Văn chương hiện đại - Một đụng chạm
thuộc triết học của hư cấu khoa học
Có phải đó là phạm trù triết học muốn nói đến tiểu thuyết
hiện đại (the modern novel)? Không hẳn thế; mà ở đây được giới thiệu như một nhận
biết thiết thực và giản lược những tư tưởng rộng lớn, chứa đựng một tư duy mơ hồ,
khó hiểu mà cần có một tư tưởng cơ bản trong một phương án cụ thể để hiểu rõ
giá trị một cách sâu đậm có nghĩa lý; đó là sự cớ được đặc trong những tác phẩm
văn chương. – reducing broad areas of thought to a few fundamental ideas in
order to appreciate the deepest motives underlying literary works. Một phần là
những gì đặc biệt chú ý đến cho một thứ triết học ảnh hưởng đến hư cấu khoa học.
Nhưng nhớ cho đối tượng văn chương của chúng ta không nhất thiết đưa ra đây một
giảo nghiệm của một tác phâm tiểu thuyết hư cấu trong mỗi thời kỳ khác nhau và
mở lối cho một văn chương hiện đại (Modern Literature); ngược lại tìm thấy một
đụng chạm thuộc triết học hư cấu khoa học (The Philosophical Impact of Science
on Fiction) là luận đề so sánh thực nghiệm, soi rọi vào những nhận thức hiểu biết
chung trong cùng một ý thức về bối cảnh của tác phẩm dựng nên.Tuy nhiên cũng giới
hạn một số cơ bản để tin vào những gì mà ở đó có một tập hợp nói đến cho một tiểu
thuyết; nghĩa là phơi bày, tỏ rõ tự sự hơn là dành cho một dự phóng để dựng
nên. Nhất là văn chương hiện đại, một thứ văn chương vượt thời gian của thời đại,
đưa dẫn người viết và người đọc vào những bí tỉ lạ thường và kỳ thú; mà cả hai
lãnh vực này có tính chất khoa học trong đó; vừa hấp dẫn, lối cuốn phù hợp với
đời sống. Là nhu cầu trong tiểu thuyết hư cấu. Tiểu thuyết hiện đại là một thứ
tiểu thuyết triết học –The modern novel is a philosophical novel. Đặc biệt ở thế
kỷ này tiếp thu và lãnh hội những gì trừu tượng, siêu hình và bên cạnh đó nặng
chất thương mại qua những đề mục phiêu lưu, siêu hình, sự bén nhạy khéo léo đó
là một thứ quyến rũ khiêu gợi, thèm thuồng được đổ vào truyện, bởi; thị hiếu quần
chúng là muốn được ’nghe’ cái sống thực trong tư tưởng còn hơn cả hình ảnh có
thực. Văn chương hiện đại phơi mở huỵch toẹt, mỗi lúc mỗi rộng rãi mới mong thích
nghi hoàn cảnh và đôi khi phản ảnh trung thực cái nguồn cơn và định hệ của con
người qua từng nhân vật. Từ khi những tác phẩm đáng kể được để ý đến là tiết độ
được một tri thức vượt mức để ném vào người đọc một suy tư thâm hậu và làm nên
một sự cần thiết sau khi đi tới sự hiểu biết thế nào là văn chương, thế nào là
triết học; có nghĩa là tuân thủ một điều kiện để tận hưởng cái tuyệt thú trong
văn chương tiểu thuyết. Triết học không đơn thuần là triết học (nghĩa của chữ
triết học là nói lên cái đẹp trong đời; nguyên nghĩa chữ triết học = đẹp) tiểu
thuyết cũng có cái triết lý của tiểu thuyết. Nghiêm túc mà nói; mò mẫm vào đó
là để tìm thấy cái lời thiết thực trong tiểu thuyết; một thứ tiểu thuyết hết sức
đơn giản và rõ ràng, một sự chịu đựng tồn lại để được tồn lưu không có tồn loạt
ngổn ngang trong tiểu thuyết. Một tồn vọng hiểu biết cái mà con người không nhận
ra thế nào là đầy đủ hợp nhất –these novels plainty manifest the suffering
attendant upon the accumulation of knowledge that man knows not how to intergrate.
Dù là gì; hư cấu phải thực chứng thời mới gọi tiểu thuyết tồn lại nhân thế,
không còn ởm ờ, thờ ơ mà khước từ sự chấp nhận khổ ải của người viết tiểu thuyết.
Có lẽ; trong bất luận tuổi tác nào đều có ‘cây-nhân-sinh’ nhận thức trong mỗi
con người, tuồng như có một cái gì tàn phá muốn hủy hoại trong một ngụ ý bao
hàm chung chung của sự dục vọng, một nội tại đang cần có một hư cấu thay mình để
giải thoát tâm tư; cái đó hẳn nhiên là một thách đố đối với người nghệ sĩ.
Thách đố đó đưa tới một suy nghĩ dành cho miêu tả tốt và thực không còn hoài
nghi, ngờ vực trong cái tầm nhìn mà giảm đi đôi điều về hư cấu trong thế kỷ hai
mươi, hai mốt này, họa chăng do hoàn cảnh biến đổi: xã hội, tâm sinh lý… Phát
tiết để không còn tồn tại những dữ kiện bi thảm như đã xẩy ra ở những thế kỷ
trước; một thứ tiểu thuyết hư cấu nặng phần luân lý, đạo đức giả do từ con người
và xã hội đẻ ra làm cho tiểu thuyết hư cấu không thực chứng, mất chất. Người
sáng tác hiểu được điều đó nhưng vẫn bị án ngữ bởi lằn biên luân lý đạo đức làm
cho ngôn từ không chuyển động theo khuynh hướng thị trường văn chương đương đại.
Thơ, văn tồn lại trong cái nghĩa ‘từ chương tích cú’ là vậy. Đến khi có những
cao trào mới xuất hiện thì hùa nhau đạp lên trên con đường tự do ngôn ngữ mà lộng
hành, bừa bãi, phá luật nhất là thơ nhiều thi nhân đi quá xa cho một tư duy mịt
mờ, vượt thoát quá độ để biến mình qua những hình thức thơ suy đồi, mất chất, lạc
hướng; văn không ra văn, thơ chẳng ra thơ không còn thấy chi là triết lý làm
người mà hoá thân là kẻ mất trí giữa thế giới thi ca. Cái sự lý đó không còn thấy
gì cho một văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại là gì? Như đã giải thích;
là phải có một triết thuyết nhân tính nằm trong văn chương thời mới tồn lại. Dữ
kiện đó hiện hình trong những tiểu thuyết ở thế kỷ thứ mười chín, thời điểm đó
chưa thấy mở ra một cái gì sáng tỏ cho một liên can cần thiết của con người và
những đề mục liên quan thuộc về triết học cho vấn đề của vai trò, nhân vật. Đợi
mãi cuối thế kỷ thứ mười chín mới thành hình và giữa thế kỷ hai mươi mới bạo dạn
nói hụych toẹt những gì bí tỉ nằm trong đó nhưng không có nghĩa là thiếu đi phần
thúc đẩy của triết lý. Nổi bật của tiểu thuyết gia ở những thế kỷ trước trong
khi họ đối đầu với những trạng huống xã hội, luân lý với bao kinh nghiệm khác
như một cái gì là viễn tượng và cục bộ đã gián tiếp làm choáng đường cho những
vấn đề vượt thoát, kể cả những gì mà con người đang hiện hữu. Một hòa hợp nơi
con người đang dấn thân, nơi mang lại nhiều lợi ích trong một thế giới đang sống;
cho dù ở đây không đè nặng bởi một ý thức khoa học hiện thực hoặc tọa độ của
cái nhìn siêu hình, trừu tượng –when not consciously expressing a specific
ontological or metaphysical viewpoint, they exhibited definite marks of
philosophical orientation. Mà bày ra đây một dấu hiệu sáng tỏ thuộc về triết học
có định hướng. Thí dụ: Thử nói một cách triết học trong một luận bàn về tiểu
thuyết hư cấu của Bình Nguyên Lộc, thời chắc chắn tiểu thuyết họ Bình không qui
vào cái phản ảnh duy lý trong cùng một hướng đi của Sơn Nam. Tuy nhiên; ở đây họ
cũng đã bày tỏ ít nhiều nhân tính qua cảnh sắc triết học trong mỗi nhân vật như
một niềm tin đầy đủ trong tiểu thuyết hư cấu của họ dựng nên. Cái đó mới gọi là
văn chương hiện đại đáng được nói đến; còn tiểu thuyết nói lên một chuyện tình
hay một sự cố đã xẩy ra là thứ văn chương xây dựng trên một tọa độ bi thảm để
làm nền cho một tiểu thuyết; thứ tiểu thuyết đó chỉ là cá tính nhân vật chớ
hoàn toàn không có đặc thù triết học; rất ít người quan tâm, nhất ở thời đại
này nó đòi hỏi cái siêu lý đích thực mới thành hình cho tiểu thuyết hư cấu. Thế
nhưng có một số văn nhân cứ tưởng hư cấu là dựng chuyện không thực là việc làm
thông thường; nhưng nhớ rằng dù hư cấu dượi dạng thức nào phải thực tính mới
thành truyện. Tác phẩm mới để đời.
