Làm đĩ làm văn làm thơ
Nói đến chuyện làm đĩ thì xưa nay ít ai cho đó là việc
làm đàng hoàng, lương thiện mà là hành động không trong sạch đối với người phụ
nữ đã ‘nhúng chàm’ thì đâu còn gọi là trinh nữ trong trắng mà vi phạm vào ‘luật
điều im lặng’ nghĩa là phạm tội đều bị lên án gắt gao từ gia đình đến xã hội nhất
là tôn giáo. Làm đĩ là trách nhiệm của xã hội mà xã hội vô tình hay cố ý làm
ngơ trước những thảm trạng bi đát đó. Trong tác phẩm Làm Đĩ (1936), tác giả đã
nói lên thực chất của xã hội thời đó và ngay cả thời nay là một bi thảm giữa
con người và cuộc đời là hai nhân tố đưa tới phản kháng. Một thứ phản kháng
không nguyên nhân, vì rằng; con người là nạn nhân của xã hội một thứ tạo hình
dã man và tàn bạo; trong vai trò đó người phụ nữ gánh chịu mọi hệ lụy khác
nhau, thách đố trước mọi tình huống khác nhau để giữ lại nhân phẩm làm người
đang đứng trức vực thẳm của tội lỗi, của nước mắt không lệ, của chà đạp hất hủi
phận người. Bi thảm đó đã viết thành lời ai oán và thấy được những sự kiện đớn
đau. Đầu thế kỷ hai mươi xuất hiện một con người tài hoa mệnh yểu đó là nhà
văn, nhà báo, nhà châm biếm xã hội Vũ Trọng Phụng*; người dám làm, dám nghĩ,
dám viết những gì thuộc tâm lý con người như một giải thoát để có quyền sống
/human right là bề mặt mà con người đã một lần dấn thân vào đời. Ngoài tác
phẩm Làm Đĩ còn có Giông Tố, Số Đỏ, Vỡ Đê, Cạm Bẩy Người, Kỹ Nghệ Lấy Tây…đều
phản ảnh những tệ đoan xã hội dưới ách thống trị thuộc điạ, dạy hư cho đám thần
dân ở nước ta để dễ cai trị. Tiểu thuyết tả chân của Vũ Trọng Phụng là phản ảnh
sống thực giữa tốt và xấu, giữa đạo đức, luân lý và tà ma, qủy ám mà thời nào
cũng chứa chấp nó như một thói đời khó mà sạch. Người cầm bút chân chính không
thể làm ngơ trước một xã hội nhũng lạm, tà dâm, bao che, đầu độc, không thể bịt
mắt những hành động vô luân, tất cả đổ đầu cho người phụ nữ phải gánh chịu. Mà
là tội ác của nhà cầm quyền. Nói thực thì mất lòng cho nên chi khi tung ra những
tác phẩm đó tác giả đã hứng chịu những lời đay nghiến, lên án, phủ nhận cái giá
trị sống thực của nó, bởi; những kẻ ra sức chống bán chính là kẻ ngụy tạo tư tưởng
để che đậy xấu xa. Và; cho đó là thứ văn chương dung tục, bên cạnh đó có những
tranh luận khác cho là ‘có dâm hay không dâm’ để phê nhận tác phẩm củaVũ
Trọng Phụng đưa ra. Sự thực được thừa nhận và hợp lý hóa khởi từ năm 1980. Và
sau đó tác phẩm được lưu hành cả nước. Ánh sáng đó đã được vinh danh và đặc tên
đường ở một vài đô thị trong nước như một chứng cớ hiện thực. Tả chân là lời
nói chân chính của nhà văn, phơi mở sự thật trắng trợn những gì tốt khoe xấu che;
với Vũ Trọng Phụng không thể xử lý một thứ ngữ ngôn khác hơn mà dùng vào như một
cảnh tỉnh của nhà cách mạng văn hóa, tiên phong nói lên những tánh hư tật xấu
mà nhà cầm quyền thời đó đã dung túng; đẩy con người và xã hội Việtnam vào con
đường trụy lạc, lầm than là hành động gián tiếp để cai trị và hủ hóa. Vũ Trọng
Phụng đã đứng dậy vạch mặt chỉ tên những kẻ đồng lõa, mưu toan lừa đảo những
con người yếu hèn; lấy cái vô học thô thiểm để dạy đời, bằng một văn phong bình
thường, giản dị như một thứ triết lý hiện thực đi sát thực tế của tiếng nói đời
thường; nghĩa là không mị dân mà mị-quân-tử của đám thừa sai. Với lý do đó đã
làm cho tác phẩm của ông bị lên án với tội phạm làm ‘tổn thương văn hóa’ và coi
đó là thứ độc dược tư tưởng có tính suy đồi, trụy lạc; nghiêm cấm in ấn và đọc;
đấy chính là thảm họa tư tưởng của kẻ cầm quyền và những kẻ hoạt đầu chính trị
không sửa sai mà a-dzua chà đạp lên nhân phẩm của con người. Với 27 tuổi đời đã
sống và thấy, nghĩa là ‘sống để nhận thấy’ như Thiền sư Huệ Năng đã nói. Vũ Trọng
Phụng đã thực hiện chân lý đó để nói lên sự thực trong truyện như chuyện có thực
ở đời này.Vậy thì; Làm Đĩ là tiếng nói thức tỉnh về đạo đức về nhân phẩm làm
người , giáo dục về giới tính từ học đường đến xã hội một thứ giáo khoa thư dạy
về cách làm tình (make love) giữa nam nữ mà ngày nay người ta mới bắt đầu thực
hiện. Văn chương tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng không còn là hư cấu truyện mà
chuyển sang chuyện có thực của cuộc đời đang sống; ở đây không nêu lên thứ truyện
dục tính như những người làm văn khác. Làm Đĩ trở nên món hàng buôn hương bán
phấn (mãi dâm) có cầu chứng pháp lý mà một số quốc gia đã lấy đó làm thuế
thân / body tax như thời Pháp thuộc ở nước ta. Ở ViệtNam có Vũ Trọng Phụng,
ở Pháp có Honoré Balzac (1799-1850) và ở Mỹ có Henry Miller (1891-1980) họ là
nhựng nhà văn tả chân, nhưng mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười. Cả ba đều làm
văn dung tục, mĩa mai đời, lên án đời một cách trung thực, ăn ngay nói thực
không văn hoa chữ nghĩa, phê phán thẳng thừng, từng đường tơ kẽ tóc, không mị
mà thực khác với những người làm văn thường ‘phịa’ để thành văn , bởi; không biết
‘chi mô răng rứa’ giữa đời này, cho nên không sống thực với đời là ở chỗ đó. Từ
sau cái chết của tác giả tả chân chưa có một ai thay thế điạ vị này mà chỉ thấy
việc làm văn ‘cà giựt’ nhiều hơn thực, ngay cả việc ký-sự cũng có phần giả dối
trong đó; dẫu có viết ngàn trang giấy đi nữa vẫn không nói lên lời đúng đắng về
nó; không chừng dựa hơi để nói lên thân phận của mình (?); đấy là việc làm văn
ngu xuẩn. Vũ Trọng Phụng đã vượt thời gian để viết Làm Đĩ là tiếng nói thức tỉnh
về đạo đức, đánh động lương tâm của kẻ hành lạc trên cành liễu yếu đào tơ là vô
luân (immorality). Song hành với Balzac có Lev Nikolayevich Tolstoi (1828-1910)
với những tác phẩm nổi tiếng ‘Chiến tranh và Hòa Bình’ ‘Khương Lệ Ninh / Anna
Karenina’ và những tác phẩm khác mà Tolstoi cho là không mấy sống thực với đời
mà đợi tới ‘thất thập cổ lai hy’ Tolstoi mới thức tỉnh giá trị của con người
qua tác phẩm ‘Ả Max Lova’ một thứ gái điếm sống ngoài vòng xã hội vì xã hội thời
đó quá điêu tàn, quá giáo điều mà quên đi con người đang sống lầm than. Mãi 100
năm sau người ta mới nhận ra trách nhiệm làm người: một Max Lova sanh phải nhằm
thời và tác phẩm sau cùng của ông đã được thế giới thừa nhận là có tính nhân bản
hơn là phỉ bán con người. Vì lẽ đó mà ‘Làm Đĩ’ của Vũ Trọng Phụng ra đời từ đó.
