Không gian dày đặc toàn
trăng cả,
Tôi cũng trăng mà nàng cũng
trăng
Một nhà thơ thiên tài
nhưng yểu mệnh, một kiếp nhân sinh quá ngắn ngủi lại lắm thương đau. Nhưng có lẽ
do những bi thương của cuộc đời dành cho số phận mà từ đó những tinh hoa phát
tiết làm nên những bài thơ bất hủ mãi mãi với thời gian trong giai
đoạn ban đầu của thơ ca cận đại Việt Nam đó là nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Trong cái nhìn tổng thể về
gia tài thơ ca của Hàn Mặc Tử để lại, có thể nhận ra những hình tượng chủ thể
mà Hàn Mặc Tử nói đến nhiều: Trăng, máu, cuồng điên…
Nhưng đằng sau hiện tượng mật
đắng, máu cuồng và hồn điên đau thương bi hận thì “Trăng” là tư tưởng, hình ảnh
xuyên suốt, đậm nét trong thi ca Nguyễn Trọng Trí.
Trước hết, có đôi chút về
thân thế nhà thơ tài hoa bạc mệnh.
Mãi tận đến bây giờ, vẫn còn
có người băn khoăn về cái tên Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử. Bút danh đầu tiên của
nhà thơ Nguyễn Trọng Trí là Phong Trần lúc thi sĩ mới 16 tuổi, rồi Lệ Thanh. Đến
năm 1936 đổi thành Hàn Mạc Tử寒摸仔(Chàng
trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo) rồi sau đó đổi thành Hàn Mặc Tử寒墨仔 (Chàng trai bút mực). Như vậy
để chúng ta thấy một sự việc hiển nhiên khi nói rằng: Nhà thơ Nguyễn Trọng Trí
có nhiều bút danh qua từng giai đoạn, nên ta phải gọi cho đúng bút danh phù hợp
vào từng thời điểm.
Trăng là đề tài muôn
thuở, là nguồn cảm hứng của biết bao văn nhân thi sĩ. Trăngđã có mặt khắp
nơi, khắp chốn qua nhiều phương tiện thể hiện: thơ, ca, nhạc, họa. Hình tượng Trăng (Nguyệt)
trong thi ca vốn không xa lạ gì. Ngày từ xa xưa và trong thời Thịnh Đường với
Đường Tống bát đại gia mà tiêu biểu là Lý Bạch thì nguồn cảm hứng của thi gia này là Trăng và
lưu truyền chết cũng vì Trăng.
Nhìn xuyên suốt thi ca qua từng thời đại từ nguyên sơ mãi đến bây giờ, ta nhận
ra một điều là bất cứ thi sĩ nào trong cuộc đời sáng tác thì ít nhất cũng có một
bài viết về Trăng.
Đây không phải là một bắt buộc hay một ước lệ mà là sự rung cảm đồng điệu tâm-hồn của bất cứ một ai trước cảnh đẹp nên thơ giữa đêm khuya thanh vắng. Vì vậy mà trên trần gian này, có bao nhiêu thi sĩ thì có bấy nhiêu bài thơ tả cảnh đêm trăng. Có nhà thơ thì tả cảnh trăng mờ bên suối, có nhà thơ thì tả cảnh đêm trăng ngày mùa, nhiều nhà thơ thích tả cảnh trăng chênh chếch đầu núi, một số nhà thơ khác tả cảnh đôi tình nhân hẹn hò dưới ánh trăng khuya, cũng lắm nhà thơ tả cảnh uống rươụ tiêu sầu hay ngồi ngâm thơ vịnh nguyệt.
Đây không phải là một bắt buộc hay một ước lệ mà là sự rung cảm đồng điệu tâm-hồn của bất cứ một ai trước cảnh đẹp nên thơ giữa đêm khuya thanh vắng. Vì vậy mà trên trần gian này, có bao nhiêu thi sĩ thì có bấy nhiêu bài thơ tả cảnh đêm trăng. Có nhà thơ thì tả cảnh trăng mờ bên suối, có nhà thơ thì tả cảnh đêm trăng ngày mùa, nhiều nhà thơ thích tả cảnh trăng chênh chếch đầu núi, một số nhà thơ khác tả cảnh đôi tình nhân hẹn hò dưới ánh trăng khuya, cũng lắm nhà thơ tả cảnh uống rươụ tiêu sầu hay ngồi ngâm thơ vịnh nguyệt.
Lý Bạch một trong Đường Tống bát đại gia được lưu hậu thế với nhiều bài
thơ, trong đó có bài tiêu biểu viết về Trăng:
Tỉnh dạ từ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Tiên Điền Nguyễn Du
trong Kiều thì có đến 63 câu liên quan đến trăng để chuyển tải ý đồ tả
người tả cảnh, tâm trạng… trong đó câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dăm
trường
Và Xuân Diệu:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ
ngời,
Đàn ghê như nước lạnh trời
ơi
Long lanh tiếng hạc vang
vang hận,
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ
người.
(Nguyệt cầm)
Và Bích Khê, Quách Tấn,
Chế Lan Viên ba trong bốn nhà thơ được mệnh danh Bàn Thành Tứ tử ai cũng có nhiều
bài thơ vềTrăng.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc
trắng
Của
gương hồ im lặng tợ bài thơ
Chân
nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng
Đây
bài thơ không tiếng của đêm tơ
Trăng
gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của
hồn thu đi lạc ở trong mơ.
Gió rủ canh đi ngàn liễu
khóc,
Sông đưa lạnh tới bóng trăng run ...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
Sông đưa lạnh tới bóng trăng run ...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
(Bên sông, Quách Tấn)
Và Hàn Mặc Tử cũng không nằm
ngoài “thói thường tình” ấy.
Thế nhưng Trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử thể hiện như thế nào?
Trăng trong thơ Hàn Mặc
Tử xuất hiện dưới nhiều góc cạnh đôi khi hiển nhiên trần trụi rồi xen lẫn
cách thể hiện chìm ẩn ở những góc khuất của tâm hồn nhưng tựu trung có thể nói Hàn Mặc Tử xem ánh trăng trong thơ như một thực thể của tạo hóa ban phát những ánh sáng lung linh, rồi đôi khi nhận ra sự huyền nhiệm lạ kỳ như
một thực thể có linh hồn. Dường như nghe đâu đây tiếng vọng của thời gian không
gian xen lẫn trong tiếng thổn thức nghẹn ngào của niềm đau vô tận qua từng
sự xoay vòng theo quỹ đạo của bóng trăng. Và với nhận thức từ sâu xa của hình
bóng, hình ảnh trăng mà thi nhân đã bày tỏ nổi niềm qua từng thời điểm xuất hiện
của trăng trên bầu trời đêm cao vut tiếng vọng thinh không để rồi đã hòa nhập
cùng: say trăng, giỡn trăng, ôm ấp trăng, lúc nhìn trăng nằm sóng soải....
Được hình tượng hóa
như một nổi niềm chơi vơi trong tình yêu trăng bỗng là thực thể gợi
cảm. Một cảm xúc bất chợt phô diển qua ngôn ngữ huyền hoặc nhưng lại dể dàng
khơi dậy dâng trào lai láng sự chờ đợi của tình yêu:
Trăng nằm sóng soải trên
cành liểu
Đợi gió đông về để lả lơi
Thấy, cảm nhận được sự mơn
trớn vuốt ve vô hình giữa trăng và gió một cách thi vị.
Và bất chợt một lúc nào đó
trăng lại trở thành là tinh cầu trong thái dương hệ như một hiển nhiên bình thường:
Ngả nghiêng đồi cao bọc
trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào
quang
Lúc siêu thực
Thuyền ai đậu bến sông trăng
đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Ánh trăng mỏng quá không che
nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô.
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô.
Đôi lúc trần tục với cái
nhìn ve vuốt, mơn trớn cả tạo vật. Cảm giác này được thi nhân thể hiện theo lối
ứng xử phương Đông vừa lộ liễu, vừa kín đáo:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng
tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy
khe.
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm
gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Rồi trong bất chợt đau
thương uất hận trước những khắc nghiệt tột cùng đến với mình. Thi sĩ đã
hoảng loạn nhận ra:
Gió rít tầng cao trăng ngã
ngữa
Vở tan trong vũng đọng vàng
khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mữa máu
ra
Cay đắng tột cùng
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Tự sự trong nỗi cô đơn dai dẵng
Trăng lạnh quá, ánh trăng
không sáng mấy
Cho nên chăn chiếu vẫn so le
Nhưng rồi nhận ra những tất
yếu của cuộc đời như một cõi tạm chỉ có nơi vĩnh hằng là miên viễn.Thơ ông càng
tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận, không còn chất gào thét điên cuồng
dữ dội:
Ta ném mình đi theo gió
trăng
Lòng ta tản khắp bốn phương trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi?
Lòng ta tản khắp bốn phương trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi?
Sẽ không thể giải thích được
đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn
và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa
tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử,
người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế,
cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế
giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường
trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà
thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc
đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc.
