Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Đọc một ít thơ 1-2-3

Đọc một ít thơ 1-2-3

Các cây bút thơ tham gia vào thơ 1-2-3 đã không ngừng khai thác một cách phóng khoáng cái khung khổ đoản thi kiểu mới này. Tất cả cái viết của họ cho thấy mối liên hệ từ thực tại đương hiện đến căn cước hay bản sắc mình của con người hiện đại chúng ta ở đây sao vẫn nhiều thiếu hụt. Và tuy nhiên, nhìn vào những sáng tác có thể nói là nhanh và dồi dào theo dạng thức mới này, có cảm nhận về sức gợi hứng của một sự chuyển đổi.
Bởi đã có nhiều sáng tác thơ dạng thức 1-2-3 được viết ra và công bố – vài nghiên cứu mau mắn đã ghi nhận thống kê về hiện tượng này mấy năm gần đây – nên người viết bài này chỉ có thể thấy là mình mới đọc được một ít trong số đó. Có thể thấy những lối dùng đa dạng trên khung khổ mới được định danh là “thơ 1-2-3”, dựa trên cái nền tảng rất quen về nhịp điệu và âm hưởng chung đã thành truyền thống hiện đại của câu/khổ thơ tự do – được vận dụng vào một cách tự do ở đấy. Nhưng đây đã là một dạng thức mới của đoản thi – loại thơ ngắn như thể vẫn mang dấu nguồn gốc trực tiếp từ ca dao, dẫu đã trong phong cách từ chương thơ phú, và hiện đại, dĩ nhiên.
Với cái khung đoản thi này, những người viết thơ 1-2-3 dường như, ở mức đáng kể, khám phá lại mối quan hệ giữa hiện thực thiết thân hàng ngày với bản sắc mình ở miền của thơ, và khám phá lại cái nhìn của mình vào hiện thực – trong khi khai thác tính năng động, cởi mở ở khuôn hình chung mới mà quy ước thơ 1-2-3 kiến tạo. Một mối liên hệ như thế có thể thấy, chẳng hạn, cụ thể lối dồi dào sống động ở một tác giả rất nên đọc – nhà thơ Hoàng Hải Phương; hay ở sức gợi tinh tế về những điều-không-nói của thơ Trần Nhã My; một cái nhìn khám phá lại bề cao của tinh thần có thể thưởng lãm ở các bức tiểu họa u sầu mạnh mẽ trong thơ Tạ Hùng Việt.
Điểm chung nổi bật ở các thơ lối “1-2-3” này là nỗ lực thông truyền cái thật của sự thể và cảm nghĩ, cái chân thực cảm xúc của suy tư bề sâu. Khung khai triển ngắn cho bài thơ dường như đã tạo ra một sức ép gây hứng thú mới. Cũng sự ngắn này tạo cảm giác về một tốc độ đến thực tại, cũng là đến biểu đạt. Về đặc điểm này, nhà thơ Hoàng Hải Phương đã có một đánh giá điển hình:
“Thể thơ 1-2-3 ra đời đã đáp ứng nhu cầu bắt nhịp cuộc sống hối hả với nhiều phương tiện nghe nhìn hiện nay. Thể thơ tự do dồn nén và bung toả, mở đóng, hô ứng vừa gần gũi bình dân vừa hiện đại thông tấn. Đây là thể thơ dễ viết khó hay, dễ đọc khó nhớ. Điểm mấu chốt như hồn cốt của bài thơ là tính hô ứng và mở kết của câu 1 và câu 6.
Qua thực tế sáng tác, tôi nhận thấy rằng, nhóm 1 câu tối đa không quá 11 chữ nên tiết chế từ 2-6 từ thì vai trò làm đề bài rõ hơn; nhóm 2 câu tối đa không quá 12 chữ nên tiết chế 6-9 từ; nhóm 3 câu tối đa không quá 13 từ nên tiết chế 9-12 từ. Như vậy kết cấu bài thơ cân đối và dễ nhớ hơn, dĩ nhiên không bó buộc nếu xúc cảm vượt ngoài khuôn khổ.”
Điều thú vị  là dường như cái “nhịp hối hả” của đời sống đương đại,  điều kiện hóa bởi “nhiều phương tiện nghe nhìn”, đã đem lại một thách thức mới cho thơ – thơ, mà khung khổ tự do chuyển biến theo thời buổi, từ lâu đã nhắm biểu đạt nhiều “xúc cảm vượt ngoài khuôn khổ.” Ở đây thì “nhu cầu bắt nhịp” phản ánh một ham muốn biểu đạt đặc thù: một phản ứng đặc thù trong tương tác với thực tại, phản ứng có tên gọi là Thơ.
Thực sự thì, cũng cần nói, sự khám phá lại mối liên hệ giữa thực tại với bản sắc mình, và sự khám phá lại cái nhìn vào thực tại, tựa như hai mặt của một bàn tay. Khám phá đó, một sự thật rất xưa mà không cũ, là thứ làm nên chất thơ và tính thơ, hơn là việc nắn nót các thủ thuật tu từ; hay chính xác thì cảm xúc khám phá đó soi sáng cho lựa chọn từ ngữ và lời lẽ, mà xét cho cùng tức lựa chọn cái gì là thơ.
Thơ 1-2-3 Hoàng Hải Phương, trong tập “Phong hờ hơi ấm” của ông, từ đầu đến cuối nhất quán lựa chọn chất thơ của hiện thực xác định, kiến tạo câu thơ tự do theo cách mà điệu tính của ngôn từ thơ sẽ bị đặt phụ thuộc vào thông tin của ý-hình ảnh; điều này hẳn sẽ khiến độc giả nào đó cảm thấy thiếu cái âm vang thuận tai (bởi thơ luôn được đọc thành tiếng trong tâm trí người ta, tuân theo một kiểu âm nhạc của ngôn từ, nên ở đây xin được vay mượn các khái niệm điệu tính và phi-điệu tính của âm nhạc.)  Có thể sẽ có người cho rằng tác giả không chú ý đường lối tu từ; nhưng lối viết phi-điệu tính này đầy ý hướng tu từ, chẳng hề dễ dàng hay lỏng lẻo, trong thơ này của Hoàng Hải Phương. Và sức nặng của chất hiện thực chân xác tạo khuôn cho giọng điệu câu thơ – tất nhiên, tựa vào khung khổ đặc biệt của dạng đoản thi này – đã đưa vào sự thể hiện, hầu hết ở mức ẩn dụ, những điều mà ông gọi là các “xúc cảm vượt ngoài khuôn khổ.” Xúc cảm như thế có một trong các lối để biểu hiện là biểu hiện  qua mức độ nghịch âm của thơ.
Chẳng hạn, ở bài thơ thứ ba trong Chùm 40, chùm thơ kết của tập thơ gồm 40 chùm này, viết một nét sống ký ức trong hiện tại, đượm tình, theo lối chấm phá vừa chặt chẽ vừa thoáng đãng:
Chút gió lạnh lách qua khe cửa hẹp
Nỗi nhớ mơ hồ thuở thiếu ấm áo chăn
Trễ nãi ngày nghỉ được vung tay lười biếng
Ấm áp ly cà phê sớm tự pha
Ngọt rét nhớ quê dậy ra đồng sương quệt
Hẹn với chợ mai hối hả má em hồng
Còn ở bài thơ cuối của Chùm 1 mở đầu tập thơ này, cũng viết một nét ký ức tương tự, thì thể hiện trong một điệu thở dài hoàn toàn phi-điệu tính kiểu đánh thượt một cái !
Quên nhau đi chẳng phút bận lòng
Nước rặc ròng những lá cỏ lòi ra tội nghiệp võ vàng
Bạn bè lúc khó khăn lộ ra gương mặt không ngờ
Mừng phát hiện cũ xưa nhưng luôn mới với mình
Bạn sẽ thấy lòng nhẹ nhõm không còn hoang tưởng đợi chờ
Ngủ dễ hơn buông bỏ vô thường khi nhận diện lại tri âm
Giao Thủy (Đại Lộc), 5.2020
Thơ tự do lối này chủ yếu bắt vần bằng các âm gần nhau, chứ không phải vần lối cổ điển. Ở bài thứ ba Chùm 40, các thanh nặng-không-sắc-không-nặng-bằng, luân phiên và xen kẽ, ở cuối mỗi câu thơ, truyền đạt một ấn tượng hoài nhớ sống động với vẻ trìu mến không thể kìm nén, hoàn toàn tương hợp-hô ứng với mỗi hình ảnh trong câu và ý toàn bài, và kết bằng một âm tiết mở, vang, ấm; trong khi ở bài thứ năm của Chùm 1, loạt thanh bằng kết suốt năm câu rất ức chế, tựa một chuỗi tiếng sấm đùng đục, kiểu lặp-và-nhấn của một lời cáo giác, rồi kết bằng thanh không ở cuối câu thứ sáu – gây âm vang cụt ngủn bởi một âm tiết khép nửa, rõ ý mỉa mai: “âm”.
Rất nên xem các bố cục thanh điệu phi-điệu tính thơ này như là hoàn toàn của một chủ ý tác giả đang hiện động, sắp đặt hiệu ứng, qua mỗi câu cũng như trên toàn bài, tham gia và góp phần tất yếu của chúng vào mức độ ẩn dụ ở mỗi bài thơ. Xúc cảm trong chủ ý, đặc biệt những “xúc cảm vượt ngoài khuôn khổ”, đã được thể hiện đầy hiệu quả trong cách gieo những âm tiết như thế – dĩ nhiên, đi liền với các từ ngữ được lựa chọn lối súc tích và chắc nặng chất hiện thực luôn chân xác, cởi mở, tương ứng. Và không thể không nói rằng cái khung của dạng thức thơ 1-2-3, cái thể thức đoản thi mới mẻ, đã kiến tạo điểm tựa, hay thậm chí cả đòn bẩy, cho nguồn lực xúc cảm đó.
Cảm xúc luôn luôn kể câu chuyện theo cách của nó – điều ai cũng biết. Sự kể các câu chuyện của cảm xúc bao trùm hầu hết miền của Thơ. Rất thú vị, một cách độc đáo, các câu chuyện của cảm xúc biểu hiện qua thanh điệu của đa dạng những kết hợp không-thuận-tai trong thơ này của Hoàng Hải Phương. Chất phi-điệu tính thơ này luôn luôn được xác nhận bởi phẩm chất hiện thực dày đặc và phong phú tương ứng trong từng câu thơ ở đó. Đấy chẳng phải một mối liên hệ đầy một sức sống mới mẻ sao!
Thơ 1-2-3 của Trần Nhã My trong tập “Hoa rong mùa bấc”, các câu chuyện của cảm xúc lại thú vị nổi bật ở sự, và cách thức, nói lên những điều-không-nói: một đặc trưng quen thuộc hàng đầu của phẩm chất xưa nay vẫn được niệm danh là nữ tính; và nữ tính –  vừa là thực tại vừa là bản sắc, mà dĩ nhiên, vẫn phải thực hiện mối liên hệ giữa chúng. Mối liên hệ này rất căn bản và bền chặt, song đồng thời có rất nhiều biểu hiện khác nhau; một trong số đó là sự không vượt qua giới hạn.
Bài thơ mở đầu tập thơ này khá giản dị thể hiện điều ấy:
Hoa rong mùa bấc
Không dám hồng lên cùng màu sen sương sớm
trắng, không. Tím như hoa súng dưới đầm ban mai, không
Mải mê một sắc vàng lặng im mùa gió lạnh
chẳng tỏa hương, nào có ong bướm vờn quanh
cứ vươn mình dâng trọn những bé xíu níu mùa đông thầm lặng
Thoạt đọc bài này, dễ có ấn tượng rằng với các ẩn dụ thông thường về so sánh đặc thù hương sắc các loài hoa, tác giả nhấn mạnh ý ngợi ca phẩm chất giản dị của một tính nữ dưới biểu trưng của loài “hoa rong.” Nhưng hẳn nên thấy có chút trái ngang, khi, ở câu thơ cuối, nói rằng thứ hoa “bé xíu” đó cốt yếu là để “níu” giữ cái “mùa đông thầm lặng” – mà có thể hiểu ngay: tính đa nghĩa lấp lửng hiện diện trong hình ảnh ẩn dụ dễ tri nhận này. Và nó, cái hình ảnh đó, sẽ không bao giờ cho một xác quyết ý nghĩa; tuy nhiên, nó lại gợi lên rõ ràng một ý về giới hạn trong hình ảnh của “níu-mùa đông” ấy. Bởi đó, sẽ thấy các so sánh so kè phẩm chất hương sắc với mấy loài hoa kể ra trong các câu thơ thứ hai, thứ ba và thứ năm chính là ngầm liệt kê một vài giới hạn; hàm ngụ thôi, nhưng rất rõ – bởi hai từ “không”, đều nhấn mạnh bằng dấu ngắt câu đứng trước, ở đầu và cuối câu thứ ba; và bởi khẳng định về sự “Mải mê” ở đầu câu thứ tư nói lên rằng cái loài “hoa rong” đó trân trọng cái giới hạn, của hoặc bởi, chính nó, chỉ cần cứ là “vàng lặng im” mà thôi.
Hẳn cũng nên kể rằng, ở rất nhiều bài thơ kể những câu chuyện cảm xúc tình yêu trong phần thứ hai của tập “Hoa rong mùa bấc”, ý và hướng về sự vượt qua nhiều thứ giới hạn – cái khái niệm mà trên thực tế luôn luôn tựa hồ bị hay được co và nới – cứ xuất hiện không ngừng; tuy nhiên, khi nhìn sâu vào chúng, ở những bài thơ ấy, có thể thấy rõ cái ý hướng về vượt giới hạn chẳng bao giờ tách rời một điều-không-nói: ấy là chẳng bao giờ có sự vượt qua đó. Bởi thế, những bài thơ này ánh lên thứ lấp lánh sinh động của sự khám phá, riêng tư hay là chung – sự khám phá lại, không ngừng, mối liên hệ giữa thực tại với bản sắc mình: các biểu hiện rất đa dạng của giới hạn và sự giới hạn, đặc trưng cho nữ tính, ít nhất thì cũng do phong hóa truyền thống và thời buổi, luôn luôn không dễ nắm bắt cho đúng, cho xác đáng; nhưng cũng luôn luôn một nguồn lực của xúc cảm về bản sắc mình sẽ giúp nhận ra và duy trì giới hạn – thứ giúp tạo nên ý nghĩa, thậm chí là ý nghĩa cho một cuộc sinh tồn.
Điều có vẻ, hay thật sự, to tát như thế, lại chẳng bao giờ không giản dị đến hết mức. Cho nên, nói đến nó, thì một trong các cách tốt là để cho nó ở dạng cái điều-không-nói; thí dụ như ở bài thơ này, đưa một gợi ý nhẹ nhõm và hiển nhiên:
Chuyện ở Xóm Lò ngày xưa ấy
Ánh trăng xuyên qua những câu thơ vằng vặc
cánh đồng chữ vàng màu mật ngọt
Gió thổi mềm trang sách nhàu nhĩ lời ru
nhánh lúa trên đồng cong vòng eo con gái
giữa mênh mông trăng rằm tan loãng tiếng ầu ơ…
Bài thơ chỉ gồm các hình ảnh và ý gợi; kể câu chuyện của cảm xúc  không theo trật tự hay hinh thức câu chuyện nào theo nghĩa thông thường của từ ngữ đó. Tuy nhiên, do quy ước ở dạng thức thơ 1-2-3, câu thứ nhất đồng thời vừa là tên bài thơ vừa là đoạn thơ thứ nhất – chỉ có một câu – cho nên, ở đây, tạo nên sự tương phản và đấy là một tương phản hàm ngụ một điều-không-nói: tương phản giữa câu/đoạn thứ nhất, mang phong cách chung của lời kể cụ thể, với lối hình ảnh tượng trưng hoàn toàn ở hai đoạn-năm câu thơ sau đó. Độ chênh về phong cách từ chương như vậy tạo cảm giác về một khoảng trống hữu ý, cố ý, có định hướng, giữa những câu chữ và lời lẽ đó. Người ta có thể tin hay không, nhưng các khoảng trống như thế luôn luôn viết lại bài thơ chứa đựng chúng: viết lại, theo nghĩa sự đọc  sẽ lấy ra từ các khoảng trống ấy những điều-không-nói, bởi và theo cách các điều ấy đã được đưa vào.
Thơ 1-2-3 của Trần Nhã My bởi thế gợi lên một sự đọc-nghiền ngẫm, đấy cá tính, đối với cuộc đời như là một hình thức – một hình thức của chuyển động của tinh thần. Và khó mà không thấy rằng nữ thi sĩ này, theo đó, khám phá lại cái nhìn riêng của mình qua khung khổ của dạng thức đoản thi mới này.
Như đã nói ở trên, đấy là một nét chung ở những cái viết mới trong thơ 1-2-3, và sự khám phá lại cái nhìn như thế đã có một chứng minh đẹp hùng hồn, theo cách độc đáo, ở tập thơ “Hãy nhìn vào mắt bão và nghe lời đắng cay” của tác giả Tạ Hùng Việt. Đầy ấn tượng mẫn cảm và xúc cảm của suy tư sâu, nhà thơ này trình hiện các típ hình thù hiện đại của điều xưa nay vẫn được gọi chung là nỗi sầu nhân thế, một cách thấm thía, truyền cảm mạnh, hướng thượng và dồi dào gợi nghĩ.
Thơ này của Tạ Hùng Việt hướng đến cái cao thượng cổ điển, một cách nhất quán, trong những biểu hiện hiện thực đa dạng của sự dẫn dắt từ tinh thần thanh cao truyền thống đó. Bởi sự dẫn dắt hay soi chiếu đó mà thơ của anh nhiều tính tượng trưng; và đấy hầu như là tính tượng trưng của chính các sự thể thuộc thực tại, chứ không do tạo dựng; chẳng hạn như trong bài thơ đứng tên của tập thơ này.
Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay
Mưa từ biển, cuốn sách mơ ước của em đã trôi đi
Lũ từ phía núi, bài văn của em không có cây rừng
Cánh đồng làng trắng nước, ngôi trường chết đuối bên sông
Lại đắp đổi buồn thương những tháng năm sinh tồn nghiệt ngã
Cha lại ra khơi và mẹ lại chắp tay trước biển nguyện cầu.
Các ẩn dụ và tượng trưng trong thơ Tạ Hùng Việt hầu hết dựng lên trong các tương liên tương phản mạnh của cảm xúc mà đầy sức truyền cảm dẫn dụ bởi phẩm chất hiện thực phổ biến ở đó. Trong mệnh đề “Hãy nhìn vào mắt bão và nghe lời đắng cay”, có một đăng đối cân bằng động tựa như hai cực một thanh nam châm: cái chất vấn ngầm ẩn, rằng, có hay có thể “tin lời đắng cay” giống như đã có thể “nhìn vào mắt bão” theo nghĩa đen, hay không?; và nữa, liệu có thấy, có gan “nhìn vào mắt bão”? , mà bởi đó sẽ có gan, có tỉnh trí, có lòng để thấy hay cân nhắc “tin vào lời đắng cay” hay không; và cứ thế.
Trong cái mệnh đề-câu thơ thứ nhất đó, sở dĩ có thể thấy được lời chất vấn ngầm ẩn như vậy là dựa trên hồi ứng với nó ở các câu thơ tiếp sau trong bài. Cái nhìn trông thấy sự “nhìn vào mắt bão” đã diễn giải, đúng hơn là gợi, cái nội hàm ẩn dụ của nó qua các câu thơ thứ hai, ba, bốn và sáu; các câu thơ này, ở chỗ của chúng, vốn đã hình dung lên một bức tiểu họa – bằng vài tình tiết rất hiện thực mà tạo dựng một bố cục có tính biểu trưng cao, phát ra ý nghĩa riêng từ tổng thể đó. Bởi thế, trên cái nền của khuôn hình ấy, mới thấy câu thơ thứ năm chính là sự diễn giải, theo lối trùng ngôn, của lời mời gọi “tin vào lời đắng cay”. Câu ấy chẳng phải một lời-đắng-cay sao ! Câu thơ này hội tụ cao trào của bài thơ này: nó thăng hoa cái chất vấn buồn ngầm ẩn ở trên.
Thơ Tạ Hùng Việt chan chứa mối u sầu của một người-thơ chót không rời được cái nhìn luôn tìm đến “nhìn vào mắt bão”. Một ngạc nhiên thú vị khi thấy anh khuôn đúc cái nhìn độc đáo của mình một cách vừa vặn mà rất sống động trong khung khổ đoản thi 1-2-3 này. Dẫu chỉ là nặng về suy đoán, có thể thấy, theo đường lối tương tự nhưng dĩ nhiên hoàn toàn riêng về cá tính văn chương, Tạ Hùng Việt cũng hướng tới biểu đạt những điều không thể nói – giống như ở thơ 1-2-3 của Hoàng Hải Phương và Trần Nhã My – là điều khiến cho khung khổ đoản thi này, rất gần với cội nguồn ca dao, thứ thơ bột phát, trực giác và vô đề, trở nên vừa vặn hiệu quả.
Tạ Hùng Việt hầu như luôn tìm thấy, không chỉ đơn thuần cảm hứng, mà là một sự cộng cảm sâu sắc, cao và rộng và xa, từ những âm thanh và chuyển động không lời hoặc không thốt ra lời trong cái nhất thể thiên-địa-nhân truyền thống vẫn xuyên suốt đương đại.
Cái nhìn của anh về nhất thể đó luôn gây bất ngờ đầy cảm xúc; chẳng hạn như ở bài thơ này:
Lời của biển trong đêm sao băng kỳ vĩ
Nắng lụa bay lên từ nghìn trùng long lanh sóng nước
Bình minh không dành riêng cho ai đã nhìn thấy trước
Ảo ảnh thanh cao, con người đã từng mượn danh cái đẹp
Khiên cưỡng thiện lương, lòng nhân từ cũng đã bị mượn danh
Dưới cao xanh, mặt nạ rơi trên nỗi đau thắt lòng của đất.
Các ý-hình ảnh thơ trong bài này đan quyện vào nhau chặt và chuyển động khó tách rời, tuy nhiên, có thể thấy đấy là một chuyển động kiểu tách-lắng-kết tủa, mà theo và trong đó, yếu tố Nhân lắng xuống trong Thiên-Địa “kỳ vĩ” – không phải một sự lắng nói chung, mà là sự kết tủa của một nét đặc thù gói trong cái hình ảnh ẩn dụ biểu trưng của một món nhân tạo đầy đủ tính biểu trưng cố hữu muôn thuở: cái mặt nạ.
Hẳn nên lưu ý: khoảng cách từ “Lời của biển …” đến “mặt nạ rơi trên nỗi đau thắt lòng của đât”, cũng hoàn toàn tượng trưng, là một cái khoảng cách cao-xa đến thế nào, mà cũng có lẽ gần-và-ngắn đến thế nào. Thấm thía trong tất cả các hình ảnh hoàn toàn khái quát, tượng trưng sống động này, là một chuyển động rõ rệt của dòng cảm xúc. Câu thơ kết này dâng lên cao trào đối lập với câu thơ mở bài, và điểm thăng hoa của nó nghịch dị: đúng ở chỗ “mặt nạ rơi”; và chính vì thế nó tạo được âm vang về “nỗi đau thắt lòng của đất.”
Nhìn chung, có thể nói các cây bút thơ tham gia vào thơ 1-2-3 đã không ngừng khai thác một cách phóng khoáng cái khung khổ đoản thi kiểu mới này. Tất cả cái viết của họ cho thấy mối liên hệ từ thực tại đương hiện đến căn cước hay bản sắc mình của con người hiện đại chúng ta ở đây sao vẫn nhiều thiếu hụt. Và tuy nhiên, nhìn vào những sáng tác có thể nói là nhanh và dồi dào theo dạng thức mới này, có cảm nhận về sức gợi hứng của một sự chuyển đổi.
9/12/2024
Nguyễn Chí Hoan
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xuân trên những nụ non

Xuân trên những nụ non Đông dần vơi để lại bâng khuâng trên những tờ lịch cuối. Xuân non xèo vừa tượng hình nhu nhú trên những chồi non, v...