Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

Yếu tố trinh thám trong truyện ngắn Ngôi nhà mù của Nguyễn Hiệp

Yếu tố trinh thám trong truyện ngắn
Ngôi nhà mù của Nguyễn Hiệp

“Nghệ thuật như là thủ pháp”1 và mỗi thể loại tác phẩm văn học có những đặc trưng thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Tuy nhiên, trong dòng chảy của văn học, luôn có sự tương tác, giao thoa giữa các thể loại. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, cách nhìn, cách cảm, và cách thể hiện của nhà văn trước bức tranh muôn màu của cuộc sống đã tạo nên những hình thức biểu hiện mới của tư duy nghệ thuật.
Truyện ngắn với tư cách là một loại hình tự sự cỡ nhỏ năng động cũng không ngừng biến đổi, không bao giờ cam chịu chấp nhận một hình thức máy móc và giản đơn, nhất là trong điều kiện thường xuyên biến đổi của các hệ hình tư duy và giá trị như hiện nay. Truyện ngắn đã có những bước đột phá, tự làm mới mình để thích ứng với xã hội và đáp ứng những nhu cầu thẩm mĩ mới của người đọc. Kết quả là khuôn khổ truyền thống của thể loại bị phá vỡ, các quan niệm “Nghệ thuật tự sự tổng hợp mới” ra đời, biến đổi và ngày càng đa dạng thể hiện khát vọng làm giàu cho văn học dân tộc nói chung và truyện ngắn nói riêng. Vì vậy, truyện ngắn đã được nhà văn sáng tạo bằng việc sử dụng các thủ pháp của các thể loại khác đem lại những hương vị độc đáo. Ngôi nhà mù (Nguyễn Hiệp) là một truyện ngắn như thế.
Truyện ngắn Ngôi nhà mù in trong tập truyện Bông cỏ giêng (NXB Hà Nội, 2008) của Nguyễn Hiệp, cho thấy quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc của nhà văn, thể hiện sự tìm tòi, đổi mới trong bút pháp cũng như cảm hứng về cuộc sống và con người. Ngoài việc sử dụng những thủ pháp đặc trưng thể loại, Ngôi nhà mù còn hấp dẫn người đọc trên phương diện đề tài và một số thủ pháp trần thuật của truyện mang “yếu tố trinh thám” trong một truyện ngắn.
Về phương diện đề tài, truyện liên quan đến một vụ án về: “bộ xương người trong tình trạng đã mục nát tương đối, có khá nhiều mảnh vỡ nằm lâu ngày dưới hồ nuôi cá sấu.” [4, tr.122]. Những yếu tố của truyện trinh thám như tội ác giết người, những xung đột mâu thuẫn, sự chiếm đoạt, âm mưu hãm hại, kho báu vàng ở Núi Đá Trắng, hồ sơ bí mật, những vi phạm về đạo đức, những mưu toan cá nhân, hành vi che giấu tội ác, những bí ẩn được giải đáp, tội ác bị phanh phui, trừng trị, … vốn là những yếu tố của truyện trinh thám được thể hiện trong truyện ngắn. Tuy nhiên tác giả không kể lại quá trình điều tra chân tướng sự vụ mà thông qua đó phản ánh cuộc sống và quan niệm nghệ thuật về con người.
Không những thế, yếu tố của thể loại trinh thám được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật kết hợp khi kể chuyện, nhằm đưa người đọc phiêu lưu trong một trò chơi trí tuệ, tích cực giải những câu đố bí ẩn của đời sống, qua đó khám phá về hiện thực cuộc sống với những trạng thái nhân sinh phức tạp, đa chiều, nhiều góc tối, về thế giới nội tâm phức tạp cần được soi tỏ.
1. Xây dựng không gian như một thủ pháp nghệ thuật
“Không gian truyện ngắn cần phải được xem xét trong bản chất và chức năng của nó.” [1, tr.118]. Dung lượng truyện ngắn không cho phép nhà văn sắp xếp nhiều chi tiết về không gian mà phải được tạo dựng một cách chọn lọc. Một trong những thủ pháp của thể loại trinh thám sử dụng trong truyện ngắn của Nguyễn Hiệp là tạo không gian trinh thám nhằm đem lại cảm giác về cái bí ẩn, ly kỳ, kích thích thần kinh người đọc. Tác giả đã mở đầu truyện với yếu tố có phần kinh dị khi đưa người đọc vào không gian dựng cảnh. Đó là không gian một căn biệt thự với những ô cửa kính màu xanh mắt mèo – một trong số tài sản của Dạt, là một biểu tượng thành đạt của một doanh nhân trẻ đi lên từ nghề buôn thanh long bán sang Trung Quốc. Hình ảnh ngôi nhà xuất hiện đến bốn lần ở phần mở truyện và có ấn tượng hết sức sâu sắc đối với nhân vật “tôi”, “ngôi nhà với cánh cửa hai khung cửa kính màu xanh nửa như ve chai nửa như mắt mèo nổi bật trên lầu hai” [4, tr.94].
Cảm nhận về ngôi nhà mù khiến cho ‘tôi’ cảm thấy rơi vào những điều bí ẩn đáng sợ: “Đêm đó, trong cơn mê man mệt mỏi rã rời, tôi đã nằm mơ thấy từ ngôi nhà to lớn ấy những hình nhân mang cặp mắt đục thủy tinh thể bước ra quýnh quáng quờ quạng tay chân, đôi môi bặm lại, nhân trung phẳng lì, mũi hít hít bám theo mùi hăng hắc nồng nồng của những tờ giấy bạc vàng nâu xanh đỏ ảo mờ trong đám mây chợt hiện chợt tan trên bầu trời xám xịt, rồi tất cả chợt bò, chợt đi đầu xuống đất, chợt lửng lơ trôi.” [4, tr. 95]. Hình ảnh Ngôi nhà mù cũng như nhan đề truyện chứa đựng trong nó những ám chỉ, những kí hiệu, đặt ra những hoài nghi về sự thật đằng sau sự hào nhoáng. Suy nghĩ “Phải chăng đó là một ngôi nhà ma ám?” đã được khơi gợi trong đầu người đọc qua không gian dựng cảnh mà tác giả dàn dựng.
Sau khi Thịnh bị mất tích, công an vào cuộc điều tra thì căn biệt thự có ô cửa kính màu xanh tiếp tục được gợi tả. Khi miêu tả không gian bên trong ngôi nhà, tác giả không hề miêu tả những nội thất sang trọng vốn là gia sản của một tỷ phú mà chỉ miêu tả những vết nứt: “đập vào mắt tôi những dấu trầy xước kèm những giọt nước trà vàng nâu tung toé trên bức tường mới, vậy là có những cuộc cãi vã đã xảy ra ở đây. Thằng bé liếc theo mắt tôi, nó chợt nói: “Đó là những con nhện”. Tôi cố cười, ôm nó vào lòng, tôi hôn lên trí tưởng tượng trẻ con của nó. Tôi lại nhìn xuống nền nhà: một tấm gạch bốn mươi vuông phủ men đá có vết nứt do một vật nặng bị ném xuống, chỗ vết toác thành một dấu hoa thị lớn và những dấu hoa thị nhỏ chung quanh đã cũ mèm một phần do bụi dơ bám vào, khó mà lau sạch. Tôi hỏi nó: “Vậy đây là con gì?”. Nó nói: “Cũng là nhện nhưng là nhện sa mạc, nhện khổng lồ. Trong trí tưởng tượng của tôi thì đó là dấu vết của một thái độ, của sự bất đồng, của phản ứng và hằn học” [4. tr.115]. Không gian được miêu tả thông qua phép chuyển đổi góc nhìn của hai nhân vật đã lôi kéo người đọc cùng trải nghiệm và lí giải. Ngòi bút của Nguyễn Hiệp không chỉ gợi cho độc giả chút cảm giác tò mò, kì lạ, mà hơn thế, là vượt qua cả trí tưởng tượng, khơi dậy liên tưởng của người đọc về câu chuyện nhân tình thế thái: chuyện về đồng tiền, về đạo đức, nhân cách con người trong xã hội; bóng tối, xung đột và cả những tội ác đằng sau ánh hào quang chói lọi của thành công.
Mạch truyện được kể đan xen với những câu chuyện xung quanh về mối quan hệ giữa các nhân vật và các không gian khác được mở rộng. Nhiều chi tiết rải rác suốt câu chuyện trở thành một hình vẽ tổng thể như: Không gian trong ngôi nhà với những vết nứt hình mạng nhện xuất hiện nhiều lần ẩn chứa về những xung đột; hồ nuôi cá sấu với “những sinh vật đầy gai, miệng dài toác hoác, đen trũi, lúc nhúc, những cặp mắt thao láo” gợi cảm giác ghê rợn; dòng suối Cám với những mụn vàng non lấp lánh là nơi Dạt tắm hằng ngày. “Vàng” – đối tượng lòng ham muốn tham vọng của một số nhân vật.
“Có lần Dạt hẹn tôi đến vào buổi xế trưa rồi dẫn tôi ra sau nhà để khoe dòng suối Cám. Gọi là suối Cám vì dòng nước chảy từ lòng núi Tà Cú xuống này mang nhiều mụn vàng non lấp lánh, vốc tay đưa lên khỏi mặt nước vàng nhanh chóng biến thành những mẫu gỉ đen đen, có người gọi là vàng non, có người gọi là vàng cám.” (…) “Dạt đưa tay hớt những mụn vàng non trên tay rồi dùng ngón cái và ngón trỏ se se cho nát vụn ra vẻ bực dọc rồi nói tiếp: – Em ghiền tắm ở suối này lắm, ngày nào cũng vậy, vào những buổi trưa nắng, lúc vàng dưới suối lấp lánh nhất, em cởi hết quần áo nhào xuống ngâm mình, em lim dim mơ tưởng vàng đang thấm vào từng tế bào của mình, cả cơ thể mình sẽ là một khối vàng, tay chân em cũng là vàng, tim phổi em cũng là vàng… Buổi tối, vàng ánh lên trong từng giấc mơ của em…” [4, tr. 112]. Miêu tả không gian dòng suối Cám để vẽ lên chân dung nhân vật với những tham vọng đắm mình vào vật chất thoáng hiện lên trong cảm nhận người đọc những tò mò, thắc mắc, con người đó sẽ đi về đâu. Không gian dòng suối mập mờ báo hiệu một ngày giông tố sẽ nổ ra làm tan nát những gì tưởng như yên lành hiện tại. Thực tế đúng như vậy, nơi hằng ngày Dạt thường tắm ngập mình trong tham vọng tưởng chừng hạnh phúc đó cũng chính là nơi Dạt trầm mình tự vẫn.
2. Ngôi nhà mù là một truyện ngắn có cách xây dựng kết cấu và nghệ thuật trần thuật với sắc màu trinh thám
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Kết cấu tạo ra tính toàn vẹn thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật, bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm, trình bày hấp dẫn cốt truyện. Để làm cho tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật thẩm mỹ và sinh động, thì kết cấu là một nhiệm vụ nghệ thuật khó khăn mà nhà văn cần đạt tới. Với truyện ngắn Ngôi nhà mù, tác giả lựa chọn kết cấu truyện lồng truyện, có ít nhất có 5 cốt truyện, song song, lồng ghép vào nhau:
Truyện thứ nhất kể về sự tham lam và tội ác của Dạt. Có thể thấy đây được xem như cốt truyện trung tâm, có liên quan đến một vụ án, một tội ác cần soi tỏ. Người kể chuyện không trực tiếp kể cho chúng ta mà qua trung gian của nhân vật “tôi”.
Truyện thứ 2 kể về “tôi”, thầy giáo cấp ba dạy kèm vi tính cho Dạt các buổi tối. Bước vào gia đình Dạt để dạy kèm nhưng chứng kiến những điều khiến “tôi” phải băn khoăn, ái ngại và phải rời khỏi ngôi nhà ấy. Đây là chuyện về nhân tình thế thái, là sự cảm nhận và lí giải của nhân vật về cuộc sống, về con người trong hiện tại. Truyện thứ 2 không quan trọng bằng những sự việc trong truyện thứ nhất, nhưng lại có vai trò môi giới giữa người đọc và chuyện về tham vọng tội ác của con người trước sự cám dỗ của đồng tiền.
Truyện thứ 3 kể về tên giết người thuê Lê Dương, tức “Dương bụi đời” với công việc trông coi trang trại ở núi Đá Trắng, nhất là đảm nhiệm công việc nuôi cá sấu.
Truyện thứ 4 kể về kho vàng ở núi Đá Trắng với những tình tiết mới và những nhân vật mới xuất hiện từ sau khi công an vào cuộc điều tra. Câu chuyện có liên quan đến cuộc hôn nhân của vợ chồng Dạt, vừa góp phần làm cho câu chuyện tăng tính li kì.
Truyện thứ 5 kể về đứa trẻ bị mất kết nối với cha mẹ, sống trong thế giới ảo của trò chơi trong game. Đứa bé cũng là một trong các manh mối giúp “tôi” biết được những bất hòa trong gia đình Dạt, cũng hé lộ chân tướng của vụ án.
Giữ nguyên mục đích đi tìm bản chất sự thực và đan cài vào đó nhiều chủ đề, nhiều cốt truyện nhằm thể hiện mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và các quan hệ đời sống đan cài, nhưng các truyện trên không diễn ra theo trình tự tự nhiên mà được kể bởi những thủ pháp văn chương. Thủ pháp ấy về cơ bản có hai kiểu là “đảo trật tự thời gian” và thay đổi “điểm nhìn trần thuật” khiến người đọc không ngừng dự đoán và suy ngẫm về sự mất tích của Thịnh và mối liên hệ giữa các nhân vật. Sự lồng ghép một cách tự nhiên các truyện kể góp phần làm nên sự dày dặn của truyện, đồng thời cũng mở rộng dung lượng và phạm vi phản ánh cuộc sống, mở ra cho người đọc đến với một thế giới của sự phức tạp, đa dạng, góp phần thể hiện diễn biến tâm trạng, tính cách, số phận của con người trước cuộc sống.
Truyện Ngôi nhà mù sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ nhất đóng vai trò chủ đạo trong truyện. Đây là cách kể mang đậm tính tự truyện, làm tăng thêm tính trung thực, khách quan cho lời kể. Thử nếu truyện kể theo ngôi thứ 3, người kể giấu mình đi và kể một cách khách quan thì tác phẩm trở thành một bản án với các cuộc điều tra, phỏng vấn, dấu vết ẩu đả trong ngôi nhà, lời khai của các cá nhân. “Tôi” là người kể, sự nhận thức khám phá của nhân vật “tôi” chính là động lực thúc đẩy cốt truyện. Theo đó, vụ án mạng được giữ bí mật và bất ngờ đến cuối truyện, độc giả cũng diễn ra quá trình tư duy, suy đoán về kết thúc truyện.
Điểm nhìn trần thuật là yếu tố cơ bản nhất tạo nên phương thức trần thuật của tác phẩm. “Điểm nhìn trần thuật tựa như cái ống kính camera trong máy quay phim, song nó còn hơn cả camera, vì camera chỉ là dụng cụ quang học, còn điểm nhìn là cơ quan cảm nhận của con người. Nó có tính ẩn dụ, không chỉ nhìn, mà còn nghe, thấy, cảm, suy tưởng. Camera chỉ quay được cảnh bề ngoài, còn tự sự có thể quay cả cảnh nội tâm thầm kín bí ẩn của nhân vật. Điểm nhìn nối kết lời kể với bức tranh thế giới được kể. Trong văn học, điểm nhìn trần thuật được hiểu một cách khái quát nhất là vị trí, điểm quan sát mà người kể chuyện lựa chọn để kể lại câu chuyện của mình cho người đọc.” (Trần Đình Sử). Điểm nhìn như một trong những yếu tố quan trọng tạo dựng cấu trúc tác phẩm và xác lập mô hình truyện kể. Với truyện ngắn Ngôi nhà mù, tác giả nhiều lần thay đổi điểm nhìn và giọng kể.
Truyện ngắn Nguyễn Hiệp không chỉ có một giọng, một điểm nhìn trần thuật, mà phối hợp các điểm nhìn. Có điểm nhìn là người dẫn chuyện “tôi”, có khi điểm nhìn từ nhân vật Dạt, điểm nhìn từ ông Hành, điểm nhìn của đứa trẻ, có cả điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài, điểm nhìn không gian, thời gian và điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc. Nhà văn để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau, vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, khắc họa toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận và khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. “Con người ta mỗi người có một thế giới riêng nhưng có cùng một ước mơ là sống hạnh phúc, tuy nhiên giàu có chưa hẳn được điều đó”. [4, tr. 120]. Cuộc đời và tính cách của nhân vật Dạt được tái hiện, soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật để người đọc được trải nghiệm nhiều cảm giác, suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều bổ ích, tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận tác phẩm.
3. Yếu tố trinh thám trong khắc họa nhân vật
Một cấu trúc hoàn chỉnh của truyện trinh thám ở phương diện nhân vật đầy đủ gồm: nạn nhân, thám tử, tội phạm,… Truyện ngắn Ngôi nhà mù có nhân vật là nạn nhân và nhân vật tội phạm (Thịnh), kẻ chủ mưu (Dạt), kẻ giết người thuê (Lê Dương) tuy nhiên không có nhân vật thám tử. Người kể chuyện xưng “tôi” giúp câu chuyện mang tính chân thật cao. Nhân vật “tôi” chính là một thầy giáo, là một tri thức vốn là những con người sâu sắc, luôn trăn trở suy tư trước nhân tình thế thái.
Về thủ pháp xây dựng nhân vật liên quan đến “bộ xương người” được nhà văn khắc họa ở tâm lí suy nghĩ kì lạ, phức tạp, nội tâm ngổn ngang, những suy tư do làm việc ác sợ người khác phát hiện và cố che đậy. “Tôi cười, Dạt vẫn quay người mắt đang đăm chiêu không hề nghe những lời kể của tôi. Tôi nghĩ Dạt không tập trung vào bữa ăn, có lẽ chẳng biết ngon là gì” [4, tr. 103]. Với nhân vật Lê Dương, một kẻ ác thủ, nhà văn đặc tả đôi mắt dò xét, bí ẩn, đánh lạc hướng suy nghĩ của người khác: “Lúc quay mặt ra sân, tôi chợt có cảm giác như đôi mắt luôn nhìn cụp xuống của chú Dương đang ngẩng lên nhìn xoáy vào mình, tôi quay lại nhưng chỉ còn bắt gặp sự bối rối của bàn tay đang vê vê điếu thuốc bằng cỡ ngón út. Tôi móc túi mời chú điếu thuốc Craven, chú cười khẩy bảo: – Cám ơn! Tao coi thường thứ đó. Tôi hơi phật lòng nhưng nhanh chóng bỏ qua vì nghĩ tính người già hay vậy” [4, tr.101].
Nhân vật Dạt không được khắc họa chân dung, diện mạo nhưng lại được khắc họa qua chi tiết cô nàng cởi quần áo xuống tắm dưới dòng suối Cám sau nhà trước mặt thầy giáo của mình. Phải chăng nhà văn nhằm khắc họa góc khuất bên trong con người đầy tham vọng, khát tiền, bản năng ẩn trong vẻ bề ngoài nữ tính, giỏi giang và thành đạt: “Dạt nằm ngửa dưới nước, nhắm nghiền mắt lại như quên mất sự có mặt của tôi. Nước dán chặt làn vải mỏng vào thân thể Dạt, tôi chợt đưa mắt đến những đường cong tròn mơn mởn, những chỗ mà lẽ ra tôi không được nhìn, điều ấy làm tôi xấu hổ, quay vội mặt sang hướng khác, còn Dạt chợt cười bùng lên cùng với cái nẩy người mạnh đến nỗi khi cơ thể Dạt rơi lại xuống nước, nước văng dựng lên thành một cột hình trụ nước trong suốt lấp lánh những mụn vàng non. Dạt cười to thích thú, tôi chẳng biết Dạt thích thú vì chọc ghẹo được tôi đỏ mặt hay vì dòng suối lấp lánh những hạt “vàng non” ấy.” [4, tr. 110, 111]. Những lời đối thoại và độc thoại nội tâm của nhân vật qua đó khắc họa hình ảnh của người phụ nữ đầy tham vọng, thủ đoạn, có vẻ như nắm được tâm ý người khác.
Truyện Ngôi nhà mù không những xoay quanh những chi tiết, những sự kiện về vụ án mà còn được khai thác từ bên trong tính cách của mỗi nhân vật qua lời độc thoại, đối thoại, độc thoại nội tâm. Những dòng hội thoại của Dạt cho thấy tham vọng của con người là không có điểm dừng: “Tôi thích tiền, đó là sự thật, ai làm gì tôi. Thầy không thích à? Hay không dám thích?”; “Có tiền là có tất, sai khiến được tất”; “Thầy lúc nào cũng sĩ, thầy không chịu năng động, ôm mãi cái sĩ ấy, cuối cùng chẳng ra sao. Em nói thầy đừng buồn: Những kẻ chưa bao giờ lớn mạnh thì móc đâu ra hạnh phúc… Thước đo của em là tiền, phương pháp sống của em là tiền” [4, tr.109,110].
Cái tôi quá lớn của một người phụ nữ không muốn ai cản đường tiến thân của mình: “Những tia mắt đang long lên, đỏ dọc, cô ấy đang nghiến răng rít qua điện thoại: – Mày biết không, ai cản trở đường tao đi là hết muốn sống rồi đó. Mày biết tính tao chớ? Không nói nhiều” [4, tr.112]. Tất cả đều phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển, linh hoạt trong từng chi tiết giúp người đọc hiểu được nguyên nhân của tội ác và những góc khuất ẩn sâu được soi tỏ. Qua đó, cũng thể hiện triết lý về thế giới nội tâm phức tạp của những con người trong xã hội hiện đại.
Kết
Vẫn giữ tính đặc trưng của thể loại truyện ngắn, sử dụng yếu tố trinh thám qua đề tài, nghệ thuật kể chuyện như một phương tiện nghệ thuật để chuyển tải tư tưởng của nhà văn là một thành công. Hơn nữa, yếu tố trinh thám như một dụng công nghệ thuật, làm cho truyện thêm phần hấp dẫn, đã đưa đến một thực đơn tinh thần mới khá lôi cuốn với người đọc.
27/12/2024
Bùi Kim Vân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

André Gide với Đứa con hoang trở về

André Gide với Đứa con hoang trở về Đứa Con Hoang Trở Về/ Le Retour de L’enfant Prodigue (1) là tập truyện nói lên một đối kháng giữa luân...