Và muốn đạt đến đỉnh của thể
hiện ước muốn vẫn còn đâu đó trong thơ của Hàn Mặc Tử vẫn còn chút vương vấn dọ
hệ lụy của nền thi ca cổ điển vào hậu bán thế kỷ 19 đầu thế kỷ thứ 20. Giả từ
những ý thơ nguyên thuỷ để theo gót chân nàng thơ thanh tân với những dòng thơ
trữ tình, lãng mạn:
Nhưng qua rồi những phút
giây tơ tưởng
Anh nhìn trăng lỏn lẻn đậu nhành cao
Phải giờ này đang lúc em chiêm bao
Chính giờ này anh đang yêu em thiệt
Em hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
Anh nhìn trăng lỏn lẻn đậu nhành cao
Phải giờ này đang lúc em chiêm bao
Chính giờ này anh đang yêu em thiệt
Em hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
Là sợi đường tơ dịu quá
trăng
Là bao nhiêu ngọc cũng chưa bằng
Là bao nhiêu ngọc cũng chưa bằng
Hay thực tế hơn
Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì khác nữa thảy đi qua
Cái gì khác nữa thảy đi qua
Thể hiện tình yêu
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong áng gió băn khoăn.
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong áng gió băn khoăn.
Mộng uyên ương đang khi tim
rào rạt
Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn giang
Nhưng uyên ương khi trăng sao bàng bạc
Biến mất rồi, anh thấy khói hương tan.
Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn giang
Nhưng uyên ương khi trăng sao bàng bạc
Biến mất rồi, anh thấy khói hương tan.
Để rồi vụn vỡ trong
đêm vắng lặng, không gian phủ đầy huyền hoặc ánh sáng đến liêu trai
Cả trời say nhuộm một màu
trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...
Sự mộng tưởng đến thăng hoa
khi nghĩ vế cái chết. Không đơn giản như thói thường của cuộc đời: Sinh, lão, bệnh
tử.
Xác ta sẽ hút bao nguồn
trăng loạn,
Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương,
Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng,
Để trên cao, hồn khỏi lộn màu sương.
Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương,
Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng,
Để trên cao, hồn khỏi lộn màu sương.
Thoát xác hoà nhập với vũ trụ
Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiển đưa ta tới nguyệt
thiềm
Viết thêm chuyện bên lề:
Ngày làm công nhân đường sắt
trên đèo Hải Vân, nhiều lần lũ chúng tôi kéo nhau men theo con đường mòn từ sườn
núi xuống khu làng của những người bị bệnh phong là Hoà Vân nằm sát biển. Tận mắt
thấy những mảnh đời khổ đau vì căn bệnh hàng đầu của Tứ chứng nan y.
Sau này khi không còn làm đường
sắt và nhiều lần thất bại trong mưu tìm một chuyến đi xa.Trắng tay! Tôi xin làm
chân phụ xe khách tuyến Đà Nẵng Quy Nhơn để kiếm sống. Trong tình cờ tôi quen một
người Đà Nẵng đang là kỹ thuật viên X.quang tại Bệnh viện Đa khoa Qui Hoà. Và
tôi có dịp đến thăm khu trị bệnh phong này.
Ngày xưa do nhận thức không
mấy thiện cảm và lánh xa những người mắc bệnh phong, nên chính quyền thường
lập ra khu tập trung những người mang căn bệnh này nhằm cách ly với
xã hội. Qui Hoà cũng như Hoà Vân đều nằm cách biệt với thế giới bên ngoài
và đi lại khó khăn cho những ai muốn đến.
Muốn đến Qui Hoà phải vượt
con dốc dài qua gềnh Ráng có tên là Mộng Cầm. Trong một lần đi thăm này
tôi được dẫn đi viếng mộ Hàn Mặc Tử. Ngôi mộ nằm ở lưng chừng sườn núi nhìn ra
biển. Từ mộ Hàn Mặc Tử nhìn bao quát cả thung lũng có khu làng của những người
bệnh phong Qui Hoà. Những đêm trăng sáng, thung lũng lung linh ngời sáng cùng
bãi cát trắng trải dài bên cạnh rừng dương liểu. Thánh thót vang lên tiếng
dương cầm của các soeur từ ngôi nhà thờ nhỏ nằm ẩn trong hàng cây dương liểu.
Trăng nằm sóng xoải trên
cành liễu
Đợi gió đông về để lã lơi.
Ngày nay, đến viếng mộ Hàn Mặc
Tử dể dàng hơn nhiều. Từ khi có con đường tránh qua đèo Cả nối Quy Nhơn với
Sông Cầu, Phú Yên. Một con đường tương đối thuận tiện cho đi lại dẫn xuống khu
trị phong Qui Hoà, du khách dễ dàng viếng mộ Hàn Mặc Tử giờ đã được trùng tu.
lequangtho
lequangtho
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét