. Nghĩa là thấm lắm, da diết sâu sắc lắm nhưng vẫn chưa thật đủ đầy mà còn có gì đó thiêu thiếu, hâng hẫng, đầy vơi như sóng Đồ Sơn. Cái Bến Nghiêng có thực ở Đồ Sơn hay là “bến nghiêng” trong lòng tác giả mà nó xoay vần “nghiêng cả câu thơ” của ông. Câu chữ tài tình đến thế!
Trong các bài thơ tình của Hoài Khánh, tình người, tình biển cứ quyện vào nhau xoắn xuýt. Đến nỗi khó có thể tách biệt đâu là thơ nói về mảnh đất, vùng biển hay nói về con người? Ví như bài “Biển là thế”, tác giả dùng hình tượng biển để nói về tình yêu chăng, khi ông kết: “Dịu dàng hay dữ dội/Kệ người đời khen chê/Yêu thương và giận dỗi/Biển ngàn đời hả hê”. Thông điệp của bài thơ là đừng “chấp trước” với khen chê của miệng lưỡi con người, hãy cứ yêu, cứ sống cho thật lòng mình, thật là mình, “Đến khơi xanh mọi thứ cũng tuyềnh toàng/Hơi biển mặn mòi da thịt/Mặc kệ những vì sao xa tít/Sóng mãi cuốn vào nhau dẫu sớm bạc đầu.” (Chiều ở biển). Ca dao có câu: “Em ơi chua ngọt đã từng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Thế mới biết hạt muối biển có tình đến vậy. Nhiều người đã làm thơ về muối. Hoài Khánh cũng có một bài thơ về Muối, vâng, “Muối” viết hoa, khi mà tác giả cảm nhận: “Tiếng lòng của cá/Từ một gió hai sương/Thẳm sâu thanh thản kiên cường/Xác kết tủa cho hồn tĩnh lặng” (Muối).
Trong tập thơ có ba bài là Muối, Tình biển, Phác hoạ Cát Bà được sắp chữ xếp hình như cây thông trên bờ biển hay như cánh buồm sắp ra khơi. Tôi lại nghĩ tác giả đã có ý khi sắp đặt như vậy. Dường như những nhà thơ chân chính trong đó có Hoài Khánh khi gạn lọc, chắt từ máu của tim mình làm nên những câu thơ để đời đều đã “Vắt kiệt bản thân mình/Duyên phận trắng tinh/Lưu tên tuổi” (Muối), cho dù có phải “Hoa nào nhớ tháng ba không? Em cơi đỏ để mùa đông tôi tàn” (Xuân về Đồ Sơn). Đau đấy, nhưng kiêu đấy! Có ai sẵn sàng tàn vì tình yêu như Hoài Khánh? Có ai như những ngọn tháp Chăm cổ kính “Gió vọng u u hồn cố quốc suy tàn” nhưng mà vẫn cứ “Dành cả đời gắng viết nổi câu thơ” để “Viết bài thơ màu lửa giữa trời xanh” (Những ngọn tháp Chăm). Để nhập vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, chàng thi sỹ Hoài Khánh về Ghềnh Ráng uống rượu cùng Thi nhân bán cả Trăng ấy. Rượu ngon lại gặp Người hiền, hai hồn thơ ấy đã gặp nhau cùng cạn hũ với trăng, với sương và nhắm bằng trái ớt cay: “Tê lòng ngậm trái ớt cay/Ngấm thơ chàng gửi áng mây Mai Đình/Ngất ngư dốc đá một mình/Nghiêng chai uống cạn biển tình Quy Nhơn” (Uống rượu ở Ghềnh Ráng). Biển tình chứa chan tình biển: “Khoan thai đến bạc đầu/Ngập ngừng con sóng/Trào khát vọng/Tím chiều/Yêu” (Tình biển), hay là: “Ngẫm đời chẳng chừa ai/Biển cũng cô đơn thế/…/Chỉ sóng còn vỗ gọi/Trong giấc mơ bạc đầu” (Đêm Đồ Sơn).
Trong các bài thơ nói về tình yêu, tình biển, tôi thích nhất bài thơ “Mùa yêu ở Cát Bà”. Bài thơ này viết cuối năm 2023, là lúc đôi mắt của Hoài Khánh kém đến độ không nhìn thấy gì nữa, nói chi đến sắc màu cỏ cây hoa lá. Thế nhưng bài thơ tràn ngập màu sắc và tiếng ca trong trẻo của chim rừng và gió núi. Nhà thơ đã đến và “đánh thức hàng triệu năm vách đá… nụ hôn nồng tê lịm bốn bề xanh” (Mùa yêu ở Cát Bà). Đây là một bài thơ thật hay! Có lẽ nhà thơ của biển đảo viết bằng trí nhớ và bằng trái tim nhiều hơn là bằng con mắt xanh của mình!
Trong tập thơ này, Hoài Khánh không chỉ nói nhiều về Hải Phòng, Cát Bà mà còn về khúc ruột miền Trung, ngón chân cái Đất Mũi Cà Mau với những địa danh đầy thơ mộng mà không kém hào hùng. Nơi nào nhà thơ đặt chân đến là nơi ấy có thơ ông.  Những bài thơ xúc cảnh sinh tình, tả tình nương cảnh, tình trong cảnh, cảnh giao tình, người yêu biển, biển ôm người, người yêu người. Tất cả xoắn xuýt, quấn quyện vào nhau như vô tình mà đầy hữu ý. Hoài Khánh yêu Cô Tô đến mức: “Có lẽ nào Cô Tô chính là em/Dồn hơi thở những lần leo ngược dốc/Vuốt ve đảo gió quản gì khó nhọc/Nắng gạ mình lên đỉnh tháp hải đăng” (Về với Cô Tô). Đọc kỹ bài thơ, ngẫm nghĩ một lúc rồi người đọc chợt reo lên đầy hứng khởi thú vị: mỗi câu thơ là một “tứ” tình, ai không muốn “lên đỉnh” dù phải “leo ngược dốc” theo chân nhà thơ tinh quái? Phải trải đời lắm mới có thể tặng cho Tình yêu và thi ca những vần thơ đẹp đẽ và tươi rói như cùng Thức với khơi xa. Những bài thơ như Về với Cô Tô, Lần đầu ra biển, Trên bãi biển, Trên đồi cát Mũi Né và chợt ẩn, chợt hiện trong tập ở nhiều bài khác nữa đều trước luyến sau yêu một chữ “Tình”! Tình lắm đấy, bạn cứ đọc và ngẫm mà xem có đúng vậy không? Chà, cái chàng thi sỹ này sao mà phồn thực và hiện sinh nhưng kín đáo và tế nhị đến thế!
Bài thơ mở đầu tập là bài “Lần đầu ra biển” mới đọc tôi cứ ngỡ tác giả viết đã lâu vì những cảm nghĩ của ông còn tươi rói, trẻ trung như thuở còn xanh, nhưng không ngờ, đây là bài thơ vừa sáng tác giữa năm 2024, khi ông đã ngoại lục tuần. Các bài trong tập đều rất mới. Là bạn văn của ông, tôi cảm và thương Hoài Khánh “dần qua những giông bão cuộc người/Càng thương con còng ẩn vào kẽ đá” (Lần đầu ra biển). Cuộc đời của ông lăn lộn giữa “cuộc người” với bao ngọt bùi và cay đắng, gắn kết và cô đơn, hạnh phúc và đau khổ. Nếu hạnh phúc là nguồn bổ dưỡng tinh thần nuôi lớn tâm hồn thì dau khổ là liều Vacxin mạnh mẽ giúp cho ta đủ bản lĩnh để đứng và để đi vững chãi trong cuộc đời. Cảm ơn Hạnh phúc và Đau khổ của số phận đã cho thơ và cho biển một Hoài Khánh vạm vỡ hôm nay!
Nếu cần phải nhặt ra mấy hạt sạn khổi mâm cỗ thơ thơm ngon mà Hoài Khánh khoản đãi chúng ta, những bạn đọc của thơ ông, thì tôi xin được lược bớt những câu thơ hô khẩu hiệu trong một số bài làm giảm đi sức hút của tập thơ. Hơn nữa, có những bài thơ còn bị lặp ý và lặp tứ. Có lẽ nhà thơ muốn một lần đăng đàn nói hết tình mình, giãi hết lòng mình với biển nên chưa đủ thời gian và dụng công để chắt lọc chăng? Một tập 51 bài thơ tình về biển thì tránh sao cho khỏi bị trùng lặp ngôn từ và ý tứ. Dù sao, tôi vẫn mong Hoài Khánh không mắc phải cái thói quen của biển cả “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy” và đừng dễ dãi với thơ mình như sóng biển vì đã yêu biển và yêu người, yêu thơ đến thế thì cũng nên mài ngọc cho thật sáng, phơi muối cho được nắng vì muối càng trắng thì thơ càng mặn, bõ công người làm thơ và làm giàu cho tâm hồn người đọc thơ ông. Tập thơ “Thức với khơi xa” là một thành công của nhà thơ Hoài Khánh.
18/12/2024
Trần Đức Trí
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

André Gide với Đứa con hoang trở về

André Gide với Đứa con hoang trở về Đứa Con Hoang Trở Về/ Le Retour de L’enfant Prodigue (1) là tập truyện nói lên một đối kháng giữa luân...