Từ ngữ thuộc về triết học thường được dùng như một kết nối với
những gì liên quan đến tất cả mục đích có tính chất thuộc khoa học, mở rộng tầm
nhìn và những điều không thể khống chế bởi niềm tin tôn giáo. Cách ly những trở
ngại đó là đứng lên trong một tư duy hiện đại giữa khoa học và tôn giáo. Ấy là
điều không thể tiếp tục đối với triết gia mà bằng mọi nỗ lực đem lại một sự hòa
hợp tương xứng. Những nghệ sĩ thuộc trường phái văn chương cũng được nhấn mạnh
và thích nghi hòa hợp vào hai tình huống đã nêu. Trong mọi thời đại đều có
khuynh hướng cho một thứ văn chương hiện đại, đặc biệt trong quá khứ của một
trăm năm qua, khoa học gần như xoi mòn tận gốc rễ, một số nhỏ ấp ủ dưới niềm
tin của tôn giáo nhưng vẫn không thực hiện hoài bão, bởi giữa khoa học và tôn
giáo có sự tương nghịch. Thi nhân và triết gia giống nhau ở chỗ là dễ cảm hóa
hoàn cảnh và cùng một nỗ lực để cậy trông nhưng rồi đi tới tuyệt vọng, cuối
cùng chỉ còn cách điều hòa hoàn cảnh hoặc thích nghi dưới một nhãn quang mới
hơn, thời may ra xây dựng trọn vẹn cho một tư duy hư cấu thiết thực mà không vướng
bởi những rào cản, chận đường.
Sự kiện tôn giáo đưa tới chủ nghĩa hoài nghi, cái đó; là thả
nổi cho một niềm tin chính đáng (đúng ra là dành niềm tin thờ phụng trong cá
nhân Thượng đế) từ những động lực đó chạy xuyên qua hầu hết trong văn chương hiện
đại, không có nghĩa là tự do tư tưởng đã bỏ rơi niềm tin hướng tới tôn giáo. Tiểu
thuyết hư cấu ở kỷ nguyên này là tiếng kèn phóng thanh cho một tư duy sáng tạo
và cũng là thể thức đặc biệt cho một cái nhìn tụ điểm vào văn chương hư cấu và
nhờ đó mà thu hút những kinh nghiệm đã qua. Việc này khó mà định lượng cho sự
kiện khoa học mà tuồng như có một ảnh hưởng khủng khiếp cho ý niệm của con người,
sự cớ đó chúng ta không thể đánh giá một cách rành rọt và cho rằng văn chương
là bao hàm ý nghĩa rộng lớn của mỗi chủ đề. Chính cái quan niệm hủ hóa đó ảnh
hưởng đôi phần ở đầu thế kỷ hai mươi, ngay cả mở màn cho một tiểu thuyết ái
tình ‘Tố Tâm’ (Hoàng Ngọc Phách) cũng là một sự bàng hoàng giữa thời đó nhưng
ngược lại đón nhận một số lớn độc giả, bởi; vượt thoát của tiểu thuyết có lẽ đó
là bước tiên khởi (avant-garde) để về sau có nhiều văn nhân dựa vào đó mà phóng
tầm nhìn rộng lớn hơn. Điều được chú ý đến giữa hai lằn biên cho một thế giới
xưa cũ và một thế giới đổi mới –may be considered a dividing line between an
old world and a new one. Một cái nhìn tổng thể vào hội trường văn chương hư cấu,
mở mang, rút tiả, một hoài vọng ấp ủ của hai lằn biên mà những thế kỷ qua, cảnh
sắc của những văn nhân như đã chịu đựng cho tới ngày hôm nay và nhìn như một chứng
minh thu nhận, vượt qua được những tàn tích xưa cũ hoặc dưới một sức ép xã hội
làm cho văn chương bại hoại; cách mạng văn hóa thực sự đi vào đời từ những thời
kỳ quá độ của phong trào thi ca, văn học đổi mới. Cho nên chi xây dựng một tiểu
thuyết hư cấu có tính triết học là thực tính của con người trước xã hội, một
qui trình khoa học nhân văn và khoa học xã hội. Hư cấu hay không-hư-cấu thực sự
được mô tả một cách sống thực như cuộc đời hiện thực. Không còn nói là vô
phương cứu chửa –not to say hopelessness, và; trong cương vị đó không ai còn đặc
vấn đề cho sự cớ -in a role that he did not ask for. Mà; hư cấu có thể là chứng
nhân thời đại(?).
Giữa thế kỷ hai mươi vào đầu thập niên 50/60 văn chương miền
Nam nở rộ, không còn là chiếc áo the thâm ngày nào mà giờ đây khoác lên mình
chiếc áo mới đầy màu sắc của trăm hoa đua nở, từ phong hoá đến tự lực là cả
giai đoạn phản kháng mãnh liệt và sau đó sáng tạo để thành hình một luồng tư tưởng
hiện sinh, siêu thực. Đó là ngọn sóng thần ập vào để cuốn phăng những đống rác
nằm ụ giữa đời không có chỗ chứa, nhờ đó; cho tới ngày nay đã sản sinh nhiều
trào lưu bung phá, vượt thoát là chứng cớ hợp thời đại, là tiến trình một văn
hóa mới, kể cả tiểu thuyết mới. Sóng thần hay cuồng phong đã làm sụp đổ những
tàn tích là cốt xây dựng cho cái gọi ‘đổi mới tư duy’ là thế đấy. Nhưng có kẻ lại
còn nuôi mộng ảo ‘cổ lỗ sĩ’ hết năm này qua tháng nọ lục loại trên đống tàn dư
để tìm kiếm cái tiếc nuối như biện giải hay tái sinh cho cái thời coi như ‘chết
chưa chôn’ được sống lại. Đúc tạc những tượng bạc mầu, hứng đầy cứt chim trong
công viên vắng người. Làm thế tợ hồ nói ra cái lạc hậu tư tưởng. Vai trò đó đã
không thực tính mà thoái trào.Thế hệ nối tiếp nhìn cái mới là hiện thực, không
ai ngoảnh cổ ‘tư cố hương’để trở thành‘tượng muối’. Bắt nguồn một ít từ những
trào lưu văn nghệ Tây phương hoặc du nhập từ mọi phiá đến trong một cảnh giới tự
do, khai quật những di sản đã bị chôn vùi hay bịt miệng; bởi gọng kềm tôn giáo,
chính trị làm cho luồng khí văn chương bịt bùng, uất nghẹn đó là lý do đưa tới
bộc phát, một thứ bộc phát phản kháng. Thế nhưng; không có nghĩa là trào lưu mới
nhanh nhẹn ngập tràn để khống lĩnh ngôi vị trong mọi lãnh vực mà nó chỉ có một
vị trí hạn hữu, vừa thẩm định chức năng, vừa lãnh hội thu tập. Tinh thần bung
phá đã được minh định qua mọi bộ môn; phản ứng thuộc về văn chương là chống lại
những gì cản trở, làm khó. Phản kháng là nói lên sự đè nặng của xã hội và tâm
lý những yêu sách đó đều được yêu chuộng ở những thế kỷ mười chín, hai mươi là
hiện thực không thể thay thế bất cứ hình thức nào trong văn chương. Khước từ mọi
thứ có tính khoa học làm đảo lộn trí năng, nhưng; từ những quan điểm thuộc triết
học, kiểu thức này đã hoán chuyển trong cung cách có qui mô, kỹ thuật và hình học
là mấu chốt có thể coi là vững chắc và thích nghi không thể tránh được mà coi
như một cuộc giải phóng từ những gông cùm cổ hủ. Tư tưởng triết học Tây phương
tràn bờ trong giới trí thức văn nghệ thời đó; lấy một vài chứng cớ triết thuyết
để xác định cho một đường lối hiện sinh, lấy đó để đổi mới tư duy, trước để thấy
người sau thấy ta. Cơ bản của những gì ‘từ chương’ cho đến những gì ‘văn hóa bảo
hộ’ là hai nọc độc quấn quanh vào nội tạng của những người trí thức cả hai miền,
để rồi biến văn chương vào giáo điều, đóng khung, khép kín của loài ốc thập thò
qua một thứ giáo điều suy đồi, hủ hóa...Tầm nhìn vào triết học hầu như xuyên
qua bằng những tiết điệu khác nhau; chẳng hạn cao trào chủ nghĩa tự nhiên của
Schopenhauer được thành lập tự chính nó cho một văn chương đương đại với một sắc
thái chính yếu và dọc theo đó những tiểu thuyết gia như Emile Zola là một trong
những chân dung nổi bật với một hòa hợp giữa Thượng đế và con người, để cùng
nhau đi tới những hiệp thông khác. Chiếm cứ một phần trong tài năng văn chương,
nhà văn đặc nền tảng dưới một cảm thức đương đại hợp thời qua cái nhìn trong suốt
hơn và từ đó xâm nhập bởi tư tưởng Nietzsche, Sartre, Camus… gào lên bởi một
tinh thần phản kháng chống Thượng đế là một chối từ của ý thức và chối từ những
tư tưởng đi ngược thời đại qua chủ thuyết ‘Hegelian’ là ủng hộ và tin tưởng như
tin tưởng thần thánh trong một tinh thần đầy hứa hẹn. Dù rằng Hegel là một triết
gia ngoại hạng của một tinh thần tiến hóa và một phát ngôn sáng chói, một tư
duy bộc phát, một thế giới tư tưởng trong tiến trình phát triển xã hội. Hai
phương hướng, hai cái nhìn khác nhau giữa hai trào lưu tư tưởng khác nhau của
văn hóa Bắc Nam. Cho đến nay tình huống đó vẫn còn mò mẫm để tìm một thế đứng
riêng mình. Thời điểm đó những tiểu thuyết gia trên đường khám phá cho mỗi
riêng mình một nét đặc thù mỗi khi tư duy của tự do phát động. Họ nhìn lui những
trang sử văn chương của Lev Tolstoi của Maxim Gorky, của Dostoevsky như kinh điển
để làm nền tác phẩm. Dẫu ở mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng ở đây là một hành động
gián tiếp như nói lên cùng tâm trạng giữa cuộc chiến và con người. Tư tưởng văn
nhân ta quấn quanh trong những cuộc chiến bá quyền, thuộc điạ, ý thức hệ ; tất
cả là hệ lụy, đau khổ làm cho tư tưởng băng hoại không có cơ bùng dậy bằng một
thứ ngôn ngữ phản kháng, không có tính triết học nhân văn để rồi vòng vo trong
một tình cảm bi thảm xã hội mà con người gánh chịu. Văn nhân chỉ lấy ngữ ngôn để
than trách mình, trách đời mà không gây tác động quần chúng vì tư tưởng đóng
khung trong thế bị động; chính cái dạng thức rập khuôn, sáo mòn làm cho văn
chương hư cấu suy tàn, bởi; mất tính sáng tạo cho một lý tưởng nhân văn. Đau khổ
của người viết không còn có sự cảm thông mà chỉ thấy trong đó bản chất cá nhân,
thành ra xây dựng tiểu thuyết hư cấu, truyện ngắn, truyện dài hay những thể loại
khác cần có cái thực chứng trong hư cấu. So ra văn nghệ Âu Châu; trước sau đều
hàm chứa một triết thuyết nhân bản, khác với chúng ta có những tác phẩm dựa vào
hoàn cảnh lịch sử để mô tả như một bình giải, dù nhân vật đại diện cho thời đại.
Vai trò nhân vật và tác giả nặng chất ‘egoistic’cho nên hư cấu trở nên không sống
thực ở lẽ đó. Thế nhưng người đọc và người viết cùng cảnh ngộ, cùng một tư duy
để rồi cảm hóa như mình là nhà văn. Quan niệm hạn hẹp làm cho tác phẩm không rộng
mở giữa thế gian mà chỉ nằm trong đơn vị nhỏ hẹp. Nó không phơi mở một sự đụng
chạm bởi triết học trong tiểu thuyết khoa học hư cấu. Không lấy đó làm nền tảng.
Âu cũng là nguyên nhân trực tiếp do từ đề cao, cổ động không nguyên cớ. Mà cứ
cho là nhà văn.
Với bối cảnh xẩy ra trong những thời kỳ của thế kỷ hai mươi.
Văn chương hư cấu như ngọn đèn chiếu, chứa một thứ triết học và khoa học, dù có
chậm trễ nhưng lôi cuốn như một chú ý, và có lẽ; đây là điều đúng đắng từ khi
thiết lập hệ thống triết học trong ngữ ngôn, một cấu tạo hợp nhất và cần thiết
nếu không vượt thoát ra khỏi mục đích của hệ thống nhận thức hiểu biết tư tưởng.
Những gì thuộc về khoa học, tâm lý đó được coi có ưu thế trong thế kỷ. Đúng như
vậy; thế kỷ nhìn cuộc đời khoa học là đi từ trong tất cả tư duy và phá vỡ những
gì tàn tích, cổ lỗ sĩ trong tất cả mọi thứ văn chương, và; trong những vấn đề
thuộc về vai trò cục bộ, đông cứng, đó là cái mà không giảm thiểu được bản chất
nội tại. Tuy nhiên; tâm lý hiện đại là hình ảnh hăng say để thiết kế cho một ý
niệm về hiện thực. Va chạm của những gì khoa học vốn đã có trong triết học và
văn chương cho thế hệ thứ hai của thế kỷ hiện nay thời điều này không phải dễ
dàng đả thông như thế kỷ trước; có thể hay bởi do sự tiếp cận gần gũi đến những
gì của khoa học hiện hữu. Khoa học mới, có thể đã có những tranh luận: ’không
đem lại cho chúng ta một tư duy đơn thuần mà chỉ là một cái gì mường tượng để mở
ra một vũ trụ trong làn gió nhẹ, nhưng cũng đủ để lại nhiều cảm tính và phóng
thích con người thêm phần sinh khí’ –“has given us not merely a more
imaginatively open universe in which to breath, but also more emotional and
released man to do the breathing”. Đôi khi những nhà khoa học như buộc phải thừa
nhận :’mà coi đó là một hiện hữu tình cờ…là đặc thù và đó cũng không phải là vấn
đề đơn độc kể cả những gì mở đầu / that the contingency of being…is perpetual,
and not an affair of a single and initial event. Khoa học hiện đại cho phép ta
có một tụ điểm chính yếu và chắc chắn trong đó triết gia, khoa học gia đã tiếp
nhận để thành hình cho ngữ ngôn. Tính tự nhiên có thể chú ý tới trong một ánh
sáng khoa học đương đại và từ đó sáng tạo nhiều nghĩa thức khác trước những con
đường đi vào tiểu thuyết hư cấu có tính khoa học, một kiểu thức mới và tân kỳ
cho cách viết văn chương hư cấu.
Yếu tố cần thiết khi đặc vấn đề ‘chuyện / story’ trong ‘truyện
/ novel’ là những gì cần thiết được xoáy vào nhân vật và những tương quan liên
hệ lẫn nhau ngay cả kiểu thức và kỹ thuật dựng nên một tiểu thuyết hư cấu; đây
cũng là lý do nhắc nhở người đọc tìm thấy trong cách xử dụng của tác giả với những
gì xẩy ra hầu như quan trọng và cần thiết trong bố cục của câu chuyện. Những gì
tạo ra bởi những liên hợp là chứa đựng tính khoa học và tính triết lý với một
phân tích thuật lại, có thể gọi cả hai trong một lời bình về thế hệ hiện đại và
một lời bình về tiểu thuyết hiện đại. Trong cảm thức đó; chúng ta thường có cái
nhìn chung chung về tiểu thuyết như một bày tỏ về sắc thái thuộc triết học và từ
chỗ đó đôi khi nhìn truyện như một quan niệm lịch sử. Phẩm lượng thẩm mỹ của một
tiểu thuyết là những gì thúc giục, lôi cuốn để nói lên mặt thực; thời chính cái
đó là tồn-lại (lasting) có thể hiện ra ở đây một cách độc lập từ những môi trường
để được bung phá – dù rằng có những nghi ngờ trong đó. Rứa thì thì khoa thẩm mỹ
có thể loại hay cần phô diễn?. Nhưng khó mà từ chối; mà đó là điều cần cảm
thông cho môi trường thuộc trí năng sáng tác của tác giả và đánh giá cho một
tác phẩm của họ. Và từ đấy mang lại giá trị đích thực cho chính họ.
21/12/2014
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét