Hành trình của đời người
Là chặng đường đấu tranh của con người trước cuộc sống,
đấu tranh để có một chính nghĩa, để có một nghĩa vụ xứng đáng làm người; nó
mang tính chất hoài bão cho một lý tưởng muốn thực hiện, nhưng; thực hiện trong
một chân lý có tính đạo đức luân lý, nghĩa là không vì mình mà vì người. Chủ thể
đối xử tự hào là tán thành hành động nằm trong luân lý đạo đức và không ‘dựa
hơi’ (upholds) trên chính sách pháp lý mà hành xử như tỏ ra một sự độ lượng hay
khoan nhượng về nó. Nó đến trong một nghĩa cử của con người biết xử thế, đó là
giá trị đã được yêu cầu cho sự sống của con người, với tư cách (qua) làm
người trên hành tinh này; có nghĩa rằng giá trị đó luôn hướng tới nhân loại (human). Nhưng
nhớ cho giá trị đó không phát sinh ra ‘ước muốn / desires’ mà những thứ đó gây
ra do từ hằng hà sa số tỷ súc sanh đã ‘nằm vùng’ trong tư tưởng phá hoại, phá
hoại dưới mọi hình thức, có thể mang một danh nghĩa khác, có thể kinh qua giáo
điều để che mắt thế gian hoặc dưới một danh xưng nào đó, những thứ ấy gọi là ngụy
tín tất không thể phát triển vượt mức; đấy là điều mà chúng ta phải thực
hiện ở ban đầu, một thực tập đáng kể lòng hy sinh của nhân loại –practice of
human sacrifices cho mục đích trung thực giữa đời này.
Nói tới đạo đức thì sự đó không phải là thứ ảo ảnh thần bí
–Ethics is not a mystic fantasy. Mà cũng chẳng phải là qui ước xã hội, cũng chẳng
phải một thứ có thể miễn trừ, buộc phải để có một đời sống sang trọng, lộng lẫy
–nor a social convention nor a dispensable, subjective luxury… Đạo đức luân lý
là một chủ thể cần thiết cho sự sống còn của nhân loại –Ethics is an objective
necessity of man’s survival, nó cũng chẳng phải là hào quang của siêu nhiên
(supernatural) chẳng phải coi đó là tình người hàng xóm của ta, đã giúp ta một
lần trong đời, giúp đó là trợ vào (aid) để có nhau; cái sự đó nó nằm trong lăng
kính của thỏa mãn tợ như thỏa mãn lòng tự ái, lòng ham muốn (whims) của
đám nam nữ vị thành niên, như thể nó có một sự tỏ bày hiện thực là lẽ tự nhiên
của cuộc đời.Thực ra; sự đó là hoài bão. Thông thường cái từ hoài bão đó
là tính ích kỷ / selfishness tưởng như từ bỏ ích kỷ mà nặng lòng độ
lượng hay khoan nhượng; thực nghĩa của nó là xấu xa (evil) nằm chình ình ra đó
là hình ảnh ma giáo, là gợi ra một thứ súc sinh giết người, giẫm tràn bừa trên
những xác chết để đạt được cho riêng mình –the image it conjures is of a
murderous brute who tramples over piles of corpses to achieve his own ends. Thế
thì ai để tâm cho sự sống hiện hữu đó mà để lòng vào cái sự không có đó
(nothingness) và coi đó là thỏa mãn của lòng ham muốn. Muốn là không có lý trí
cho những gì muốn có. Cái trò ma-giáo đó còn luân lưu trong huyết quản
của con người, nó trở nên truyền kiếp, nó trở nên di truyền khó gọt rữa, có
chăng là tự thức, là thấy được cái chân lý tối thượng của đạo đức luân lý để lại,
nhưng; ác thay cái gọi là ‘whims’ hay cái ‘desiré’ nó không khai trừ ra khỏi
vũng tối. Vũng đó nhà Phật gọi là vũng sân si ; vì vậy cái sự ích kỷ
là nghĩ tới cái gì có lợi cho riêng mình –concern with one’s own interests nó
không phát động cái lòng từ tâm để cứu nhân độ thế. Người ta quên nó vì ích kỷ.
Con người là một vật thể biết suy nghĩ, nhưng; họ đã từ khước để cho lòng ích kỷ
trổi dậy, khống chế tâm can làm hư hại biết bao điều. Ý niệm này không bao che
cho một giá trị luân lý đạo đức mà cũng chẳng phải nói cho chúng ta biết điều
phải trái, tốt xấu mà đặc vấn đề cái lợi ích riêng mình / one’s own interests.
ngay cả chúng ta những gì hợp lý đúng nghĩa là có lợi ích của con người –what
constitutes man’s actual interests. Đấy là giảo nghiệm của cuộc đời đang đứng
trước vấn đề đạo đức luân lý cho những gì đặc ra và trả lời. Thí dụ: nhà văn Z.
viết lên cái của mình hơn cái của người, viết như tường thuật sự kiện chớ không
viết cái ‘ai oán’ của con người trước thời cuộc, lồng ở đó một âm vang không sống
thực, tưởng tượng hóa vấn đề để trở nên bi thảm (tragety) của xã hội vô phương
cứu chửa mà đồng tình vào đó để nói lên tội ác của con người; vô hình chung nói
về cái lợi riêng mình hơn là cái lợi ích chung. Một phụ nữ khác; bà T. chả văn
sĩ, chả thi sĩ, chả chí sĩ chỉ đem lòng từ tâm ra làm việc nghĩa để có lợi cho
mọi người thì sự đó được coi là có luân lý đạo đức. Mấy sĩ kia chỉ là con tốt
giữa bàn cờ người, chỉ là dục vọng ham muốn mà thôi. Với hai mẫu người cho ta một
phân định rõ rệt giữa xấu / evil và tốt / good . Là một bao hàm tổng thể của
cái gọi là luân lý đạo đức. Nói cho ngay cả hai cùng có lợi, nhưng; phải chính
nghĩa mới là cái lợi đáng nói. Còn bằng không có đó như không có đó, bởi; họ ra
khỏi nghĩa cử của đạo đức luân lý. Nhưng nhớ cho luân lý đạo đức của chủ nghĩa
vị tha là biết độ lượng, khoan nhượng là thay vào đó hình ảnh của thứ ma-đầu,
hoạt-đầu trong mọi lãnh vực; đấy là lời cảnh tỉnh dành cho những kẻ háo danh,
ưa cái hay về mình hơn về người khác, bản chất đó gọi là ‘selfishness’ là bản
chất tự-tại khó trừ khử. Viễn cảnh của vị tha chủ nghĩa là phép tự nhiên nơi
con người, nó diễn cảm trong một tâm thức độ lượng nghĩa là biết phải, biết
trái là kết quả của nó và cũng là tầm cở của vấn đề luân thường đạo lý đã gián
đoạn nó liên tu bất tận suốt cả một hành trình dài. Vì vậy quan tâm của chúng
ta về chủ nghĩa vị tha hoàn toàn mất tính năng động trong lãnh vực của lý thuyết
đạo đức luân lý. Chúng ta trông chờ ở một tâm thức chủ quan của những gì giá trị
thuộc về nó, tức thuộc về người hơn những gì thuộc về mình thì chủ nghĩa luân
lý đạo đức mới phát triễn và gieo vào đó một tính chất chân chính. Giữ vững được
nó tất chúng ta duy trì một đường lối hợp lý, hợp pháp cho mai sau. Một thứ
luân lý đạo đức sống thực giữa đời này. Cũng khó lòng để gọi nó một cách chính
đáng không chừng gieo vào tâm thức một thứ duy lý chủ nghĩa (rationalism) mà hầu
hết những nhà lý luận, những triết gia đã quyết định một cách minh bạch cho rằng
lý do đó có đôi phần khắc khe khi chưa đả thông tư tưởng hay chưa tìm thấy nguồn
cơn tự sự của một nền luân lý chính đáng để gọi đó là đạo đức đôi khi đạo đức
đó là nằm bên ngoài quyền lực của lý do –outside the power of reason, sự đó
chưa hẳn phải luân lý đạo đức dựa trên lý trí hợp lý, có thể sự đó là một biện
minh cho một lý lẽ nêu ra và có thể nó nằm trong lãnh vực thuộc luân lý đạo đức.
Vậy thì hành trình của đời người là khám phá cái cốt tủy của nó một cách hợp lý
và chính đáng thì sự kiện mới thành hình trong tư thế độc lập và phân định được
hai trạng huống của tốt (good) và xấu (evil), giữa hai con người ích kỷ
(selfishness) và vị tha (altruist) trong một chọn lựa của giá trị và hành động.
Từ chỗ phát sinh ra ích kỷ là do nguồn cơn của cụm
từ: ‘quan tâm tới những gì có lợi riêng mình –concern with one’s own interests’
là một hủy thể tự tại chất đống hằng thế kỷ qua, nó tụ trong một tâm thức bị động
để hành động, không còn quán chiếu vào lòng vị tha (altruist). Chủ thể của đạo
đức luân lý thường cho rằng ý niệm đó đúng ở chính nó với một nhận định trong
suốt; bên trong của vị tha là khuất phục để chế ngự lòng ham muốn của dục vọng;
không còn mang vào người ý niệm đầu hàng trước kẻ thù, cũng không còn nhầm lẫn
giữa quan niệm, giữa xuyên tạc hay bóp méo. Định kiến và sợ hãi vẫn cho là phi
lý. Người ta tấn công vào sự ‘ích kỷ’ là người ta tấn công vào cái tự ái riêng
mình (self-esteem) không biết tự trọng mà đưa tới đầu hàng và đầu hàng đến người
khác. Lý do cụ thể của việc làm là tranh giựt cái ghế không chân, nó
lỏng lẻo ngay ở chính trường để rồi bỏ cuộc, bó tay, chạy-làng, chạy tới đâu la
tới dó, phất cờ khởi nghĩa hùm bà lằn, bầu cua cá cọp. Biết rằng quá khứ không
bao giờ quên –the past never gone! Nhưng; chúng ta phải lập lại để thấy cái cần
quên và cái cần nhớ, chúng ta không nên lập lại nhữg gì ‘tàn tích cố cựu’, nếu
khăng khăng giữ lấy nó tất giữ cái tâm phân biệt là triền miên bất tận, nó dày
vò tâm can, bởi; thất thế ‘thời phải thế’.Chúng ta đang ở trong ngụ ngôn của sa
ngã, bởi; chính ta ích kỷ cho chính ta, quên có nghỉa là vị tha, có nghĩa rằng:
‘Binh giáp tàn hung trung’ (NCT). Cởi cái áo rách đó ra mặc cái áo ‘không gian’
vào để thấy mình thấy ta trăm trận trăm thắng. Đó là nghĩa vụ của người yêu nước
‘Vũ trụ chi gian giai phận sự’ (NCT). Nói chung những thứ đó là biện chứng xã hội,
một xã hội mất gốc và mất luôn cả đạo đức luân lý, trở nên phi-chính-nghĩa (non-righteous
cause), chính nghĩa là người hùng đến từ thế gian ‘Nam nhi đáo thử thị hào
hùng’ (NCT); thành ra mọi thứ yêu cầu là do phát sinh ham muốn, ích kỷ mà ra.
Đó là hình thái của kẻ thụ động luôn bao che cái riêng của mình, một thụ động
ích kỷ là nghịch lý của lý thuyết đạo đức luân lý. Người ta kêu gọi lòng vị tha
là gọt rữa những gì thuộc về mình. Ích kỷ và vị tha là hai đối kháng. Đứng trên
phương diện chính trị giữa vị tha và ích kỷ một đôi khi phải hòa nhập vào nhau
để ‘hai bên cùng có lợi’ nhưng thực chất của đôi bên vẫn ngấm ngầm một sự ích kỷ
tự tại và tỏ lòng vị tha có tính độ lượng và khiêm nhượng để có qưyền lợi cho
riêng mình. Thí dụ: viện trợ không hoàn lại là dụng ý của một ích kỷ tự tại.
‘Môi hở răng lạnh’ là một ‘self-esteem’ che lấp ở đó một tự ái hận thù. Cho nên
chi lý thuyết đạo đức luân lý là sống thực trong một bản thể của con người. Vì
coi thường hay lơ là mà đầu hàng vô điều kiện, Hủy thể của ích kỷ là vị tha là
đúng nghĩa của nó; bằng không chỉ đầu môi trước lưỡi.Trên chính trường người ta
biết vận dụng để thu hoạch; có lợi cho mình và lợi cho kẻ khác, nhưng; trong
cái lợi hai chiều đó vẫn hàm chứa một sự ích kỷ ngấm ngầm chớ chưa hẳn phải là
độ lượng với tấm lòng khoan nhượng.
Vậy thì hành trình của đời người là vượt qua mọi chướng ngại
vật của ích kỷ và vị tha là hiện thân cơ bản, là nồng cốt những gì do con người
đề ra giữa những tình huống ngược đãi; một hiện hữu tại thế, tất dấn thân. Con
đường đi tới chủ nghĩa hóa là một hành trình dài lâu tức có từ ý thức khách
quan đến chủ quan là thái độ phản tỉnh giữa hai đối đầu thường xuyên của con
người là ích kỷ và vi tha.
