Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

Hoàng Minh Nhân - Hồn thơ theo sóng nước Thu Bồn

Hoàng Minh Nhân - Hồn thơ
theo sóng nước Thu Bồn

Miền đất Quảng Đà – dù thuận hay nghịch cảnh, thời nào cây văn chương cũng trổ bông kết trái với hương sắc rất riêng – và hương sắc rất riêng ấy, góp phần không nhỏ vào dòng chảy của nền văn học nước nhà; trong đó có nhà thơ Hoàng Minh Nhân (1940-2011) – người con sinh ra trên quê hương Đông Bàn, Gò Nổi (Điện Bàn, Quảng Nam).
Vần thơ họ Hoàng ghi dấu ấn sâu đậm trên con đường văn chương trải dài gần nửa thế kỷ đã trở thành ký ức chung của nhiều thế hệ cầm bút. Bên cạnh những công trình chủ biên về Phan Bôi Hoàng Hữu Nam, Chu Cẩm Phong, Thu Bồn, Nguyễn Văn Bổng, Hồ Nghinh, Trương Đình Hiển, Phan Huỳnh Điểu,… Hoàng Minh Nhân còn viết văn. Tiểu thuyết Xôn ve (2012) của ông viết về người lính tình nguyện Việt Nam cứu giúp và đồng thời góp phần hỗ trợ công cuộc giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi tai họa diệt chủng đã được tặng Bằng khen Giải thưởng Văn học sông Mê Kông lần IV. Song, công chúng yêu văn chương nhớ đến Hoàng Minh Nhân trước hết vẫn như một thi nhân. Ông đã xuất bản 8 tập thơ, trong đó nổi bật những tập, như: Khi yêu chẳng có lời thề (1988); Nói với đàn ông * (2009); Nói với đàn ông ** – Dát vàng (2009); … Trong thi ca của ông, bạn đọc sẽ thấy ngời lên những hình tượng đẹp đẽ (mẹ, quê hương, chiến tranh, tuổi trẻ, tình yêu và nghệ thuật) – những hình tượng ấy có thể gọi là biểu tượng và biểu tượng đó, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp thi ca của nhà thơ họ Hoàng xứ Quảng.
1. Mẹ và quê hương
Hình tượng Mẹ có vị trí rất đặc biệt trong thơ Hoàng Minh Nhân. Cả ba tập thơ như đã nói ở trên đều cho thấy hình tượng Mẹ ở vị trí trung tâm. Những bài thơ viết về Mẹ dàn trải trong hầu hết trang viết đầy ắp nhung nhớ, yêu thương. Cho thấy, Mẹ không chỉ là điểm tựa tâm hồn trong đời sống mà còn điểm tựa cho tâm thức nghệ thuật Hoàng Minh Nhân. Thậm chí, bạn đọc có thể ít nhiều cảm nhận cổ mẫu Mẹ trong thi ca của ông nếu khảo cứu sâu sắc hơn. Nhưng, điều có thể dễ dàng nhận thấy đó chính là gắn bó sâu nặng của tình mẹ và tình yêu quê hương tha thiết. Vẻ đôn hậu, bộc trực và cá tính thi ca xứ Quảng cùng hòa quyện trên cơ tầng tâm thức Mẹ và quê hương.
Viết về mẹ và quê hương, nhà thơ Hoàng Minh Nhân đã để lại những dòng thơ đầy cảm xúc, khắc sâu hình ảnh người mẹ đầm đầm trìu mến, sự hy sinh và sức chịu đựng nỗi cô đơn thầm lặng. Trong bài thơ “Mưa sững sờ” (1985), người mẹ hiện lên giữa cơn mưa lạnh buốt, đứng lặng lẽ ngoài hiên đợi con về. Tóc mẹ bạc phơ thẫn thờ dưới ánh nến leo lét, tựa như ngọn lửa hắt hiu sắp tắt của tuổi già tàn úa theo thời gian héo mòn trong sự mong mỏi vô vọng. Cơn mưa đêm như thấm ngấm từng thớ thịt của sự cô độc, gió lạnh càng làm tê tái nỗi lòng người mẹ trong niềm chờ đợi. “mẹ già ở tận nơi xa/ đêm mưa con thấy Người ra hiên chờ/ tóc ngời ngọn nến bạc phơ/ loay hoay cơn gió sững sờ mưa đêm” (Mưa sững sờ, 1985). Người mẹ cùng quê hương chống chịu cảnh tàn hoang bom cày đạn xới bằng những năm tháng chờ đợi, đau thương và mất mát khôn cùng.
Nỗi đau của người mẹ càng trở nên khắc khoải miên man theo từng nhịp đời bất hạnh và phận người yếu thế phiêu bạt. Mẹ ngồi co ro bó gối, lặng im giữa trùng vây ngập tràn bóng tối; tóc trắng phau rối bời theo từng cơn gió lẻ loi từ biển thổi về, từ Trường Sơn dội xuống nào khác chị những vết cắt cứa hằn sâu nỗi đau nơi trái tim người mẹ! Rồi, mẹ khóc không thành tiếng, đôi khóe mắt không còn lệ nhỏ từng giọt lăn trên làn da chai sạm, khô héo khi nhìn cảnh đất lạnh quanh mộ người chồng:“bóng tối đắng chằng nhức nhối/ rối bời tóc trắng mẹ tôi/ bó gối mẹ ngồi lặng lẽ/ thương chồng đất lạnh mồ côi” (Thương đất lạnh, 1989). Trong bài thơ “Thức trắng” (1989), hình ảnh người mẹ được khắc họa với niềm u uất. Mẹ thức trắng trong đêm đông lạnh lẽo, lắng nghe những tiếng vọng mơ hồ – tận tuyệt mơ hồ của chồng con trong màn đêm dật dờ sương chia ly: “nhắm mắt đếm lá đêm/ gió lạnh cứa xương da/ vườn rộng mái nhà xiêu/ lời chồng, con vọng về …” (Thức trắng, 1989). Than ôi! Thực tại chỉ còn trơ trọi căn nhà rộng lớn, mái ngói xiêu vẹo, trống tuếch… lạnh lùng, và cũng chỉ có trái tim người mẹ – người phụ nữ Việt Nam mới đủ chí khí kiên cường, đủ sức chịu đựng bám đất giữ làng của một thời quê hương khói lửa, đạn bom.
Rõ là, trong thơ Hoàng Minh Nhân, người mẹ hiện lên có phần bi thương nhưng cao cả. Người mẹ hiện lên với những nét đẹp của sự hy sinh lặng thầm và còn cao đẹp bởi nỗi đau mất mát khôn nguôi. Mẹ truyền hơi ấm nồng nàn bằng tấm chân tình yêu thương vô hạn; nhưng cũng là biểu tượng của sự cô đơn, chịu đựng nỗi niềm sâu kín trong cõi lòng héo hon. Mẹ không chỉ giữ lửa cho mái ấm gia đình, mà còn trở thành hiện thân của tình yêu vô hạn và sự nhẫn nại, khi từng ngày đối mặt với tuổi già và sự thiếu vắng những người thân yêu đã rời xa. Cuộc đời hình như, rất hình như phủ đầy bóng tối, mẹ âm thầm gánh chịu nỗi đau trùng lập nỗi đau không một lời than hay oán trách. Chính điều này để lại trong lòng bạn đọc nỗi buồn dùng dằng và miên mang vô tận.
Đặc biệt, những vần thơ của Hoàng Minh Nhân, hình ảnh người mẹ trong và sau chiến tranh hiện lên đầy bi thương, mang theo bao nỗi đau không thể nguôi ngoai, sự hy sinh âm thầm và niềm nhớ thương chập chùng cơn sóng vỗ đôi bờ sông Thu đối với những người con đã mãi mãi ra đi. Bài thơ “Quên và anh hùng” khắc sâu nỗi đau đớn khi người mẹ vẫn ôm trọn hình ảnh đứa con trong tim, coi con như một “anh hùng” dẫu thời gian trôi qua, dẫu rằng ai đó có thể đã lãng quên. Mất con, không chỉ là một vết cắt thấu xương thể xác, nó còn là sự đau khổ lặng lẽ triền miên tận đáy tâm hồn, khi ký ức về con trở thành nguồn động lực duy nhất để mẹ tiếp tục sống. Chiến tranh có thể đã lùi xa, nhưng trong trái tim người mẹ, nỗi đau ấy vẫn âm ỉ, chẳng bao giờ nguội lạnh. “mẹ chôn Huỳnh Kim Khánh/ vừa ra khám Chí Hòa/ ai quên thì cứ quên/ con mãi là anh hùng của mẹ” (Quên và anh hùng).
“Tìm mộ con” (1978), bài thơ khắc họa bóng dáng người mẹ còng lưng giữa bão cát, dò từng hàng bia – hàng bia mộ mờ nhạt theo tháng năm để tìm lại dấu vết “núm ruột của mẹ” đã vĩnh viễn ra đi vì đất nước, thật xót xa. “mẹ còng lưng dọ bước/ gạt cát từng hàng bia/ sức mòn chọi bão cát/ mắt rát rạt, bia nhòe” (Tìm mộ con, 1978). Mẹ như đang chiến đấu với chính thiên nhiên khắc nghiệt, với thời gian tàn nhẫn, và cả với ký ức của chính mình đang đè nặng tâm can. Sức và lực dẫu đã cạn và kiệt, song tình yêu thương và nỗi đau mẹ gánh chịu không bao giờ phai nhòa, tạo nên một sự đề kháng kiên trì bi tráng. Trong khi đó, bài thơ “Cò và lửa” (1985) tái hiện hình ảnh người mẹ lang thang giữa đồng cát bao la, không thể tìm thấy mộ con. Những thi ảnh trong thơ Hoàng Minh Nhân đâm nét giản dị song nét giản dị ấy, khiến người đọc cảm nhận sư khốc liệt của nỗi tận cùng đớn đau. “trời xanh cò trắng phân vân/ mẹ không tìm thấy mộ con/ gió xô, cát đẩy/ nén hương tàn run rẩy cháy lên” (Cò và lửa, 1985). Trời xanh, cò trắng và nén hương tàn… như là biểu tượng cho sự vô định, tuyệt vọng của mẹ khi đối diện với nỗi trống trải, mất mát. Mọi nỗ lực của mẹ dường như trở nên bất khả, khiến nỗi đau càng trầm trọng khi mẹ buộc phải chấp nhận thực tại rằng có lẽ, con sẽ không bao giờ trở lại!
Thơ Hoàng Minh Nhân sử dụng nhiều ký hiệu và biểu tượng (cánh cò, bàn tay, lưng còng, …). Trong bài “Bàn chân mẹ” (1989), hình ảnh đôi chân mẹ mệt mỏi bước qua đạn bom, vượt qua bao trần ai để bước vào tương lai, gợi lên sức mạnh kiên cường nhưng cũng trĩu nặng nỗi bi ai. Chiến tranh đã qua – đã qua nhưng nỗi đau và mất mát còn ở lại – mãi mãi còn ở lại: “đường xích đạo ngắn hơn/ số lần chân mẹ bước/ trước đạn bom, trần ai/ mẹ đi vào tương lai” (Bàn chân mẹ, 1989). Dẫu thế, mẹ vẫn bước tiếp, dẫu biết rằng chẳng có điều gì có thể bù đắp những tổn thương ấy. Mẹ tiếp tục sống – sống với nỗi đau ngấm thấm tận đáy lòng. Và, mẹ dứt khoát không lùi bước trước những gian truân, tàn nhẫn của cuộc đời.
Những đứa con của mẹ lần lướt ra đi vì quê nhà ngập tràn khói lửa, Bào đệ của nhà thơ Hoàng Minh Nhân là nhà thơ – nhà báo Hoàng Yên Dy đã từng: “Tôi là dân gốc rạ Quảng Nam rặt! Dòng sông Thu Bồn, Gò Nổi, cầu Kỳ Lam, cồn cát vàng ươm, rừng Bói, bãi dâu xanh mưới đôi bờ Trường Giang, nơi đã sinh ra Cụ Nghè Phạm Liệu, một trong “ngũ phụng tề phi” đất Quảng. Nơi đó cũng đã nuôi tôi khôn lớn với giấc mộng chữ nghĩa đầy ắp trong tuổi thơ của mình” (Rừng bói Trường Giang, tr.5). Hoàng Minh Nhân cũng dành vị trí đặc biệt cho quê hương Quảng Nam trong vườn thơ. Thơ ông phảng phất phong khí xứ Quảng: mặt trời mọc từ Biển Đông mênh mông và lặn phía Tây Trường Sơn hùng vĩ; chung cùng khí chất nhân cách văn hóa của con người miền đất ấy. Nhất là, trong chiến tranh, hình bóng mẹ và quê hương lồng vào nhau, tạo nên tầm vóc của xứ sở. Đó cũng chính là bản lĩnh quê hương đã hóa sinh vào tâm hồn con người, khiến tạo nên những con người xứ Quảng kiên cường bất khuất. “nhớ ngày con sinh Mỹ càn Gò Nổi/ bom dội sạt hầm, gió lùa hơi cay/ hoàng hôn ngăn ngắt, tím bầm mây bay/ hầm kèo lung lay, dầm dề mưa xối. […] căn hầm chữ A ngôi nhà của ta/ trụ bám kiên cường những năm đánh Mỹ/ lòng đất lòng người đau thương chung thủy/ tin yêu bền bỉ đánh Mỹ đến cùng. […] các con ơi mai sau khôn lớn/ đừng quên căn hầm chữ A/ chữ đầu tiên con học tiếng nước nhà” (Hầm chữ A, 26.6.1983). Vừa tạc thành biểu tượng mẹ và quê hương, Hoàng Minh Nhân còn gói ghém trong bài thơ Hầm chữ A cả lời nhắc nhở và cảnh tỉnh. Hậu thế, “uống nước nhớ nguồn”, không được phép lãng quên quá khứ.
Bao năm lăn trở giữa đời sống, trải qua nhiều biến động của lịch sử xã hội, đi qua nhiều năm tháng không thể nào không nhớ, thơ Hoàng Minh Nhân vẫn ròng nguyên tình người, tình yêu quê hương. Miền đất Quảng Đà trong thơ Hoàng Minh Nhân khiến bạn đọc bùi ngùi xúc động bởi hình ảnh đơn sơ, mộc mạc hàm chứa nội dung sâu sắc tình người. Vẫn luôn vậy, nhà thơ họ Hoàng giữ tâm cảm dung dị nhưng hình ảnh thơ của ông đủ sức cuốn hút mê đắm tâm hồn người đọc. “trời Đông Bàn trong nước Trừng Giang/ đàn cò trắng sáng hoàng hôn đỏ/ hồn giang cánh đo trời cao rộng/ biết mình xanh che mát dòng sông” (Ký ức Đông Bàn, 2008). Bài thơ này cũng khiến bạn đọc chợt nhớ đến câu thơ Hoàng Yên Dy: “Nằm mẹp trong bãi trâu đầm/ Để nghe thân thể nứt mầm chân quê/ Viền quanh nước xắp chân đê/ Thả bay tóc gió, bồn bề mạ non…” (Rừng bói Trường Giang, tr.10). Quê hương với cả hai hồn thơ đều là nghĩa tình sâu nặng. Thế nhưng, quê hương của Hoàng Minh Nhân là hồn quê chất ngất bay lên chiếm lĩnh tầng cao; quê hương của Hoàng Yên Dy như “mầm quê” lắng đọng chìm xuống chan chứa tầng sâu. Hai chiều kích bồi ủng cho nhau cùng kết dệt tình quê hương trước sau như một của huynh đệ họ Hoàng cùng “cha sanh, mẹ đẻ”. Bằng lời thơ dung dị chân thành, cả hai nhà thơ đều khiến cho bạn đọc cảm thông, thương mến cùng trân quý những người con sinh ra và lớn lên nơi đất Quảng, nước sông Thu Bồn.
Ngoài xứ Quảng thân yêu, mảnh đất Tây Nguyên cũng xuất hiện nhiều trong thơ Hoàng Minh Nhân. Hình bóng Tây Nguyên hiện lên đượm tình trong thơ Hoàng Minh Nhân. Đó là buôn K’Loong xinh đẹp, rừng thông Đơn Kơ Nớ (trong bài Khi yêu chẳng có lời thề); chiều Eo Gió, người mẹ Cơtu (trong bài Đỉnh đèo Eo Gió); … Với Tây Nguyên, Hoàng Minh Nhân đậm đà một nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ tinh khôi dù năm tháng trôi qua. “nỗi nhớ Cơtu vắt dài qua thân gỗ/ gỗ mục rồi nỗi nhớ vẫn tươi nguyên/ nỗi nhớ đẹp làm rừng cây xấu hổ/ lặng lẽ nhìn xao xuyến ánh trăng xuyên” (Nỗi nhớ Cơtu, 8.8.1989). Những vần thơ của Hoàng Minh Nhân cũng khiến bạn đọc bồi hồi nhớ hồn thơ của nhà thơ trường ca Thu Bồn. Và, nỗi niềm thương mến núi rừng Tây Nguyên của Hoàng Minh Nhân liên thông với Bài ca chim Chơ-rao. “Trai gái rộn ràng đi tỉa lúa/ Cây ata-rôn cao ngất đầu làng/ Hoa đỏ rãi xuống đầu cô gái đẹp/ Mày nghịch gì thế hả xem-tơ-răng? / Em mải nhìn cây kơ-tơ-đáp/ Quên đuổi con chim rứt trộm lúa vàng/ Em coi gì con xen-đun lấy mật/ Mà chân xéo giẫm cánh lơ-pang”. Với nhà thơ Thu Bồn, Tây Nguyên đẹp mùa cách mạng; với Hoàng Minh Nhân, Tây Nguyên tươi mới trữ tình. Và, trên hết, cả hai nhà thơ cùng xứ sở đều dành tình cảm đặc biệt cho con người và núi rừng Tây Nguyên. Có thể, xem Tây Nguyên như quê nhà thứ hai, hay bến neo đậu cho hồn thơ dạt dào sức sống.
Tựu trung, giữa khói lửa và đau thương, quê hương và hình tượng mẹ lồng ghép vào nhau. Tâm trạng người mẹ trong thơ Hoàng Minh Nhân được khắc họa với những nét đặc trưng bi thương: nỗi đau mất con không bao giờ nguôi, sự hy sinh thầm lặng và bền bỉ, niềm tuyệt vọng khi đối mặt với sự trống rỗng, nhưng cũng là lòng kiên cường, niềm tin và hy vọng không bao giờ tắt, dù chiến tranh đã tàn phá cả thân xác lẫn tâm hồn người mẹ. Mẹ tiếp tục sống, tiếp tục bước đi những bước nghiệt ngã với hành trang mang vác vết thương của quá khứ còn âm ỉ rỉ máu tươi. Hình tượng người mẹ trong thơ Hoàng Minh Nhân, vì thế, gợi mở nhiều suy nghĩ về chấn thương trong và sau cuộc chiến tàn khốc. Đó cũng là chấn thương lịch sử của dân tộc trong thế kỷ XX đầy mất mát, tang thương và khí chất anh hùng.
2. Tuổi trẻ và hồi ức chiến tranh
Minh Nhân, trang thơ thể hiện thế hệ thanh niên thời hậu chiến với những đặc điểm mang nặng nỗi niềm hoài niệm trở về và tìm lại bởi dư chấn của chiến tranh; bởi những ám ảnh tình yêu lẫn đời sống sau cuộc binh đao khốc liệt. Hồi ức chiến tranh không bao giờ rời xa kiếp phận người, như trong bài “Xin cất giữ” (1991), hình ảnh chiến tranh “ứa máu triệu con tim” gợi lên nỗi đau dai dẳng không chỉ ở thể xác mà còn chằng chịt trong tâm hồn. “xin cất giữ hồn rừng đêm sông Ring/ tình yêu buồn ta dấu kín vào tim/ dù mai sau không còn ai tin nữa/ chiến tranh còn ứa máu triệu con tim” (Xin cất giữ, 1991). Dẫu chiến tranh lùi xa và đã là quá khứ, nhưng vết thương ấy vẫn để lại nhức nhối mãi, chẳng thể nào một sớm một chiều lành khiến nhiều thế hệ mãi đeo mang nỗi đau dai dẵng. Tuổi thanh xuân Hoàng Minh Nhân cùng bao chàng trai cô gái cùng thế hệ của ông đã đi qua cuộc chiến và tận hiến cho quê hương. Những tâm hồn cao thượng trong trái tim Người dù đã bao lần tổn thương, song vẫn cố gắng đứng lên tạo sức sống mãnh liệt vì tình người, vì yêu làng xóm quê nhà. Chữ thơ trong từng trang thơ của thi nhân họ Hoàng đã gây dấu ấn về điều ấy!
Với không gian hồi ức, người lính và chiến trường hiện lên. Những hoài niệm của một người từng đi qua chiến tranh đang xen và lẩn giữa hai dòng thời gian. Trong thế giới nghệ thuật đó, con người từng một thời tham dự, xông pha nơi chiến địa cái chết kề cận cái sống hẳn là lẽ hiển nhiên. Qua bài thơ “Sông Riềng xanh” (1991), thi nhân Hoàng Minh Nhân như muốn nhắn gửi và nói rằng tình yêu dẫu lặng lẽ như dòng Thu sông quê vẫn chảy không ngừng, bất chấp những cay đắng do chiến tranh mang lại. Nhưng, tình yêu ấy, không đủ để xóa nhòa nỗi đau, chỉ là nguồn sức mạnh tạm thời giúp họ chống chọi với ký ức tàn khốc. “và em nữa, em yêu anh muốn chết/ sông Riềng xanh hết cở sông Riềng xanh/ lặng lẽ chảy suốt đêm ngày quên mệt/ như chúng mình quên cay đắng chiến tranh” (Sông Riềng xanh, 1991).
Sau chiến tranh, người chiến binh trở về làng cũ và họ, trước đó, không tin rằng mình còn sống, trở về vì “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Lương Châu từ). Thi nhân họ Hoàng, viết “Bình minh khói nắng” (1991), đôi mắt mở ra không dám tin rằng mình vẫn tồn tại dưới vòm cây xanh. Thế giới mới này quá xa và rất lạ, khiến họ bơ vơ giữa một thực tại lạc lõng… họ chưa từng nghĩ đến, nói chi việc nhận ra. “em mở mắt trước bình minh khói nắng/ không tin mình còn sống dưới vòm cây/ chân xỏ dép mắt liếc bầy vượn hót/ hòn nước rơi giật thót cánh tay gầy” (Bình minh khói nắng, 1991). Dù hiểu rằng tương lai có thể sẽ chẳng ai tin vào những gì họ đã trải qua, như trong câu “dù mai sau không còn ai tin nữa,” nhưng họ vẫn ôm trong mình niềm khao khát giữ lại ngần ấy ký ức đau thương như một dấu ấn không thể xóa hoặc nhòa đã khắc sâu nơi trái tim vốn đã nặng trĩu bi ai. Thế hệ thanh niên thời hậu chiến trong thơ Hoàng Minh Nhân là những con người đã bị chiến tranh làm tổn thương, song vẫn tìm thấy sức mạnh trong niềm tin và hy vọng. Họ sống giữa những hồi ức đắng hay cay của chiến tranh, lòng vẫn khát khao gìn giữ những ký ức và tình yêu giữa một thực tại hòa bình với hàng triệu xương tàn cốt rụi!
Vì vậy, qua thi ca, Hoàng Minh Nhân bộc lộ tình cảm sâu nặng dành cho những người đồng đội đã hy sinh trên chiến trường Khu 5 rất ác liệt và đồng thời, thể hiện quan niệm đầy nhân văn về đau thương, mất mát trong chiến tranh. Bài thơ “Trước nấm mồ còn sót ở Trường Sơn”, hình ảnh người đồng đội hi sinh được nối vào hình ảnh thiên nhiên, với “giò phong lan/ buông dài như nỗi nhớ” và “cỏ khô nấm mồ hoang”. Thi nhân họ Hoàng không đơn thuần ghi lại sự vắng mặt của những người đã khuất, còn tạo ra một hình ảnh về sự chan hòa của họ vào đất trời. Đồng đội của thi nhân họ Hoàng không hẳn là những người dâng hiến thân xác cho đại nghĩa – những người đồng đội dũng liệt đó hóa thân thành “hồn của đất”, “hồn của trời” và luôn hiện diện khắp nơi trong không – thời gian bất tận. Hoàng Minh Nhân đã “bất tử hóa”, “vĩnh cửu hóa” những chiến binh xuất thân từ người bình dân rất đỗi bình thường song họ thủ đắc trái tim nồng nàn thương đồng bào, yêu làng quê nghèo khó và họ, không ai khác, sẵn sàng lấy thân che đạn thù cứu dân, giúp đồng đội sống tiếp tục chiến đấu: “tặng em giò phong lan/ buông dài như nỗi nhớ/ cỏ khô nấm mồ hoang/ bạc phơ trời chốn ở/ rừng Trà Nô hiu quạnh/ tiếng chim rơi sững sờ/ bông hoa chừng thấy lạnh/ thương một thời tuổi thơ/ em ơi dù chẳng về/ cả nhà ta vẫn đợi/ em là hồn của đất/ em là hồn của trời/em có mặt khắp nơi/ trong không cùng thời gian/ tạm biệt nấm mồ hoang/ Trường Sơn bừng thức dậy/ mây trắng bay ngang trời/ ngàn năm sau còn trắng/ mây trắng bay ngang trời” (Trước nấm mồ còn sót ở Trường Sơn, 20/7/1986).
Rồi, Ru bạn đường về bài thơ mang một cảm xúc khác, gần gũi hơn nhưng cũng ám ảnh hơn khi Hoàng Minh Nhân đặc tả sự chia tay đầy xúc động với người đồng đội trẻ đã hy sinh. Hình ảnh “ngồi ôm xác đồng đội” và “tiếng hát thay vòng tay” là sự kết hợp giữa nỗi đau mất mát và tinh thần lạc quan của những người lính. “lên xe rời chiến hào/ mắt nhòe trời hanh hao/ nắng bay vào ngọn gió/ bờ cỏ vàng nao nao/ ngồi ôm xác đồng đội/ lời núi sông vọng vang/ năm anh em khẽ hát/ gập ghềnh quên đói khát/ tiếng hát ôm xe tang/ bay trên đầu rừng cháy/ tiếng hát thay vòng tay/ choàng ôm người chết trẻ/ bạn ơi xin ngủ yên/ ngàn năm sau vẫn thế/ đời đau bao dâu bể/ chẳng bằng mẹ mất con/ chúng mình ngồi đây hát/ ru cho còn vầng trăng/ ru cho còn trái đất/ ru bạn mình ngủ ngon/ mai bạn về với mẹ/ bọn mình lại đi xa/ chúng ta là bài ca/ ru cho tròn vầng trăng/ ru cho tròn trái đất/ ru mặt trời cỏ non” (Ru bạn đường về, 7.1.1986). Tiếng hát trở thành phương tiện để an ủi người đã khuất, là lời ru tiễn đồng đội trở về với mẹ, với quê hương. Qua đó, Hoàng Minh Nhân không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn, ông còn khẳng định niềm hy vọng, rằng dù mất mát đau thương, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và những người đã ngã xuống sẽ mãi là một phần của cuộc hành trình vĩ đại của dân tộc. Với đồng đội, Hoàng Minh Nhân dành một tình nghĩa sâu sắc và nhân hậu, nơi những hy sinh không chỉ được nhìn nhận như một phần của bi kịch chiến tranh nó còn là một phần của sự sống vĩnh cửu. Những bài thơ này thể hiện rõ quan niệm rằng đau thương và mất mát trong chiến tranh là vô cùng to lớn, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng của sự kiên cường, sự tiếp nối của sự sống và sự hy sinh cho lý tưởng cao đẹp. Như lời thơ và lời ca gửi vào không gian bao la “ru mặt trời cỏ non” cho mạch đời tiếp tục sinh trưởng.
Có thể nói, dàn trải trong thơ Hoàng Minh Nhân là mạch nguồn hồi ức –  chủ yếu những hồi ức chiến tranh. Qua những bài thơ như Cát đỏ và Nỗi đau thời gian, Hoàng Minh Nhân thẳng thắn bộc lộ những suy nghĩ sâu sắc và đau đớn về hồi ức chiến tranh, cũng như thân phận con người trong những thời khắc tàn khốc của lịch sử. Với hình ảnh cát đỏ, thi nhân xứ Gò Nổi không chỉ tái hiện lại những hình ảnh khốc liệt của chiến tranh, đồng thời thao thức khắc họa bức tranh đầy bi thảm về nỗi đau cá nhân và giống nòi. Hoàng Minh Nhân có những câu thơ bình dị nhưng mang chỉ dấu rất khốc liệt về chiến tranh. Ông đã biến lời người du kích Bình Dương thành lời thơ thống thiết. “làng Bình Dương lốc xoáy/ rừng Bình Dương lửa thiêu/ mặt trời cháy trên biển/ đỏ rực ngọn sóng chiều/ vợ tôi bị Mỹ bắt/ kéo lê trên cát đỏ/ lính ngụy khoét hai mắt/ biển xanh thành biển đỏ/ con tôi Nam Hàn chặt/ quăng vào trong lửa đỏ/ bọn ngụy cười ngằn ngặt/ con trai tôi thành tro/ tôi nghe trong gió đỏ/ phần phật tiếng ông cha/ cắn răng mà giết giặc/ cho cát xanh quê nhà/ trong phừng phừng cát đỏ/ tôi nghe rừng dương xanh” (Cát đỏ, 1983). Qua lời kể của người du kích Bình Dương, nỗi đau bị chia cắt bởi chiến tranh hiện lên trong từng chi tiết đẫm máu: vợ bị bắt, con bị sát hại dã man. Những hình ảnh như “biển xanh thành biển đỏ” hay “con trai tôi thành tro” không chỉ diễn tả bạo lực chiến tranh và hơn thế, phơi bày sự thật cái ác tuyệt cùng người đối xử người! Và, người du kích Bình Dương biến đau thương thành sức mạnh, giữ vững lời thề trước hồn thiên sông núi, rằng: “cắn răng mà giết giặc” bảo vệ quê hương, bảo vệ sự sống của bà con chòm xóm làng quê.
Thi nhân Hoàng Minh Nhân, thừa nhận chiến tranh để lại những nỗi đau dùng dằng dai dẳng theo dòng thời gian. Nỗi đau và mất mát chẳng chi bù đắp, không chỉ là cảm xúc tức thời nó lê thê kéo dài theo năm tháng và lắng đọng trong những câu thơ thắt lòng: “gió quất, mưa dầm, rát đêm/ thương mồ cha xa ngàn dặm/ đau điếng mồ anh mồ em/ còn lạc mười năm trong đất” (Nỗi đau thời gian, 1.10.1985). Hình ảnh “mồ anh mồ em” lạc trong đất suốt mười năm biểu thị ray rức triền miên vẫn còn ám ảnh dù chiến tranh đã qua đi. Ông tự bạch sự day dứt, tiếc thương bởi hài cốt của những người thân yêu bất khả tìm thấy và nắm xương khô lưu lạc biết phương nào! Gió quất, mưa dầm là những yếu tố tự nhiên nhưng cũng mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi đau khôn tả của người chiến binh ngày trở về chốn cũ. Hình ảnh thơ Hoàng Minh Nhân cũng khiến bạn đọc bồi hồi nhớ lại câu thơ Tường Linh. Có thể xuất phát từ góc nhìn riêng, song cả hai bài thơ đều chia sẻ nỗi niềm quê hương và người con sóng nước sông Thu. “Anh thương binh về thăm nguyên quán/ Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường/ Anh trở lại với bàn tay còn lại/ Vẫn vẫy chào Non Nước quê hương” (Năm cụm núi quê hương, Tường Linh). Cùng những ưu tư về chiến tranh, Phan Thanh Quế bắc chiếc nối trước và sau khi cuộc chiến kết thúc. Và, từ đó, soi chiếu vào tâm hồn con người, đồng thời cảm nhận những nỗi niềm u uẩn với bao bộn bề đời sống mới không thể sẻ chia. “Các anh hy sinh những năm ấy ở chiến trường/ Lứa tuổi đôi mươi các chị thành vợ góa/ Những đứa con không hề biết mặt bố/ Mải đùa giỡn nhau đâu biết mẹ khóc thầm/ Đến bây giờ các chị tuổi hồi xuân/ Rạo rực sống với bao điều giằng xé/ Những đứa con đã bằng tuổi ngày xưa của mẹ/ Đâu hiểu được ngọn gió khuya đêm đêm trăn trở trước thềm…” (Chiến tranh, 1992). Trong bài thơ “Chiến tranh” (1992), Phan Thanh Quế tạo ra một sự đối chiếu sâu sắc giữa những mất mát của chiến tranh và cuộc sống sau khi chiến tranh kết thúc, đặc biệt nhấn mạnh đến nỗi niềm của người phụ nữ. Qua những câu thơ đầy cảm xúc, ông khắc họa sự hy sinh không chỉ của những người lính trên chiến trường và còn rất riêng có của những người phụ nữ ở hậu phương luôn trực diện với những mất mát to lớn thời chiến cũng như đời sống thường nhật sau chiến tranh không thể dễ dàng xoa dịu. Phan Thanh Quế tập trung vào hình ảnh người phụ nữ thành góa phụ khi còn rất trẻ, phải nuôi con trong cảnh thiếu vắng người chồng đã hy sinh. Những đứa con, lớn lên không biết mặt cha, tiếp tục sống cùng cuộc sống không ý thức được những đau khổ, máu và nước mắt của người mẹ cô đơn thành cô độc. Sự vô tư của lứa tuổi trẻ, sự hồn nhiên trong cuộc sống mới càng làm nổi bật sự giằng xé giữa hạnh phúc và bất hạnh, thủy chung và hy sinh trong lòng người phụ nữ. Có lẽ, ý thơ thi nhân Phan Thanh Quế như sự nối dài cho ý thơ thi nhân Hoàng Minh Nhân để tiếp tục khắc họa những con người sau chiến tranh. Họ đã bước vào tuổi hồi xuân nhưng vẫn bị ràng buộc bởi những ký ức và mất mát của chiến tranh. Nhà thơ khéo léo phác họa mâu thuẫn giữa thế hệ của những người phụ nữ đã trải qua chiến tranh và thế hệ sau, những đứa con giờ đã trưởng thành nhưng không thể hiểu được nỗi lòng thầm lặng của người mẹ. Ở đây, thi nhân họ Phan không chỉ nói về hậu quả vật chất mà còn về những di sản tinh thần, những vết thương lòng không dễ tàn phai ngay cả khi cuộc sống mới đang tiếp tục. Qua bài thơ, ông bày tỏ sự thấu hiểu và chia sẻ sâu sắc với nỗi đau và sự trăn trở của người phụ nữ sau chiến tranh. Những giằng xé giữa ký ức và hiện thực, giữa trách nhiệm và khao khát sống, tạo nên một bức tranh về con người và xã hội hậu chiến đầy u uẩn và phức tạp. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng những hệ quả tinh thần, đặc biệt là trong tâm hồn những người phụ nữ vẫn còn đeo bám và ám ảnh, khiến họ không thể thực sự thoát khỏi bóng đen của quá khứ. Nhưng, điều đó, không có nghĩa thơ Phan Thanh Quế và thơ Hoàng Minh Nhân đều nói đến không khí ảm đạm hậu chiến và bạn dọc, nên chăng nhìn nhận vào sự thâm nhập nội tâm của cả hai nhà thơ để hiểu thi nhân họ Hoàng và họ Phan đã dành cho con người sau chiến tranh sự cảm thông và chia sẻ.
Thơ Hoàng Minh Nhân thể hiện một cách chân thật và đầy xúc động về hồi ức chiến tranh, gồm cả tuổi trẻ, tình yêu, bom đạn, mất mát và tình thế ngổn ngang của con người sau cuộc chiến. Đó là, những ký ức không chỉ đầy máu lửa, mất mát Và còn chất chứa lòng kiên cường, niềm tin, hy vọng vào sự hồi sinh kỳ diệu của quê hương; cũng như nỗi đau dài hạn của con người khi phải đối mặt với cái chết và sự tan vỡ do chiến tranh gây ra sẽ được dân tộc Việt chung sức chung lòng hàn gắn dù sớm hay muộn, lịch sử mấy ngàn năm đã minh chứng. Hoàng Minh Nhân, thi nhân mượn câu thơ tạc tấm chân tình tạ ơn những người nằm xuống cho ông được sống!
3. Thi nhân, tình yêu và nghệ thuật
Khi yêu chẳng có lời thề (1988), thi phẩm về tình yêu được thi nhân họ Hoàng dùng ngữ điệu hình tượng hóa ngọn lửa tình ái thiên thu sẵn sàng đốt cháy trái tim thành tro bụi khói mây hiến dâng người tình duyên khởi đầu đời. Sự tự nguyện tận tuyệt, cả khi kết thúc là tan vỡ. Điều đó, thể hiện niềm tin vào tình yêu mãnh liệt và chân thành. Hình ảnh “một chút tro” có thể trở lại thành ngọn lửa tượng trưng cho niềm hy vọng về sự tái sinh của tình yêu từ những mất mát và khổ đau. “anh đã đốt anh thành ánh sáng/ đốt đến tận cùng tình yêu/ chỉ để lại một chút tro dưới chân em/ đó là thất bại đời anh … / dù chỉ là tro, là tro/ nếu được yêu trở lại/ anh đốt mình như thế/ thành tro dưới chân em/ hạnh phúc của em/ anh tin/ có lúc/ một chút tro dưới chân/ lại cháy thành ngọn lửa/ long lanh nước mắt! …” (Như thế, 19-7-1987). Bài thơ Chùm chìa khóa, nhà thơ đối diện với nỗi buồn và sự lãng quên, khi những mối tình thời trẻ dần trở thành ký ức phôi phai, âu yếm cỡi lưng sóng trống không trôi về cửa Đại ngong ngóng trùng dương. Hình ảnh “chùm chìa khóa” chỉ là ví von – cách ví von của người xứ Quảng, để rồi nhà thơ liên tưởng “một thời yêu, một thời chia lìa” phản ánh sự mong manh của tình yêu thời bom đạn và cùng với đó, là mong muốn có thể dễ dàng buông bỏ những vướng bận từ quá khứ êm đềm hay cuồng nộ. Thi nhân họ Hoàng tự sự: “tôi có chùm chìa khóa/ đi đâu tôi cung bỏ quên/ ước gì tôi cũng dễ quên/ những mối tình thời trẻ” (Chùm chìa khóa, 25-6-1987). Nhà thơ gián tiếp khẳng định tình yêu sống mãi trong tâm hồn con người, nhất là khi con người ấy lại là nhà thơ – nhà thơ đất Quảng Nam. Hình ảnh thơ của Hoàng Minh Nhân thường thuận buồm xuôi gió, lời đơn giản, ý sâu sắc; gần gũi ca dao, lời ru của những người mẹ quê nghèo dễ nhớ dễ thuộc và cũng dễ ngấm vào lòng bạn đọc. Với ông, nhà thơ mang khí chất bộc trực vốn riêng có sông núi quê nhà. “Cãi” nhưng dứt khoát không “vả” nhau. Cãi đến khi nào tư tưởng được thông và khi ấy, mang bidong mới không nặng! Cũng vì vậy, trong đời sống hàng ngày ông thường bị ngộ nhân và hiểu lầm. Đọc thơ ông, người đọc cảm nhận tình thương người thương mình và sự thương đó trải qua một hành trình đói khát, sống chết cùng đau đớn nhưng đẹp đẽ, hy sinh và nuối tiếc vô bờ. Chất nghệ sĩ trong trái tim chàng trai Đông Bàn, Gò Nổi – xứ sở của một trong “Ngũ phụng Tề phi” Phạm Liệu – đã rời mái ấm gia đình, xa mẹ già ra đi vì đất nước. Chàng trai ấy, là Hoàng Sơn!
Hoàng Sơn trở về cố hương giữa tiếng mưa bom đạn nổ rất ác liệt trên chiến trường Quảng Đà và sau ngày hòa bình, thi nhân tìm lại những gì cần tìm ngỡ đã mất. Ông nhìn mặt trời mọc từ Biển Đông mênh mông, và ngó mặt trời lặn phía Tây Trường Sơn bạt ngàn. Thi nhân lặng im và lắng nghe từng cơn sóng vỗ đôi bờ Trương Giang – khúc đoạn sông Thu Bồn, bất chợt trái tim nghệ sĩ rung động khi chiều nghiêng bóng nắng cuối ngày rỉa hồn thơ sóng nước Trường Giang. Và, ông ngó trời, bật khóc! Khóc Duy Anh – người anh đền nợ nước nơi sa trường; khóc em Thanh – người em gái chưa tròn mười ba tuổi đã bị giặc giết đêm Giáng Sinh, máu tươi ray rắc đường thôn; khóc Kim Khánh, tức Hoàng Minh Nhân, người em trai chết tức tưởi ở rạch Bần Đôn sau tháng năm địch giam cầm. Nỗi đau dai dẵng dày xéo tâm can Hoàng Sơn và ông, nén nỗi đau đớn gia đình thành quyết định chọn tên người em trai làm tên mình. Từ đó, Hoàng Sơn chính thức là thi nhân Hoàng Minh Nhân – cũng có nghĩa: Minh là tiếng kêu, Nhân là người; tiếng kêu của người trong cõi người ta! [“Bất bình tắc minh”, Hàn Dũ].
Thơ Hoàng Minh Nhân, tình buồn man mác, lụy và sầu thương! Với thi nhân, yêu là “bịnh yêu”. Yêu mang sầu khổ cho nhân gian. Vì vậy, thi nhân họ Hoàng khuyên nên yêu như Bùi Giáng. “có thang thuốc trị bịnh yêu/ là biết yêu như Bùi Giáng/ muốn có tình yêu trong sáng/ là yêu như Bùi Giáng yêu” (Yêu như Bùi Giáng, 30.7.2008). Bùi Giáng ở đây có lẽ trở thành định ngữ, nói đến sự yêu và sự tỉnh thức về nỗi yêu. Bản thể yêu là sầu lụy, là si mê, là tận hiến kỳ cùng và do đó, yêu như Bùi Giáng tức yêu sầu lụy; biết rằng đang sầu lụy khi yêu. “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi/ Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại/ Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn” (Bùi Giáng, Phụng hiến, 1962). Vì vậy, không thể nói rằng tình yêu Hoàng Minh Nhân dành riêng cho một bóng hồng nào đó. Đúng hơn, đó là tình yêu cuộc đời và cuộc đời Hoàng Minh Nhân đã cảm thấy đồng điệu với Trung niên thi sĩ. Gợi hứng từ thi sĩ họ Bùi, Hoàng Minh Nhân biểu lộ niềm yêu đời mãnh liệt, niềm khát khao bất tận, căng ứ chực chờ tuôn tràn. “sương sớm dịu dàng ôm mặt đất/ áo mỏng người tình còn ấm ran/ non tơ cỏ mượt thơm ngây ngất/ dấu lặng đêm yêu khát tiếng đàn” (Dấu lặng, 20.9.1989). Bằng cách đặt trong khung cảnh đêm tĩnh lặng, nguồn tình hòa quyện nguồn thơ càng bột phát dữ dội – dữ dội đến tầng cao khiến độc giả dễ dàng nhận ra sức sống và niềm yêu đời của thi nhân.
Không chỉ tận hiến cho tình yêu, Hoàng Minh Nhân còn tận hiến cho nghệ thuật. Thi nhân họ Hoàng trân trọng dành cho thơ vị trí đặc biệt trong đời mình. Ông thường khi ưu tư về thi ca và hành trình nghệ thuật, cũng như yếu tính của thi ca. Qua nhiều bài thơ, Hoàng Minh Nhân đã bộc lộ những quan niệm sâu sắc về thi ca, người nghệ sĩ, và hành trình sáng tạo nghệ thuật. Bài Thơ tôi, thơ được ví như những hạt giống quý giá, sinh ra từ giọt mồ hôi và sự nhọc nhằn của người nghệ sĩ. Hình ảnh “hạt” ngàn năm tượng trưng cho giá trị lâu dài và sức mạnh tiềm tàng của thơ ca, có khả năng đem lại sự sống mới và năng lực mới bồi đắp nguồn cảm hứng tâm hồn. “Hãy trồng những loài cây ăn kham uống khổ/ trên đất đai kiệt nước kiệt màu/ đó là tình của thơ/ là hồn của đất/ tôi mò túi thơ tôi/ từng giọt mồ hôi mặn chát/ tôi gặp những hạt/ tuổi đã ngàn năm/ tôi tin hạt sẽ mọc và cây xanh sẽ mát/ cho đời sau/ và trái lạ cho nhau […] hỡi những nhà thơ/ hãy trồng cây xanh cho đất khỏi bạc màu/ ngăn chặn trước triệu tâm hồn/ sa mạc hóa” (Thơ tôi, 22.3.1988). Thơ không chỉ là sản phẩm của cảm xúc cá nhân nó còn là “hồn của đất”, phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa nhà thơ và cuộc sống. Thi nhân họ Hoàng không ngần ngại kêu gọi những người sáng tạo hãy “trồng cây xanh cho đất khỏi bạc màu”. Điều ấy, ngụ ý rằng nghệ thuật có thể chống lại sự sa mạc hóa của tâm hồn và làm giàu thêm về đời sống tinh thần.
Ngoài ra, Hoàng Minh Nhân bộc lộ quan điểm rằng thơ ca xuất phát từ những cảm xúc mạnh mẽ và sâu lắng, thậm chí từ nỗi đau. “Nước mắt chảy vào tim/ tim anh không đủ chứa/ nước mắt hóa ngọn lửa/ cháy bùng lên thành thơ” (Thơ, 1985). Nước mắt hóa thành ngọn lửa cháy bùng giữa trời đêm u tối, chính là hình ảnh của cảm xúc được chuyển hóa thành sáng tạo nghệ thuật. Sự đau khổ không chỉ là nguồn cơn mà là nguồn cội của thơ, và hẳn nhiên còn là nguồn năng lượng thúc đẩy sự phát sáng của sáng tạo. Song hành trình đó, người nghệ sĩ thường “độc hành kỳ đạo”. Hoàng Minh Nhân nhấn mạnh sự cô đơn của người nghệ sĩ, người không thể chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn của mình với tha nhân với thế gian một cách trọn vẹn. “nghệ sĩ cái vui không chia sẻ được/ nghệ sĩ cái buồn không chia sẻ được/ cớ sao em yêu anh đau đớn thế/ cho đời anh phiêu bạt chẳng nơi về!” (Nghệ sĩ, 22.10.1987). Nghệ thuật của họ, vì thế, trở thành một hình thức tự giải thoát, nhưng cũng dẫn đến sự phiêu bạt, mất phương hướng trong cuộc sống cá nhân. Đây là hình ảnh bi thảm song cũng đầy thiêng liêng về người nghệ sĩ. Về điều này, cũng tức là khẳng định: người nghệ sĩ thiết lập mối liên kết đặc biệt và hoàn toàn độc đáo giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Trong tranh cô gái chờ ai/ mà mắt dài hơn mắt ngày thường?/ đằng sau màu mắt đen/ đằng sau đôi môi hồng/ mùa thu/ mãi bối rối vệt sao băng trắng/ lúc vẽ tranh/ anh họa sĩ uống bao nhiêu rượu?/ đọc bao câu ca dao/ ngâm bao bài thơ tình?/ tôi nhận ra hương rượu làm sau đôi mắt đen cô gái/ ca dao làm môi cô ấm mọng đến huy hoàng/ và thơ tình làm sóng ngực cô mênh mang/ tôi yêu cô gái trong tranh/ và tôi sống với cô/ như hai vợ chồng! …” (Nghệ thuật, 28.12.1985). Qua hình ảnh cô gái trong tranh, Hoàng Minh Nhân khám phá cách mà các yếu tố nghệ thuật – rượu, ca dao, thơ tình – tác động lên hình ảnh và cảm xúc, mang lại cho nó sức sống và sự sâu sắc. Người nghệ sĩ trở thành người sáng tạo, đồng thời cũng là người sống trong tác phẩm của mình; gắn bó mật thiết với nó, thậm chí sống cùng “cô gái trong tranh” như sống với nghệ thuật – với người tình muôn đời. Tất cả giúp bạn đọc nhận rõ thêm quan niệm của Hoàng Minh Nhân về nghệ thuật như một sự đan xen chồng lấn giữa cảm xúc mạnh mẽ, đau khổ, và sự sáng tạo bất tận – nơi người nghệ sĩ không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống và trong chính tác phẩm của mình.
Hành trình nghệ thuật đối với thi nhân họ Hoàng là một con đường đơn độc, nơi người nghệ sĩ tự mình đối mặt chính mình trong muôn ngàn lẩn khuất những nỗi niềm và thử thách riêng. Cùng khi đó, Phan Thanh Quế, qua bài thơ “Vận động viên và nhà thơ,” như một lời bổ sung đầy cảm thông, chia sẻ về những gian truân không ngừng nghỉ do nghệ thuật mang lại. Ông so sánh “người vận động viên chạy 100m, 200m, 800m, 1.200m/ Trở thành vô địch/ Nhà thơ/ Chạy trên con đường ý tưởng, câu chữ một đời/ Chưa tới đích/ – Anh sẽ nói gì khi nằm liệt trên giường bệnh/ hỡi nhà thơ?/ – Lại chạy tiếp-nhà thơ mỉm cười nói vậy”. Nhưng đáp lại chỉ là một nụ cười nhẹ nhàng, bình thản: “Lại chạy tiếp” nhà thơ nói vậy”. Câu trả lời ấy, như thể hiện sự bền bỉ, kiên cường của người nghệ sĩ và cũng là, nỗi niềm thương mến, sẻ chia với những nỗ lực không ngừng của họ dù chặng đường có dài và cô độc đến đâu. Ở nơi nào đó, trên con đường nghệ thuật, những tâm hồn tận hiến cho nghệ thuật sẽ tương phùng.
“- Đừng tuyệt vọng nghe không/ Còn trang thơ thắm lại với trời hồng” (Bùi Giáng, Phụng hiến, 1962).
Thay lời kết
Thơ Hoàng Minh Nhân như dòng chảy hồi ức về chiến tranh. Ông chậm rãi kể lại tuổi thanh xuân, tình yêu cùng những mất mát, những biến động con người từng trải qua trong và sau cuộc chiến. Đó là, ký ức đầy máu, nước mắt; khói lửa, đạn bom; chia ly… nhưng không thiếu niềm tin và hy vọng vào sự hồi sinh – ngày mai tươi sáng của quê hương.
Thi nhân Hoàng Minh Nhân, với tình người sống trọn, với tình đời quên cay đắng và với nghệ thuật, ông tận tụy cũng như rất đam mê, say đắm. Thơ hóa thân thành lực sống trong trái tim ông và thơ, chiếm một vị trí đặc biệt trang trọng đã giúp ông đứng dậy sau bao lần vấp ngã trên bước đường đời. Cuối đời, thi nhân họ Hoàng để lại Thơ – tài sản quý báu bậc nhất, dành tặng các con các cháu của ông. Đồng thời, ông trân trọng gửi lại thế hệ hôm nay và mai sau những vần Thơ mang vác “Hồn thơ sóng nước Thu Bồn” bằng tâm niệm đừng quên cội xa nguôn!
Áng thơ họ Hoàng như áng mây lãng đãng trên những ruộng dâu lan tỏa mùi vị nguyên chất về cuộc đời và con người Gò Nổi: giản dị và chân thành; khảng khái và kiên cường bảo vệ lẽ phải dù đau đớn, tang thương; yêu quê hương hơn sinh mạng… Thơ ông, là một chứng nhân trong nhiều – rất nhiều chứng nhân về cuộc chiến thảm khốc nhất chốn quê nhà, góp phần đúc kết thành bộ sử thi Quảng Nam –  Đà Nẵng.
19/12/2024
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

André Gide với Đứa con hoang trở về

André Gide với Đứa con hoang trở về Đứa Con Hoang Trở Về/ Le Retour de L’enfant Prodigue (1) là tập truyện nói lên một đối kháng giữa luân...