Điều đáng chú ý giữa hai nhà văn Vũ Trọng Phụng và Henry Miller đã gây ảnh hưởng
không ít trong văn học thời bấy giờ và coi như hiện tượng quái đản của văn
chương. Họ đồng loạt bị khai trừ, cấm kỵ vì hủ hóa, dâm bạo không những trong
nước mà khắp nơi trên thế giới mỗi khi nhắc đến. Để rồi tống khứ như kẻ ‘lưu
đày’. Vũ Trọng Phụng lao động trí tuệ nhưng vẫn không đủ ăn, thân tàn ma dại chết
trên giường bệnh. Miller tha phương cầu thực, rày đây mai đó một va-ca-bông thời
đại, sống trong tửu sắc đàn điếm. Họ chịu đựng và khắc phục tiếng thị phi. Cả
hai phải đợi một thời gian dài mới được phục hưng để làm nên lịch sử.
Làm đĩ thì bán trôn nuôi miệng còm làm văn thì bán chữ nuôi
danh. Nói như vậy thì vơ đũa cả nắm, ví von có sát phạt không? Làm Đĩ hay Làm
Văn đều là nhiệm vụ nhưng chức năng khác nhau. Một bên thân vả một
bên tâm (trí) đều là cứu cánh, là phương tiện để đạt tới mục đích; cả
hai thân, tâm đều có một sự mong ước về nó, chớ không thể làm chơi ăn thiệt cái
đó thuộc trời cho, nhưng; ở đây làm đĩ, làm văn phải ra sức mới đạt yêu cầu bằng
không vô bổ, mà đó chỉ là bổ lẻ qua loa lấy lệ thời tất không bàn đến.
Đứng trên lập trường khách quan mà xét cái thân đôi khi tốt và cũng
đôi khi xấu tùy vào cảm hứng con người muốn tới nó, còn cái tâm trí thì
đôi khi lợi ích, hay ho và cũng có khi tùy vào cảm thức đúng đắng mà tồn lại, tồn
lui với đời. Nếu đứng trên lập trường chủ quan phê phán thì cả hai thuộc phế phẩm,
thứ vô loại không đáng kể. Với học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984)) thì có cái
nhìn chừng mực và trung thực hơn trong tác phẩm ‘Nghề Viết Văn’. Vậy thì làm
văn, làm đĩ cũng là nghề. Qua lời tựa Nguyễn Hiến Lê viết: ‘Nghề nào cũng có
cái vui của nó, nếu không thì làm sao theo đuổi được; nhưng theo tôi nghĩ nghề
viết văn là một trong những nghề thích nhất và cũng cực nhất’.Thông thường lời
tựa là viết cái lý thủy chung bên trong tác phẩm. Thay vì viết Thay Lời Tựa tác
giả viết bằng loại tự vấn đáp (gần như phỏng vấn kiểu email có tính chất sáo
mòn); nhưng lối viết của Nguyễn Hiến Lê dẫu sao cũng thấy được con người thật
nơi văn phong của ông. Nói đúng ra xưa nay ít ai nói làm văn là một cái nghề,
nó thực sự thành hình như nghiệp dĩ thì gọi cho văn hoa là viết văn cho đúng
cái lý văn chương đó thôi. Cuối tk. 19 thoạt kỳ thủy xuất hiện một số văn nhân
dịch thuật, báo chí và thơ tứ như Nguyễn Văn Vĩnh, Tàn Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Thượng
Chi Phạm Quỳnh lấy văn tự để tỏ bày ý chí hay mưu sinh. Rồi về sau có Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Vi Huyền Đắc… là thời điểm bùng phá mạnh nhất sau 1930
(thời kỳ đổi mới tư duy). Làm báo, đăng báo là một vinh dự lớn lao cho nghề làm
văn. Làm văn chẳng phải bằng cấp, chẳng phải trường lớp chứng nhận, chứng thư;
nó phát tiết như một khả năng của tri giác. Ngày nay có trường viết văn thuộc
phân bộ giáo dục là một xác định cụ thể để hành nghề có trình độ và chuẩn mực,
nghĩa là văn chương cần phải có đầu mình và chân tay mới thành văn, kỳ thực viết
văn không đòi hỏi qui cách ước lệ nhưng ít nhất xây dựng một bố cục phân tích,
một cấu trúc có thiết kế, có văn bản, đồng thời tránh những gì gọi là lạm phát
văn chương; ít ra phải kinh qua kinh nghiệm thì mới gọi là nghề viết văn như họ
Nguyễn trình bày trong tập tùy bút ‘Nghề Viết Văn’ là dựa ý của nhà văn Pháp
Charles Braibant trong tập ‘Le métier d’écrivain /nghề viết văn’ cho bản văn
này. Chớ khơi khơi ra vài tập truyện chưa rõ nội dung muốn nói gì hay đưa ra một
định lý chính đáng thì đã vồ chụp cho đó là nhà văn, rồi phê bình, đánh giá một
cách bừa bãi giữa tác giả và người phê. Nhai nhãi trở nên phường chèo, nhớ cho
danh bất hư truyền chỉ lưu lại cái gọi là ‘nhập thế cục bất khả vô văn tự’ là
kim chỉ nam khi làm văn với những người thích là văn sĩ hơn làm bác sĩ, dược sĩ
hay họa sĩ. Vô hình chung nói lên cái tham vọng chữ nghĩa mà tác giả muốn nói tới.
Làm văn là vận dụng trí tuệ để xây dựng vào đó một lý tưởng vững chắc. ‘làm văn
là cái việc làm hết sức kỳ cục’ như P. Valéry, như Tolstoi đã nói. Làm nghề gì
cũng có đồ nghề. Làm văn bộ đồ nghề là cái não nếu gặp phải cái não loạn thì đừng
làm văn. Đôi khi cũng cần suy ngẫn lối làm văn của Anton Chekov (Nga) viết truyện
để trở thành chuyện vô nghĩa mà vẫn thành danh. Cứ viết những gì nghĩ đến nhưng
đừng viết những gì ngoài vấn đề mà trật đường rầy. Làm văn, làm thơ, làm văn
nghệ đều là cái nghiệp văn chương. Hai thứ ‘làm’ nói ở trên là cái phải làm để
thỏa mãn của người dự cuộc, làm văn nghệ ở đây không còn là nghiệp văn mà tự
tác qua từng nhân vật dù sống hay chết đều đóng gói thành bộ là việc làm của những
người thất nghiệp hay bệnh lý; lấy đó như vật lý trị liệu chớ không tỏ rõ sự tồn
lưu nhân thế để đời mà liệt kê như hệ thống thư viện; thành ra làm văn nghệ cốt
để ‘mua vui cũng được một vài trống canh’ chả để lại một giá trị lâu dài mà chỉ
gợi nhớ cái tên tuổi của mình sợ lãng quên theo thời gian. Làm văn nghệ theo dạng
thức này thua nghề làm đĩ và nghề viết văn. Làm bằng tâm huyết thì tồn lại, còn
làm để buôn hương bán phấn là ta bà nhập thế. Cái cần có và cái không cần có là
ở chỗ đó: Bộ tham mưu làm văn nghệ kẻ đông người tây là mạch nối giao lưu của mặt
trân văn hóa, của cái thời tự cho là ‘mạt pháp’nên cần phải có mặt cho sự đúc kết
này; nhưng hành quân giữa một điạ bàn chưa xác định cụ thể mục tiêu; ‘thằng’
nào nên bắn và thằng nào không nên bắn hay chủ trương đường lối ‘bắn nhầm hơn bỏ
sót’, phương sách đó không thể thắng trong mặt trận văn hóa (văn chương đương đại).
Mà trở nên vòng vo tam quốc, ấm ớ hội tề, du nhập bừa bãi, loạn xà ngầu làm cho
ruồi muỗi thêm tiếng ồn ào.Vô hình chung cá bè cá mú vô chung một rỗ, những con
kình ngư không thể lội chung với chằng hiu, ệnh oạng. Uổng công!
Nói cho ngay làm văn thì ai làm cũng được, viết một câu văn
có đầu có đuôi, một mệnh đề có chủ từ động từ túc từ thì Tây hay Tàu vẫn cho là
‘hợp pháp văn chương’, huống là truyện hay chuyện, tiểu thuyết hay đoản văn, hư
cấu hay có thực (true story) đều mô tả như một sự kiện trung thực, tuyệt nhiên
không pha chế mà làm lạc hướng bản văn. Nồng cốt của việc làm văn là phản ảnh
trung thực sự kiện xã hội, tình yêu hay chuyện thời sự là điều muốn nói tới một
cách nghiêm chỉnh, lối viết đùa cợt của tác giả không gây thú vị mà hóa ra ‘chạm
lòng tự ái’ của độc giả, bởi; suy bụng ta ra bụng người. Thế nhưng vị quản thủ
báo mạng cứ tưởng là hay, là tốt cho lên khuôn không suy nghĩ. Sự đó gọi là
tham nhũng chữ nghĩa để được lòng nhau.
Làm thơ. Việc này có tự cổ chí kim, có từ khi có mặt loài người
trên hành tinh này, chớ đâu có văn tự mới có thơ. Làm thơ đứa trẻ mới mở mắt
chào đời, bậc tiếng khóc đó là lời thơ ai oán của kiếp làm người và biến thành
thơ trong đôi mắt, nụ cười khi nhìn người mẹ với một cảm xúc dâng trào của nguồn
thơ sống dậy. Làm thơ dễ từ con trẻ cho tới cụ già (sắp chết cũng trầm tư với
thơ), anh xích lô ngã lưng ngâm nga câu hò điệu hát với một cảm thức thi ca cho
chính mình, dịu dàng ru giấc ngủ cùng với thơ. Mụ bán cá ở chợ Đông Ba xuống bến
rửa rỗ nhìn trời bàng bạc mây trôi, tức cảnh thành thơ. Cái đó gọi là thơ đọc
trên mặt (face talk). Người chuyên nghiệp làm thơ chưa chắc có cảm giác thơ như
trẻ mới sanh, chưa chắc có thơ đột hứng tân hình thức như phu xích lô, chưa chắc
có thơ tự do siêu hình như mụ bán cá chợ Đông Ba; dù cho thi nhân đã làm thơ
hơn nửa thế kỷ qua vẫn chưa chắc đạt tới chân tướng của thơ một cách ‘hào sảng’
như những người chưa một lần biết ‘mừng thơ’. Một số thi sĩ ngày nay; vẫn cái
kiểu nồi nào úp vung nấy chớ đâu có sáng tạo như những người chưa bao giờ làm
thơ. Dù cho thơ dưới dạng thức nào. Họ thuộc lòng lục bát của Nguyễn Du, của
Nguyễn Gia Thiều, của của Nguyễn Đình Chiểu, của Tú Xương, của Hồ Xuân Hương và
kể cả thơ mới của Hàn Mạc Tử. Thơ tự do và tân hình thức trở nên cổ lỗ sĩ của
thời đại ngày nay mà hóa ra thơ trình diễn (the poetry art-performance), thơ lắp
đặc (the poetry installation) thơ đúc (the poetry concrete) Hoàn toàn không còn
mới lạ của thơ mới (new poetry) như đã nghĩ tới của đời nay. Tham vọng vốn là tật
chung của thi văn nhân, biết bao người thành danh đã được thần tượng hóa, thế rồi
thời gian vùi dập đi vào lãng quên. Thiết nghĩ ngợi ca hay đả phá chỉ để lại
cái bóng vô hình mà thôi. Biết rằng làm thơ được định nghĩa như thể loại của ngữ
ngôn, được nói nhiều hơn và nói như một cường độ hơn là ngữ ngôn bình thường
–poetry might be defined as a kind of language that says more and say it more
intensely than does ordinary language. Nên nhớ thi ca là cõi phi cho nên nó phô
diễn dưới mọi hình thức, cô đọng ở đó là cái lý siêu việt của thơ, bất luận nó
nằm dưới trường phái nào.Làm thơ nghe dễ nhưng đạt tới đích không phải dễ. Làm
thơ thường nhiều hơn làm văn, làm văn gần như ước lệ còn làm thơ là tùy hứng. Hứng
mới thành thơ siêu thoát; còn dựa vào thiên tai hạn hán, xe cán chó chó cán xe
để làm thơ thì gọi là thơ lục- tặc khác với lục-bát là ở chỗ đó. Người làm thơ
ngày nay sản xuất không ngừng và đăng tải không ngớt. Hay sợ ‘câu thơ thất lạc
bên đường’ (Hồ Minh Dũng) cho nên chi trong thơ có nghĩa trong nghĩa có thơ mới
gọi là thi ca. Thơ để đời hiếm có, nó phải là thứ thơ đặc thù cách riêng chưa
ai có mới là thơ; điển hình một số nhà thơ khởi từ 1960 đã làm nên lịch sử của
thi ca. Những thể thơ nhảy vọt (ngang xương) chấm phết (bậy bạ), cắt giòng, rặn
chữ đều là thể thơ vô trật tự gây cho người đọc ngờ ngợ, khó hiểu hay tạo cho
mình một thế đứng cách riêng? Khổ nổi thi sĩ không thoát ra khỏi bức xúc tâm hồn
để rồi đưa vào thơ một sự rối bời. Nhớ vợ hay nhớ người yêu để hòa nhập vào
thơ, dạng đó cọng sản gọi là thơ tiểu tư sản. Nên xóa đi những gì chưa tới bến
bờ; chưa lột xác giữa hồn và xác. Làm thơ như thế là cùng tâm trạng làm đĩ; vì
coi đó như sự đã rồi như cái thế chẳng đặng đừng thì làm thơ chỉ tổ ông ơi tôi ở
bụi này. Khốn thay! Nói gọn lại; ba cái thứ ‘làm’ ra đó ngó vậy mà có hạng, có
thứ, có phẩm trật, chẳng qua vì hoàn cảnh mà tức cảnh đó thôi; chớ thiệt tình
mà nói chén kiểu ở trong bụi cũng là chén rồng chén ngọc. Thí dụ: Huế có ba loại
Huế: Huế Siạ, Huế Thung Lũng, Huế Thần Kinh. Cả ba nơi đều là Huế nhưng khác
nhau vô cùng.
Chú thích:
* Vũ Trọng Phụng: nhà văn, nhà báo viết nhiều thể loại khác nhau. Cuộc đời khốn
khổ, bệnh hoạn (1912-1939).
* ‘Làm Đĩ” Tác phẩm thứ hai của VTP (1936)
1/5/2019
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét