Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Những vấn đề tư tưởng triết học Phương đông trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt

Những vấn đề tư tưởng
triết học Phương đông trong
nghiên cứu của Võ Quốc Việt

Qua các tác phẩm chuyên khảo, những bài báo khoa học, tiểu luận phê bình,… người đọc cảm nhận nghiên cứu văn hóa – văn học của Võ Quốc Việt không tách rời nghiên cứu luận giải tư tưởng triết học đặt trong mối liên hệ giữa phương Tây và phương Đông. Nhà nghiên cứu thường xác định hạt nhân tư tưởng trước khi thực hành tìm hiểu trang văn. Bằng cách này, tư tưởng triết học làm nền tảng phóng chiếu thực tiễn văn hóa – văn học nhưng ngược lại, trang nghiên cứu của Võ Quốc Việt cũng phản chiếu những vấn đề tư tưởng triết học. Hơn nữa, nhà nghiên cứu họ Võ có khuynh hướng kết dệt các vấn đề triết học, mang lại góc nhìn rất riêng về những vấn đề tư tưởng vốn đã được nhiều người bàn luận. Do vậy, trang viết của Võ Quốc Việt có thể xem như chuyến du hành tư tưởng trong vòm trời triết học phương Đông uyên áo bao la.
1. Tư tưởng Phật giáo
Dấu ấn tư tưởng Phật giáo trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt có thể thấy ở vấn đề liên quan mạt thế luận. Vấn đề tư tưởng này cho thấy tương liên giữa các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ với Phật giáo, đồng thời cho thấy tinh thần dung hòa tiếp biến của người bình dân Nam Bộ. “Trong đó, quan niệm mạt thế và Hội Long Hoa hay Mạt thế luận (eschatology) trong giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chính là vốn liếng tích góp của tộc Việt ở vùng đất mới, trải qua bao sơn trường cay cực của buổi khai hoang khẩn đất, kiên cường chống chọi với sương lam chướng khí, bất khuất trước họng súng quân thù, trông vọng ở cuộc sống tốt tươi mai hậu”[1]. Cốt lõi nhãn quan mạt thế lận của tôn giáo nội sinh Nam Bộ là: Chơn Thiện. Để làm rõ điều này, Võ Quốc Việt đã phân tích và so sánh với mạt thế luận trong nhãn quan Thần học Ki-tô và Tương lai học phương Tây. “Thực tế, hệ thống quan niệm mạt thế có liên quan đến Thần học (Theology) và Tương lai học (Futurism); trong địa hạt tôn giáo, mạt thế xoay quanh các vấn đề như cái chết, sự phán xét, thiên đàng và địa ngục.
Dẫu rằng danh tự ở mỗi phương trời có khác nhau cũng như mối quan hệ giữa các quan niệm trong hệ thống tư duy về mạt thế có khác nhau, nhưng chung quy đều hướng con người đến điều thiện. Vừa là hệ thống xử thế vừa là lề lối khuyên răn, tạo thành giới hạn hành vi con người trong đời sống xã hội. Điều này xác quyết Mạt thế luận gắn liền với Đạo đức học. Vì chăng gọi là Đạo đức học mà không xem giản đơn chỉ như là hành vi đạo đức; vì luận về mạt thế bao gồm nhiều bộ phận tư tưởng gắn kết với nhau, kết dệt thành cấu trúc tĩnh tại (ở vĩ mô) nhưng vận động (ở vi mô), đưa lại kết quả là một hệ thống quan niệm đạo đức gắn liền với sinh giới con người. Đó chính là trường hợp xã hội người Việt ở vùng đất Nam bộ”[2]. Bên cạnh đó, mạt thế luận Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn tiếp thu nguồn tư tưởng từ truyền thống Phật giáo của dân tộc Việt. Đó là dấu ấn của tịnh độ với các đường ác, cõi cực lạc; kèm theo quan niệm thiện ác ở cõi trời – cõi người và vòng luân hồi. Võ Quốc Việt còn làm rõ nhiều quan niệm mạt thế (bao gồm sáng thế – tận thế, sự phán xét thiện ác, chu kỳ sáng tạo hủy diệt của vũ trụ/thượng nguơn – hạ nguơn). Nhưng, mạt thế luận mà người bình dân Nam Bộ tiếp biến từ nhãn quan Phật giáo cũng có đặc điểm khác biệt với thuyết mạt thế Ki-tô.
“Nếu như thuyết mạt thế Ki-tô chú trọng hơn đến cuộc sống sau cái chết, đại nạn, sự quang lâm, phán xét và thế giới mới; thì những vấn đề ấy trong thuyết mạt thế Nam bộ chỉ là “ngữ cảnh” cho việc xác định cách thế sống trong chính cuộc đời hiện có. Bởi vậy, trong mối quan hệ giữa mạt thế luận và tương lai học, thì tương lai của con người thiết thực nhất chính là sự hữu hiện tại thế của mỗi nhân vị. Điều này phải chăng bắt nguồn từ đặc tính ưa thiết thực cụ thể của người Việt. Cho nên, từ mạt thế luận lập thành hành vi sống, hệ giá trị này ảnh hưởng lập thành hệ giá trị đạo đức. Nói trắng ra, điều đáng giá là cái sống ở đời, chứ chẳng phải vì trông vọng ở sự cứu vớt mai hậu mà lập thành đức lý. Thực sự, cách ăn ở trước sau từ đạo lập đức ngay khoảnh khắc hiện tiền, chính bản thân sự thể ấy đã mang lại nghĩa lý và cứu cánh cho sự có mặt của con người ở đời. Chính bản thân những con người như vậy là đã góp phần khai mở Hội Long Hoa. Và Hội Long Hoa không ở đâu xa, mà chính là cuộc sống thường ngày chơn quê mộc mạc đậm đà tình nghĩa láng giềng”[3].
Phải chăng vì vậy, tư tưởng Phật giáo trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt cũng chú trọng đến tính thiết thực, gần gũi, hiện đại. Theo đó, Võ Quốc Việt đến với danh nhân Ấn Độ hiện đại, tìm thấy những giá trị đáng quý trong Phật giáo Tân thừa và chủ nghĩa bình đẳng. Trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt, tư tưởng Bhimrao Ambedkar (1891 – 1956) được phân tích với trọng tâm hướng đến tự do dân chủ, bình đẳng xã hội và cuộc đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân Ấn Độ. Nhà nghiên cứu họ Võ còn nhấn mạnh rằng Bhimrao Ambedkar không chỉ được biết đến như một nhà đấu tranh cho quyền con người, mà còn là nguồn cảm hứng cho phong trào Phật giáo Dalit.
Trong công trình nghiên cứu của mình, Võ Quốc Việt luận giải mối quan hệ và vận động tư tưởng từ chủ nghĩa bình đẳng đến tư tưởng Phật giáo Tân thừa (Navayāna Buddhism) trong các trước tác của Ambedkar. “Như người truyền cảm hứng cho phong trào Phật giáo Dalit, tư tưởng Bhimrao Ambedkar có sự thống nhất giữa quan niệm bình đẳng xã hội và bình đẳng tôn giáo. Chính vì vậy, Bhimrao Ambedkar tìm đến và nhận thấy trong đạo Phật những yếu lí phù hợp, cần thiết cho cuộc vận động đấu tranh bình đẳng – công lí – nhân đạo cho tầng lớp Dalit và giai cấp bị áp bức nói chung. […] “Đức Phật không thiết lập nền tảng tôn giáo của Ngài trên Thượng Đế, Thần Linh, hay bất kì thế lực siêu nhiên nào giống như vậy. Ngài chỉ tay vào thực tiễn đời sống – nơi mà mọi người đang hụp lặn trong nỗi khổ niềm đau””[4]. Thông qua tư tưởng Phật giáo Tân thừa, nhà nghiên cứu nhận thấy giá trị nhân bản sâu sắc gắn liền với phong trào tôn giáo này. Võ Quốc Việt nhận ra sự hiện diện của một tiếng nói trong sáng, mạnh mẽ, bảo vệ quyền sống và phẩm giá cho những con người cùng khổ ở đáy xã hội – càng nhấn mạnh giá trị nhân đạo của phong trào này trong bối cảnh đấu tranh xã hội ở Ấn Độ nửa đầu thế kỷ XX. Bạn đọc có thể nhận thấy tình thương đại đồng cho các phận đời lam lũ cùng khổ nói chung trên trang viết của Võ Quốc Việt.
Và, cũng bởi tình thương, nhà nghiên cứu tìm thấy trong Phật giáo những giá trị đạo đức luận lý. Cụ thể, đạo đức sinh thái Phật giáo! Từ góc nhìn của tư tưởng Phật giáo về môi trường sinh thái, Võ Quốc Việt đã phê phán mạnh mẽ quan niệm đặt con người ở trung tâm (human-centered) hay chủ nghĩa duy nhân trung tâm (Anthropocentrism). Nhà nghiên cứu thấu hiểu sự mất cân đối giữa tiến hóa vật chất và tiến hóa tâm linh, cho rằng khủng hoảng môi sinh thực chất là biểu hiện của khủng hoảng nhân tính. Từ đó, Võ Quốc Việt tìm kiếm trong tư tưởng Phật giáo những chỉ dẫn hữu ích để nâng cao nhận thức về đạo đức sinh thái của con người trong bối cảnh hiện nay. “Đạo đức sinh thái Phật giáo có khả năng trị liệu và bảo tồn môi sinh (nhất là từ bi thương yêu vạn vật, hỷ xả buông bỏ thèm khát vật chất). Tứ diệu đế và Bát chánh đạo còn gợi mở phương pháp xây dựng, cách thức thực hành đạo đức sinh thái (thực hành thanh lọc cấu uế trong thân tâm tiêu trừ tam độc, buông bỏ ái dục, tẩy trừ vô minh, nhận diện đúng đắn mối quan hệ con người – sinh cảnh; thực hành bố thí (Dāna) vô lượng chúng sanh để bồi đắp bảo tồn sinh cảnh; thực hành trì giới (Sīla) hạn chế can thiệp, kiêng cử hành vi xấu với môi sinh; thực hành thiền định (Bhāvanā) – thúc đẩy sự phát triển tâm linh phá bỏ mê lầm vật chất)”[5]. Trong thuyết Duyên khởi, Võ Quốc Việt nhận biết biểu hiện của sự tuần hoàn sinh thái, một mô hình mà mọi sự sống liên kết, tương tác lẫn nhau. Trong Diệt đế, nhà nghiên cứu xác định nguyên nhân và khả năng chấm dứt khủng hoảng môi sinh thông qua các thực hành đạo đức hàng ngày của con người. Như vậy, Võ Quốc Việt bằng sự trở về và tìm lại tư tưởng Phật giáo, nhằm góp phần tích cực giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường sinh thái vẫn đang tiếp diễn. Cũng là ý thức trách nhiệm nên có của mỗi người cầm bút đối với đời sống đang diễn ra.
2. Tư tưởng Nho giáo
Trong chuyên khảo Dân gian triết, Võ Quốc Việt nhận thấy Nho giáo như cách thực hành quan niệm Nho. Và, hiểu sâu hơn: khi Nho giáo/Nho học trở thành Nho đạo bình dân thì nền Nho này có những biểu hiện riêng biệt. Nho đạo này như là Nho của Người Mẹ, tức Nho đặt trên nền mẫu tính. Soi chiếu lại một số quan niệm của Kim Định nhưng rẽ sang hướng khác, nhà nghiên cứu nghĩ rằng Nho đạo dân gian mà Kim Định xem như “Âu Cơ Túy” có thể lập định khác chi Tiền Nho. Nó vừa điểm khởi và cũng là đích đến của nền học thuật. Rõ là, nền học vấn không thể xa rời thực tế, thậm chí nền học vấn phải khiến dẫn con người trở về cận kề với thực tế. Ấy là biện chứng không thể tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Như vậy, phải chăng Võ Quốc Việt sử dụng lối biện chứng duy vật để đánh giá Nho giáo dân gian Nam Bộ. Chính điều này khiến cho nhãn quan của Võ Quốc Việt (tưởng như tương đồng) nhưng lại dị biệt với nhãn quan của Kim Định. Bởi Kim Định nghiên cứu Âu Cơ Túy của tộc Việt dựa trên phương pháp “cơ cấu luận huyền sử”[6], trong khi Võ Quốc Việt sử dụng lối biện chứng duy vật[7]. Điều này, giúp người đọc nắm bắt cơ sở hạ tầng của nền Nho học – toàn cõi Đông Á từ lâu vẫn xem như khởi đi từ thuật giải của Khổng – Mạnh.
Nghiên cứu của Võ Quốc Việt, đáng kể ở cách đặt vấn đề mang tính gợi mở. Phóng tầm nhìn đến nền Tân Lý học của Trung Quốc hiện đại, cụ thể trường hợp Phùng Hữu Lan với xu hướng “thích cổ”, Võ Quốc Việt làm rõ thêm khác biệt giữa lịch sử như là lịch sử khách quan và lịch sử như là lịch sử được viết ra; đồng thời phát hiện điểm khác biệt giữa Nho (như là minh triết dân gian) và Nho (như là học thuyết kinh điển). Nếu như Nho dựa trên những lời “tử viết” có tính cấu trúc chặt chẽ, tập trung vào các nguyên tắc đạo đức, thứ bậc xã hội và bình trị thiên hạ; thì Nho đạo dân gian được thực hành bởi người bình dân Nam Bộ là một triết lý dân gian, bắt nguồn từ cuộc sống và giá trị đời thường, nó là biểu hiện của sự “thanh lọc” và trở về với “dân gian tính” (tương phản với chính thể tính), nghĩa là nó linh hoạt hơn, cấu trúc ít cứng nhắc hơn và gắn kết hơn với thực tế tự nhiên và xã hội của con người vùng châu thổ Cửu Long.
“Tiếp theo, bạn lập định Nho đạo: Biểu hiện thanh tẩy, quy hồi dân gian tính. Nho không đơn thuần hệ thống quan niệm tư tưởng theo đường hướng Khổng Mạnh. Nho vốn đã hiện tồn lưu hoạt sống động trong cõi dân gian từ trước khi Khổng Mạnh tuyên bác. Nho thuộc về sự sống đang triển nở muôn hằng. Một khi trở thành Nho học rồi Nho giáo, Nho dần thoát ly khỏi môi trường lưu hoạt vốn có để trở thành phương tiện/khí cụ lưu hoạt của giai tầng và chính thể. Cho nên Nho lưu hoạt như Nho đạo dân gian, tức trở về/quy hồi sinh tồn lưu hoạt căn nguyên của Nho”[8].
Từ góc nhìn đó, nhà nghiên cứu thử đặt truy vấn tính liên tục lịch sử của Nho giáo và Nho đạo. Như học thuyết (về nhân sinh quan, đạo đức quan, chính trị quan, thẩm mỹ quan, …), Nho giáo khởi đi từ sự san định, kiến giải của Khổng – Mạnh và dòng truyền thừa tư tưởng từ sau đó (chí ít) trong phạm vi khu vực Đông Á hơn hai ngàn năm qua. Nhưng, với Nho đạo dân gian, Võ Quốc Việt giả thiết rằng những quan niệm (thuộc phương diện nhân sinh quan, đạo đức quan, chính trị quan, thẩm mỹ quan, …) là những giá trị nhân tính phổ quát; không nhất thiết riêng chỉ thuộc vào địa hạt học vấn trường quy (của giai tầng nào đó trong xã hội, không phải đặc quyền đặc sản của tầng lớp nho sĩ trí thức). Biểu hiện Nho đạo dân gian có thể giúp đặt ra giả thiết rằng một hình thức Nho đã tồn tại trong thế giới dân gian ngay cả trước khi xuất hiện các thánh nhân – á thánh chính thức xác lập giáo thuyết của họ. Phiên bản Nho này được mô tả là “minh triết dân gian”, ngụ ý rằng nó đã ăn sâu vào đời sống và văn hóa của người bình dân, có trước các học thuyết chính thống. Với quan điểm này, bạn đọc có thể hiểu rằng nhà nghiên cứu họ Võ đã thay đổi cách tiếp cận ảnh hưởng sang cách tiếp cận song song trong nghiên cứu so sánh văn hóa-văn học trong bối cảnh địa phương-khu vực.
Nhãn quan của Võ Quốc Việt vừa đặt giả thiết vừa thể hiện thái độ ủng hộ việc “trở về/quy hồi sinh tồn lưu hoạt căn nguyên của Nho”, gợi ý rằng bản chất thực sự của Nho giáo nằm ở mối liên hệ của nó với cuộc sống hàng ngày và các giá trị của người bình dân, hơn là trong những giáo truyền “Tứ Thư Ngũ Kinh”. Và, hệ thống đạo đức quan của Nho giáo lại có thể được nhận thấy sáng đẹp ở đời sống lao động bình dân chứ không phải ở bậc đại nhân quân tử. Vẻ đẹp của Nho lại được nhìn thấy ở những con trùn đất chứ không phải những con rồng cưỡi gió đạp mây. Việc quay trở lại cội nguồn ấy  được coi là một hình thức thanh lọc, loại bỏ các lớp thể chế hóa làm bộc lộ ra những giá trị cốt lõi gây được hô ứng trong lòng người dân, gây được làn sóng ủng hộ mạnh mẽ khi người quân tử trả mão từ quan trở về cùng với nhân dân chống giặc cứu nước.
Nho đạo dân gian, mẫu tính tộc Việt, minh triết của nền văn minh Nước, … những yếu tố tích hợp khó phân định rạch ròi trong thực hành tư tưởng của Võ Quốc Việt. Có lẽ, xem xét những yếu tố này như các trắc diện của sinh thể thống nhất, mà nhà nghiên cứu đã thể hiện trong hoài bão về nền triết lý giáo dục dân gian. Đó là sự trở về với hồn quê để nối tiếp hồn quê. “Mô hình Giáo dục Dân gian Nam bộ bao trùm trên ba phương diện Giáo dục Gia đình, Giáo dục Nhà trường, Giáo dục Cộng đồng. Giáo dục Gia đình với vai trò người mẹ đặc biệt quan trọng. Tâm hồn mẹ Việt với Nho đạo dân gian chẳng khác gì nhà giáo dục trong mái gia đình […] Ghi nhớ – trao truyền – cải hóa là quá trình lưu hoạt giáo dục cộng đồng, thức tỉnh lương tri con người với sức lan tỏa rộng rãi theo thời gian đồng đại lẫn lịch đại. Người Nam bộ vẫn dặn lòng: ăn ở đàng hoàng không thất đức, chính là cách để lại đức cho con cháu”[9]. Mấy dòng ngắn ngủi của nhà nghiên cứu cho thấy ấp ủ về nền học vấn có thể giữ gìn căn tính dân tộc, mong mỏi phát huy thêm dòng sinh mệnh dân tộc. Dù chỉ gợi mở, song suy nghĩ của Võ Quốc Việt đáng được nghiêm túc suy ngẫm!
3. Thuyết Âm Dương – Tam Tài – Ngũ Hành
Không chỉ đơn thuần khái niệm, Tam Tài còn là phạm trù quan trọng trong hệ thống tư tưởng phương Đông cổ đại. Cũng vậy, từ Tam Tài đến Ngũ Hành, đây là những phạm trù tư tưởng nhằm lý giải cơ chế vận hành biến hóa của sinh giới. Tam Tài (Thiên – Địa – Nhân) cho thấy cơ cấu cũng như cách thức điều hòa cân bằng vũ trụ. “Một con người ý thức rõ ràng về hữu tại, ý thức rõ ràng về nghĩa lý tồn hoạt, ý thức rõ ràng về nhân tính – nhân tâm – nhân tình, bấy giờ con người ấy đã biểu hiện mình cùng với trời đất bình đẳng, hợp thành Tam Tài vậy!”[10]. Tiếp cận từ thực hành văn hóa Nam Bộ, Võ Quốc Việt luận giải biểu hiện của các phạm trù Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành trong liên quan mật thiết. Theo đó, nhà nghiên cứu đưa ra những nhận xét về đặc điểm văn hóa nam – bắc Dương Tử.
“Và cũng bởi phương Bắc chọn số chẵn nên thiên về cố định, tĩnh, giữ vững trạng thái cũ; áp đặt thiết chế quản và trị để tạo dựng cái gọi là thái bình. Ngược lại, phương Nam chọn số lẻ, thiên về động, luôn sinh sôi nảy nở, ưa phồn thực, giàu ý tưởng, nhanh chóng thích nghi và có thiên hướng cách tân đổi mới; quen tự do phóng khoáng không ràng buộc câu thúc bởi lề luật. Theo đó, phương Bắc giữ nhân bằng lễ, phương Nam gìn nhân bằng nghĩa. Vậy rồi, phương Bắc đi theo đường lý, phương Nam rẽ vào đàng tình”[11].
Vẫn còn những luồng ý kiến khác nhau về nguồn gốc lịch sử của thuyết Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành và cả Kinh Dịch; song nếu tiếp cận từ những di sản vật thể và phi vật thể, cùng những bằng chứng khảo cổ thì góc nhìn của Võ Quốc Việt là có căn cứ và đã làm rõ được yếu tính tư tưởng của văn minh Lạc Việt vốn còn biểu hiện trong thực hành đời sống bình dân Nam Bộ. Từ một nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương công bố, văn minh Lạc Việt được xem như cội nguồn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Trong quá trình vận động biến đổi bởi tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, nó liên tục thích ứng và “hiệu chỉnh” để trở nên chặt chẽ, nhất quán và khoa học hơn.
“Kể từ khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ là một học thuyết khoa học nhất quán, hoàn chỉnh có khả năng miêu tả mọi điều trong vũ trụ và cuộc sống quanh ta bằng những khái niệm của nó và khả năng tiên tri. Đây không phải là một sự phủ nhận những giá trị học thuật và những phương pháp ứng dụng đã tồn tại hàng thiên niên kỷ với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mà chỉ là sự hiệu chỉnh từ nguyên lý căn để và giải thích một cách hợp lý bằng một cách khác. Sự hiệu chỉnh này về cội nguồn lịch sử và nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và bát quái đã chứng tỏ tính phù hợp với tất cả mọi tiêu chí khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành”[12].
Nghiên cứu của Võ Quốc Việt trong văn hóa-văn học có thể nói đã góp phần vào diễn trình hiệu chỉnh như thế. Bằng góc nhìn cận cảnh, nhà nghiên cứu phát hiện yếu tính âm dương, tam tài, ngũ hành trong thực hành đời sống hằng ngày của người bình dân, theo đó chỉ ra nguyên lý vận động phát triển của đời sống con người Nam Bộ. Nhất là, qua hình ảnh ví von cỏ gấu, nhà nghiên cứu phát hiện ra khả lực cách mạng năng động sôi nổi mạnh mẽ của người và đất Nam Bộ. “Cỏ gấu giữ được gốc củ, dẫu cho thời thế thiêu đốt bao nhiêu lần, vẫn đủ sức hồi sinh nẩy mầm đâm chồi, tiếp nối cuộc sống trên mảnh đất phù sa châu thổ”[13].  Từ những học thuyết này, Võ Quốc Việt luận giải thêm nhận thức sâu sắc của người bình dân Nam Bộ về mối quan hệ gắn kết giữa con người với vũ trụ. Đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức con người về tồn tại, ý nghĩa của sự tồn tại; tầm quan trọng của hiểu biết về bản tính, cảm xúc và tình cảm con người. Nhận thức đó giúp cá nhân hòa hợp với các lực lượng vũ trụ rộng lớn thuộc về “Trời” và “Đất”. Quan niệm này, vì thế, chi phối cách đối đãi của bình dân Nam Bộ với thiên nhiên trời đất vạn vật; góp phần hình thành đạo đức tự nhiên và đạo đức xã hội.
Thông qua trang nghiên cứu của Võ Quốc Việt, người đọc có dịp cảm nghiệm sâu sắc hơn đặc điểm triết học phương Đông, rằng vũ trụ vận hành theo nguyên tắc hài hòa và cân bằng. Nhận thức và sự tự nhận thức của mỗi cá nhân là chìa khóa để đạt được sự cân bằng này, ta nhận ra và tự điều chỉnh trạng thái nội tại tương ứng với trật tự vũ trụ ngoại tại. Điều đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nội tâm và trau dồi bản thân trong triết học phương Đông, vốn đặt trọng tâm ở việc hòa hợp với vũ trụ thông qua thấu hiệu tự thân. Hiểu mình nên biết cách sống với trời đất, biến lối sống đó thành thói quen sinh hoạt thường ngày, người bình dân Nam Bộ hiệp cùng trời đất tạo thành sinh thể thống nhất. “Trời đẹp đất tươi, vẻ phong quang rực rỡ thiên địa, con người bẩm thụ thành ra thiên tính. Thiên tính phóng chiếu, lập thành tâm căn. Tâm với tính đi liền với nhau không phải hai cũng chẳng phải một, cũng chẳng hai chẳng một. Tâm với tính là quá trình phóng chiếu thiên địa và Nhân (như là Một trong Tam Tài)”[14].
Với học thuyết Âm Dương – Tam Tài – Ngũ Hành, bạn đọc có thể ít nhiều nhận ra khuynh hướng “thích cổ” của Võ Quốc Việt. Con đường nghiên cứu trên đà khai mở, chưa thể vội vàng đánh giá thành tựu, song người đọc có thể thấy khả lực mạnh mẽ trong tư duy khoa học của nhà nghiên cứu.
4. Minh triết của Mẹ Việt
Tiếp cận từ phương diện văn hóa, minh triết Mẹ trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt có liên quan nhất định tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ đại (theo quan niệm GS. Trần Quốc Vượng[15]); lại cũng cho thấy cổ tượng Mẹ trong vô thức tập thể của con người (gắn liền với những phẩm chất như nuôi dưỡng, yêu thương, nhân ái và bảo bọc). Và, minh triết Mẹ gắn với tín ngưỡng dân gian nên được xem như biểu hiện của cơ tầng văn hóa khu vực chứ không hoàn toàn trong phạm vi dân tộc. Xem xét từ góc độ thực hành tín ngưỡng, GS. Trần Quốc Vượng nhận thấy: “Tín ngưỡng phồn thực thể hiện đậm đà và quán xuyến, đa dạng và độc đáo trong đời sống tâm linh người Việt. Tư chất, tính cách và tâm lí Việt Nam thể hiện rõ trong “nguyên lí Mẹ””[16]. Nghiên cứu của Võ Quốc Việt chỉ dấu niềm tin ấy không dừng lại ở thực hành tín ngưỡng mà đã nhuần nhị trong hành vi sống thường nhật, biểu hiện ra thành nếp suy nghĩ lẫn nguyên tắc thực hành sinh hoạt và đặc điểm tính cách con người. Thêm nữa, với Võ Quốc Việt, nguyên lý Mẹ trở nên nhân cách văn hóa của người bình dân Nam Bộ. Mẫu tính tức nhân tính – mẫu tính cũng góp phần tạo thành nền tảng của nhân bản phương Nam.  Từ nghiên cứu về biện chứng Dịch – Dung và phân biệt nguyên lý Cha với nguyên lý Mẹ của GS. Nguyễn Đăng Thục, nhà nghiên cứu làm rõ thêm nhân cách văn hóa của người phụ nữ Nam Bộ.
“Người phụ nữ Nam bộ linh hoạt uyển chuyển bên ngoài nhưng tính cách nghĩ suy cương trực hùng liệt […] Lối biện chứng Dịch Dung giao hòa giữa nguyên lý cha và nguyên lý mẹ. Trong đó nguyên lý cha biểu hiện, nguyên lý mẹ ẩn tàng bao trùm; không đâu không khỏa lấp, không đâu không đong đầy. Đức Mẹ có thể cứu cuộc. Cách thế biện chứng Mẹ Việt ở Nam bộ thấu đáo, tri hành hiệp nhất, tương nghịch tương tranh đều được chuyển hóa, hiềm khích xung đột đều được hòa giải”[17].
Mẫu tâm thành ra mẫu tính, biểu thị thành mẫu đức. Nguyên lý Mẹ trong tương tác với tha nhân, cổ tượng Mẹ cũng chi phối trong thực hành đạo đức bình dân Nam Bộ. Mẫu tử liền tâm, con nhờ đức Mẹ, không tương tranh và tương dung. Vì lẽ đó, đạo đức bình dân Nam Bộ không phải “tha thứ” của kẻ bề trên đối với người dưới – mà chỉ là “bỏ qua”. “Từ bài học đạo đức, mẹ còn mở rộng ra bài học nhân sinh, lấy ân báo oán, lấy nghĩa trả thù, lấy bỏ qua đãi tham tàn”[18]. Từ đạo đức quan đến nhân sinh quan, từ mẫu đức thành ra mẫu triết, Võ Quốc Việt đã cho thấy sức chuyển hóa của tình thương minh triết mẹ trong tâm thức bình dân. “Tình thương chính là sự mầu nhiệm của Mẫu tính Việt tộc nơi bà mẹ miền Nam nói chung”[19]. Võ Quốc Việt đã chứng minh được minh triết Mẹ là triết lý và thực hành sống dựa trên tình thương. Vì thương mà nghĩ tưởng, vì thương mà suy xét, vì thương mà thấu hiểu, vì thương mà hóa giải, vì thương mà dung hòa… Mẹ lớn lao như trời biển!
Từ những vấn đề tư tưởng triết học phương Tây (Nietzsche, Bergson-Ouspensky, hiện tượng học, toàn tâm luận, hậu nhân luận) và phương Đông (tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Âm Dương – Tam Tài – Ngũ Hành, minh triết Mẹ Việt), người đọc cảm nhận khuynh hướng xuyên vượt văn hóa trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt, ở chỗ liên hệ – đối chiếu – giao thoa tư tưởng Đông – Tây, cùng hướng đến khêu sáng nền tảng nhân bản Nam Bộ. Bạn đọc sẽ thấm ngấm vẻ đẹp tư tưởng bình dân Nam Bộ hài hòa trong vẻ đẹp nhân loại phổ quát. Và, rốt cuộc, Đông – Tây đã dịch – dung vào tâm hồn dân gian nước Việt.
Điểm nổi bật và nhất quán trong nghiên cứu tư tưởng triết học của Võ Quốc Việt chính là ý hướng trở về với đời sống tâm hồn bình dân Nam Bộ. Khát vọng gắn kết tư tưởng dân tộc với tư tưởng Đông – Tây, tinh luyện thành những khí cụ hữu ích cho việc tìm hiểu văn hóa – văn học hiện nay, ít nhiều đã “dịch chuyển tri thức” Đông – Tây mở rông khả năng vận dụng vào thực tiễn. Đó là hoài bão trong sáng đáng ghi nhận! Chưa vội nói đến hoài bão này đạt được thành tựu gì, nhưng nỗ lực của Võ Quốc Việt là khả lực hứa hẹn con đường nghiên cứu dài hơi trong tương lai rất đáng khích lệ!.
Chú thích:
[1] Võ Quốc Việt (2021). Phật tính dân gian với Mạt thế luận và đạo đức con người Nam Bộ. Trang thông tin Hội Nhà văn Việt Nam. Trích xuất ngày 16.11.2021. Nguồn: https://vanvn.vn/phat-tinh-dan-gian-voi-mat-the-luan-va-dao-duc-con-nguoi-nam-bo/
[2] Võ Quốc Việt (2021). Phật tính dân gian với Mạt thế luận và đạo đức con người Nam Bộ. Trang thông tin Hội Nhà văn Việt Nam. Trích xuất ngày 16.11.2021. Nguồn: https://vanvn.vn/phat-tinh-dan-gian-voi-mat-the-luan-va-dao-duc-con-nguoi-nam-bo/
[3] Võ Quốc Việt (2021). Phật tính dân gian với Mạt thế luận và đạo đức con người Nam Bộ. Trang thông tin Hội Nhà văn Việt Nam. Trích xuất ngày 16.11.2021. Nguồn: https://vanvn.vn/phat-tinh-dan-gian-voi-mat-the-luan-va-dao-duc-con-nguoi-nam-bo/
[4] Võ Quốc Việt (2023). Chủ nghĩa bình đẳng của Bhimrao Ambedkar. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh – Tập 20, Số 8 (2023), tr.1424 (1415-1427).
[5] Võ Quốc Việt (2023). Đạo Phật: Nhân tính và môi sinh. Tạp chí Văn hóa Phật giáo. Trích xuất ngày 3.8.2023. Nguồn: https://tapchivanhoaphatgiao.com/luu-tru/21859
[6] Kim Định (2017). Nguồn gốc văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn, tr.118-126.
[7] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.182-187.
[8] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.149-150.
[9] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.224.
[10] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.219.
[11] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.47.
[12] Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2010). Văn minh Lạc Việt – Cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Khoa Đông Phương học – Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội. Trích xuất ngày 17.5.2010. Nguồn: https://fos.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/tan-man-phuong-dong/van-minh-lac-viet-coi-nguon-lich-su-cua-thuyet-am-duong-ngu-hanh-va-kinh-dich-389.html
[13] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.145.
[14] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.96.
[15] Trần Quốc Vượng (chủ biên, 2006). Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần thứ tám). Hà Nội: Nxb. Giáo dục, tr.92.
[16] Trần Quốc Vượng (chủ biên, 2006). Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần thứ tám). Hà Nội: Nxb. Giáo dục, tr.108.
[17] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.181.
[18] Võ Quốc Việt (2023). Dân gian triết (Nghiên cứu văn xuôi Trần Bảo Định). TPHCM: Nxb. Tổng hợp, tr.203.
[19] Võ Quốc Việt (2020). Ngọn đuốc sáng giữa đêm phù sa châu thổ. Trang thông tin Văn học Sài Gòn. Trích xuất ngày 4.11.2020. Nguồn: https://vanhocsaigon.com/ngon-duoc-sang-giua-dem-phu-sa-chau-tho/
10/12/2024
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xuân trên những nụ non

Xuân trên những nụ non Đông dần vơi để lại bâng khuâng trên những tờ lịch cuối. Xuân non xèo vừa tượng hình nhu nhú trên những chồi non, v...