Hầu như những nhà triết học lấy hiện hữu của luân lý đạo đức
cho đó là những gì ‘nặng ký /granded’ to tát hoặc quan trọng vấn đề. Thực tế nó
chỉ là sự ban phát và quá lắm thì coi như chứng tích thuộc lịch sử -as a given,
as a historical fact- chớ nó không phải là điều để tâm tới với những gì khám
phá ra được trong luận cứ thuộc về siêu hình hoặc cho đó là điều hợp hiến, hợp
pháp. Có những cố gắng khác để tìm thấy nguồn cơn tự sự của nó, cố gắng đánh vỡ
những tập truyền có tính độc quyền về những gì huyền nhiệm trong lãnh vực của
luân lý đạo đức hoặc những gì đạo đức phi tôn giáo (nonreligious morality). Thực
ra những cố gắng đó là chú ý tới những gì công chính trên môi trường của xã hội.
Đúng ra thì chỉ thay mặt xã hội cho có Thượng đế mà thôi – merely
substituting society for God , để làm phép nghiêm túc cho một xã hội
có nề nếp của ‘tam tòng tứ đức, luân thường đạo lý’ một xã hội có truyền thống.
Chỉ có cuộc đời (life) là nhập thế để thấy người thấy ta là mục đích chính yếu
để kiện toàn một tha hóa bị xâm nhập bởi đòi hỏi hay yêu sách là chứng cớ cho
ta thấy được lòng ham muốn; nếu ham muốn đó có lợi chung, còn ham muốn cho đạt
ý thì việc đó coi như phi nghĩa (illogical). Giá trị của cuộc đời đang sống là
nhận thấy, tợ như sư Vạn Hạnh nói: ‘sống là nhận thấy’ thấy cái đạo hạnh chớ
không thấy ở chính mình, nếu luận như vậy thì cuộc đời rơi vào cái gọi tự phát
sinh (self-generated) cái gì mình muốn, cái gì mình có chớ trăm phần trăm không
đạt tới, bởi; đó là mục đích nhắm tới (goal-directed) để hành động cho riêng
mình. Đứng trên phương diện lý hóa nhiên tất cả chức năng của sự sống đều là
sinh vật hữu cơ (organisms) nó có từ giản đơn nhất đến cái nhiều phức tạp, nó đến
trong một chức năng dinh dưỡng trong một tế bào đơn của thứ siêu vi sinh vật
(amoeba) một thứ siêu vi trong cây cỏ, rau, trái …và luân lưu trong khí huyết của
con người tất nó qui tụ để tự phát sinh và tác động vào ý thức con người (xin đừng
nhầm giữa amoeba và covid19). Sự lý đó được bảo trì của cuộc đời hữu cơ –the
maintenance of the organism’s life. Cuộc đời hữu cơ tùy vào hai nhân tố: những
gì thuộc vật chất hoặc những gì thuộc nhiên liệu, những yêu cầu đó thuộc ngoại
giới của hữu thể, lấy từ những gì thuộc sinh lý (physical) của phiá sau đó và
những gì thuộc hành động của riêng mình là chủ thể của hành động, là năng lượng
sở hữu của cá thể. Năng lượng cá thể cái đó là ‘Ego’ là chủ-thể-tự-tại (trong
The Ego and the Id của Sigmund Freud) là những gì hữu-thức (consciousness) và
những gì là vô-thức (unconscious) là phân tâm (psycho-analysis) để hiểu rõ sự
phân định tâm lý của con người đang đối diện trước hai hoàn cảnh cơ chế để có sự
ích kỷ và vị tha, nó tích trử trong huyết quản như một vi trùng ‘amoeba’ lan tỏa
không nhận ra được, chỉ đến trong tự thức nơi con người. Tiêu chuẩn đó có từ cuộc
đời có cơ cấu (organism’s life) tạo thành cái ngon, cái dở, cái tốt, cái xấu nó
ươm mần trong siêu vi (amic/amoeba) chính sự cố đó cho ta một sự sống còn của hữu
cơ (organism’s survival) sống còn là chấm dứt tức hủy thể bởi phép tự nhiên, bởi
một thực thể nào đó mà có –by its nature, by the kind of entity it is. Cuộc đời
của đời người lại tiếp tục trên con đường hiện hữu là con đường triền miên tiến
trình của những gì duy trì chịu đựng chiến đấu. Mục đích hành động là giá trị tối
hậu một mất, một còn, là tiếp tục, phải chống trà dù trong chốc lát chớ thua cuộc
‘chạy làng’ là thất nhân tâm không còn nhân phẩm của người hùng. Giờ cho rằng
‘anh hùng’ là anh hùng lỡ vận, anh hùng ăn trường trai thời không ai gọi cuộc đời
có cơ cấu, có cục bộ –is the organism’s life; còn nói ăn để mà sống là chuyện
bình thường, nó chả có gì sâu sắc để mà ngợi ca. Ngợi ca cho một ảo tưởng là
không thực với đời. Một cuộc đời có ngăn nắp, có cơ cấu là cuộc đời đáng sống.
Giờ ra đi và đi về đâu thời không ai gọi là ‘organism’s life’ mà đó chỉ là dung
thân trên mãnh đất không có cơ cấu của cuộc đời, trên mãnh đất tạm dung mà đói
thương về ‘cố quận’.
Đứng trên lập trường triết học thời cho lý lẽ của cuộc đời là
vấn đề của tự thức (The problem self-consciousness) là có ít nhiều ‘chất’ của hiểu
biết / knowledge là cái tự có trong con người, nói thế không có nghĩa là
vơ đũa cả nắm mà đưa ra trạng thái vật thể nơi con người (physical state) là
cái để hiểu ra được trạng thái trí tuệ (mental state) hai trạng thái hết sức đặc
biệt là một cơ cấu hữu cơ của cuộc đời, là vì; tự-thức có tương quan đến cái thứ
không dứt (continuously) đưa tới nhận biết là điều làm cho thích thú khi thực
hiện sự ích kỷ cho riêng mình trong một tri thức tiếp dẫn của cái thế giới vô tận
đó –Self-consciousness involves the same kind of continuously updated knowledge
that one enjoys in one’s continous perception of the external world. Nghe qua
như vòng vo nhưng thực chất của nó mang trong người trạng thái lập lại, lập lại
cái không dứt mà mình đã thực hiện, họ nhìn trước chớ không nhìn lui hậu quả của
lòng ích kỷ, nhìn tới là một nhận thức hiểu biết của đô lượng và khiêm nhượng
cho hành vi trong quá trình, bởi; nhận thức hiểu biết một cách thông đạt là coi
như học tập những gì trong cuộc đời và học nhiều những gì phức tạp rối ren của
bản chất tự nhiên nơi con người –comprehensiveness as one learns more and more
about the intricacies of human nature. Tự thức là điều hết sức hiển nhiên; nó
có một ý thức rộng lớn đã thu tập được mới cấu thành trong suốt hành trình sống
của con người.
Tóm lại; trên cái nhìn tự thức chỉ là một loại thứ của tri
giác: tức tự giác /self-perception .Nói như thế không có nghĩa là phải
có tri giác với người một chân hay người một mắt mới nhận ra trong tri giác, nhận
ra với những gì gần như là không biết chi mô răng rứa –largely in ignorance. Là
thế đấy.Vị chi tự thức là không quá nhều và cũng không quá ít để nhận biết
trong một tổng thể của tri giác. Nó chỉ đi thẳng từ bên trong hơn là bên ngoài
–It is just directed internally rather than externally; chớ chẳng phải có từ
đây hay từ đó mà nó đến nơi con người, ấy là điều không còn ngạc nhiên cho rằng
u mê, đần độn tiến tới để tạo ra ra sở hữu của tự thức. Đọc ra cảm thấy bí tỉ của
ngữ ngôn nhưng đó là lý luận của văn chương triết học, nó đòi hỏi người đọc phải
tự thức trước cái tiến tới của u mê, đần độn (cognitively) thì may ra đạt tới
cái ngữ ngôn của văn chương triết học, còn ấm ớ hội tề thì dù chi đi nữa cái đó
là sự tự-giác (self-perception) còn đem cái sân si, ù lì, dốt nát ‘ra chơi’ hay
thách đố thời việc đó không đặc vấn đề,thời việc đó coi như nghe qua rồi bỏ chớ
chẳng để lại một dấu ấn nào. Cái quan trọng là gạc cái tư kỷ ra mà nhận ở đó tấm
lòng vị tha là vô biên diệu vợi. Nếu chúng ta thực sự dấn thân tại thế thì
không còn một chọn lựa nào hơn là chọn lựa sự thật. Điều gì thật thì lâu dài,
nhất là lịch sử không thể thêm mắm, thêm muối vào đó; vô tình biến lịch sử
thành chuyện thị phi mà đòi hỏi một tri giác nhận thức sai trái.
Theo tâm lý học; có hai sự chọn lựa: ‘nghĩ tới hoặc không /
to think or not’ là chọn cho mình ‘chú ý tới hoặc không / to focus or not’. Để
có một hiện hữu tại thế là chọn: ‘chú ý tới hoặc không’, chọn ‘ý thức tới hoặc
không’. Thật hết sức siêu hình; nếu chọn giữa hữu thức hoặc vô thức là chúng ta
đang chọn sự sống (life) hoặc sự chết (death). Cơ bản ; cái đó là sống còn, là
vì: sự sống là hữu cơ có thứ lớp, một sự sống có lý do chớ không ngẫu nhiên. Vạn
vật đều có lý do của nó chớ không ngẫu nhiên mà tạo thành. Vũ trụ cũng cơ cấu
mà thành (organism), con người cũng là cấu thành của hữu cơ (kim mộc thủy hỏa
thổ, đồng chì sắt thiết than…) mà có. Tất cả đã phủ bởi siêu vi ‘amoeba’ nằm
trong tế bào của cơ thể.
Đời là một hành trình đấu tranh, đấu tranh từ cái sống đến
cái chết, từ hữu thể (être/being) đến vô thể (néant/nothingness), từ hữu thức
(consciousness) đến vô thức (unconscious).Nói chung trong đấu tranh là có phản
kháng, phản kháng trong hai chiều của nội tại và ngoại tại để phát sinh ra ích
kỷ và vị tha chớ không thể nói ích kỷ là xấu, vị tha là tốt, nó tàng ẩn bên
trong cái nghĩa lý đích thực và không đích thực; giữa giá trị đó đều có mục
đích, một sự lý của con người, một giá trị hội nhập và một giá trị xác định. Để
hợp lý hóa là cơ bản đức hạnh của con người là nguồn gốc của tất cả mọi đức hạh
khác, nguồn gốc của những gì do con người tạo ra xấu hay tốt đó là hành động của
việc làm không tập trung vào mục đích chính đáng, một tình trạng nhận thức bất ổn
từ ngoại tại đến nội tại, một sự phẩn uất ngấm ngầm và cho rằng mọi hiện hữu
siêu nhiên ít nhất cũng có một sự mâu thuẫn . Kẻ phản kháng vùng lên thách thức,
đấu tranh đòi quyền sông để chống lại cái quyền cá nhân hay tập đoàn thống trị.
Vị tha vùng lên để đòi hỏi công bình hợp lý và mở ra ở đây một lối đối thoại
bình đẳng, mở ra một thái độ vị tha là xoa dịu lòng người: -một trận chiến giữa
hữu thức và vô thức, giữa tốt và xấu, giữa thật và giả, giữa đạo đức luân lý và
ma-đầu và sự sống còn của con người. Cuộc dấy động cuồng lưu, cuộc lật đổ phế đế,
cuộc cách mạng hô hào bỏ cũ theo mới. Ôi! muôn hình vạn trạng cuồng lưu phong tỏa
đưa tới phản kháng siêu hình từ thiện sang ác, từ ích kỷ đến vị tha, từ khoan hồng
đến chiếu cố, từ tù đày hay trở về. Tất cả là ngụy tín giữa thật và giả. Những
cố gắng vĩ đại của những nhà trí tuệ đều chận lại để cuồng phong thổi tới ngự
trị thế gian này. Kêu gọi phản kháng là kêu gọi tiếng nói trung thực giữa hư vô
phản kháng và siêu hình phản kháng để không còn thấy dấu giày đinh giẫm lên nỗi
bi thương ai oán suốt mấy nghìn năm lịch sử. Một lịch sử đã được đánh dấu từ
văn minh đũa tre, văn minh mắm ruốc, văn minh lúa gạo…tất cả đã biến mình vào
hư vô chỉ còn lại tiếng nói giữa trùng trùng duyên khởi. Chỉ còn lại ở đó một
thứ đạo đức luân lý mới mong tẩy trừ những gì ích kỷ tự tại và những gì vị tha
đúng nghĩa nơi con người. Chỉ còn lại ở đó một phản kháng hư vô trên mãnh đất
này mà thôi. Điều mà chúng ta mong đợi.
Chú thích:
* NCT: Chữ viết tắt nhà thơ Nguyễn Công Trứ (1778-1855)
15/11/2021
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét