Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

"Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh đâu chỉ có nỗi buồn

"Nỗi buồn chiến tranh" của
Bảo Ninh đâu chỉ có nỗi buồn!

Như tên gọi của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh viết về đề tài hậu chiến. Tác phẩm tái hiện sự khốc liệt của chiến tranh với những nỗi buồn không thể quên, những ám ảnh của quá khứ đau thương bám riết người lính trở về sau chiến tranh. Tuy nhiên, lật từng trang tiểu thuyết, Nỗi buồn chiến tranh đâu chỉ có nỗi buồn! Ở đó vẫn có những mảng màu sáng bình yên, những kí ức đẹp đẽ, lãng mạn, niềm khát khao hòa bình, hạnh phúc neo đậu lòng người.
Nỗi buồn chiến tranh được viết năm 1987. Tác phẩm gồm 8 chương, 283 trang. Truyện xoay quanh dòng hồi ức của Kiên – anh chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn 27, với biệt danh Thần sầu – nhân vật chính trong truyện khi đứt, khi nối về hiện tại, quá khứ. Kiên sinh ra ở Hà Nội. Cha anh là một họa sĩ. Mẹ anh là một trí thức thời mới. Không chấp nhận tính cách lập dị của cha anh, mẹ anh đã tái hôn với một nhà thơ tiền chiến khi anh còn nhỏ. Mười bảy tuổi, Kiên xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Anh chiến đấu dũng cảm và bị thương. May mắn sống sót trở về sau giải phóng, anh tham gia quy tập hài cốt liệt sĩ. Kí ức về sự hi sinh của tiểu đoàn 27 tại Truông gọi hồn, ba cô giao liên, về Hà Nội yêu dấu, Phương – cô bạn gái thuở học trò và cả những giấc mơ ám ảnh thôi thúc anh cầm bút.
Trên bàn anh hàng chồng bàn thảo, anh gạch đi viết lại nhưng vẫn không thể hoàn thành cuốn tiểu thuyết. Kiên bỏ đi. Người đàn bà câm đã giúp anh cất giữ bản thảo trên tầng áp mái. Còn nhân vật tôi – người kể chuyện bằng cách nào đó có trong tay bản thảo và đọc kỹ từng trang, cố gắng tìm hiểu về một nhân vật mà khu phố gọi là hiện tượng dị biệt, khó cắt nghĩa. Nhân vật tôi đã ghi chép lại những trang bản thảo của Kiên và nhận ra sự hòa đồng về tư tưởng giữa tôi và Kiên. Họ có chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả. Nhờ đó, họ bước trở lại với con đường riêng của mỗi cuộc đời, cuộc đời đẹp đẽ nhất mà họ hi vọng. Vì đó là đời sống hòa bình.
Quả thực Nỗi buồn chiến tranh chất chứa những nỗi buồn triền miên, dai dẳng, là mảng màu chiến tranh tàn khốc qua dòng hồi ức của Kiên. Đó là nỗi buồn về sự hi sinh của tiểu đoàn 27 tại truông Gọi Hồn, một trận đánh ghê rợn, tàn bạo xóa sổ tiểu đoàn. Bom napan trốc công sự, máy bay trực thăng rà rạp các ngọn cây, thúc họng đại liên vào gáy từng người một: Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Cái chết quyết tử của tiểu đoàn trưởng khiến Kiên líu lưỡi kêu óa, óa trong họng. Cái chết thương tâm của Can, lính trinh sát B quay, ám ảnh Kiên. Đêm đêm anh nghe thấy Can trở về thì thào ngay bên võng, lặp đi lặp lại cuộc chuyện trò nhạt nhẽo ở bờ suối chiều hôm nào. Tiếng thì thào chuyển dần thành tiếng nức nở, thành tiếng nấc nghẹn. Cái giọng lào thào lí nhí như thể tiếng của loài kiến mà đầy vẻ tâm tình của Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của Kiên làm anh rùng rợn, ớn lạnh: “Thương anh đừng bắt lê lết mãi… Anh khổ quá rồi, xương gãy hết cả, ruột nữa… đứt hết…”. Cái chết của Thịnh “con”, và trung đội trinh sát đẩy Kiên vào tình cảnh còn sót lại duy nhất của trung đội… Đọng lại trong tâm trí Kiên là sự hi sinh của Hòa, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu năm 68: “Hòa gục ngã giữa tráng cỏ và đằng sau bọn Mỹ xô tới, vây xúm lại, trần trùng trục, lông lá một bầy như những con đười ươi, phì phò thở, giằng giật, nặng nề hộc rống lên…”. Một cảnh tượng thật đau thương, rùng rợn đối với anh!
Kiên luôn bị ám ảnh bởi những năm tháng chiến tranh, bởi nhớ nhung, thương tiếc và cay đắng. Anh ngậm ngùi về những năm tháng trong cuộc đời mình, thời đại anh, thế hệ của anh. Anh đón đợi cái chết, nhưng ngay cả cái chết đối với Kiên cũng trở nên tầm thường và vô vị. Trong suy nghĩ của Kiên, anh muốn được chết một cách yên thân với số phận con sâu cái kiến của chiến tranh. Nhưng Kiên chỉ có thể sống và chỉ có thể vui lòng chết trong hàng ngũ những người lính. Suy nghĩ của Kiên gợi cho người đọc nhớ tới dòng độc thoại nội tâm của Hai Long, chiến sĩ tình báo trong tiểu thuyết Vùng Trời của Hữu Mai. Bị mọi người nói bóng gió, nhổ nước bọt khi thấy anh “Miệng nam mô, bụng bồ dao găm”, cổ họng anh như muốn tắc, nhưng anh nghĩ chưa được phép chết. Vì anh chưa hoàn thành nhiệm vụ. Suy nghĩ của Kiên “Chỉ có thể chết” và “vui lòng chết” buộc người chiến sĩ phải đối mặt với vấn đề sinh tử của bản thân, đồng đội và cả “cái thân xác còn nóng hổi sức sống đang oằn oại đau đớn trong cơn rùng giật giãy chết”của bọn thám báo trong cuộc chiến. Không sợ hãi, không nổi hung lên nhưng mệt mỏi âm thầm với Kiên.
Trở về sau chiến tranh, Kiên vẫn bị cái chết đeo bám, ám ảnh. Tham gia quy tập hài cốt liệt sĩ, Kiên cũng như anh em trong đội hài cốt dù đã ra khỏi chiến tranh nhưng tâm hồn vẫn tràn ngập bóng tối tang thương, oan khốc của những  cuộc đời còn hoặc đã mất sạch tên tuổi. Họ đã tìm thấy biết bao thành viên bị quên lãng của đại gia đình những người tử trận. Trong giấc mơ, Kiên thấy hồn ma lên tiếng, anh cảm thấy luồng mắt của cô hồn đang xói qua kẽ hở ở vách lều rọi vào mình. Đi giữa phố đông người, Kiên tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. Có đêm, Kiên giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường Kiên nín thở đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống: “Chéo-éo-éo… Đoành!”.  Kiên không thể nào bình tâm nổi trước cảnh bọn lính Mỹ mặc áo giáp đang gào lên xung trận trên màn ảnh truyền hình. Kiên sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng.
Ký ức về chiến tranh thôi thúc Kiêm cầm bút. Những trang bản thảo của Kiên dựng dậy hết cái chết này qua cái chết khác, dần dần đi sâu mãi vào những cánh rừng nguyên thủy của chiến tranh, lặng lẽ nhóm lên mãi cái lò lửa tàn khốc của ký ức. Có lẽ không người cầm bút đương thời nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết như Kiên. Vì thế sách anh đầy rẫy tử thi. Tâm hồn của Kiên mỗi ngày một thêm hoang phế, tranh tối tranh sáng, vật vờ toàn những hồn ma bóng quỷ. Ngay cả những khi người ta tưng bừng cờ hoa chào đón ngày chiến thắng 30/4, Kiên cũng không có tâm trạng ấy.
Kiên nhìn cuộc chiến tranh chẳng những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh mà còn là nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi trong đời anh, kể cả hạnh phúc. Nỗi buồn chiến tranh ngấm sâu vào tâm hồn, trở thành vết thương khó lành trong tâm hồn Kiên và xét cho cùng còn là nỗi buồn trong tâm hồn người cầm bút. Nói như Bảo Ninh: “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!”
Tuy nhiên Nỗi buồn chiến tranh đâu chỉ có nỗi buồn! Trên trang tiểu thuyết của Bảo Ninh vẫn có mảng màu sáng, bình yên, lãng mạn. Đó là tình yêu tự do, trong sáng của Phương với Kiên. Theo dòng hồi ức, Kiên trở về kỉ niệm của mối tình đầu hồn nhiên trong sáng ở tuổi 17. Khởi đầu là sự rủ rê của Phương: “Mãi mãi chúng mình sẽ không rời xa nhau chứ Kiên? Và khi chết cũng chết ở bên nhau nhé”. Kế đến là sự liều lĩnh trốn lao động, trốn mít tinh, rủ nhau tắm hồ của Phương: “Kệ chiến tranh, kệ các anh hùng trẻ tuổi và các anh hùng lớn tuổi, ta bơi nhé, bơi thật xa tới thủy cung, tới chết đuối cả hai thì thôi”. Thế là: “Hai đứa bơi sóng đôi mỗi lúc một xa bờ… khúc sông đời thanh lặng, êm ả cuối cùng”.  Ấn tượng hơn cả là cuộc rượt đuổi tàu quân sự của cả hai. Buổi học cuối cùng, Kiên nhận được giấy trưng binh khẩn cấp. Sau 3 tháng huấn luyện, anh nhận lệnh đi B. Trong khi chờ tàu quân sự ở ga Văn Điển, anh có hơn hai giờ đồng hồ tranh thủ về thăm nhà. Vì nhớ Phương, mong gặp Phương, anh chen lấn ra ga Hàng Cỏ tìm Phương theo sự tư vấn của người hàng xóm. May mắn, anh đã tìm được Phương. Anh bật thốt lên, đau nhói trong lồng ngực: “Phương” khi Phương đang đứng cách anh mấy bước, mắt mở to nhìn anh. Kiên thì thầm lặp lại: “Phương!”. Tiếng gọi của Kiên dồn nén sự mong mỏi, nỗi nhớ nhung và cả niềm da diết gặp lại người yêu. Mong mỏi đến mức, Phương hỏi điều gì đấy, nhưng anh không nghe ra, giọng anh lạc hẳn đi.
Phương lỡ một chuyến tàu, lỡ người bạn tận tình, còn Kiên sắp bỏ lại Phương một mình. Đến lúc này, Kiên hiểu ý nghĩa thật sự của sự chia lìa, sự bất lực và nhỏ bé của thân phận. Kiên hoang mang, anh cùng Phương lên xe xích lô trở về nhà theo sự sắp đặt của Phương. Anh nóng ruột và lo sợ vô cùng, song một phút bên Phương lúc này đối với anh đáng để đổi cả thế giới. Vậy là Kiên đã bị lỡ chuyến tàu quân sự! Tình cờ gặp Kiên, Kiên lại lỡ chuyến tàu quân sự đã xui khiến Phương: “muốn theo tiễn anh một quãng đường không cần biết quãng đường đó nó là thế nào”. Đoạn văn miêu tả cảnh Phương và Kiên đi nhờ xe tải rượt đuổi theo tàu quân sự thật lãng mạn nhưng cũng đầy kịch tính: người lái xe vui tính, lạc quan, màn đêm như được cơi rộng ra: “Trăng ló khỏi mây, vạch một vệt sáng lóng lánh lên khung kính chắn gió”. Hình như vệt sáng lóng lánh lên khung kính chắn gió ấy phù hợp với niềm vui sướng của Kiên. Anh ngạc nhiên thấy mình như đang vui sướng, đang âm ỉ mừng rỡ, không phải vì sắp theo kịp đơn vị mà đơn giản bởi vẫn còn Phương bên cạnh. Chiếc xe tải đuổi kịp đoàn tàu, nhưng không may mắn cho Kiên. Đó là tàu hàng. Rất nhanh, Phương kéo anh lên tàu chở hàng và cùng anh đi nốt với nhau những cây số cuối cùng của mối tình đầu.
Trên chuyến tàu ấy, Kiên không đi một mình mà với Phương. Giữa cảnh bom rơi, đạn nổ, họ lạc nhau, Phương gặp tai họa, họ lại tìm được nhau. Dõi theo hành trình của hai người, người đọc nhớ tới hành trình đi đến điểm hẹn để gặp người yêu của Nguyệt, cô thanh niên xung phong và Lãm, anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. Nguyệt đi đến điểm hẹn gặp người yêu, qua lời mai mối của chị gái Lãm. Tình cờ Nguyệt đi nhờ xe của Lãm, cô xi nhan cho xe Lãm qua ngầm, chia lửa cùng Lãm, cô bị thương máu chảy ướt đẫm cánh tay áo xanh, nhưng đến cuối hành trình cô vẫn không nhận ra người đi cùng cô trên chuyến xe, chia sẻ khó khăn với cô là Lãm. Sự tình cờ ấy cho Lãm anh cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp mát mẻ như sương núi và vẻ đẹp lộng lẫy, dũng cảm của Nguyệt khiến Lãm vừa mê muội, vừa cảm phục niềm tin, sự thủy chung của cô qua hình ảnh của “sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh mà thời gian và bom đạn vẫn không hề phai nhạt, không hề dứt”. Thế nhưng hành trình đi tìm người yêu của Nguyệt Lãm giống như một trò chơi ú tìm, đậm chất lãng mạn. Còn hành trình của Kiên và Phương đậm chất hiện thực nghiệt ngã: máy bay ném bom, Phương bị một kẻ thô bạo lạm dụng. Điều đáng quý, khi Phương bên bờ vực của tai họa, người cầm bút vẫn kịp ghi lại một góc bình yên, một giấc ngủ êm ái ái nhất đời và cũng là bình yên cuối cùng trong tiềm thức của Kiên đồng thời chia sẻ với nỗi đau đầu tiên trong đời lính của Kiên: vì sự bất lực, kém cỏi, non kém và thơ dại.
Đêm nào Kiên cũng mơ thấy Phương. Từ giữa miền không gian xa xanh, sâu thẳm Phương lại hiện lên và bước tới anh “Hai đứa mình có khi chết đi vẫn còn trong trắng. Vậy mà chúng mình yêu nhau biết là dường nào”. Ký ức tình yêu, ký ức chiến tranh kết thành sinh lực, thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường, bi đát của số phận sau chiến tranh. Với Kiên, Phương vĩnh viễn ở ngoài thời gian, vĩnh viễn trong trắng, vĩnh viễn tuổi thanh xuân. Đúng là một tình yêu trong sáng, nồng nàn, đắm say, chung thủy tựa như Kim Trọng sau mười lăm năm gặp lại Thúy Kiều vẫn thấy nàng xinh đẹp, thủy chung: Như nàng lấy hiếu làm trinh/ Bụi nào cho đục được mình ấy vay và Hoa tàn mà lại thêm tươi/Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Một cái nhìn thật biện chứng!
Theo dòng hồi ức của Kiên ta còn thấy tình yêu, sự gắn bó của anh với mảnh đất Nhã Nam – nơi Kiên huấn luyện ba tháng trước khi đi vào chiến trường, với đồng đội và bà mẹ nuôi của tổ tam tam. Trở lại Nhã Nam, anh tìm đến nhà mẹ Lành, lên đồi Mơ, thắp hương cho bà. Đến Truông Gọi hồn, anh nhắn nhủ từ biệt đồng đội hi sinh: “Thịnh ơi, nằm lại nhé với đại ngàn thân yêu. Bọn mình ra đi để bước vào trận mới”. Anh cảm thông với những bước chân hoang của đồng đội. Trái tim thực thụ của người lính chiến không cho phép anh ra tay kỉ luật, ngăn cấm chiến sĩ của mình hằng đêm vượt sang bên kia núi, nơi có ba cô gái trong khu trại tăng gia của huyện đội 67 đã nhiều năm bị bỏ quên trên bờ thác nước. Không ngăn cấm những mối hoang tình ấy, Kiên cũng tự cản mình lại để không nhập cuộc.
Cơn mưa mùa khô đầu tiên sau chiến tranh ở miền hậu chiến gợi cho anh  Ký ức về Hà Nội. Qua cơn mưa nhỏ núi non nhạt nhòa, những nẻo xa mờ mịt. Cây rừng ướt át. Cảnh rừng lặng lẽ Kiên lại thấy Hà Nội của anh, Hồ Tây, chiều hạ, hàng phượng vĩ ven hồ, tiếng ve sầu ran lên khi hoàng hôn xuống anh cũng nghe thấy, và cảm thấy gió hồ lộng thổi, cảm thấy sóng vỗ mạn thuyền. Kí ức đẹp về Hà Nội cho anh dám sống và chiến đấu dù biết cuộc chiến đấu tàn khốc.
Nếu cơn mưa đầu mùa khô sau hậu chiến gợi cho Kiên ký ức về Hà Nội  thì vùng thảo nguyên bao la miền Nam Tây Nguyên: Từ đèo Ngoạn Mục, qua Đơn Dương, Đức Trọng, xuôi đường 20 láng bóng, thẳng tắp về Di Linh lại là miền đất gắn liền với thời kỳ hành quân kỳ diệu “Thần tốc! Thần tốc nữa” của sư đoàn. Chính mảnh đất ấy, bừng lên trong Kiên tình yêu cuộc sống hòa bình, lòng thương mến, ngưỡng mộ đối với đời sống lao động bình dị, là cơ sở để anh mãi mãi lưu giữ tiềm thức, những âm vang của niềm lạc quan. Đúng là chỉ khi yêu và gắn bó với con người, mảnh đất anh đã sống và chiến đấu niềm lạc quan trong tâm hồn người chiến sĩ sẽ không bao giờ lụi tàn.
Từ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học trước 1975, sau 1975 Bảo Ninh hướng ngòi bút đến khuynh hướng thế sự. Tâm điểm trong Nỗi buồn chiến tranh là con người sau chiến tranh, là dòng nội tâm của người lính với nỗi buồn triền miên, dai dẳng và nỗi đau không dứt, không nguôi. Thế mới biết chiến tranh đã lùi xa, nhưng hậu quả của chiến tranh và những tàn dư của nó để lại vẫn còn hằn sâu trong tâm thức của mỗi người, đặc biệt là những người đã trải qua cuộc chiến. Là người cầm bút đã từng qua binh đao, Bảo Ninh phản ánh chân thực đời sống nội tâm của Kiên sau cuộc chiến. Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cùng với Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê (Nguyễn Minh Châu),…đã tạo nên sự đổi mới về đề tài trong văn học sau 1975. Đó là đóng góp mới của người cầm bút đối với văn học Cách mạng, là sự thay đổi phù hợp với nhu cầu thị hiếu của công chúng văn học sau 1975.
Điều đáng quý, Bảo Ninh viết về nỗi buồn chiến tranh chiến nhưng không làm cho người đọc bi lụy, trái lại người đọc thấu cảm với nỗi đau, sự hi sinh mất mát trong chiến chiến tranh, những nỗi buồn của người lính sau cuộc chiến để trân quý hơn giá trị của cuộc sống hôm nay, trân quý những người đã chiến đấu, hi sinh cho sự bình yên của mọi người. Bảo Ninh viết về mối tình lãng mạn trong thời chiến, tình đồng đội, quân dân, khát vọng hòa bình như muốn nhắc người đọc đó là cái gốc của đạo đức. Chỉ khi nuôi dưỡng được tình cảm đẹp, cao quý người ta mới dám sống mạnh mẽ, sống hết mình dù có phải hi sinh  cả sinh mệnh của mình.
Có thể nói, sự đan xen những mảng màu sáng bình yên, lãng mạn trên nền xám xịt, dữ dội về đề tài hậu chiến, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã thắp lên trong lòng người đọc lòng nhân ái, ý thức trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai. Thiết nghĩ, đó là giá trị của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, là những đóng góp tích cực của Bảo Ninh cho nền văn học Cách mạng.
22/12/2024
Chu Thị Hảo
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

André Gide với Đứa con hoang trở về

André Gide với Đứa con hoang trở về Đứa Con Hoang Trở Về/ Le Retour de L’enfant Prodigue (1) là tập truyện nói lên một đối kháng giữa luân...