Văn chương
dưới mắt của niềm tin
Khởi từ khi có văn tự là có văn chương. Văn chương đã
tìm thấy trên núi đá qua hình vẽ người và thú hoặc có khi chạm trổ hoa văn, khắc
đục chữ trên đá, gỗ hay sắp xếp hình dáng vật thể theo trí tưởng để tạo ‘con chữ’.
Ngữ ngôn của văn chương có từ cổ Ai Cập và dạng chữ biểu hiện qua lối tạo hình
để thành văn ở Trung Hoa vào những thế kỷ đầu và các nước cận đông; từ nhịp thở
đó ngữ ngôn văn chương sống dậy qua trí năng để phát biểu những sự lý cuộc đời
hay còn gọi là lý thuyết thuộc về văn chương (theoretical) với những sáng tạo để
có một ngữ văn độc lập phù hợp với tiếng nói mà từ xưa coi như một thứ ngữ ngôn
chết (dead-language) một thứ ngữ ngôn không nói ra được, tức bất thành văn,
trái lại; ngày nay coi như là một ngữ ngôn sống (living-language) trong đời thường
của con người. Thành ra ngữ ngôn văn chương mỗi lúc thêm phong phú và đa dạng
mang lại tính sáng tạo và đả thông tư tưởng giữa người viết và người đọc. Nói đến
văn chương là nói đến một tổng hợp rộng lớn, bao hàm những gì tri nhận nơi con
người, là ‘biển chữ’ nó bao la vi diệu, chứa đựng một tư duy trong sáng và phát
huy, nó tiềm tàng trong một trí tuệ siêu việt để thành hình cho một ngữ ngôn
văn chương (The Language of Literature). Vì vậy; văn chương không thể đứng
riêng một cõi của mình mà là một truyền thông đại chúng; hợp tình hợp lý để thừa
nhận cho một văn phong đúng đắng. Văn chương không buộc phải nêu ra mà tự nó đã
được nêu ra và tìm thấy. Chữ nghĩa là phát tiết của tư duy, nhưng phải biết vận
dụng ngữ ngôn để không lệch hướng, nghĩa là nghĩ một đằng viết một nẻo làm cho
văn chương có một sự giả thiết hơn là chứng thực. Đó là lý do tìm thấy ở trình
độ kiến thức nhận biết đã phản ảnh qua ngữ ngôn. Văn chương là tiếng nói xác định
bản vị của con người là sáng tạo và hiện thân (Creation and Incanation). Bởi;
văn tức là người ngay cả thi ca, hội họa hay kịch dù là trường phái hay khuynh
hướng khác nhau đi nữa nó vẫn chứa một ‘hồn thiêng’ trong đó; ở dạng này nó trở
nên đông cứng và cục bộ (concreted) trong não thức, có thể là bẩm sinh, có thể
là thói tính du nhập vào hồn; kết tụ trong tế bào máu mà sinh ra biến chứng khó
thanh tẩy (brain-wash). Nói ra có tính phân tích thuộc tâm sinh lý học, nhưng;
thực tế nó là một tồn tại cố hữu; có thể do từ chủ quan hay do từ cái ‘ta’ mà
phát sinh những luồng tư tưởng cố vị. Điều này không lấy làm lạ cho những ai mượn
tiếng văn chương để phô diễn hơn là mô tả dù là chuyện kể cho một ký sự, thậm
chí viết hồi ký hay tùy bút không chuộng vào ngữ văn mà chuộng vào sự hiện diện
cá thể cho một bản ngã tự tại; thì đó đâu phải là văn chương chứng thực mà đưa
văn chương vào ngõ cụt. Văn chương là khai sáng từ tâm thức của con người, mở
đường cho một triết lý nhân sinh gần như giáo điều tôn chỉ có qui cách hướng tới
luân lý đạo đức hơn là dựa vào văn chương để trở nên ‘đạo văn’. Cơ bản của văn
chương là đi vào mắt để có niềm tin trung thực của nó –Literature Through the
Eyes of Faith; đấy là văn chương chân chính của người viết và người đọc. Không
thể nghĩ khác hơn mà làm suy thoái nền văn học hiện đại hay là mượn chữ nghĩa để
công kích văn chương (?).
Rứa thì văn chương là cái chi? -Trong văn chương; con người
là một trải nghiệm qua ý nghĩ –In literature; people try out ideas. Có một vài
câu hỏi đưa ra để nhận thấy những gì có trong văn chương? Những gì mà người đọc
cảm nhận được trong đường lối của văn chương. Hay đây là viễn cảnh cuộc đời
mang một ý nghĩa thâm hậu của cuộc sống? Hay chỉ là ngữ ngôn hấp dẫn, đẹp đẽ, gợi
ý mà tác giả sắp đặc vào nhau như một định hướng? Rứa thì răng ! -Khi đọc một
văn bản chính yếu là đưa chúng ta vào một thế giới hiện thực –Reading bring us
into the real world. Ngữ ngôn đó thuộc về văn chương sáng tác có văn bản không
tùy thuộc vào độc quyền cố vị để đưa đến một lãnh vực không sống thực. Mà ở đây
đòi hỏi một ý nghĩa trọn vẹn và chứng thực. Là những lúc; chúng ta đọc để tìm
thấy một sự gì đặc biệt trong cuộc đời như chúng ta nhận biết qua cấu trúc, thiết
kế, dàn dựng của lối hành văn, một giao thông chuyển tải qua lối diễn giải
(interpret) với một kinh nghiệm truyền thông những gì chân lý của sự thật. Văn
bản thuộc về văn chương là không đơn thuần chỉ vào một sự sáng tạo trong hư cấu,
nhưng; ở đó cũng được coi là phương tiện, một điều động vào nhau của ngữ ngôn,
cái mà chúng ta thường được dùng để thực hiện như một tác động cụ thể và tích cực:
khi đưa ra vấn đề xã hội, vấn đề luân lý hoặc từng cảm nhận nơi con người. Bài
viết là một công cụ cho tác động –A piece of writing is a tool for action, Và;
chính trong tác động (của người viết) đã đem lại những suy nghĩ khác biệt về đời
sống, có thể giữa tác giả và độc giả. Thành ra viết văn là phản ảnh và đi đúng
đường lối chủ nghĩa của ngữ ngôn văn chương.Phải thực mới vực được đạo còn bằng
không chỉ là đùa với chữ, chẳng để lại gì cho văn chương. Nói thực thì mất
lòng, bởi; tư duy chủ quan, phát tiết hỗn độn, nghĩ sao viết vậy theo lối ăn chắc
mặc bền mà vẫn cho đó là văn, thứ văn đó là dạng thức của hùm-bà-lằn, bầu cua
cá cọp, ta bà thế giới; tạo thêm gò đống ngổn ngang thời không thực để vực được
đạo. Nguy hiểm và thương tổn đến văn chương. Xưa nay đều thế; văn có niêm luật
như thơ, nghĩa là có phẩm trật của nó, có đầu có đuôi, có mệnh đề (tức nhập đề,
thân bài và kết luận) chuẩn mực mới thành văn. Văn chương ngày nay theo lối
phóng tác hơn là sáng tác. Nghĩa là dựa vào sự kiện để diễn giải qua một ngôn từ
không có ‘bản lề’, thậm chí pha tục hay xử dụng từ điển cố, điển tích không
đúng chỗ làm mất duyên cho câu văn. Thời nay gọi văn hoa hơn:
‘văn-chương-vi-tính’ ý gián tiếp nói đến văn chương thời đại hay còn gọi là văn
chương mới (nouveau litérature); nghĩ sao viết vậy để tạo hiện tượng chữ nghĩa
cho nên chi lên xuống bất thường không tạo nên cảm thức giữa người viết và người
đọc.Vi tính có cái lợi ích của nó nhưng đừng lạm dụng để bẻ cong ‘ngòi bút’ hùa
nhau để ‘gõ’ cho kịp thời sự và nhai lại những ngữ ngôn phường chèo, không thấy
đâu là lý thuyết văn chương mà chẳng thấy đâu là lý sự vấn đề, để rồi bế môn tỏa
cảng, lạc lối về, lung tung chi điạ. Bất quá; quên luôn cả chính tả hay văn phạm;
đến nổi những bản văn như: ký sự, ghi chép, truyện kể, dịch văn trật cả ngày
tháng và chủ đề muốn nêu ra; thế mà văn chương vẫn chấp nạp. Vi tính có cái bất
lợi ở chỗ đó. Răng rứa? -Vì; đón nhận dễ dàng hay phong tỏa bởi một hoàn cảnh
nào đó. Để rồi đưa tới lạm phát tư tưởng, ngữ ngôn và văn phong. Văn chương là
con đường đi tới thực chứng, một thực chứng dành cho lịch sử là vai trò đại diện
rốt ráo nền văn học hôm nay và mai sau. Người ta dựa vào văn chương như một chứng
tích để xác thực sự hiện diện của tồn lưu nhân thế, tồn lại thế gian và tồn lập
muôn thuở. Đánh giá văn chương không phải là giá trị sản lượng mà giá trị thành
phẩm, tức nói lên cái cốt tủy chân lý của nó. Do đó; người viết văn hay người
làm thơ chưa hẳn đó là một xác định chân lý cho một lý thuyết nêu ra mà phải
kinh qua một kinh nghiệm dài lâu mới mong xác nhận đó là văn gia hay thi gia.
Chớ ngang xương mà cho mình là nhà văn, nhà thơ thì quả là hàm hồ, vô căn cớ
không đúng chủ trương đường lối xã hội chủ nghĩa văn chương mà đi ngược trào
lưu nhân thế. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ lớn trên thế giới ít khi nhận mình là
văn sĩ, thi sĩ; mà chỉ có đời tuyên dương họ, thời đó là lý tưởng và nghĩa vụ
làm nên sự nghiệp cho mình; dù chỉ một tác phẩm mà thôi!
Chúng ta sẽ suy lý ra rằng viết và đọc của văn chương là thể
thức tác động về con người, như vậy thì; nó có một khả năng nói lên những gì tốt
và xấu trong mọi tác động của chúng ta. Văn chương, nghệ thuật, âm nhạc lớn
lao, vĩ đại điều đó chưa hẳn phải bảo đảm cho một xác định mà đó là những gì
người ta chiêm nghiệm để đánh giá và có thể cho đó là một tác động làm nên; dù
cho xưa nay đã được đề cao hay xưng tụng. Ở đây; chúng ta vận dụng vào tiềm
năng nơi con người để khám phá giá trị của nó cũng như những gì có lợi ích,
thích thú đập vào mắt người đọc do từ tư duy vận động của người viết. Nhưng;
chúng ta cũng không thỉnh cầu văn chương biểu hiện vẻ đẹp thẩm mỹ và lòng khoan
nhượng vị tha trong cái sự độc hữu đưa tới ở chính nó (unto itself). Tác phẩm của
văn chương là một dự phần của lịch sử. –Like all human action; words of
literature are a part of history. Tất cả là tác động con người đều được ghi nhận
như lịch sử tính; đưa tới những chuyện thê thảm và hãi hùng khốc liệt mà đó là
sự thật được kể lại một cách đẹp đẽ và hào hứng. Từ chỗ đó vai trò của văn
chương là chứng nhân (dù là hư cấu) phải thực như ý tưởng, nghĩa là để lại dưới
mắt người đọc một sự lý thuần nhất dựa vào lịch sử mà tạo thành. Văn chương tự
nó đã có lịch sử, qua tư duy về những gì biến động, thảm họa hay bi thương của
từng thế kỷ; không thể cho văn chương chỉ để viết thành văn qua diễn tả sự tình
hay hư cấu sự tình và định nghĩa một cách đơn thuần mà trong mọi suy diễn đều
đưa tới một chứng thực của con người qua từng đối tượng cũng như thời gian là
tư liệu để xây dựng cho một cấu trúc thành văn giữa người và vật. Khi nêu ra
như thế tức đặc câu hỏi trước vấn đề. Rứa thì; văn chương là cái chi? và tại
sao phải để mắt vào viết và đọc? Bởi; có những biến đổi khác nhau qua thời gian
không thể bỏ qua được mà phải lấy văn chương để nói nên lời và phải hiểu một
vài điều của lịch sử, của những ý nghĩ hiện đại về nó –ought to understand
something of the history of modern ideas about it. Đấy là sự cớ đặc biệt quan
trọng cho những khi thảo luận, đối chất giữa viết và đọc mà như thể là hình thức
tác động của con người. Lý lẽ này có đưa chúng ta đến gần với văn chương? Hay
đây chỉ là vấn đề đặc ra? Sự thật của văn chương là ở thế phòng thủ (Literature
on the Defensive). Bởi; trong lịch sử văn chương mới đây thường bắt gặp ở tự nó
một sự đối kháng đến khoa học mà phải có một thẩm quan hiện đại văn chương là
những gì chúng ta phải thừa nhận để chế ngự những gì của khoa học nằm trong văn
hóa của chúng ta. Nói như rứa có võ đoán cho một dự phóng giữa văn chương và
khoa học? Không! nền khoa học tiến bộ gần như áp đảo vào một nền văn hóa không
có tính thực tiển; khoa học đặc vào đó một tiêu chuẩn của sự thật trên căn bản
của khoa học kỹ thuật hơn những gì thuộc văn hóa dự tưởng là những gì không còn
là siêu lý quan trọng cho xã hội hiện đại. Hiện diện của khoa học hiện đại có từ
tk. thứ mười bảy và tk. mười tám. Cái đó là cái nhìn thực thể hiện đại chớ thực
ra nền văn hóa (văn chương) đã hiện đại hóa trong quá trình dài lâu; có văn hóa
mới có khoa học chớ không phải khoa học tạo tác ra văn hóa. Văn chương nói
chung là đương nhiệm của sự thật. Giả tưởng của J. Verne là một dự phóng vào
tương lai. Thi ca Nguyễn Du là phản ảnh trung thực có tính khách quan của khoa
học nhân văn là lý thuyết chính đáng. Không thể cho đó là tư duy giả tưởng. Đó
là thứ văn chương ẩn dụ; một siêu hình của ngữ ngôn văn chương. Nhớ cho! Trở lại
‘cái rứa thì’ của văn chương? -Là viễn cảnh cuộc đời có ý nghĩa cho đời người với
những tuyệt tác để đời trong khi người viết đã đưa vào đó một đường lối cụ thể
chân chính và mang lại một tri nhận sâu xa giữa con người với con người, giữa
tác phẩm và tác giả. Viết là miêu tả sự thật dù là hư cấu nhưng phải chứng thực
và đặc vào đó một thế giới trung thực hơn là ảo tưởng. Dưới con mắt người đọc
nhìn nhận hư cấu không còn là hư cấu mà chính sự thật là do hư cấu làm nên. Ngọn
bút phóng khoáng hay không là do tâm địa của người viết. Định hướng của văn
chương là phơi mở và chứng nhân sự thật.
Ở phần trên chúng ta có nói đến ‘Ngữ ngôn của Văn chương’ là
phát biểu bởi tư duy, là tiếng nói của tâm thức qua văn chương. Sự lý này nghe
ra mơ hồ trừu tượng. Nhưng thực tế những tác phẩm liên can tới văn chương là
thái độ tùy nghi được diễn giải theo ý mình với những dữ kiện khác nhau, xuyên
qua những gì mà tác giả dùng như phép ẩn dụ hoặc một kiểu cách phóng túng về lối
diễn tả. Ở thi ca và tiểu thuyết hay kịch; người viết tuồng như nhận thấy với
chữ nghĩa có vài điều khó tránh được mà cho đó là lối hành văn của chữ nghĩa tạo
thành và không thể làm gì hơn trong ngữ cảnh (contexts) mà cốt hành văn cho
thêm phần trong sáng. Ngữ ngôn văn chương dính dáng tới óc tưởng tượng thường
được coi đó ngôn ngữ của dự phóng, một ẩn dụ do cảm nhận cho một đặc quyền ở thể
loại ngữ ngôn này –The imagination use of a language of metaphor and feeling
and has special rights to this kind of lanuage. Nhưng tất cả những gì đều được
vẽ lên trong văn chương bởi những gì xác nhận là có dính chùm trong một ngữ
ngôn đặc thù. Ngữ ngôn văn chương tuồng như một thứ bí truyền (esoteric) và
không thích nghi (irrelevant) trong đời sống. Đôi khi cảm nhận của người viết
khác cảm nhận của người đọc là lẽ thường.Thí dụ: Người đàn bà có cái bớt nơi mặt
thường cho là người đàn bà xấu (vì cái bớt đã chế ngự toàn thể cái đẹp) ngược lại
nhờ cái bớt mà làm cho người đàn bà đẹp và thêm duyên. Đây là sự phân biệt giữa
thích hợp và hình ảnh ngữ ngôn; cái đó cũng là giả thiết hoặc sau đó có nhiều
lý lẽ khác nhau để cho chúng ta đặc niềm tin về những gì tự nhiên của ngữ ngôn
văn chương. Quan trọng ở chỗ là phải thực mới vực được đạo; còn bày đặc, kê
khai những điều không thực hoặc lý giải vớ vẩn, đặc điều hoàn cảnh xã hội hay
nhân tình thế thái vào trạng huống bi thảm, pha tính đùa cợt những thứ đó phải
xét lại một cách chỉnh đốn mới thành văn, chớ hô sảng cho đó là truyện ngắn,
truyện dài, ký với tản làm mất danh dự cho văn chương. Điều này đã thấy trên một
số báo mạng và giấy (hay tại văn-chương-vi-tính lấn áp) mà một số văn nhân trẻ
ngày nay thường xử sự lối viết như thế một cách vô tư. Sự cớ đó đẩy văn chương
vào vũng tối thuộc lãnh vực văn hóa. Nhưng; không thể tránh được dưới con mắt của
người đọc, bởi; văn tức là người nó hiện nguyên hình nhân cách của người viết.
Thí dụ khác: Anh A học hành chưa tới nơi nhảy ngang qua học vẽ, học vời. Anh B
lỡ ông, lỡ thằng, lắm bon chen như anh A, đâm ra viết văn làm thơ: thơ thì ù
lì, văn thì ba chớp. Đọc những đoạn ký sự nửa như kể lể nửa như bình giải (thơ)
lung tung chi điạ; cả hai anh không đi đúng qui trình của văn chương thì làm
răng gọi là văn chương bác học. Anh C học có bằng cấp, chứng chỉ mà viết về văn
chương bình dân vẫn chưa rành rọt và cường điệu đúng ngữ ngôn văn chương. Hai dẫn
dụ trên là một chứng minh bi thảm cho trào lưu văn chương đương đại; nhưng giữa
A B C có sự khác biệt về tư duy, một đằng do bẩm sinh hay thiên tính, một đằng
‘nói cho lắm tắm ở lỗ’ là chỗ đó. Thành ra đối với văn chương phải có con mắt
xuyên thủng để đặc niềm tin. Phải rốt ráo trong cụm từ: tư-tưởng, ngữ-ngôn và
văn-phong mới đánh giá được thế nào là văn chương và không văn chương. Qua nhận
xét trên cho chúng ta một xác định cụ thể vai trò của văn chương phải có ‘phép
tắc’, lề lối, một diễn trình đưa tới thực chứng của lịch sử và nhân văn dù viết
dưới dạng thức nào đều thể hiện được đặc chất của nó. Mà đây là một ý niệm phù
hợp chung, giữa cái từ ‘đích thực, hợp lý/proper’ là một bày tỏ sự thật
trong dạng thức sự kiện và cái từ ‘bóng bẩy, đỏm dáng/figurative’ là
một bày tỏ cảm nhận riêng tư thay vì phản ảnh đúng vị trí chức năng của ngữ
ngôn văn chương. Giữa hai cái từ này đều là giả thiết cho một ngữ ngôn văn
chương mà thôi. Như thế là hậu quả của những gì nhận xét bén nhạy, khác biệt giữa
hai thể loại của ngữ ngôn –As a consequence of this sharp distinction between
two types of language. Đó là những gì xẩy ra mà chúng ta đang sống trong thế giới
hiện đại, một thế giới tân kỳ của từng bộ môn, nó không đóng khung trong một tư
duy chật hẹp, vẩn đục hay cổ lỗ sĩ đề rồi đưa văn chương dậm chân tại chỗ không
cải tổ hoặc không làm mới cho ngữ ngôn văn chương. Hình thức đó là giết văn
chương không gươm dao; chớ đừng nói: ‘vì văn chương mà ‘tôi’ phải sưu tập, bảo
tồn không thời bị lãng quên’. Nhận xét như thế là bi quan trước thời cuộc, đi
ngược với thời gian hiện đại.Văn chương tự nó đã có và tìm thấy. Đấy là nguyên
nhân đưa tới ‘văn-chương-vi-tính’ là điều không thể chịu đựng được cái tàn tích
cố cựu mà buộc lòng phải khởi nghĩa qua một ngữ ngôn ‘phóng đãng’ hơn. Rứa thì
thế giới văn chương hiện đại làm cái chi? -Làm cho tinh vi hơn, biểu lộ một
thói quen thường tách xa những gì thuộc ngữ ngôn ẩn dụ (chính trong văn chương
đã hiện ra điều này) và từ những cái đó chúng ta suy ngẫm ra sự thật của cuộc đời;
mà coi đây là nghĩa cử của miêu tả hoặc lối đối xử đặc biệt đầy hiện thực của đời
người. Ngược lại; cái thứ ngữ ngôn đỏm dáng chỉ giúp vào đó một sự thiếu khả
năng thê thảm, tệ hại mà thôi –Figurative language is held to be woefully
inadequate. Tuy nhiên; không vin vào đó để xác quyết thế nào là đích thực, thế
nào là đỏm dáng. Văn chương đòi hỏi thực chứng cho dẫu là sự kiện trong hư cấu.
Mà phải thực sự. Dĩ nhiên; văn chương là óc tưởng tượng phong phú không phải điều
đặc biệt để dùng như một ẩn dụ và chúng ta có thể trắc nghiệm sự phát triển này
có thể có ở những nhà thơ (việc ẩn dụ ngữ ngôn thường xẩy đến), nhưng khác với
ngữ ngôn văn chương là khai phá vào đó để nhận biết về vai trò ẩn dụ trong văn
chương; có thể chất chứa một sự gì sâu thẳm qua nhận thức của chúng ta về diện
mạo của nó và chức năng trong tất cả thuật ngữ của ngữ ngôn văn chương. Những sự
lý nêu trên biểu lộ sự trung thực của văn chương giữa viết và đọc. Nói rút lại
chúng ta tiếp tục giữ gìn văn chương trong một viễn cảnh, bởi; văn chương có một
hạn hữu của nó –Literature has its limites and we need to keep its value in
perspective. Là suy xét hai điều thật rõ rệt để hiểu được những dữ kiện nghịch
lý trong đó. Thứ nhất; rất ít người đọc một cách thấu đáo tác phẩm đã dựng nên
trong lý lẽ văn chương mà đọc như một tác động hạn chế, họ không đọc văn chương
như một giảo nghiệm. Thứ hai; cho dù những nhà văn thơ lớn đã để lại những tác
phẩm độc đáo người ta chỉ đọc trong sự thỏa mãn hoặc đưa tới khoái cảm mà người
ta đang sống hoặc coi đó như tác phẩm dành cho nghệ thuật. Trong lúc có một thứ
văn hóa khác không thể viết thành văn những thứ đó chỉ có ở tác phẩm nghệ thuật
(họa và điêu khắc…) những vật thể đó chỉ tùy vào ý niệm của ý nghĩa và sự giải
bày –all cultures produce works of art that depend on the concepts of meaning
and interpretation. Những tác phẩm như thế trú ngụ trong trí tuệ hay trong ký ức
hơn là viết thành văn để sản xuất và tiêu dùng cho những gì thuộc ngữ cảnh của
văn chương; mà là những gì thuộc hiện tượng vũ trụ. Hiểu được giá trị của văn
chương và nhiều đường lối quan trọng khác thì đó là điều tạo ra sự khác biệt
trong đời sống của chúng ta và tiếp tục giữ trong trí tuệ của chúng ta về hai bề
mặt nhận thức và hiểu biết cho một tổng thể phổ quát của văn chương (the
universality of literature) là nơi ngự trị trong tâm hồn người viết và chắc chắn
là thể loại để viết thành văn trong mọi hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn qua
các thời kỳ của tiền hiện đại văn chương hay hậu hiện đại văn chương. Đấy là niềm
tin xuyên qua mắt người đọc.
1/12/2016
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét