Quyền của con người
Nếu người ta muốn biện hộ cho một xã hội tự do thì việc
đó nó nằm trong những đòi hỏi thuộc cá thể hay tập đoàn; thường cho là tư bản
chủ nghĩa (capitalism); sự đó con người phải thực hiện một cách tích cực không
thể thiếu cho một cơ bản chính yếu về quyền cá thể của chính nó –one must
realize that its indispensable foundation is the principle of individual
rights. Còn nếu như con người muốn duy trì quyền cá thể thời con người phải thực
hiện ở đó một thứ chủ nghĩa tư bản mà trong đó chì có một guồng máy, một hệ thống
thời cứ giữ lấy nó mà xử sự. Và; nếu người ta muốn đánh giá một cách chuẩn mực
về việc quan hệ của chủ nghĩa tự do thời đó là mục đích có lý trí của ngày hôm
nay; người ta có thể đánh giá nó bằng sự kiện, sự kiện đó là ý niệm về quyền cá
thể, tức ở đó có một sự tráo trở bên trong, một cái gì méo mó trong lời nói và
khó lòng để luận bàn; việc này gần như dễ nhận ra điều sai lầm. Cái đó đời thường
gọi là thủ cựu, cổ lỗ sĩ sẽ đưa tới chủ nghĩa bảo thủ (conservatism) một cách dễ
dàng.
Quyền của con người –Man’s Rights là một ý niệm luân lý đạo đức
(moral concept). Luân lý đó đem lại một qui trình vận chuyển hợp lý có từ những
hướng dẫn cơ bản của một hành động cá thể và là hướng chính cho sự tương quan
giữa con người với con người, giữa cá thể và cộng đồng; ý niệm đó là bảo tồn và
bảo vệ một nền luân lý đạo đức trong một hoàn cảnh xã hội (social context) có
qui luật, một gạch nối giữa mật ngữ luân lý (moral code) của con người và mật
ngữ hợp pháp (legal code) của một xã hội hợp lý, giữa những nguyên tắc đạo đức
và chính trị. Những quyền hạn cá thể là phương tiện đưa tới luật lệ luân
lý chung cho đẳng cấp thấp nhất trong xã hội / Individual rights are the means
of subordinating society to moral law. Trong bất cứ hệ thống thuộc chính
trị là dựa trên một vài mật ngữ của luân lý đạo đức mà làm nên. Không thể ngoài
vòng cương tỏa của đạo đức,dù là khuynh hướng tư bản chủ nghĩa.
Thế ưu việt trong tôn giáo là nêu lên tính lịch sử nhân loại,
mặc dù có một sự bất ổn của những giáo điều đưa ra với tấm lòng vị tha đối với
tập thể rộng lớn, nhưng; trên thực tế giai cấp hạ lưu chỉ thực thi trên một vài
cá thể có ý thức về nghĩa vụ đạo đức và ngay cả đẳng cấp cao trong xã hội có thực
hiện chăng cũng là điều rất khó để tìm thấy. Đạo đức luân lý tiềm ẩn trong dạng
siêu lý của nhận thức, bởi; nói thì dễ nhưng thực thi là khó để nhận định trong
từng cá thể hay trong một tập thể rộng lớn. Kết quả đem lại chỉ có trong một tập
đoàn chuyên chế (tyranny) mà thôi, có chăng chỉ khác biệt trong một góc độ nào
đó chớ không căn cứ trên những gì cho là chính yếu việc xây dựng một xã hội có
đạo đức, luân lý.
Tất cả hệ thống thuộc chính trị đều biểu lộ thứ đạo-đức-tập-thể-vị-tha
(altruist-collectivist-ethics) và đưa ra vai trò đối xử của họ đối với trách
nhiệm xã hội; đấy là sự thật cho một xã hội đang đứng trước một luật định luân
lý. Như vậy; những gì của chính trị đều có hệ thống điều hành hay phân bổ là một
sự biến đổi phức tạp của cái gọi là xã hội không màng đúng sai (amoral society)
Hiện tượng này đứng đầu ở Mỹ là luôn nhìn dưới lăng kính bất cần; dù là thứ đạo
đức, luân lý của tôn giáo. Hiếm khi được thừa nhận. Tất cả những hệ thống chính
trị trước đây đã được người ta quan tâm đến tính đạo đức và hy sinh là nhiệm vụ
hàng đầu còn bằng không chỉ là đề tài đưa ra mà thôi, Vì vậy hệ thống điều hành
trước đây đã được cầm giữ ở đó cho đời sống con người tùy thuộc đến xã hội –All
previous systems had held that man’s life belongs to society; đó là xã hội có xếp
đặt về những gì của con người là cách thức đem lại sự hài lòng. Và đó chính là
con đường tự do với một xã hội có khuôn phép (permission) và chắc chắn hủy bỏ
những gì tàn tích cố cựu cho một tương lai tươi sáng hơn; dù duy trì một thứ tư
bản chủ nghĩa!
‘Quyền / Right’ phải là một thứ luân lý chình đáng, một định
nghĩa rõ ràng và được phê chuẩn ; một con người của tự do là của hành động
trong một xã hội đúng hoàn cảnh. Nói ra đây không những chỉ dành cho một cơ bản
chính yếu mà dành cho mọi tầng lớp trong xã hội; kể cả đẳng cấp bần cùng. Quyền
đó là quyền của con người làm chủ đời mình –man’s right to his own life. Cuộc đời
là một quá trình tự khắc phục và tự phát sinh ra hành động. Quyền đó đưa tới cứu
cánh cuộc đời đúng vai trò thu hút hợp lý, sự đó nằm trong cái gọi là tự chống
đở lấy (self-sustaining) và hành động tự khắc phục lấy (self-generated-action)
Có nghĩa rằng; mọi phương tiện đưa tới tự do là nắm toàn bộ của hành
động, là do yêu cầu bởi lý trí tự nhiên và hổ trợ vào đó để đem lại một nền hòa
bình độc lập dân chủ hơn những yêu cầu khác. Điều mà chúng ta nên nhớ cho chủ
nghĩa tự do có từ sức ép thể chất, buộc phải hoặc gây trở ngại bởi những người
khác –It means freedom from physical compulsion, coercion or interference by
other men.Vậy thì; với bất cứ cá thể nào, quyền đó là nền luân lý có định vị,
có phê chuẩn chống lại sự trừng phạt –Thus; for every individual, a right is
the moral sanction of a positive của tự do con người đưa tới một
cương lãnh để phán xét cho mục đích của chúng ta, bởi; cuộc đời của chúng ta là tự
nguyện, không buộc phải mà ở chính ta có một sự chọn lựa dứt khoát cái quyền
làm người ở nơi ta và ngay cả tha nhân đang đối đầu giữa một hệ thống chính trị
đầy mưu mẹo; họ kêu gọi tự do, một thứ tự do buộc phải tuân theo tất mọi hoạt động
khác là chất chứa một ám khí giữa cuộc đời đang sống. Quyền của cuộc đời là nguồn
gốc cho tất cả mọi quyền. Và; quyền sở hữu chủ chỉ là công cụ để thi hành của họ
mà thôi. Không có cái quyền tư hửu và không có một hạn chế nào hơn mà cho là có
thể được (possible). Từ khi con người duy trì cuộc đời của họ, nghĩa là chống
trả để khắc phục mọi tình huống do từ hiệu năng ở chúng ta, có nghĩa rằng không
duy trì cuộc đời cho chính ta mà cho tất cả. Ngược lại con người đứng ra sản xuất,
tạo tác mọi thứ thì trong khi đó có kẻ ‘ngồi mát ăn bát vàng’ đưa con người đi
tới nô lệ. Đó là hành động có kết qủa cho việc sản xuất hoặc đem lại lợi nhuận.
Đó là phương án đưa tới tự do, hạnh phúc là đòi hỏi ở nơi con người ý thức trước
hành động để có một kết qủa khả quan hơn là sống trong qui luật buộc phải..
Ý niệm về quyền cá thể là qúa mới trong lịch sử nhân loại, điều
đó hầu như con người không có nắm bắt được một cách đầy đủ cho ngày nay. Để hòa
hợp với hai lý thuyết của đạo đức luân lý, có một cái gì tàng tích trong đó hoặc
do từ xã hội xẫy ra; có một vài xác quyết rằng quyền đó là qùa tặng của Thượng
đế hoặc khác hơn quyền đó chính là sự ban phát của xã hội. Nhưng; trên thực tế;
nguồn gốc của cái quyền là điều tự nhiên của con người –the source of rights is
man’s nature. Có người cho rằng đạo đức luân lý là do ý trời. Thực ra mọi
khuynh hướng chủ nghĩa thành hình là do ý của con người thành lập hoặc đề xướng
chớ hoàn toàn không nằm trong qủy đạo của ‘Thượng đế hay Ông Tạo’ điều đó chỉ
là giả tưởng để có lý mà khuyên răn, xây dựng một xã hội tốt đẹp. Xưa có nói:
‘nhân chi sơ tánh bản thiện’ thời Thượng đế đổ vào người cái ý thức vô nhiễm,
chỉ có con người đặc ra điều kiện mà thôi. Bởi; con người sanh không nhằm thời
tất loạn. Đã loạn thì không còn nhân tính của cái gọi là đạo đức nhân bản. Cho
nên chi quyền hạn đó là một điều kiện cần thiết của mẫu thức sống còn của con
người –That rights are a necessary condition of his particular mode of
survival. Nguồn gốc quyền của con người là không phải luật lệ thánh thiện hoặc
luật lệ chính quyền, nhưng; phải là luật có chứng từ xác dịnh.: A là A, 1 là 1,
Người là người, Vật là vật. Sự đó gọi là minh định chớ không ấm ớ hội tề như một
số nhà văn, nhà lý thuyết đã diễn cảm một cách vô lý, gần như mất đầu, mất đuôi
đưa câu chuyện vào ngõ cụt một cách vô bổ… Cái đòi hỏi của vấn đề đạo đức là
sáng tỏ mới minh định sự việc. Nếu con người dung thông trên qủa đất này thời
đó là quyền sống của con người được vận dụng theo trí năng –it is right for him
to use his mind. Còn như con người có quyền sinh sống như là một hiện hữu hợp
lý; nếu như cho con người bị ngăn cấm tự nhiên thì đấy là điều phi lý –nature
forbids him he irrational. Chắc chắn không thể được.
Xúc phạm quyền của con người có nghĩa là buộc hay thúc đẩy
con người đi tới hành động chống lại sự phán xét của riêng mình hoặc tước đoạt
giá trị thẩm quyền của con người. Cơ bản; đây không những chỉ một cách duy nhất
để làm điều này mà dùng nó như khả năng tâm lý cho việc làm hợp thức hóa một
cách tích cực trong việc đầu tiên khởi xướng một hệ thống chính trị kiểm soát.
Đây là một việc cần thiết có nghĩa lý và mê hoặt của chính trị, một thứ chính
trị triết học (political philosophy) là nằm trong cái quyền chính yếu của cá thể.
Nhưng nhớ cho; nó không phải là thứ công thức rành rọt không những mà là đầy đủ
để chấp nhận mà còn là một trắc nghiệm hết sức kiên định. Cái sự đó là ý niệm
quyền cá thể, là sự cố đã sinh ra một xã hội tự do. Tự do ở đây không trong luật
định mà ngoài luật định của kẻ cầm quyền; một hình thức ‘tiêu thổ kháng chiến’
để tiêu diệt quyền cá thể, tất tiêu hủy một nền tự do được khởi xướng từ lúc
ban đầu –It was with the destruction of individual rights that the destruction
of freedom to begin. Nhớ rằng: không ai có quyền ép buộc cho một nghĩa vụ không
được chọn lựa, một nhiệm vụ không thỏa đáng hoặc vô tình qui phục như kẻ nô lệ
vào người khác. Thực thi ngấm ngầm hay công khai thì khác chi nô lệ hóa. Con
người mất toàn quyền để xử lý cho chính mình và cho chính cuộc đời. Quyền đó bị
chôn vùi dưới một tập đoàn thống trị; có thể làm suy đồi dân tộc tính. Mà phải
tập trung vào quyền lợi cá thể cũng như quyền tập đoàn để dựng nên một thể chế
tự do, dân chủ:
- Quyền sống có nghĩa rằng con người có quyền hổ trợ vào cuộc
đời của họ bởi tiềm năng lao động của họ. Sự đó không có nghĩa rằng mọi người
phải cung cấp những gì cho họ mà cung cấp vào những gì cần thiết.
- Quyền tư hữu có nghĩa rằng mỗi người đều có cái quyền nhận
lấy hành động kinh tế là cần thiết cho việc làm ra của cải mà dùng vào như một
nỗ lực, không mong đợi sự trợ giúp của người khác.
- Quyền tự do phát biểu tức ngôn luận có nghĩa rằng con người
có quyền bày tỏ tư duy của mình không đem lại một dấu hiệu căng thẳng, gây trở
ngại hoặc nhắm vào trừng phạt hay buộc tội vô cớ đối với nhà nước. Phát biểu
như đưa ra kiến nghị để đả thông giữa con người và nhà nước.
Mọi người đều có quyền để tạo thành một quyết định chọn lựa,
nhưng không có quyền tạo lực quyết định cho người khác. Phải nhìn thấy chân tướng
đạo đức lãnh đạo mới tạo được quyết định chọn lựa.
Mọi hệ thống xã hội là cơ bản chính yếu. rành rọt
(explicitly) hoặc là ám khí (implicitly). sở dĩ có cái ngoặc kép như thế là để
xác định cụ thể giữa đúng và sai của một vài lý thuyết về đạo đức của tôn giáo.
Giáo điều chưa hẳn phải là tuyệt đối mà có thể dựa vào chứng từ để buộc phải.
Con người mất tự do với tôn giáo. Vì như thế này: Luân lý chính đáng của chủ
nghĩa tư bản là không gian dối trong lời thỉnh nguyện được tha; làm được thì đó
là một sự bộc bạch tốt nhất để nắm lấy –The moral justification of capitalism
does not lie in the altruist claim that it represents the best way to achieve.
Cơ hội đó chỉ đến trong một nhận thức của con người và xã hội. Nói chung đó là
‘lòng tốt chung / the common good’ hay còn gọi là ‘lợi ích chung / the public
interest’ là sự việc không rõ hoặc không thể định nghĩa rõ cho một ý niệm. Tuy
nhiên; sự cố xẫy ra là sự cố để sửa sai. Vì vậy; căn cứ vào long-tốt-chung là ý
niệm vô nghĩa, chỉ có nghĩa: long tốt chung là rút từ lòng tốt trong tất cả cá
thể hiện hữu của con người.
Định nghĩa một cách rốt ráo là nêu lên tình thần tự giác,
giác tha là sắp xếp cho chính mình con đường đi tới tự do: trong mọi‘Chân dung
tự họa trừu tượng /Self Portrait Abstract’ ngữ cảnh của vấn đề nêu ra, ngay cả
vấn đề tôn giáo đều có cương lãnh của đạo đức luân lỳ. Đấy là cơ bản chính yếu
để chứng minh cho một cá thể hay tập đoàm trong cùng một hệ thống phát huy tư
tưởng tới hành động là chỉ tiêu hàng đầu giữa những giai cấp trong xã hội.
Không thể đứng ngoài phạm trù của đạo đức luân lý; kể cả tư bản chủ nghĩa hay vật
chất chủ nghĩa.
30/10/2021
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét