Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Đoạn trường vô thanh

Đoạn trường vô thanh
Mục lục
I. Xưa là giọt lệ
II. Sớm tếch bến hồng

III. Ruổi rong nhật nguyệt

IV. Bông chờ bên sông

V. So dây sóng gợn

VI. Vương mấy tơ đồng

VII. Trăm năm sương nổi
VIII. Tẩy nước cành dương
IX. Năm cung trường lệ
X. Hộp gỗ trầm hương
XI. Những đêm tàn rượu
XII. Dậy sóng Tiền Đường
XIII. Ngỡ ngàng bọt nước
XIV. Hòa tan dặm trường
XV. Ào ào ngọn gió
XVI. Ai để hoa dung
XVII. Lòng như khối ngọc
XVIII. Khói mờ ngoài sông
XIX. Nàng rằng suối chảy
XX. Chải tóc thu phong
XXI. Tơ thiêng nhập hoá
XXII. Mây thu cuộn vàng
XXIII. Bao năm tơ tưởng
XXIV. Lắng tiếng chim vang
XXV. Kiều ngồi ven suối
XXVI. Báo ngày xuân quang
XXVII. Tìm động hoa vàng

Đoạn trường vô thanh của Phạm Thiên Thư được coi là tập truyện Hậu truyện Kiều công phu nhất cho đến nay, tác phẩm được ra mắt vào năm 1969, bao gồm 3.290 câu lục bát, và đã được giải thưởng văn học toàn quốc (miền Nam Việt Nam) năm 1973.
I. Xưa là giọt lệ 
Đoạn trường
Sổ gói tên hoa
Xưa là giọt lệ nay là hạt châu 

Vô thanh như tiếng reo ca bát ngát của nhật nguyệt khiến giọt lệ Vương Thuý Kiều trở thành sợi mây hồng cất cánh vèo bay qua tài mệnh nhị tướng kết nên hạt minh châu viên xá lợi của bậc nguyện vào địa ngục là thái độ tịch nhiên sấm sét của người vác thập tự trong cuộc đoạn trường là vòm trời xanh biếc Việt tính khai mở sau thi hào Nguyễn Du chiếc cầu hư ảo khói sương đưa giả tướng ngôn ngữ rã rời trong một vài trống canh mua vui dưới ngọn Hồng Lĩnh trên ba ngàn dòng thơ cô đọng cỏ hoa sau ba mươi năm tơ tưởng Thúy Kiều và thưa: Những hạt lệ đã nổi cánh thiên hương.
25-7-1972 
Phạm Thiên Thư 
Nhuận sắc  Đoạn Trường Vô Thanh 
Một đêm nằm mơ, ở đất Tân Bình - gặp Người Đẹp tặng tấm gương soi và cây bút. Tỉnh dậy, mới biết ấp trang Vô Thanh trên ngực mà ngủ quên - Tự nghĩ mặt mày mỗi ngày còn phải rửa lại, huống chi là hư truyện đã viết cách nay trên hai mươi năm - đọc lại lắm chỗ chẳng được như lòng... Nên đêm nay, khêu đèn dầu hao, tựa mảnh trăng tròn hơn ngoài cửa, mượn Người Đẹp ngọn ý bút, nhuận sắc lại Vô Thanh, cốt để tự soi mình vậy - Nay thêm đôi dòng tạ tội.
21-4-1992 
Phạm Thiên Thư
Bức thứ nhất: 
(Giãi bày tâm thức,
Thúy Kiều sau cuộc đoạn trường)
Lòng như bát ngát mây xanh
Thân như sương tụ trên cành Đông mai
Cuộc đời - chớp loé, mưa bay
Càng đi, càng thấy dặm dài nỗi không
Thân Tâm Bệnh - nghiệp trần hồng
Lênh đênh trầm nguyệt, bềnh bồng phù vân
Giam trong Tài, Mệnh, Giả, Chân
Trăm năm hồ dễ một lần bay cao
Đau lòng chuốt tiếng đàn nao
Năm cung nước chảy lại chao phận mình (10)
Đời Kiều trải mấy nhục vinh
Ngã, Nhân đã vượt, thế tình đã qua
Đoạn Trường sổ gói tên Hoa
Xưa là Giọt Lệ - nay là Hạt Châu
II. Sớm tếch bến hồng 
Bức thứ hai:
(Thực chất tình yêu Kim, Kiều)
Đền nhau tơ tóc duyên đầu
Ba năm – trăng dãi hoa dầu thế thôi
Ý người – sóng nổi, mây trôi
Chốn xa tìm đến, đến rồi - lại đi
Hiên Thu lần lữa cầm kỳ
Chén quỳnh lạnh rượu, câu thi biếng vần (20)
Trước còn nể nguyệt ươm Xuân
Lần hồi lối cũ sương ngần hạt sa
Kể từ hương lửa một nhà
Phôi pha - thì nhớ, đậm đà - thì quên
Kiều xưa như suối qua triền
Rêu khô lệ đợi, trăng phiền dáng theo
Ngựa dong, phố sớm, thôn chiều
Lang thang vó rụng, tiêu điều bụi bay
Chàng Kim dường tỉnh dường say
Mây xuôi nhớ tóc, hoa lay nhớ người (30)
Mười lăm năm lại đơm tươi
Duyên may, bọt sóng chim trời gặp nhau
Lan xưa in đáy dòng sầu
Trách chi con suối nhạt màu thời gian
Trăng nao man mác tơ đàn
Chừ nghe hờ hững đôi làn khói bay
Lò trầm ai chửa ngừng tay
Mà sao hơi lạnh như ngày mưa thưa
Vui giờ nuối cái buồn xưa
Chút gì để nhớ, để chờ, để không... (40)
Tưởng đàn nối nhịp tơ đồng
Thuyền trăng sớm tếch bến hồng bay lên
Chơi vơi trong cõi diệu huyền
Đời Kiều dệt một trường thiên tuyệt vời
III. Ruổi rong nhật nguyệt 
Bức thứ ba:
(Vẽ cuộc du sơn, Kiều nhìn đôi hài của mình,
ngộ ra mọi cuộc tìm kiếm bi đát của kiếp người)
Nửa Thu nhân tiết đẹp trời
Non nghiêng - bút dựng, mây dời - mực sa
Thênh thang cáng gấm, tàn hoa
Chàng Kim ngựa trước, áo nhoà sắc cây
Một nhà lên núi xem mây
Rèm thưa hoa động, dấu giày sương đơm (50)
Kiệu dừng bãi núi cỏ thơm
Lên cao mới biết là đường quanh co
Giải sông xanh vẳng câu hò
Lau vàng thấp thoáng cánh cò về trưa
Bà Vương chỉ áng mây đưa:
Chân trời mờ mịt, quê xưa chốn nào
Cuối thu hẳn chớm bông đào
Vườn ta – ai biết giờ vào tay ai
Thân già như hạt sương mai
Cố thôn liệu có còn vài đêm huyên (60)
Vân thưa: Trăm nhớ ngàn phiền
Nhắc chi chuyện cũ, hồ quên bấy ngày
Kim rằng: Sương nổi hoa lay
Cố hương tưởng gợn gió may rùng mình
Lời xưa "Đất dưỡng, trời sinh"
Không ơn ngô lúa, cũng tình trầu cau
Kiều nghe, môi điểm khoé sầu
Vời trông cái nhạn về đâu tít mù
Rừng vàng hiu hắt hơi Thu
Ngàn hoa vẳng tiếng chim gù thiết tha (70)
Đầu sông dằng dặc sóng xa
Chèo ai nhẹ lướt la đà khói giăng
Tay Kiều rẽ lối sương băng
Mắt nàng ẩn nửa viền trăng dõi buồn
Đá triền tựa ngó mây tuôn
Bông may cỏ úa nẻo buồn hắt hiu
Lưng non nhàn nhạt nắng chiều
Trông hài mình - nhớ bao nhiêu dặm trường
Tưởng Từ - yên ngựa thanh gươm
Ruổi rong nhật nguyệt, bốn phương là nhà (80)
Tưởng mình - thưở lỡ chân sa
Cành nghiêng, suối nhận kiếp hoa lạc loài
Kim thì lẽo đẽo thiên nhai
Mây bay gió thoảng, dấu ai mà tìm
Mịt mờ cồn cát chân chim
Lòng riêng hỏi mảnh trăng im cuối đường
Rã rời bao dấu hài vương
Gặp chi trong cuộc vô thường mà mong
Cõi sầu sao rộng mênh mông
Tìm đâu một chốn bụi hồng dung thân (90)
Chợt nghe tiếng trẻ trong ngần
Trông lên Tiểu Nguyện đang lần bước hoa: (° )
Con tìm bá mẫu gần xa
Bây giờ mới biết mẹ qua chốn này
Kiều vời, bảo: Nguyện ngồi đây
Con ơi! Thử nắm bóng mây xem nào
Trẻ reo: mẹ bắt được sao?
Nàng cười, ôm Nguyện nghiêng vào vòng tay
Chẳng ai bắt được mây bay
Đêm đêm lơ lửng, ngày ngày lang thang (100)
Khác chi cánh bướm nhuỵ vàng
Tìm bay vơ vẩn dưới tàng hoa thơm
Thôn xa giải khói nhoà hơn
Tà dương thẫm mảnh thâm sơn cuối trời
Thoảng đưa tiếng gọi tiếng mời
A hoàn tìm đến, mở lời cung nghinh
Bẩm thưa: Quan sắp đăng trình
Thỉnh bà lên kiệu, về dinh kịp đoàn
Sông Thu uốn lọn tơ vàng
Bèo xuôi biêng biếc, sóng vang dập dìu (110)
Chim di xao xác đường chiều
Dường tha lác đác ít nhiều hạt sương
Non nghiêng vách tía trời hường
Sau lưng cửa núi mây vương mịt mờ
IV. Bông chờ bên sông 
Bức thứ tư:
(Kiều ngồi tựa hiên trăng mơ thấy
bay lên như cánh hạc trời
trong âm đàn chưa dứt tắt của lòng nàng).
Kiều ngồi ngó mảnh trăng tơ
Chùm sao Thu nở bông chờ bên sông
Mênh mang dặm biếc cồn hồng
Cúc tươi cánh nguyệt, liễu lồng tơ mây
Phòng Thu trầm biếng hương gây
Vườn trăng thêu nhạt dấu hài lối hoa (120)
Côn trùng ri rả âm ba
Gió đêm lãng đãng mưa ngà tơ phơi
Dường trong hiu hắt Thu hơi
Thôn sương chầy nguyệt cũng lơi nhịp sầu
Đò đưa ai hát qua cầu
Tiếng ca cùng nước sông mau lạnh lùng
Lầu mai từ thưở tơ chùng
Tay lan khép gió, năm cung bụi dày
Đêm đêm nhớ ngón tơ này
Đã từng đưa lá thuyền say sóng nhồi (130)
Mà lòng âm hưởng chưa thôi
Những khi quạnh quẽ - bồi hồi sóng thiêng
Cây dài bóng xế nghiêng nghiêng
Kiều ngồi xoã tóc trên thềm hương đưa
Có trăng chia sẻ đời thừa
Tình riêng - trăng tỏ bây giờ không trăng
Nào đêm lối đẫm vườn băng
Nào lầu khoá nguyệt giam hằng, thở than
Nào Từ cưỡi gió quan san
Mảnh trăng tri kỷ chưa tàn lòng nhau (140)
Từ ngày nguyền bỏ tơ đau
Trăng cài liễu tưởng - phím sầu quạnh thêm
Kiều đang chìm lắng nỗi niềm
Dế im tiếng gọi - Kim thềm dáng ai
Áo nào nguyệt giải sương phai
Ngập ngừng bên giậu, hoa cài gió quanh
Vườn sao lại rẽ hài xanh
Riêng thềm tựa mộng, thiếp cành hoa xinh
Gió đưa phảng phất hương quỳnh
Ướp con bướm mộng vô tình lại đây (150)
Trăng vàng chênh mái hiên Tây
Khoé tiên dìu dịu, bóng cây vật vờ
Duới hoa thấp thoáng giọt tơ
Ánh sao le lói vương bờ tóc bay
Mi Kiều rũ nét lan say
Thiếp đi mộng thực phương này là đâu
Lên non mây trắng lợp đầu
Vờn bay theo ngọn cờ lau xạc xào
Hai bên thắm lý tươi đào
Kiều như cánh hạc bay vào phù vân (160)
Cỏ vàng lấp mấy dòng chân
Sáo tiên hoà với, đàn thần du dương
Bỗng dưng biêng biếc non suơng
Thành cây cầu lửng mây vương mịt mờ
Trước sau chẳng bến chẳng bờ
Bước chân theo tiếng trúc tơ dặt dìu
Bâng khuâng trăm nỗi lòng Kiều
Như dòng thơ nhẹ phiêu diêu ngang trời
Chừng đâu sương cuộn mây dời
Chừng đâu hạc ruổi hoa rơi mấy từng (170)
Lênh đênh lả cánh lan rừng
Nửa đêm chợt tỉnh ngó vừng trăng nghiêng
Lòng Kiều mang mác nỗi riêng
Nào hay thoáng mộng ứng điềm chi đây
Chân rời hiên nguyệt mái Tây
Lò trầm khơi lửa bao ngày than trơ
Lặng nhìn sợi khói ngẩn ngơ
Còn leo lên ngọn mây mờ nữa sao
Cây cầu lửng giữa trăng sao
Phải chăng - cửa ngõ đi vào huyền căn (180)
Tiếng tơ kết kén ôm tằm
Biết đâu hoá bướm - trăm năm một lần
Nhớ nàng ứng mộng đêm xuân
Giục nhau trả hết nợ nần bụi vuơng
Sông xanh giở sổ đoạn trường
Sóng đàn ơi, trả phím hường nổi trôi
Tưởng đâu xác dạt sóng nhồi
Hồn theo nước chảy bồi hồi tình xưa
Đâu ngờ cái số hạt mưa
Còn dài như một âm thừa chưa nguôi (190)
Tưởng cung nguyệt trổ hoa tươi
Nào hay mười ngón nước xuôi bẽ bàng
Từ đêm vắng bặt tơ đàn
Nợ nần ngày cũ chưa tan sợi nào
Mông Thu phơ phất hiên đào
Cầu mây còn bắc lối vào sông trăng
Lụa ngà thẫm lệ hoen khăn
Gà đâu tiếng gáy đã rần ngõ hoa
V. So dây sóng gợn 
Bức thứ năm:
(Kiều lại dùng đàn giải buồn, thì Kim Trọng
tới thăm kể về cái chết kiên cuờng của một
dư đảng Từ Hải với cây đàn đeo bên người)
Tơ chùng tưởng cuốn mưa sa
Hiên văn khép mở phên hoa khói trầm (200)
Bao năm vùi giữa cát lầm
Như cành sen trổ trong đầm hạ xanh
Giờ Kiều lại nối âm thanh
Thử đem sương gió tựu thành cung dây
Tiếng đàn rã liễu rời mây
Ngón tay dã hạc vờn bay dặt dìu
Hai hàng lau lách đìu hiu
Đồi phong lá gọi bóng chiều xác xao
Hạt đàn tấm tức nao nao
Suối tuôn mạch đá đau bào lòng non (210)
Lơ thơ hoa trải đường mòn
Bâng khuâng ráng đỏ theo con nhạn về
Năm cung da diết đê mê
Nắng hoen thềm phấn, mây kề song hương
Ngón cong - đàn trổ nụ hường
Ngón xuôi - tơ rụng, hoa vương mấy dòng
Bước đàn cao thấp long đong
Dư ba tóc biếc mơ mòng liễu xanh
Lòng nào thoảng khói mong manh
Lệ rơi ánh mắt tan tành sầu oan (220)
Lúc thì như điếng, như tan
Lúc thì phiêu lãng như làn trầm bay
Hoá thân vào mấy cung dây
Lửng lơ mây nhạc, vơi đầy dòng thơ
Chàng Kim giải mũ phất phơ
Khi chau ngàn liễu, khi chờ non trăng
Tiếng đàn im bặt dòng băng
Sân ngoài chàng mới xin rằng: Tự nhiên
Tóc vương tay nhuỵ băng nguyên
Khoé môi khép nép nửa viền mận tươi (230)
Kiều thưa: Mấy tiếng tơ lơi
Tưởng đâu dừng phím như lời nguyền xưa
Lòng riêng chưa tắt âm thừa
Chiều nay lại rũ tiếng mưa giang hà
Mải mê nào biết đâu là
Nhóm hương cung thỉnh lên nhà thưởng âm
Kim rằng: Thăm gác Mai Trầm
Dưới hoa tơ vẳng sương thầm hạt say
Mái Đông tìm ghé nơi này
Bên thềm nghe vẳng tơ bay dặt dìu (240)
Mà sao hiu hắt muôn chiều
So tơ xưa lại tiêu điều sầu hong
Hay ta đòi đoạn việc công
Chiều nay nghe thoáng nên lòng cảm ra
Xin nàng thêm khúc tài hoa
Thử xem thanh ứng có là khác hơn
Hương trà đôi chén khay sơn
So dây sóng gợn lòng đờn lại tươi
Hồn xanh xanh ngắt da trời

Hoa Thu não nuột rung mười ngón son (250)
Nửa cung ngơ ngác trăng non
Nửa cung nắng quái sông còn vàng phai
Chợt nghe Tiểu Nguyện reo ngoài:
"Đàn chi khiến nở thêm vài ngọn bông!"
Âm thừa gờn gợn mênh mông
Ngoài song thấp thoáng bóng hồng Thuý Vân
Cuối vườn cỏ úa, lui chân
Dắt con, chẳng dám cho gần dư ba
Dâng chàng thêm một tuần trà
Đèn khêu chênh mảnh gương ngà mái thơ (260)
Kiều thưa: Vụng rối cung tơ
Có buồn quân tử - xin nhờ lượng cao
Từ đây dù có thế nào
Tiếng đàn lại để rơi vào nguôi quên
Kim ngăn: Điều ấy chẳng nên
Vì ta bao mối ưu phiền đảm đương
Sáng nay ngồi trực công đường
Trọng hình xử phạt những phường bất nhân
Từ khi đất nổi sóng thần
Hiển dương thánh đức yên quân bạo tàn (270)
Bốn phương thành vững dân an
Giặc xưa lòng núi đáy hang ẩn mình
Như sương tan dưới bình minh
Trừ gian cứ việc gia hình thẳng tay
Huyện đường buổi sáng hôm nay
Loạn quân có một tên này - vì đâu
Trơ trơ lưng thẳng – nghênh đầu
"Rằng: Tà, Chính - để mai sau sẽ bàn!"
Sau lưng đeo một cây đàn
Dường như kỷ vật còn mang bên người (280)
Nói rồi, miệng ứa máu tươi
Mắt trừng uất khí, gã cười như điên
Khiến người nghe rợn ốc lên
Cười xong thì xác đổ liền - Kiên trung
Rõ là cái chết anh hùng
Khiến lòng ta mãi vô cùng xót xa
Kiều nghe rời rã tay hoa
Rưng rưng đặt chiếc tỳ bà cảm thương
Nàng thưa: Quả chuyện lạ thường
Khác chi da ngưa sa trường bọc thây (290)
Những trang nghĩa sĩ xưa nay
Ngại gì sinh tử chuyển xoay bụi hồng
Rượu thề bát máu pha chung
Thì trăm năm nguyện tấm lòng trăng soi
Đàn kia xin được lần coi
Dám nhờ quân tử cho đòi đưa sang
Hẳn nơi động biếc lau vàng
Tơ đàn ai đó còn vang vọng lời
Gật đầu, chuyện dễ như chơi
Nữa đây ta sẽ sai người đem dâng (300)
Chuông sương ngân vẳng mấy tầng
Gió lay dầu dãi một vầng hoa hương
Tiễn chàng cỏ lục vườn sương
Sao bay dòng tóc, lá vương dấu hài
VI. Vương mấy tơ đồng 
Bức thứ sáu:
(Kiều mươn cây đàn xem - thì chính là cây đàn của
Từ Hải - còn mang dấu khắc bài thơ cảm tác của nàng,
nhân một đêm nghe tâm sự của Từ về cây đàn
của Trần Nguyện Mai - người yêu đã khuất của chàng
ở đất Châu Phong (Việt Nam) - và qua cây đàn này,
Từ Hải cũng được một Thiền sư dạy lẽ Vô Thanh)
Đèn khêu, cửa khép, ai hoài
Trầm thơm lò cũ, vắn dài hàng ngân
Đàn ơi! Tiếp tục tầm Xuân
Ngờ đâu có lúc quây quần ánh trăng
Còn dây tơ buốt lòng băng
Tìm đâu một cánh chim bằng đã qua (310)
Còn đây gỗ bạc trục ngà
Theo ai sương sớm giang hà những xưa
Còn dây xào xạc cung mưa
Đàn ơi kim cổ không bờ cách ngăn
Một chùm sao biếc hiên văn
Theo tay nhật nguyệt Kiều lăn hạt sầu
Thơ nàng - Từ khắc đôi câu
Bây giờ dấu kiếm còn sâu bụi làn
Nhớ người yên gió quan san
Vó tung chuyển đất, tiếng ran lệch trời (320)
Một hôm mắt nộ khí ngời
Ầm rung giọng sấm tột vời chí cao
Giận phường ô lại cường hào
Đùng đùng bão nổi, ào ào mây đi
Thanh gươm mở rộng biên thuỳ
Yên dân riêng cõi, triều nghi rỡ ràng
Cờ mây rợp, mặt trời vàng
Sao rung kiếm động, rừng vang hịch truyền
Rộng cho hoa cỏ truân chuyên
Quân cơ trướng gấm đòi phiên dự phần (330)
Nhớ đêm tạm gác việc quân
Nhìn cây đàn cũ, hỏi dần duyên do
Tơ chùng, trục bụi không so
Gỗ phai màu nắng - dậy cho lẽ nào
Dù trong muôn trận guơm đao
Đàn theo yên ngựa, ra vào như không?
Có chi vương mấy tơ đồng
Gửi cây đàn cũ - lòng mong đáp đền
Từ rằng: Hận chửa nguôi quên
Tấm thân còn đó, lời nguyền sao tan (340)
Vời trông đất cũ mây ngàn
Người xưa gửi nắm xương tàn khe sâu
Anh linh hoà ánh tinh cầu
Chừng nghe cây cỏ phai màu ngoài song
Ta từ quê cũ Châu Phong
Nếp nhà thư kiếm, Lạc Long dõi nguồn
Xuân xanh mười tám triêu dương
Thánh hiền chí vững, cung gươm tài lừng
Sơn hà - một đẫy sau lưng
Quyết thanh nội loạn, quyết trừng ngoại xâm (350)
Lửa hờn rèn chí nung tâm
Anh em tìm chốn sơn lâm dựa mình
Cõi biên vùng vẫy thân kình
Cờ toan mở gió triều đình một phương
Luỹ đồn rải rác non sương
Chiêu binh nghĩa dũng, liệu đường tiến quân
Duyên trời gặp một giai nhân
Cũng dòng thanh khí là Trần Nguyện Mai
Chí nàng toan mở cõi ngoài
Đèn chong gối sách, gươm mài ánh sao (360)
Dặm hồng vó bụi tung cao
Tóc xanh mây hạ, má đào hoa ban
Nặng vì Dân, Nước - lo toan
Lược Thao cùng với Thơ, Đàn sánh đôi
Khi ngày điều trận ven đồi
Khi đêm xướng hoạ, bồi hồi cầm thanh
Hai ta mở cõi dựng thành
Lòng người những muốn, trời xanh chẳng chiều
Một phen binh giáp tiêu điều
Vó bay theo vó, ngựa liều dặm băng (370)
Giặc như lớp lớp mây giăng
Phá tan đồn trại, san bằng luỹ tre
Gươm vung - sấm giựt, chớp loè
Hết xuyên bão nổi, lại đè sóng cao
Song song gái kiệt trai hào
Rừng gươm tên gió ra vào hai ta
Mở đường máu quyết thoát ra
Gió tan, hẹn dấy phong ba lại ngày
Vó tung vượt mấy trùng vây
Máu loang chân ngựa, non thây chật đồng (380)
Cánh chim chưa thoát khỏi lồng

Ngại ta chia trí, bận lòng ái ân
Trao đàn lại, giữa vòng quân
Vực sâu gieo nhẹ tấm thân tự tồn
Sói lang còn ngẩn ngơ hồn
Xuyên mây tiếng thét dập dồn giặc lui
Dựng bờm ngựa cũng bừng vui
Ầm ầm gió lớn cuộn vùi cỏ khô
Núi giàn thế hiểm lô xô
Một thân ngựa đạp trận đồ mà ra (390)
Yên dừng biên giới ngã ba
Thanh gươm bốn biển không nhà - về đâu
Năm ngàn nghĩa sĩ lạc nhau
Tình duyên thoảng đã qua cầu gió bay
Bốn phương biêng biếc ngàn mây
Dường như thừa một thân này chẳng dung
Nửa toan trở kiếm tranh hùng
Nửa toan tìm chốn núi rừng tụ quân
Cây đàn trên ngựa - phân vân
Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn (400)
Tiếng chi thác đổ mây vờn
Chừng nghe kiếm gãy xanh rờn lửa reo
Tiếng chi suối le tuôn theo
Chừng nghe sương tụ, gió heo hút trời
Chợt lưng non hiện bóng người
Tay nương Thiền trượng, tới nơi, giật mình
Thương nàng vì nước hy sinh
Ta đang thiếp mệt, tâm tình nát tan
Nhà sư cất tiếng hỏi han:
Ai kia ôm mối đoạn tràng đi đâu (410)
Vừa nghe như tỉnh lòng sầu
Xuống yên thi lễ, cúi đầu tỏ thưa
Thiền sư cười đáp: Ta chờ
Đã lâu, mới vẳng một tơ não nùng
Khác gì trống nổi trăng rung
Khác gì nhỏ lệ anh hùng dưới sao
Chí người như cánh chim cao
Lạ thay! Lòng lại giam vào hữu thanh
Cuộc đời - sương thoảng, mây nhanh
Có Không - hạt móc đầu cành nhẹ rơi (420)
Bao nhiêu đương thức loài người
Che đi nguyên tánh toả ngời tự thân
Muốn xoay chuyển lại cuộc trần
Phải đồng sức mạnh toàn dân vẫy vùng
Tay kia chẳng lướt năm cung
Cho dâu biển trổ muôn trùng trái hoa
Diệu hành - là tiếng Không Ta
Không thanh âm ấy mới là âm thanh
Dậy rồi, vóc hạc bay nhanh
Viền trăng vô tướng đầu cành trượng treo (430)
Lòng ta gió bão tan theo
Mây hồng phất phới trên đèo hào quang
Yên sương buộc chặt cây đàn
Hai mươi năm lẻ chưa tan lời nào
Tiếng thầm giục cánh chim cao
Ngựa phai sắc gió, chiến bào nhạt mây
Cây đàn - nàng mới hỏi đây
Là di chúc, lẫn lời Thầy - còn vương
Mốt mai ta bỏ sa trường
Sẽ đưa Kiều lại cố hương lần hồi (440)
Bên dòng suối ngắm hoa trôi
Cất gian lều nhỏ lưng đồi cỏ may
Xuống đồng tát cá, bới khoai
Vào non bẫy thú, nằm dài nghe chim
Anh em nhớ đến nhau tìm
Qua nương trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cuời khàn
Vuốt râu, viết sách, hưởng nhàn
Then mây khoá một niết bàn bên khe (450)
Mai sau viễn khách nào nghe
Tìm thăm hang đá hỏi bè mây xanh
Như Người phá giặc tan tành
Vó mây Phù Đổng, công danh bọt bèo
Vươn vai như biển dâng triều
Đường về chỉ thấy sương chiều non giăng
Kiều thưa: Rõ tấm can tràng
Rồng thiêng ẩn cánh phượng hoàng bạt mây
Phận hoa dám tưởng đâu ngày
Song song đôi ngựa, cỏ cây tần ngần (460)
Non cao mới biết trăng gần
Đớn đau mới rõ dấu chân phi thường
Trò đời tranh bá đồ vương
Ngàn năm phơi trắng bãi xương lập loè
Lời than tiếng khóc còn nghe
Gầm trời đâu chẳng khói che mịt mù
Có chăng, goá phụ phòng thu
Mạch sầu ngâm kỹ tiếng ru truyền đời
Từ nghe mắt thẳm trùng khơi
Sương un chén ngọc, tay ngời ánh trăng (470)
Nhìn cây đàn lạnh tơ băng
Tóc bay mờ nhạt, sông Hằng sao thưa
Cảm trong nữ tướng rừng xưa
Tay Kiều hạ mấy dòng thơ lệ tràn
Từ đem thích dưới thành đàn
Bây giờ dấu cũ trơ làn sương phai
Đêm nay Kiều lại u hoài
Lệ rơi đàn - bật dây ai não nùng
Tiếng nào heo hút âm cung
Ngoài song lãng đãng một vùng cỏ hoa (480)
Hiển linh trong gợn âm ba
Thành đàn cài nửa trăng tà nghiêng nghiêng
Vai Kiều óng giải mây huyền
Vuốt ve đâu gợn gió thiêng thoảng về
Sao trời - ngỡ cánh hoa lê
Dường như ánh mắt xưa kề mênh mông
Lại đêm trướng gấm trầm xông
Từ nghe trinh bạch nỗi lòng nghĩa binh
Hồ tổng đốc - Tướng triều đình
Bỏ phường ô lại, chiêu nghinh hiền tài (490)
Lại đem danh lợi chiêu bài
Lại đem tông tích "rợ ngoài" truyền rao
Còn đang vá giáp, mài đao
Binh cơ trễ nải, anh hào phân vân
Nửa vì đại nghĩa cố nhân
Nửa e ngoại chủng, có phần hiềm nghi
Thì thầm kẻ ở người đi
Giáo gươm lơ đễnh, quân kỳ ngả nghiêng
Lấy gì gióng trống thúc chiêng
Gài ta vào thế tư riêng rõ ràng (500)
Từ ngồi nung nấu tâm can
Tuỳ cơ liều phải trá hàng một phen
Chờ khi giáp mặt hai bên
Rút đao bắt tướng, thế lên mấy hồi
Chỉ còn ứng kế này thôi
Con tin khi nắm chắc rồi - sẽ hay
Bằng không - ngọt một đường bay
Dù xa trăm thước đao này trệch đâu
Rồi ta tuẫn tử qua cầu
Cơ đồ trả lại cho mầu cỏ non (510)
Được thua một trận cười ròn
Cái chi còn lại - hoạ còn văn chương
Tội Kiều trải lắm đau thương
Chẳng ơn xuân sắc lại chường gió Đông
Cha già mẹ yếu ngùi trông
Buồm đi cuối biển, bến mong sum vầy
Nghiêng nghiêng vò rượu nốc say
Chống gươm sáu thước, dựng mày cọp thiêng
Kiều thưa: Chàng có chi phiền
Phen này cho thiếp trận tiền được theo (520)
Mắt Từ như nửa trăng treo
Rằng nơi bãi chiến lắm chiều gian nguy
Việc quân - Kỳ, Chính còn tuỳ
Thân ta muôn trận đã lỳ kiếm cung
Ngại khi gươm giáo chập chùng
Đất bằng kia lỡ bỗng vung sóng cồn
Thôi! Nàng mắt khải hoàn môn
Ngồi pha trà đợi, vân bôn ngựa về
Qua sông chỉ ngọn kiếm thề

Không yên thế giặc không về qua sông (530)
Môi kia ai đậm cánh hồng
Lầu xuân chờ nở một bông hướng vời
Ta đi trong áng mây dời
Tung cờ vĩnh cửu chơi vơi lá sầu
Ngọn cờ ảo hoá thiên thâu
Cuối đường vĩnh tuyệt rầu rầu cỏ xanh
Lối ra - trống đổ tràng thành
Hoa Thu trổ ngát, tinh anh dấu về
Trái tim dũng sĩ không hề
Cần chi một tấm mộ bia dựng buồn (540)
Biết nhau - hạt lệ ngùi tuôn
Cũng là rửa sạch đoạn trường gió bay
Tử, Sinh - như áo đổi thay
Lửa thiêng trao những bàn tay - chẳng tàn
Rồi Từ - như ánh sao tan
Đêm nay loé giữa lòng đàn nao nao
Trăng nghiêng nhớ mắt xưa nào
Non xa còn khoác chiến bào nhạt sương
Thanh trầm khơi nổi dòng thương
Giàn Đông hoa đã ảnh hường sắc mây (550)
VII. Trăm năm sương nổi 
Bức thứ bảy:
(Kim Trọng tới thăm Kiều, chàng kể lại ác mộng của mình.
Kiều khuyên Kim dấn thân, làm việc nghĩa)
Ngựa Kim dừng vó mái Tây
Mũ xanh ngọc đính duới cây sương mờ
Ung dung áo lụa hài tơ
Tiểu đồng đôi trẻ hầu chờ ngoài hiên
Trà dâng chén ngát thuỷ tiên
Chàng ngồi tựa án ưu phiền mông lung
Rằng: Điềm chưa rõ cát hung
Mà nay dư cảm hãi hùng còn vương
Đêm qua mơ vượt non sương
Trên đầu lau lách bên sườn cỏ gai (560)
Chân chồn, móc đẫm hai vai
Càng lên đường lại càng dài - hướng lên
Khi ta vừa tới đỉnh trên
Khắp nhìn thiên hạ, bốn bên mấy người
Thì đâu, ngun ngút mù hơi
Núi kia hoá chiếc cầu ngời trăng thanh
Chân non - hoá khoảnh trời xanh
Đầu non - hoá vực đá, ghềnh hiểm nguy
Hai tay đất đá ôm ghì
Cầu treo lơ lửng - còn gì dưới sâu (570)
Đỉnh non lại hoá đầu cầu
Tưởng lên lại hoá lao đầu xuống khe
Mịt mù sương toả mây che
Rơi như ngọn cỏ, thét nghe hãi hùng
Tỉnh ra cảm sợ vô cùng
Chẳng hay mộng ứng cát hung lẽ nào
Vừa nghe Kim kể chiêm bao
Lòng Kiều như suối nao nao dồn về
Khác gì mộng thoảng đêm kia
Cũng cây cầu lững bốn bề trơ vơ (580)
Ta bay cùng tiếng trúc tơ
Chàng lên đỉnh ngọn ai ngờ - xuống sâu
Trăm năm là mấy nhịp cầu
Bước chân kiếm hỏi bể dâu ngậm lời
Tử sinh một cõi con người
Thấp, Cao, Thành, Bại - khóc cười dở dang
Buồn vui trong giấc mơ màng
Mấy ai thoát khỏi con đàng khói mây
Kiều thưa: Bèo dạt sóng vầy
Khuôn thiêng như mảnh trăng dầy lung linh (590)
Ý người dấy cuộc phù sinh
Cát, Hung cũng tự lòng mình thế thôi
Hẳn chàng nghị án hôm rồi
Đêm qua tấc dạ bồi hồi chưa an
Khiến trong ảo giác đêm tàn
Chiêm bao - thiếp sẽ nhờ bàn - dở hay
Bây giờ hoa cỏ chờ tay
Phúc nhân gieo một chút này làm duyên
Bốn phương sóng gió đã yên
Ban ân bố đức là quyền mẹ cha (600)
Móc mưa thấm đượm muôn nhà
Thánh hiền mở sách, quan nha dẹp hình
Lợi dân là vững triều đình
Từ bi trải rộng, yên bình mới xong
Kim rằng điều đó - hằng mong
Cửa quan thành chốn cửa Không đại từ
Nhưng đời - hai lẽ công tư
Lòng người ẩn hiện thực hư khó lường
Dưới trên đâu dễ một đường
Phép công cũng trọng, lòng thương cũng nhiều (610)
Khó sao tròn vẹn đôi điều
Làm quan như thể chơi diều gió to
Nào ai ai biết thương cho
Qua sông ai đã nhớ đò đưa sông
Cứ theo mực thước cửa công
Oán ân cũng lắm, mà lòng nào yên
Nhiều khi nhớ thú điền viên
Quân cờ giậu trúc, ưu phiền ngoài tai
Muốn đem treo ấn cửa cài
Căng buồm, biển rộng sông dài thênh thang (620)
Học đòi theo gã Từ quan
Bên chùa cởi áo chuộc nàng dưới hoa
Mái chèo lãng đãng yên ba
Thần Phù xoã tóc la đà rong chơi
Kiều thưa: Đạo khí tột vời
Trăm năm sương nổi mây dời là bao
Cho dù bổng trọng quyền cao
Tấm thân đâu chỉ ra vào quyền vinh
Có mình cũng thể quên mình
Cự tà hiển chính yên bình thế gian (630)
Giữ cho lòng được bình an
Huyện đường nào khác non nam ngủ dài
Xưa nay hào kiệt anh tài
Không sương gió - đã biết ai đá vàng
Cửa công dù được một chàng
Còn hơn để rặt những hàng bất nhân
Một lòng vì nước quên thân
Là quan chẳng trọng, là dân chẳng phiền
Kim rằng: tâm Phật lời Tiên
Tài nàng cai trị hẳn yên nước nhà (640)
Đã nghe ngựa hí hiên hoa
Vó rơi khiến hạt sương sa ửng hồng
Tiễn chàng ra chốn cửa công
Thềm lam tương kính đôi vòng tay cung

VIII. Tẩy nước cành dương ↑
Bức thứ tám:
(Kiều đi thăm am xưa - nơi Giác Duyên đã dựng lên
để nàng tu - am đã bị đốt, có người khắc trên tường
bức tranh hạc, y như giấc mộng hiên thu của nàng)
Kiều ngồi thêu đoá phù dung
Gió lay những tưởng trùng trùng sóng xanh
Con chim cẩm vũ trên cành
Gọi chi thêm lạnh mấy nhành mưa bay
Ngoài đồng hiu hắt bông may
Tàng mây ẩm đục vào ngày trôi mau (650)
Đường xa ngơ ngác cờ lau
Am xưa liệu có phai màu khói sương
Nhớ ngày tẩy nước cành dương
Cửa Không yên gởi phận sương dần dà
Sáng trông mái cỏ đầy hoa
Như bông tuyết rụng cánh sa hàng hàng
Ngừng tay nàng nhớ mang mang
Cành Thu ngó lá Thu vàng vèo rơi
Tàng lan như cất tay vời
Thầy đi quẩy đẫy mây trời về chưa (660)
Hay là tan tác gió mưa
Nền rêu cây trút lệ thưa hoa tường
Kiều truyền sửa kiệu lên đường
Hầu theo đôi trẻ, quả hương tráp đào
Sóng ùn khói trắng non cao
Bãi xa cỏ úa dâng trào nước sông
Tưởng chiều mắt lệ ngùi trông
Tưởng người cứu độ cánh hồng là may
Lênh đênh vẫn mặt sông này
Bè giăng lưới đón, thuyền vầy hoa đưa (670)
Thành đàn mười nhánh tay mưa
Ngày nay hoa trổ, ngày xưa lệ ngần
Núi rừng đâu rõ Thu Xuân
Cánh chim nào nhớ dấu chân cát buồn
Trách lòng tự đúc nên khuôn

Trách người chia những vai tuồng thấp cao
Vui buồn trong giấc chiêm bao
Rồi đem vọng tưởng khép vào tâm can
Nhớ Thầy Văn giảng Kim Cang
"Khổ đau mới biết con đàng khói mây (680)
Ngại gì người đó ta đây
Mùa Xuân cây cỏ sum vầy trăm hoa
Lênh đênh ngọn nước phù sa
Vượt lên, thể nhập đại hoà biển dâu
Lấy từ đâu, để về đâu
Chợ mây tan hợp bên cầu mấy phiên
Sao con lắm nỗi buồn phiền
Chẳng như suơng sớm trên triền non bay
Mặc ai tâm vọng nọ này
Ván cờ cao thấp chua cay gượng cuời" (690)
Còn đang hướng mắt xa vời
Núi xưa kiệu đã đến nơi hẹn lòng
Tiếng chim thoảng lọt rèm hồng
Sợi mưa bay ướp bềnh bồng hương lan
Trông ra tủi hận vô vàn
Am mây còn đống tro tàn nền trơ
Rừng chiều lau lách bơ vơ
Cây phơi cành lệ suơng mờ bao la
Lòng Kiều lắm nỗi xót xa
Trách mình quên mái hương xa bấy ngày (700)
Thầy đi biền biệt ngàn mây
Hỏi ai – hoa ngọn gió lay mấy nhành
Mưa xoi rêu nhạt thềm xanh
Cổng cao mối đắp, tường quanh chuột đùn
Rì rào, dế gọi, trùng dun
Vườn ngoài cỏ dại mấy lùm vươn cao
Sân rêu vương dấu hài nào
Không lâu hẳn có người vào đốt am
Nàng truyền mấy đứa a hoàn
Bệ xưa quét dọn, khói nhang lửa đèn (710)
Kiều đang thơ thẩn quanh thềm
Bỗng dưng thấy bức tường bên tạc hình
Khắc con tiên hạc uốn mình
Phiêu diêu hương nguyệt, lung linh vân đằng
Rêu mờ, bụi phủ, nhện giăng
Hạt mưa lấp lánh như hàng lệ rơi
Chừng nghe tấc dạ bồi hồi
Khác chi mộng thoảng đêm ngồi hiên Thu
Cầu treo sương khói âm u
Bước chân hạc nổi tít mù trăng sao (720)
Bây giờ trước bức tường nao
Vết hài nét hoạ thanh tao – cùng người
Cứ xem nét ẩn nét tươi
Chẳng từ đại chí, cũng nơi đạo trường
Vết hài còn đậm dấu suơng
Bức tranh rõ nét trên tường mới đây
Hay là Tam Hợp sư Thầy
Du phương để bức hoạ này nhủ ta
Ý ngài thức tỉnh trần sa
Quẩn quanh vọng tưởng vào ra ngại ngần (730)
Sân ngoài mưa đọng dấu chân
Tường trơ hạc cuốn phù vân rã rời
Giác Duyên thầy khuất phương trời
Mây ùn cửa núi, hoa rơi động ngoài
Non xưa am vẳng u hoài
Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông
Biết đâu đã xả bụi hồng
Hoá thân triền núi bãi sông nào chừng
Sợi mưa ngơ ngác rưng rưng
Hoa nghiêng lắng gió cây rừng vọng chim (740)
Trên sông đôi giải mây chìm
Nắng hoe tà áo tóc in dòng huyền
Kiệu phu chờ thỉnh ý trên
Thơ đề thoắt uốn tay tiên bốn dòng
Vai nghiêng vắt cạn lệ lòng
Tơ Thu cuộn thẫm một vòng tà dương
Nẻo về lối tím khe sương
Hoa chân núi, lệ ven đường cùng rơi
Thì thào khói sóng ùn hơi
Nhạn sa dấu cát, mây dời sắc non (750)
Đường dài thêm nỗi héo hon
Cội lan đỉnh biếc hương còn vuơng theo
IX. Năm cung trường lệ ↑
Bức thứ chín:
(Đêm Kiều ngồi đọc thơ – cây đàn cũ "Gươm đàn nửa gánh"
của Từ Hải - lại tự bật lên một tiếng não nùng)
Giàn Đông chênh mảnh gương treo
Ánh trăng pha hạt nến gieo lệ vàng
Lung linh bóng nhạt thành đàn
Kiều ngồi tựa án giở trang thơ sầu
Tay tiên lả cánh nhiệm màu
Mắt huyền thoáng hiện mấy câu suơng mờ
Ngàn năm mực đọng dòng thơ
Bút lan quyện gió trên tờ khói mây (760)
Hạc nào qua, dấu còn đây
Đường xưa chim để sầu này chan chan
Thơ tình cuộn sóng chưa tan
Hồn tình đáy chén bạch đàn đêm lên
Lệ tình rơi vỡ bóng thuyền
Chàng Trương – một khúc hát nguyền – tóc bay
Lửa tàn bóng lạnh lung lay
Tường Đông lại chợt vẳng dây não lòng
Cho sầu thêm võ hoa dong
Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng (770)
Đêm qua tơ tóc bàng hoàng
Bây giờ lại thoảng nốt đàn âm dương
Hoa xưa tàn gió sa truờng
Chút hương trinh bạch còn vương vấn hoài
Bao năm theo ngựa lạc loài
Năm cung trường lệ gởi ai anh hùng
Rồng thiêng một thưở vẫy vùng
Nghiệp riêng đã dứt, thù chung đã đền
Vị gì nấc tiếng tơ lên
Trong hơi gió vuốt rùng trên tỳ bà (780)
Chén quỳnh trăng ẩn bóng hoa
Bóng gieo xuống bức rèm là như mưa
X. Hộp gỗ trầm hương ↑
Bức thứ mười:
(Kiều nằm võng, đọc Thơ Kinh, khi vừa nhập diệu,
thì cây đàn "Trần Nguyện Mai" cũng tự vỡ tan – Kiều truyền chôn đàn theo bên mộ nghĩa sĩ – Trồng lên nóc mộ đàn cây đông mai)
Trời cao xanh hạt suơng thưa
Tổ rơm gió động chim đưa giọng tình
Bãi thu nhuộm khói bình minh
Cò bay trắng lẫn bồng bình mây xa
Kiều nằm soãi dưới giàn hoa
Đu đưa nhịp võng tóc sa dòng huyền
Xanh từ thảm cỏ xanh lên
Hương từ gió lại, hương trên lụa hồng (790)
Áo nàng tuyết điểm nhành bông
Giếng huyền nét mắt, sen hồng viền tai
Thơ Kinh thầm đọc sớm mai
Chữ trong giấy quý, chữ ngoài chân chim
Ý từ mây thấm vào tim
Lời ra sỏi đá cũng im lặng mừng
Dường trong tâm não tưng bừng
Ý thơ cất cánh chim rừng hồ giang
Làm cầu đưa trái tim sang
Bờ kia – một đoá sen vàng chơi vơi (800)
Võng như đưa tới ngọn trời
Mở tung giả ngã lắng lời thiên nhiên
Tay mười ngón muốt tơ tiên
Cầm cong nhật nguyệt – hai miền mông lung
Thêm huyền hoặc vẻ thu dung
Bông hoa trong cõi vô cùng lại tươi
Bâng khuâng Kiều hé môi cười
Chợt nghe vách nắng rụng rời tiếng ngân
Nghiêng mình dáng liễu dời chân
Mái Đông ghé lại, xem gần, mới hay (810)
Cây đàn Từ - đứt tơ dây

Thành đàn rời rụng những này gió sương
Thấy từ thớ gỗ ám hương
Thoáng con nhện trắng tìm đường tơ leo
Mơ hồ ngựa chảy quân reo
Hoa man mác lệ, gió heo hút vàng
Kiều ôm đàn cũ sầu tàng
Gỗ cau mặt thấm đôi hàng lệ xanh
Tay nào bật khúc vô thanh
Cho hoa kia trắng một cành tin xuân (820)
Còn gì trong cõi phù vân
Đàn ơi! Chẳng để ai ngần lệ thêm
Bây giờ đàn lại lên yên
Liềm trăng thái cổ - đêm huyền ngựa mây
Tóc Kiều gió phất phơ lay
Môi chau nụ Hạ, mắt ngây giếng trời
Gỗ xưa một nắm rã rời
Hai tay ôm trọn lệ ngời chứa chan
Nàng quỳ nghiêng tượng hiên lam
Đàn tiêu mặt nhớ, lòng tan sợi buồn (830)
Khác gì mây trải mưa tuôn
Theo mưa mây cũng tan luôn bóng hình
Rồi Kiều gói nắm u tình
Cây đàn Từ - Nguyện còn hình gỗ trơ
Chôn ngày xưa với đàn xưa
Đoạn trường rơi lệ xin giờ thôi vương
Liệm vào hộp gỗ trầm hương
Chung quanh lót những hoa hường hoa mai
Lò hương – khói ngẩn ngơ dài
Mái Đông gió thoảng gieo vài lễ hoa (840)
Kiều truyền mấy đứa sai nha
Đem hòm đàn nọ, hỏi nhà quản lao
Nơi chôn dũng sĩ hôm nào
Bên mồ, kỷ vật đặt vào táng theo
Sườn đồi nắm đất cheo leo
Nhành bia tuế nguyệt sương neo mấy hàng
Lại truyền đánh gốc mai vàng
Trồng lên nóc mộ cây đàn Nguyện Mai
Tơ tình theo gió ngàn bay
Chờ xuân vàng cội hoa gầy hắt hiu (850)
XI. Những đêm tàn rượu ↑
Bức thứ mười một:
(Hồ Tôn Hiến thanh tra đất cũ, nhớ tiếng đàn Thuý Kiều.
Trong tiệc thơ, có nhà văn kể lại đời nàng.
Hồ ban tặng Kim Trọng cây đàn)
Kim về tựa án đăm chiêu
Chập chờn lửa múa, tiêu điều gió đưa
Vào Đông tiết giá mưa thưa
Cành trơ vàng rụng, đào vừa hồng khai
Huyện đường kể buổi sáng nay
Có Hồ Tổng đốc nhân ngày thanh tra
Đất bằng nhớ trận phong ba
Thác là ngựa cuốn, gió là cờ reo
Hồ cùng Từ Hải – một keo
Nắng ngời kiếm kích, mây neo lọng tàn (860)
Vài năm giặc giã tan hàng
Mưu cơ đôi kế, ngọc vàng dăm rương
Họ Từ - đối thủ phi thường
Nam bang trí dũng chẳng nhường một ai
Võ văn thao lược là tài
Đức dung hào kiệt, trí ngoài thần cơ
Nêu chính nghĩa, dựng màu cờ
Danh vang trung thổ, khí mờ đẩu tinh
Giá là rường cột triều đình
Bốn phương mở cõi, thái bình cậy tay (870)
Cứ xem người đó ta đây
Trời cao hơn hẳn đất dầy - chẳng sai
Xưa nay những bậc kỳ tài
Tử sanh là chuyện bên ngoài, luận chi
Tấn trò dâu biển qua đi
Nghĩa nhân mới để chút gì làm duyên
Mượn danh đãi sĩ chiêu hiền
Che quân mai phục giáo khiên sáng loà
Họ Từ thừa biết mưu ta
Vẫn vào đất chết như là rong chơi (880)
Vả chăng tuốt mũi gươm ngời
Hai bên kéo một cuộc chơi đến cùng
Dù cho trời đất chẳng dung
Hùm thiêng trong rọ vẫy vùng chưa thôi
Lại thêm thây chất nên đồi
Nát nhầu cỏ nội, tả tơi lá ngàn
Hẳn Từ chẳng vị giàu sang
Lồng son sao đáng phượng hoàng khép thân
Mà e gió dập mây vần
Thêm hồn vô tội dưới chân ngựa giày (890)
Một khi nát cỏ tàn cây
Đời Kiều ắt hẳn thêm đày đoạ mưa
Anh hùng nhi nữ nghìn xưa
Vướng nhau vì một đường tơ diệu vời
Những đêm tàn rượu chơi vơi
Trong ta chợt hiện bóng người hiên ngang
Mắt Từ - kiếm ảnh chưa tan
Khiến thân co lạnh trong làn khí thiêng
Nghĩ mình muôn trận cung tên
Việc quân trá thuật là quyền xưa nay (900)
Ngại gì máu nhuộm hồng tay
Thây oan chừng đã chất đầy đồng hoang
Tử sanh - là luật sa tràng
Giáo gươm là tín, trá gian là tài
Chiến tranh – chẳng khác canh bài
Mua vui trong cuộc trần ai nhọc nhằn
Chỉ vì chút lợi chút danh
Được thua đắp đỗi – tan tành tiếp nhau
Đã thành cái lệ biển dâu
Yếu thua, mạnh được – cao sâu đặt bày (910)
Trừ khi Thánh Chúa vần xoay
Yêu thương sự sống ngừng tay hận thù
Lòng không biển thẳm non mù
Hợp hoà cuộc thế thiên thu cậy nhờ
Còn như trí thuật nghìn xưa
Bày ra thêm những vực bờ tâm gian
Núi sông trải mãi xương tàn
Đổi thành mấy đấu lương quan triều đình
Cúi đầu lấy nhục làm vinh
Mắt mờ tai điếc, dân tình mặc ai (920)
Vật vờ áo mão cân đai
Vào trong khúm núm, ra ngoài vây vo
Tiếc cho thân cũng trong lò
Tỉnh thôi tóc đã màu tro ngả chiều
Hồn oan nào biết bao nhiêu
Lẫn hơi gió lạnh ít nhiều oán pha
Mắt Từ như lưỡi gươm loà
Đêm đêm vào mộng nhìn ta lạnh lùng
Trải qua muôn trận thư hùng
Khơi sông máu hận đổi chung rượu đầy (930)
Đã từng xé xác phanh thây
Xem như phạt cỏ chém cây là thường
Kể chi thiện ác thói thường
Chiến tranh là đến yêu thương nhiệm mầu
Mặc cho lũ quỷ không đầu
Dắt nhau lủi thủi qua cầu tử sinh
Từ hôm cái chết oanh linh
Trong tâm ám ảnh, bên tình không yên
Khiến ta u uất não phiền
Đêm đêm thao thức ngó viền trăng phai (940)
Bao giờ hoà hợp muôn loài
Bên trong thịnh đức, bên ngoài điều phương
Làm sao mở hết biên cương
Trần gian dựng một thiên đường chung vui
Cho hoa tươi góp ngàn tươi
Cho ta dâng nốt cuộc đời góp công
Qua đây nhớ tiếng tơ đồng
Ngày tàn binh lửa núi sông nhuộm cờ
Tay Kiều lướt mấy dòng tơ
Năm cung còn đến bây giờ vọng vang (950)
Sông Thương nào sóng mang mang
Tấm lòng nghĩa nước tình chàng chia đôi
An Tiêm nào nỗi bồi hồi
Hồn quê theo cánh diều trôi mây về
Bốn dây như điếng như tê
Nỉ non oán đọng, não nề sầu câm
Bây giờ vẫn thoảng dư âm
Tiếng đàn thanh lặng khóc thầm bấy nay
Tơ xưa rụng ở đất này
Ngọc xưa trầm dưới sông vầy lênh đênh (960)
Đoạn trường sóng dọi trăng thanh
Tưởng xiêm y đó còn xanh đến giờ
Bãi chiều hoa trắng đong đưa
Ngỡ tay người cũ phím tơ lạnh lùng
Giờ nhìn kỹ nữ so cung
Hồ ngồi tựa gối nhắp chung trà buồn
Sân mưa sùi sụt dòng tuôn
Dương như lệ tủi kiếp hường long đong
Cùng tân khách ngỏ hận lòng
Hồ tơ nay chạnh tiếng đồng tiệc quân (970)
Ngày xưa, của một giai nhân
Giết chồng, cứu nước muôn phần vẻ vang
Rồi thân giao xuống Tiền Đàng
Trăm năm vẹn nghĩa đá vàng sâu xa
Bấy giờ có một văn gia
Thưa rằng chuyện ấy tôi đà rõ hay
Giở trang tài mệnh xưa nay
Cùng hoen nước mắt, càng dày túc duyên
Dòng đời khi xuống khi lên

Cũng là thử thách cánh thuyền thiên hương (980)
Kể từ đất cũ họ Vương
Kiều, Vân phận gái riêng vườn ẩn hoa
Vương Quan, trai nối dòng nhà
Soi trăng đọc sách đậm đà kinh luân
Thuý Kiều vì hiếu quên thân
Duyên trời vừa hé nụ xuân vội tàn
Tưởng cùng Kim dệt phím loan
Trăm năm hoà một bản đàn rồng mây
Ai ngờ một sớm chia tay
Mảnh trăng, đất nọ đất này nhớ nhau (990)
Kẻ đi buồn trắng ngàn lau
Người về tay nhặt hoa cau lệ tràn
Vận nhà gặp chuyện trái oan
Vàng ba trăm lạng lễ quan mới thành
Chuộc cha, nàng phải bán thân
Dầu sôi lửa bỏng dám lần lữa đâu
Cậy em trả mối tình đầu
Hạt mưa liều phận, chôn câu nguyệt thề
Rơi vào tay họ Mã kia
Dầm sương dãi gió một xe bụi hồng (1000)
Cánh bèo ngơ ngác trên sông
Lầm nơi buôn hạnh, bán hồng mà trao
Phận Kiều chưa ngọt tay dao
Then sương đóng chặt hoa vào lầu xanh
Lại lầm thêm mẹo Sở Khanh
Miệng kêu chẳng thấu thôi đành phận câm
Đứt lòng nức tiếng ca ngâm
Rượu cười cợt khách lệ tầm tã riêng
Nàng cùng chàng Thúc vầy duyên
Tưởng qua dầu dãi lại thêm đoạ đày (1010)
Chước ghen vợ Thúc mới hay
Khiến mày mặt tủi – ngó mày mặt đau
Trái oan đành phận tôi hầu
Cá nằm đáy lưới lo rầu sớm hôm
Vượt tường ẩn chốn Thiền môn
Nhưng e thêm trận sóng cồn phong ba
Lần thêm Bạc Hạnh, Bạc Bà
Tưởng đâu mái ấm lại là lầu xanh
Thôi thì sen lấm bùn tanh
Gió mưa thêm nữa vầy cành thu mưa (1020)
Não nùng nguyệt đón sương đưa
Tình riêng còn ánh sao thưa cuối trời
Một hôm đất Việt có người
Nghênh ngang đàn kiếm tìm nơi chuộc nàng
Nửa năm duyên bén đá vàng
Họ Từ nổi máu hồ giang quen ngày
Đưa chồng ngựa nhạt yên mây
Phòng thu khép kín đêm ngày mênh mông
Người đi mù mịt non sông
Cho hoa quỳ võ một bông hướng chờ (1030)
Ngó sao, sao cũng hoen mờ
Hỏi trăng, trăng cũng lặng lờ tuyết băng
Nhện buồn thì giở tơ giăng
Người buồn khâu áo, biết rằng gửi ai
Gió phai màu lá hiên ngoài
Lệ phai sắc gối đêm dài bóng câm
Một hôm binh giáp ầm ầm
Từ về tráng khí hùng tâm chói loà
Trai hào kiệt, gái anh hoa
Một lời đã hẹn dẫu là trăm năm (1040)
Bao phen ngậm lệ kêu thầm
Nhục phơi mặt tái, sầu bầm dạ tuơng
Kiều đem - ân oán tỏ tường
Trả vay cho rõ lẽ thường quả nhân
Những phường buôn liễu vùi xuân
Đầu bêu cửa chợ xa gần hãi kinh
Thế rồi binh mã triều đình
Cọp beo là dũng, ngạc kình là oai
Tướng trời nổi trận gió bay
Rạng ơn thánh thượng, một ngày giặc tan (1050)
Thưởng công nàng với thổ quan
Lênh đênh chèo quế, sóng lam dặt dìu
Lòng ai tan tác muôn chiều
Tiền Đường nước bạc gieo liều phù dung
Chìm vào con nước - năm cung
Cho đàn hoá sóng não nùng lòng ai
Tiền căn chưa dứt thiên tài
Cành vàng lại vướng mẻ chài thiện duyên
Từ đây khoác áo hương thiền
Nước dương tẩy oán tan phiền từ đây (1060)
Mệnh đàn tưởng cuốn tơ dây
Cửa Không chôn chặt những ngày xa xưa
Cuộc đời lắm nỗi tình cờ
Khi trông không lại, chẳng chờ thì qua
Từ Kim quẩy sách về nhà
Chịu tang đất cũ, nhớ hoa đất người
Nửa năm của lệch gió cười
Hong đèn – sợ bóng, trông vời – tiếc trăng
Đoạn tang vội vã vân đằng
Lòng thu dặm bụi, ngựa băng nội dài (1070)
Liễu xa những tưởng sầu ai
Áo bay ráng đỏ, tóc gài mây xanh
Đàn còn đợi ngẩn ngơ thanh
Hiên văn sẽ lại nguyên vành trăng hương
Một chiều giậu cũ dừng cương
Bưởi phơi nụ lệ bên đường lất lây
Hỏi nhà Vương - đã rời đây
Hỏi nàng, đã đáp xe mây vân trình
Hỏi tình, tình đã quên tình
Vườn đào xanh cũ tưởng hình trâm rơi (1080)
Tường xưa, mòn lệ trông vời
Hoa xưa dột não lời thề hoa
Buồng trầm xưa vẳng âm ba
Còn rau sam, ấy nắng tà, vàng trơ
Tỉ tê dế gọi trăng mờ
Mấy tàu lá chuối xạc xờ gió lay
Chàng Kim dõi đó tìm đây
Sào phơi còn giải lụa dày dạn mưa
Quẩn quanh nhặt chút hương thừa
Chiếc hồn ma dại vật vờ thềm hoang (1090)
Hỏi người tìm đến cuối làng
Nhà Vương ẩn mái tranh tàn cột xiêu
Hàn huyên nhắc lại chuyện Kiều
Chứa chan khoé lệ, tiêu điều mày chau
Tưởng nàng xa biệt ngàn dâu
Bâng khuâng tóc biếc, giãi dầu mặt hương
Tưởng hoa ngậm lệ canh trường
Hồn theo cánh đóm tha phương lập loè
Chừng đâu trong mảnh trăng kia
Cùng soi hai mặt, cùng nghe lạnh lùng (1100)
Trăng chung mà gối chẳng chung
Lệ rơi lấp lánh một vùng ánh trăng
Ước gì hoá được mây giăng
Tìm nhau khắp chốn dẫu rằng tàn hơi
Ước chi hoá hạt sương ngời
Thiết tha đậu xuống tóc nguời miên man
Cứ theo ước nguyện của nàng
Thuý Vân sẽ kết cùng chàng mối duyên
Vương, Kim khuya sớm bút nghiên
Bảng treo nhành quế tên điền rõ hai (1110)
Bõ công kinh sách miệt mài
Việc quan gánh vác, trong ngoài hiển vinh
Lòng càng khơi ngọn lửa tình
Trơ vơ trăng dõi, lung linh đèn sầu
Chàng Kim dong ngựa tìm châu
Bâng khuâng nắng giãi, âu sầu suơng in
Vẫn là mù mịt bóng chim
Nhạn bay núi Bắc đi tìm biển Đông
Kể gì đèn phố khói sông
Mắt soi tám hướng, lòng mong mười chiều (1120)
Cỏ hoa cũng tưởng Thuý Kiều
Bâng khuâng suối bổng, đăm chiêu núi trầm
Trời xanh thương kẻ có tâm
Trong nơi tuyết giá hé mầm tin xuân
Bao năm xuôi ngược đường trần
Lang thang vó ngựa một thân võ vàng
Được tin nàng – đã mất nàng
Mạch sầu cắt nhỏ đôi hàng lệ xanh
Kim nghe mới thấu ngọn ngành
Kiếp hoa từ thuở lìa cành đớn đau (1130)
Hết đày đoạ chốn thanh lâu
Lại sa vào phận tôi hầu trớ trêu
Kiếp người chừng được bấy nhiêu
Mà bao hàng lệ tiêu điều thấm hoen
Trách trời nỡ nặng lòng ghen
Hết vùi tài trí, lại lèn giai nhân
Cõi hồng đã rạc dấu chân
Lòng mong dầu chỉ một lần thoáng qua
Dẫu tình dang dở đôi ta
Một lần thấy mặt âu là trăm năm (1140)
Sông dài vừa gặp cá tăm
Thì người xưa đã yên nằm đáy sông
Ối thôi! Vỡ ngọc tàn hồng
Thương nhau xin cảm nỗi lòng cho nhau
Đàn tràng lập bến sông sâu
Lệ tình rửa ngọc tươi màu băng nguyên
Trả nhau vẹn nửa trăng nguyền
Nước dương xin giải ưu phiền hờn oan
Lênh đênh mặt sóng hoa tang
Bó hoa nổi giữa mây vàng lô xô (1150)
Bỗng dưng hiện đến sư cô
Nón gồi lá thẫm, dép bồ cỏ thơm
Áo Đà vạt đậm hoàng hôn
Quẩy kinh đầu gậy rẽ cồn lau vương
Ảnh Kiều, vừa nhác bàn hương
Mắt trầm tươi nét, dáng sương ngại ngần
Nhà sư bỏ nón dừng chân
Hai bên thi lễ thưa gần thưa xa
Cửa Thiền còn ẩn tố nga
Vừa nghe những tưởng đâu là chiêm bao (1160)
Chàng Kim mắt lệ tuôn trào
Kẻ sau người trước xôn xao lạy mừng
Kéo nhau lên đỉnh cồn rừng
Cây xao nhã điệu, chim bừng nhã thanh
Hương chiều ngan ngát am tranh
Ngoài sân man mác mấy nhành lan rơi
Dưới hoa thấp thoáng bóng người
Quét hoa tay cũng lả ngời chùm hoa
Nhìn nhau suối lệ tuôn oà
Nỗi riêng tủi thẹn, nỗi nhà đoàn viên (1170)
Phận bèo trôi dạt sông thiêng
Ngờ đâu hai mảnh trăng nguyền chưa phai
Một nhà sum họp trúc mai
Thêm chim tấu nhạc, thêm đài bông dâng
Bõ rài rạc ngựa bâng khuâng
Bõ hiu hắt gió theo vầng mây xanh
Cõi lòng cũng rộn yến oanh
Viền trăng duới lại gặp vành trăng trên
Dòng hương quyện sóng đàn lên
Đổi tình cầm sắt thành duyên cầm kỳ (1180)
Người kiệt nữ ấy là chi
Đương Kim quan huyện, chính vì phu nhân
Hồ nghe vẻ mặt tần ngần
Bờ sương ngạn liễu giang tân nhạt nhoà
Tiểu đình trầm mặc hiên hoa
Trà sen đọng nguyệt, tỳ bà dừng loan
Sượng sùng khoé mắt thượng quan
Nửa chi cay đắng, nửa san ngậm ngùi
Sáng nay, Hồ mới sai người
Đem cây đàn quý ban nơi huyện đường (1190)
Thiên tình lại dệt đôi chương
Thưởng công trị loạn, tuyên dương hiền tài
Kim về tựa án thở dài
Nến trong lệ đọng, mưa ngoài hiên thưa
Tặng đàn hẳn nhắc tiếng xưa
Trị dân – thầm nhủ như vừa so dây
Ra vào, tư lự riêng tây
Nghĩ mai thiết yến, đặt bày lo toan
Ngoài hiên có tiếng a hoàn
Dâng thơ đã nhác tên nàng đề phong (1200)
Nến rơi lã chã giọt hồng
Xem qua nhẹ nỗi bận lòng tối nay
Chữ Kiều, lãng đãng hương bay
Lủa pha sắc giấy ửng mây chiều mờ
Đàn này, thiếp đã so tơ
Quả là báu vật, bây giờ, tạ ơn
Ấm thì mạch suối nào hơn
Ngân thì tiếng hạc như vờn cồn trăng
Trục đàn sáng ngọc tươi băng
Xuân phơi khói núi, Thu giăng tơ trời (1210)
Cảm riêng khó tả nên lời
Xin cho tiện thiếp dự nơi tao đàn
Trước là đáp lễ thượng quan
Sau cùng bằng hữu dâng làn cung tơ
Tri âm tạ mối duyên thơ
Chút lân tài đã đợi chờ mấy Đông
Thiếp xin ghi tạc ơn lòng
Đêm nay thảo vội đôi dòng bút trao
Đồi xa nai vọng tiếng gào
Ngoài hiên nhoà nhạt cội đào đơm sương (1220)
Bóng ai quạnh quẽ trên tường
Gió Đông lùa mấy dòng hương nhạt màu
XII. Dậy sóng Tiền Đường ↑
Bức thứ mười hai:
(Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều, Hồ Tôn Hiến giải thoát
khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết)
Ngàn mai lợp trắng hiên lầu
Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh
Chênh vênh đôi mái tiểu đình
Lẫn trong đảo liễu vươn mình xanh cong
Ngàn đào gió gợn bên song
Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga
Huyện đường mở tiệc thưởng hoa
Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng (1230)
Dưới hoa thấp thoáng khách quan
Giai nhân tài tử luận bàn văn chương
Gió trầm ngan ngát thiên hương
Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh
Sau rèm, phơ phất tinh anh
Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào
Môi tươi chúm chím nụ đào
Trán cao vòm tuyết, mi rào khoé nhung
Não nùng một đoá phù dung
Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần (1240)
Xa đưa ấm giọng chim thần
Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ
Nàng ngồi bên tấm rèm tơ
Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa
Tóc mây biếc ngọn la đà
Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời
Hồ quan tựa án trông vời
Não nùng nét mặt rõ người năm xưa
Tay Kiều hồng ngọc đong đưa
Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay (1250)
Dây nào lơ thơ mây bay
Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang
Lòng Hồ tan loãng mênh mang
Nỗi buồn khơi lại âm vang ngày nào
Lòng đàn bước thấp bước cao
Dường như ngọn sóng xuôi vào trùng dương
Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương
Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau
Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu
Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan (1260)
Mắt Từ ám ảnh chưa tan
Bỗng như vụt loé một làn gươm bay
Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy
Tay Hồ sửa tóc, mặt mày tái xanh
Năm cung vàng ngọc tan tành
Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ
Dây đàn chợt nín hư vô
Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn
Lại run quỷ oán ma hờn
Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270)
Dáng Kiều lau lách thu đông
Như trăng úa gọi nước sông đi về
Gió vờn cỏ nội lê thê

Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò
Ngón đàn thiên cổ so đo
Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây
Hạt sầu nức nở cung dây
Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu
Trán Hồ gợn nét đăm chiêu
Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong (1280)
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song
Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu
Cành duơng trĩu ngọn sương mù
Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn
Tay tiên chợt ấm hơi đàn
Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương
Nội ngàn hoa hé nụ sương
Lò trầm man mác khói vương sợi dài
Tưởng chừng chim họp ban mai
Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên (1290)
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền
Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh ngời
Mắt Từ như cánh hạc trời
Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng
Bấy giờ im bặt năm cung
Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ
Mắt Hồ vuơng ngấn lệ chờ
Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên
Ôm đàn khép nép hài tiên
Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần (1300)
Tiệc đào tài tử giai nhân
Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê
Lơ thơ liễu tựa hoa kề
Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa
Thêm trầm, thơ phú ngâm nga
Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương
XIII. Ngỡ ngàng bọt nước ↑
Bức thứ mười ba:
(Kim Trọng cứu giải oan nghi án của Ngô Khôi)
Kim đang ngồi trước công đường
Ngói cong mưa rụng, rêu tường lá bay
Xạc xào gió cuộn hoa lay
Cây nghiêng hàng gọi cuối ngày vàng trơ (1310)
Núi xa thành dựng mây mờ
Thôn xa khói tím vẩn vơ nhạt nhoà
Ngoài sân lích chích bầy gà
Gọi nhau đến dưới hiên nhà ủ con
Chim nào buông điệu véo von
Tưởng như đất cũ tiếng còn giục ta
Bao năm chưa lại quê nhà
Trải hồng một giải cỏ hoa dõi chờ
Chênh vênh vách núi xanh mơ
Thác cao ghềnh vắt dòng tơ ngang trời (1320)
Trại hoa Đá Trắng thương ơi
Mỗi tên đất – mỗi dấu đời vọng vang
Thương từ nương sắn khóm lang
Nhớ từ mùi đất bên đàng nhớ đi
Lớn lên giữa núi xanh rì
Cỏ cây như thể tứ chi thuộc mình
Một thời chia nhục chia vinh
Đã làm nên cõi tâm tình - là ta
Bây giờ sợ khác trước xa
Chắt chiu ảo ảnh như là thiên thu (1330)
Kim còn tựa án ưu tư
Tình neo cánh gió, ý từ hạt mưa
Dưới thềm đã vọng tiếng thưa
Dẫn vào bà lão già nua tuổi trời
Lưng còng, quần áo tả tơi
Tay nương gậy trúc vẻ người chốn quê
Kim truyền: lão ở đâu về
Có chi oan ức đạt đề của công
Bẩm quan già ở núi Đông
Suốt đời cặm cụi vun trồng rau khoai (1340)
Hiếm hoi được mụn con trai
Ngô Khôi tên gọi, tuổi ngoài ba mươi
Cảnh già mẹ goá, con côi
Vào rừng hái nấm, lên đồi bẻ măng
Nhà nghèo chưa đủ miếng ăn
Kể chi đau ốm khó khăn khôn lường
Năm xưa quan trấn địa phương
Một hôm gặp ở giữa đường, bắt đi
Giữ giam nào rõ tội chi
Thân nghèo còn biết lấy gì đảm đang (1350)
Hai năm còm cõi lang thang
Dò la được biết đày sang huyện này
Vội vàng chống gậy đi ngay
Tấm thân muôn dặm đoạ đày nắng mưa
Lần xin cơm cặn canh thừa
Nhìn con lần cuối cho vừa nhớ mong
Xác này bỏ chợ trôi sông
Còn hơn tựa cửa ngùi trông lệ tràn
Đánh liều, già đến cửa quan
Cậy nhờ phụ mẫu xá oan cởi sầu (1360)
Mẹ con cho đuợc nhìn nhau
Làm thân trâu ngựa kiếp sau nguyện đền
Vô cùng – cảm tạ ơn trên
Thân này dầu nát không quên tấc thành
Mưa ngoài trĩu ngọn cỏ xanh
Mây vương nắng quái bên thành mưa dây
Rập đầu lạy trước án mây
Trên khuôn mặt lão vương đầy lệ rơi
Kim truyền tra sổ tìm người
Rõ ràng án buộc những lời vu vơ (1370)
Già nghe mừng tủi sững sờ
Vẻ e quáng mắt, vẻ ngờ chiêm bao
Lệnh truyền xuống bọn quản lao
Giỏ khoai vội xách theo vào thăm con
Trông già chàng những héo hon
Bước chân từ mẫu trèo non đạp ngàn
Đời còn lắm chuyện trái oan
Bất công nhan nhản, lầm than dẫy đầy
No nê chi bọn tớ, thầy
Họp bè kết nhóm đạp giày dân đen (1380)
Trời cao chẳng thể với lên
Tiền tài thế lực bốn bên dập vùi
Hùa nhau một lũ ăn người
Tiếng kêu tắc nghẹn, tiếng cười hả hê
Giận mình một thuở đam mê
Trị dân thẳng mực ra bề tôi trung
Nặng nề quỳ gối khom lưng
Cũng phường bịt mắt tai bưng bấy ngày
Vá trời khôn một bàn tay
Đành đem chí gửi chén say giày vò (1390)
Thôi thì đủ mặt đủ trò
Thân tâm nô lệ vào cho đồng tiền
Tưởng khi theo đuổi bút nghiên
Mộng làm sáng đức thánh hiền cửa công
Ngỡ ngàng bọt nước ra sông
Chốn quê thèm đuợc làm ông đồ già
Chính chân giữ lấy nếp nhà
Đã làm không Hoá thì Hoà thái hư
Khi ngày cao giọng thi thư
Khi đêm thưởng nguyệt cùng sư đạo đàm (1400)
Khi qua làng nước luận bàn
Bảo răn như đạo, khuyên can thực lòng
Còn hơn hoạn lộ long đong
Giúp dân chẳng được như lòng ước ao
Ta còn nhớ giấc chiêm bao
Cầu treo dốc ngược rơi vào phù vân
Theo Kiều lấy phúc làm nhân
Cuối năm xin được thi ân giảm tù
Những ai án tích lờ mờ
Xin cho phóng thích, lượng nhờ quan trên (1410)
Bút rồng đạo đạt đôi tên
Ý tình tha thiết trình lên tỉnh đường
Bọt mưa nhuộm nắng mây huờng
Cơn mây trên đỉnh phố phường về đâu
Thì thùng nhịp trống tan hầu
Ngoài sân ngựa cũng gục đầu hí vang
XIV. Hoà tan dặm trường ↑
Bức thứ mười bốn:
(Ngô Khôi tới dâng Kim Trọng đôi chim Đại Hồi,
nhờ vậy Vương Quan đã tìm đuợc tung tích Hồ Ông
(Thầy học của Kim, Quan, Kiều) - Dòng dõi Hồ Quý Ly (Việt Nam) – lưu lạc bên Tàu, là một học giả chủ truơng "Tri Hoà Hành Hoá")
Guồng tơ nhật nguyệt mênh mang
Cuốn hồng sương núi, phơi vàng xuân hoa
Lưng trời lác đác chim qua
Cánh theo gió ấm thiết tha tìm về (1420)
Mây bay lả nét thơ đề
Núi xanh thiên bút ngọn kề nghiên suơng
Lầu cong mái đậm nắng vương
Tiếng chim trong cụm hải đường xôn xao
Huyện đường khuất giữa ngàn đào
Đì đùng pháo nổ, ngạt ngào trầm xông
Cúc vàng nở ngát hiên đông
Mây trời cỏ đất mênh mông một màu
Họ hàng đoàn tụ bên nhau
Nhìn đàn trẻ nhỏ trước sau một bầy (1430)
Ngày xuân mới gặp nhau đây
Vương, Kim ngồi dưới tàng cây thưởng trà
Chuyện gần rồi đến chuyện xa
Tấm lòng hồi tưởng quê nhà đinh ninh
Hai ta như bóng theo hình
Leo lên cành bưởi luận bình văn thơ
Nhân khi Thầy mải cuộc cờ
Trốn trường ra tắm bên bờ Bảo Giang
Qua nương bẻ trộm mía vàng
Ăn xong nhặt sỏi bên đàng ném nhau (1440)
Trở về nhận bốn roi đau
Thế rồi lại trốn đi câu như thường
Trong mình, giấu mấy nén hương
Ghé vào bãi mộ bên đường phụ ma
Sườn đồi đuổi bắt reo ca
Buông diều cánh cốc la đà bay lên
Trèo cây đa, bắt sáo đen
Móc nhằm hang rắn một phen hoảng hồn
Mùa đông rủ chó săn chồn
Xuống khe đơm cá, lên cồn bẫy chim (1450)
Bạn xưa còn nhớ như in
Bây giờ ai biết bóng chim cuối trời
Mùa nào chẳng có thú chơi
Ngày nào chẳng đứng nghe lời rầy la
Sau lưng có tiếng hầu nha
Xin đưa một kẻ vào là Ngô Khôi
Dâng lên cặp chim Đại Hồi
Lông tơ như thể phấn nhồi tuyết vương
Quả là báu vật lạ thường
Tên Khôi khép nép bên tường trình thưa (1460)
Rằng con từ độ ơn nhờ
Thượng quan minh xét, bao giờ dám quên
Đoái thương đến phận dân hèn
Tha về phụng dưỡng mẹ hiền sắt son
Đức tày vạn biển nghìn non
Dù cho sông cạn đá mòn không phai
Quê nhà có ngọn Thiên Thai
Đỉnh cao chót vót là đài Thông Linh
Có hang Thánh Hoá, Tâm Bình
Bên chùa Non Nước cảnh tình thanh u (1470)
Có Thầy ở nước Đại Ngu
Là Hồ ẩn sĩ dật cư chốn này
Tổ tiên lưu lạc qua đây
Cố hương cách mấy trùng mây quan hà
Sống cùng ái nữ hiền hoà
Sắc tài đôi vẻ tên là Ẩn Lan
Sớm trưa cung cửi tầm tang
Xuống khe giặt lụa, lên ngàn dạo chơi
Vương, Kim vừa thoáng nghe lời
Nhìn nhau xúc động bồi hồi - Thầy xưa! (1480)
Bao năm đằng đẵng ai ngờ
Mây còn quyện núi, nước chưa qua cầu
Vương truyền: Người hãy trình mau
Tiểu thư còn biết hiệu "Sầu Hoa Dung"?
Họ Ngô xiết đỗi lạ lùng
Quan đây, Thầy đó hẳn chung họ hàng
Bẩm quan quả đúng hiệu nàng
Người còn tôn bậc chúa lan tuyệt trần
Hai chàng nghe nói tần ngần
Mỗi lời như dẫn xa dần vào mơ (1490)
Mái trường cỏ lợp đơn sơ
Xanh xanh ngõ trúc, ơ hờ then hoa
"Làm Nên Hoá, Biết Nên Hoà"
Chủ trương, riêng phải học gia kinh quyền
Điều Thân, Tịnh Ý, Hoàn Nguyên
Hoà vào xã hội, thiên nhiên đổi dời
Tình thương, lẽ sáng thông ngời
Giúp người Tự Chỉnh giữa đời ngăn che
Lời Thầy khuyên nhủ răn đe
Khi ngồi luyện tập, khi nghe văn bình (1500)
Đạo trương thắm thiết ân tình
Bao năm tấc dạ in hình chưa phai
Khôi rằng: Như loại chim này
Tuy là dã điểu – lại hay nghĩa nghì
Theo nàng – đuổi cũng không đi
"Lý – Trần – Lê" hót vân vi núi ngàn
Lâng lâng như suối reo đàn
Tưởng lời non nước hoà tan dặm trường
Từ nghe Lan hát trên nương
Đôi chim từ bỏ non sương theo cùng (1510)
Suốt ngày như bạn vui chung
Tiếng chim hoà vọng một vùng non xanh
Thế rồi kết tổ trên cành
Thời gian thoắt đã nở thành một đôi
Nàng đặt tên chim Đại Hồi
Ngày ngày tung cánh trong nôi mây hồng
Con thường hầu hạ Hồ Ông
Lên non hái thuốc, câu sông buông thuyền
Tập tành chút ít bút nghiên
Thảnh thơi riêng cõi uyên tuyền qua mau (1520)
Đói no bữa cháo bữa rau
Nửa nuôi thân mẫu, nửa hầu Tôn sư
Từ ngày hoạ đến chẳng ngờ
Duyên may gặp cửa quan, nhờ lượng trên
Cho về phụng duỡng mẹ hiền
Ơn cao lòng những mong đền một mai
Nhân khi kể đến danh ngài
Ẩn Lan gửi tặng chim này lễ xuân
Gọi là báo đáp đôi phần
Rạng soi thánh đạo trị dân an hoà (1530)
Kim truyền: Heo hút non xa
Dùi mài kinh sử được là quý hơn
Vị gì lặn lội xuyên sơn
Qua đây đền đáp chút ơn bình thường
Mẹ già sớm móc chiều sương
Lỡ khi nắng gió bất thường, chớ khinh
Sinh thành ân nghĩa cho mình
Còn ta chút lượng hiếu sinh đáng gì
Nghỉ chân dăm bữa – rồi đi
Cho ta gửi chút quà về núi Đông (1540)
XV. Ào ào ngọn gió ↑
Bức thứ mười lăm:
(Kim, Quan du xuân - ra tay trừng trị
bọn cường hào, vừa gây nên hai án mạng)
Bâng khuâng huơng nội hoa đồng
Làng xa bát ngát mấy vồng tre xanh
Cỏ dài lả gió qua nhanh
Chiều Xuân chim tụ trên cành mừng nhau
Nắng chia vàng ửng hàng cau
Thì thùng trống điểm nhịp chầu đình xa
Đầu năm mở hội thưởng hoa
Nào là Quan họ, nào là Trống quân

Hai bên tuấn tử giai nhân
Hoà nhau điệu hát trong ngần đầu thôn (1550)
Sông dài chín ủng hoàng hôn
Khói dâng lãng đãng bên cồn chim kêu
Nhịp hò bơi chải giục đều
Thuyền đua theo ngọn thuỷ triều như bay
Tiếng nào la hét vỗ tay
Ven đê thấp thoáng lửa bay đuốc hồng
Mây phơi giăng đỏ đồi thông
Chùa rêu núi vọng hồi chuông vân tường
Vương, Kim cải dạng dân thường
Thong dong thầy tớ lên đường dạo Xuân (1560)
Dấu hài lân mẫn chúng nhân
Bước đi cây cỏ xanh ngần vàng pha
Nơi thì vào hội Đình Hoa
Cây đu đầu ngõ la đà cành lên
Gái quê má lúm đồng tiền
Khăn vuông mỏ quạ, yếm viền gò xanh
Mắt huyền tươi nét long lanh
Thắt lưng hoa lý trên nhành vờn bay
Người chờ đánh một vòng vây
Bên kia trì xuống, bên này nhún thêm (1570)
Cần tre lại vắt tung lên
Nàng càng xanh mặt, chàng thêm hứng nồng
Chung quanh tròn mắt cười trông
Lắc lư đầu hướng theo vòng đu cao
Nơi thì mở hội thôn đào
Ngoài sân đô vật lăn vào quần nhau
Trống cầm vừa đổ nhịp mau
Hai thân hùng hục – một màu đồng hun
Nơi thì chèo hát i uông
Tiếng kèn eo ét, tấn tuồng múa may (1580)
Diễn viên chỉ đó chỉ đây
Sau cành đuốc lớn mặt mày đỏ ran
Người xem dưới bục lấn tràn
Áo hoen khăn bạc những làn mồ hôi
Tập trung trống trút từng hồi
Hoàng hôn lặng tắt sau đồi tùng xanh
Cội mai phơ phất đôi cành
Con ong kiếm mật bay nhanh bãi chiều
Gió lùa ngọn cỏ đìu hiu
Nam thanh nữ tú dập dìu lại qua (1590)
Bỗng nghe tiếng chạy tiếng la
Rượt theo thằng bé quanh nhà lao xao
Người xem không lối ra vào
Trẻ kia còn biết ngả nào chuồn mau
Hầm hầm mặt ngựa đầu trâu
Quật theo đôi gậy, nắm đầu nhắc lên
Lết đi như kéo tấm mền
Buông tay, xác nọ rũ mềm lăn quay
Một người xanh xám mặt mày
Xông vào xác trẻ vừa lay vừa gào (1600)
Con ơi! Con có làm sao
Mẹ đây còn sống thế nào hở con!
Trẻ kia hé mắt héo hon
Nấc lên nhìn mẹ như còn thiết tha
Buông thây con - mụ khóc oà
Rú lên chồm đến người nhà vương tôn
Gã tung đạp, hộc máu mồm
Bước chân lảo đảo, mụ ôm bụng nằm
Quân đâu kéo đến rầm rầm
Nửa mau cấp cứu, nửa ngầm bủa vây (1610)
Kim truyền: Trói hết bọn này
Người quanh đổ lại tiếp tay tức thì
Lôi thôi khăn áo tu mi
Giáo gươm tuốt sáng dẫn đi một đoàn
Mụ run tay chỉ bên đàng
Thều thào, mấp máy hai làn môi khô
Rằng con thân cô thế cô
Chỉ còn đứa bé cậy nhờ thượng quan
Dường như dồn hết hơi tàn
Lời chi tắt nghẹn, xuôi bàn tay yên (1620)
Bên trong trẻ khóc ré lên
Vương truyền khiêng vực xác trên vào nhà
Đầu giường còn bát cháo hoa
Góc tường siêu thuốc hơi phà lửa sôi
Nhìn hai thây chết bồi hồi
Gặng tra mới có một người chịu thưa
Rằng chồng mụ nọ năm xưa
Đày làm lính thú nắng mưa cuối trời
Một hôm quần áo tả tơi
Trốn về nhà giữa những lời hăm he (1630)
Cái thân trên búa dưới đe
Hết hào thuốc vặt, lại be rượu đầy
Hết chiều tớ, lại hầu thầy
Nai lưng làm mướn nuôi bầy nhặng xanh
Ít tiền buôn bán để dành
Cởi ra đút lót mấy anh sống nhờ
Có thì giả bộ làm ngơ
Bằng không xách cổ lên chờ cửa quan
Thương con xót vợ cơ hàn
Cắn răng ngậm miệng phàn nàn cùng ai (1640)
Kéo cầy nuôi nợ - lệch vai
Bao nhiêu đày đoạ rạc rài lắm phen
Năm rồi có kẻ ghét ghen
Thế là đóng cũi cài then nhốt vào
Cái thân nhục nhã lính đào
Tù cho đáng kiếp ai vào viếng thăm
Mẹ con làm mướn quanh năm
Thắt lưng buộc bụng khó khăn kể gì
Tháng rồi sinh một hài nhi
Có ai dám mướn thuê gì nữa đâu (1650)
Cảnh nhà trăm mối lo sầu
Thế rồi ngả bệnh nhấc đầu không lên
Thằng cu lớn phải kiếm tiền
Thuốc thang nuôi mẹ quanh miền xin ăn
Kể chi hắt hủi nhục nhằn
Cúi đầu lạy hết khó khăn phiền hà
Xóm trong có một Hoạn gia
Tiền kho bạc đụn đầy nhà quyền danh.
Mấy đời dòng dõi công khanh
Đè đầu bóp cổ dân lành nhiều phen (1660)
Đã đành yên phận bùn đen
Đạp quen người lại cố lèn thật đau
Nuôi thêm một lũ đầu trâu
Làng trên xóm dưới âu sầu bấy nay
Đảo điên như trở bàn tay
Quẹt công lừa của một bầy gian ngoan
Bao người tù rục chết oan
Bắt con, cuớp vợ tiêu tan dần dà
Có ai tính chuyện kêu ca
Nửa đêm ném lửa đốt nhà như chơi (1670)
Đợi trời thì đã tàn hơi
Căm bầm tím ruột, ngậm lời dạ thưa
Tha hồ làm gió làm mưa
Quan trên sợ thế còn chừa mặt ai
Hoạn gia nổi tiếng một "ngài"
Tham lam chật dạ, gái trai tính lừng
Cầm đầu thêm bọn khuyển ưng
Chuyên bề cướp giật, chuyên lùng gái tơ
Chôn vùi bao kiếp đào thơ
Ối thôi! Tội kể đã mờ trời cao (1980)
Chiều nay thầy tớ tiêu dao
Thằng cu vô phúc ném vào - lỡ tay
Trông lên phách lạc hồn bay
Co chân lủi đến chỗ này – rồi yên
Nhờ ơn nhị vị quan trên
Rộng soi mới dám trình lên đôi phần
Nói cho cạn nỗi khổ dân
Rồi ra nát thịt tan thân cũng đành
Dù là voi đạp ngựa phanh
Quyết đem đổi mạng cho thành tiếng kêu (1690)
Khổ đau chất ngất bao điều
Đèn trời soi rõ nay liều mạng thưa
Bỗng đâu lốc cuốn bụi mờ
Ào ào ngọn gió vật vờ tàng me
Ai ngờ sau chốn luỹ tre
Lắm phường cẩu tặc kết bè hại nhân
Chẳng kiêng phép nước xa gần
Cậy thần cậy thế - gớm quân lột người
Đường về Xuân cũng kém tươi
Kim truyền đem trẻ về nơi công đàng (1700)
Ra tay phá xích xiềng oan
Bằng không ta sẽ cáo quan trở về
XVI. Ai để hoa dung ↑
Bức thứ mười sáu:
(Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ – nàng Ẩn Lan (con gái Hồ ông) và dự định đi theo Ngô Khôi thăm Thầy học)
Vương Quan thơ thẩn ngoài đê
Ven sông in bóng hoa lê nở bừng
Tiếng ai hú vọng trong rừng
Mây phơi lụa tím trên sừng trâu tơ
Nền trời nhàn nhạt màu mơ
Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi
Sáo diều vọng tiếng vu vi
Như chim nghiêng cánh tìm gì lưng mây (1710)
Thôn xa nghển bóng cau gầy
Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa
Gió chiều giục nhớ thôn xưa
Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi
Niềm quê vời vợi phương trời
Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn
Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn
Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu
Tiếng nàng hát vọng đôi câu
Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ (1720)
Lều tranh còn ủ chăn mơ
Mối tình là một bài thơ vô đề
Ẩn Lan ơi! Mái tóc thề
Gió Xuân nay có vỗ về suối hương
Đêm nao ngồi học bên tường
Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm
Ngoài song thoảng tiếng hài im
Như trăng buông hạt tơ chìm kiêu sa
Lan cười đưa đến cho ta
Sợi dài tóc buộc chùm hoa ngâu vàng (1730)
Sách thơm áp má mơ màng
Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn
Nhớ khi em dỗi em hờn
Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng
Nhớ đêm nằm võng ngó trăng
Đếm ngôi "sao sáng" lại rằng "sáng sao"
Giọng em lanh lảnh tiếng cao
Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh
Nền trời mây lại qua nhanh
Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan (1740)
Những đêm trời tối như than
Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi
Cho em, em cất tiếng cười
Hất tay em thả đóm trời tung bay
Vòi ta đuổi bắt lại ngay
Thả đi, đòi lại mãi đày đoạ nhau
Gọi em là vẻ hoa sầu
Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên
Nhặt son trên núi mài nghiên
Thơ anh em điểm dấu yên màu hồng (1750)
Tưởng khi đỗ đạt thành công
Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non
Chưa thề sông cạn đá mòn
Trang tình đã điểm dấu son đầu đời
Dường trong ánh mắt tiếng cười
Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim
Thế rồi – tăm cá bóng chim
Theo Thầy ẩn dật dời miền đi xa
Anh về lý vẫn đơm hoa
Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ (1760)
Hiên trăng soi quạnh bàn cờ
Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay
Buồng đây, Lan vẫn ngồi may
Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng
Âu sầu ai để hoa dung
Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang
Tìm em đò dọc thuyền ngang
Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào
Năm xưa em tựa cội đào
Tên ai còn dấu khắc vào da cây (1770)
Mấy lần anh lại chốn đây
Hiên tranh đôi bướm vờn mây lững lờ
Lòng buồn trăm mối vò tơ
Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi
Những đêm trăng sáng buồn chi
Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan
Ngỡ chim gọi bạn trên giàn
Ngỡ em phơi cái thời gian giậu ngoài
Cánh lòng lại vượt ngàn mây
Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa (1780)
Có đêm thao thức nghe mưa
Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần
Đông tàn còn thể chờ Xuân
Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhoà
Biết đâu em ở miền xa
Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình
Có đêm soi bóng lung linh
Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương
Em thì biền biệt dáng hương
Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ (1790)
Tóc đan hoa ảnh lờ mờ
Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi
Nước non cũng nhuốm sầu bi
Người đi – úa cái Xuân thì – ai đây
Dặm hồng biền biệt cồn mây
Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân
Thế rồi vâng lệnh song thân
Xe duyên cùng với giai nhân xóm ngoài
Có khi thức ngủ canh dài
Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề (1800)
Tỉnh ra mới biết cơn mê
Mảnh trăng cùng bóng hoa lê nhạt dần
Tình đời rồi cũng phù vân
Biết bao sóng gió xoá dần dư âm
Dẫu lòng ôm mối tình câm
Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhoà
Bây giờ bắt được tin hoa
Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường
Sáng mai hành lý lên đường
Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon (1810)
Sông dài cởi yếm hoàng hôn
Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay
Gió về đưa ngọn sóng say
Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu
Bãi xa cỏ tím rầu rầu
Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa
XVII. Lòng như khối ngọc ↑
Bức thứ mười bảy:
(Kiều, Vân hành huơng chùa Văn Chương, thăm Thầy Văn – nhà sư
đã dạy Kiều kinh Kim Cương)

Trời Xuân trong vắt mây thưa
Nắng hồng như xoã guồng tơ buông dần
Núi xa bút dựng xanh ngần
Cõi thiêng lảnh giọng chim thần chợt ca (1820)
Tiếng chuông lay nhẹ ngàn hoa
Bóng mây dường cũng giao hoà lang thang
Ngày rằm sắm sửa đèn nhang
Kiều, Vân ngồi võng trên đàng hành huơng
Sáng nay vãn cảnh Văn Chương
Lưng non đôi mái khói hương phụng thờ
Của nhà sư kiêm nhà thơ
Thường cùng mặc khách cuộc cờ tiêu dao
Nghe xưa, cũng bực anh hào
Chí cao chẳng thoả, ẩn vào cửa Không (1830)
Riêng lòng ôm ấp non sông
Kết liên hào kiệt tang bồng chờ khi
Dần dà thấm nhập từ bi
Lòng yêu muôn loại sá gì – một, hai
Diệu hành chuyển đạo Như Lai
Vẫn trong vạn pháp, vẫn ngoài sắc danh
Y phương cứu giúp dân lành
Đôi tay đinh lực như thành phục ma
Chẳng nề trà rượu đàn ca
Chốn nào chốn chẳng hiền hoà đạo duyên (1840)
Thong dong nửa Phật nửa Tiên
Thiền tâm hoá độ một miền sao trăng
Chí người như cánh chim bằng
Hát ca vi vút bên Hằng cát vương
Về đây lập cảnh Văn Chương
Am che mái cỏ bên sườn non cao
Đường lên trải trắng bông đào
Gió sa hương nhuỵ, trời vào lá cây
Tao nhân thường gặp nhau đây
Thưởng trà thiền vị nghe Thầy luận kinh (1850)
Đậm đà giáo lý nhân tình
Niết Bàn thành cõi phù sinh đổi dời
Đã quen biết mấy năm trời
Với Kim, thầy cũng là người cố tri
Ngày rằm chị rủ em đi
Thong dong võng lụa hai vì phu nhân
Bên đường cỏ nhuộm mầu Xuân
Đôi con châu chấu xanh ngần vụt bay
Nhạn sa soi mặt sông đầy
Lách lau đôi ngọn bông gầy thiết tha (1860)
Bóng chùa lồng với bóng hoa
Nắng Xuân lóng lánh vừa sa đôi làn
Núi vuông Thiên Ấn ngọc lam
Sông nghiêng lụa đậm dấu chàm thiên thư
Rừng tùng thoảng mõ trầm tư
Nổi trôi chuỗi hạt thái hư bềnh bồng
Thảo trường lập phái Thi Tông
Trường Sơn vẽ một nét cong vách ngời
Mênh mang mây trải gấm phơi
Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn (1870)
Võng đưa bên suối tẩy trần
Sỏi xanh vương vần dấu xuân tiên hài
Đạo tràng chim mở hội mai
Trầm theo sương đọng trên đài hoa vương
Quanh co bậc đá vân hường
Tóc ai phơ phất dòng hương cõi Thiền
Chùa Văn Chương hiện bên triền
Mái rơm nhàn nhạt dáng hiền như như
Đón nàng vào mái Tâm Hư
Vách treo dòng kệ Thiền sư cảm đề (1880)
Ngoài hiên hoa nép mây kề
Tiểu đồng ngơ ngẩn bên hè xinh xinh
Sư Thầy đương khoá giảng kinh
Sai trò dâng xuống riêng bình trà thơm
Sửa sang hoa quả khay sơn
Lên Chùa lễ Phật bướm vờn loanh quanh
Cầu tre qua suối trong lành
Hoa rơi nước cuộn, hoa cành nước in
Sườn cao vách tím ngàn sim
Thuyền câu bến nước sào im cắm chờ (1890)
Trần gian riêng mộng riêng thơ
Riêng u uẩn núi riêng hờ hững Xuân
Vẳng đâu sáo quyện suối thần
Vườn mai hiện mấy văn nhân thưởng trà
Tao đàn cao giọng ngâm nga
Thiền sư khoác áo nâu già trầm ngâm
Tiếng kêu vi vút sơn lâm
Hoa nghiêng cánh lẳng, hoa thầm nụ khai
Dừng chân ven suối Thiên Thai
Âm âm giải nước thay lời luyến thương (1900)
Nhớ khi đón lại huyện đường
Thỉnh Thầy giảng lý Kim Cương độ đời
Hoặc khi chuyện nước chuyện trời
Mỗi lời nghe lại mỗi lời thanh cao
Tiên dung đạo cốt tiêu dao
Xét ra sư đệ, nghĩ vào tương tri
Ung dung khi đến khi đi
Lòng như khối ngọc lưu ly sáng loà
Trong năm nhờ thỉnh Thầy qua
Du phương người để cánh hoa võ vàng (1910)
Sáng nay đầm ấm xuân quang
Hành hương, mới có dịp sang thăm Thầy
Lưng non man mác dòng mây
Trắng in đáy suối, vàng xây thành cầu
XVIII. Khói mờ ngoài sông ↑
Bức thứ mười tám:
(Kiều gặp tên tội tù, chính là gã Bán tơ từng giá hoạ
cho cha nàng. Gã cho biết vườn Thuý bây giờ đang rao bán,
Vương ông cho lão hầu về chuộc lại)
Kiều nằm trằn trọc canh thâu
Tóc mây cài nửa trăng sầu nhạt phai
Lá lan phơ phất hiên ngoài
Bóng in vẽ một nét mày quạnh hiu
Lòng chia trăm mối nghìn chiều
Gió vô tình để tiêu điều lệ hoen (1920)
Nhớ từng kỷ niệm thân quen
Trái tim ấm chút lửa đèn ban sơ
Bao năm tưởng đã phai mờ
Bỗng dưng gặp gã bán tơ năm nào
Hôm qua cai ngục trình vào
Một tên tội phạm xanh xao mặt mày
Xét trong hành trạng người này
Xưa buôn tơ lụa là tay lẫy lừng
Gặp cơn binh lửa bỗng dưng
Thế là sản nghiệp lên từng khói mây (1930)
Nửa năm lính thú đoạ đày
Trốn về rồi bị huyện này giữ giam
Tấm thân tù tội cơ hàn
Nghe tin sét đánh bàng hoàng bên tai
Vợ con đã chết vì ai
Hết lăn lộn, lại nằm dài rên la
Sáng nay nàng mới nhận ra
Đứa làm tan cửa nát nhà ngày xưa
Là thằng vu hoạ Bán tơ
Quẩn quanh, nào có ai ngờ gặp nhau (1940)
Gió sương điểm bạc mái đầu
Mắt sưng chín mọng trái sầu đỏ hoe
Hắn ngồi nhổ cỏ bên hè
Xương trơ như nắm xương tre rã rời
Kiều nhìn, cổ những nghẹn lời
Thấy chi ngoài một mảnh đời đau thương
Nàng dò tin tức cố hương
Hắn rằng có bạn buôn thường lại qua
Mới hay vườn Thuý quê nhà

Chủ đang rao bán, chờ ra kinh kỳ (1950)
Vui buồn hồi tưởng những khi
Gia đình bàn soạn tính về cố thôn
Ông Vương tóc giãi hoàng hôn
Thở dài lặng ngắm khói dồn ngoài sông
Hiện ra gốc ổi gốc bòng
Bên tàng hoa khế tím hong nền chiều
Lòng ông đau xót bao nhiêu
Mỗi cây là mỗi ít nhiều vấn vương
Mả mồ ở chốn quê huơng
Lạc loài nắm đất tà dương giãi dầu (1960)
Bà Vương lặng lẽ đâm trầu
Tưởng khi dòng nước con cầu đón đưa
Thiếu gì kẻ dạ người thưa
Ngày xưa ai đó, bây giờ là ai
Vả chăng xứ lạ quê người
Riêng tư là thói người nơi thị thành
Quê nhà dù cất mái tranh
Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè
Hiền hoà khóm trúc bờ tre
Vẳng lên tiếng cuốc sang hè gọi khan (1970)
Canh cua hoa lý điểm vàng
Vại cà muối xổi nồng nàn thơm cay
Trời còn cao, đất còn dày
Có ao rau muống, có đầy chum tương
Thân già lãng đãng bóng sương
Tuổi trời còn lại mấy nương nắng chiều
Luống khoai, bãi sắn ít nhiều
Tự tay trồng tỉa muôn chiều thiết tha
Còn hơn dinh thự nguy nga
Nhà cao cửa rộng vẫn là của công (1980)
Tưởng khi vác cuốc thăm đồng
Mắt bà rơm rớm hai tròng lệ vui
Còn Kim vẻ mặt bùi ngùi
Trầm ngâm mắt vọng chân trời xa xăm
Vân ngồi thêu áo băn khoăn
Lòng chia hai ngả, khó khăn thốt lời
Tiểu Nguyện vừa ghé tới nơi
Mẹ ơi con chẳng muốn rời bà đâu
Một nhà bàn tán giờ lâu
Sau cùng ông gọi lão hầu lên sai (1990)
Sẵn sàng tay nải, sớm mai
Trở về quê cũ, dặm dài gió đưa
Hỏi xem vườn Thuý bán chưa
Liệu mà tâu lại, vàng đưa - về liền
Kiều nằm thao thức thâu đêm
Ánh trăng bạc giắt đầu thềm gió sông
Nhớ Thầy học cũ – Hồ ông
Ngày xưa đèn sách – những mong hậu trình
Thường khuyên: Mình đã loạn mình
Cái tâm khiến luỵ cái hình lao đao (2000)
Truyền đời xây tiếp tâm lao
Cùng giăng bẫy quỷ - cùng nhào khe ma
Khổ, Vui – từ một cái Ta
Đã vào tật bệnh, tất ra mê trường
Thấp-Cao, Chân-Giả, Đoản-Trường
Chấp tranh máu lệ đau thuơng dẫy đầy
Biến người thành cỏ thành cây
Kéo luôn thần thánh tiếp tay tội đồ
Cánh buồm phù thế lô xô
Càng chan chứa mộng – càng cô quạnh đời (2010)
Kiều đưa năm ngón rã rời
Ngó tay mình mỉm nét cười bâng khuâng
Nàng nghe lòng nhẹ lâng lâng
Tiếng chim ngoài vọng trên tầng mây cao
Chim di phiêu bạt phương nào
Có qua ăn trái rừng đào sớm mai
Hỏi giùm sứ giả Như Lai
Làm chi cho sạch trần ai cát lầm
Làm chi phổ nguyện Quan Âm
Hay riêng sen trắng giữa đầm đủ chưa (2020)
Hay rồi một trận gió mưa
Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương
Trăng ngoài lóng lánh cành sương
Hoa nhìn trăng nép bên tường đùa vui
Dưới hoa dế hát ngậm ngùi
Trăng nghiêng tai lắng – viền tươi ngọc ngà
Một trăng đẹp bấy nhiêu hoa
Mà trăng có biết đâu là – là đâu...
Ngàn năm vò võ mạch sầu
Nửa ngâm đáy mắt nửa đầu non xanh (2030)
Xin trăng soi dọc lộ hành
Xin trăng chỉ hướng tựu thành mà đi
Mốt mai cất bước từ ly
Trăng núi biếc, lệ xanh rì hàn giang
Một lòng trăng rộng mênh mang
Trăng đâu riêng của một nàng lầu cao
Nửa trăng lặn dưới rừng đào
Còn xin nguyên nửa tan vào mộng ta
XIX. Nàng rằng suối chảy ↑
Bức thứ mười chín:
(Đã tậu lại vườn Thuý, ông bà Vương, Thuý Kiều và Hương Nhi
sửa soạn về quê cũ. Vương Quan ghé lại thăm nói về Ẩn Lan)
Cuối Xuân đường rụng đầy hoa
Cánh rơi tưởng nụ mây sa bềnh bồng (2040)
Kiều ra tựa cửa ngùi trông
Đồi cao đã trắng mấy bông lau chiều
Bên dòng lảnh tiếng chim kêu
Qua cầu vó ngựa rơi đều tà dương
Cổng tre mái ngói ráng hườn
Cánh không buồn khép gió vương ơ hờ
Tiếng ve trong cõi sương mờ
Ngâm theo xác lá lơ thơ rụng vàng
Hương nào theo gió tìm sang
Như chim cánh vượt dặm tràng hoa rơi (2050)
Tin nhà đã gởi tới nơi
Việc xong, lão bộc lên mời về quê
Phòng riêng sửa soạn bộn bề
Xôn xao lòng nhớ, não nề lòng xa
Vương ông cùng với Vương bà
Thuý Kiều cùng một trẻ là Hương Nhi
Sửa sang hành lý mang đi
Mốt mai thắng ngựa trở về cố hương
Lòng nàng dan díu nhớ thương
Bước chân tưởng những dặm trường sắt se (2060)
Chia tay khóm liễu bờ tre
Sụt sùi cây cỏ còn nghe lệ thầm
Thôi từ tạ nhé tri âm
Như sương ta cũng âm thầm nát tan
Sớm mai phơi chuỗi ngọc lam
Trang nghiêm một thoáng nhân gian bọt bèo
Kìa sao thiên lý tiêu điều
Vẽ chi những nét đăm chiêu ngậm lời
Nhánh hoa u mặc ngó trời
Một thân bên giậu mỉm cười héo hon (2070)
Mây chiều lả xuống sườn non
Dáng như lác đác hồn con hạc về
Nửa vàng lau lách sầu chia
Nửa xanh mây khói đầm đìa mang mang
Giải hồng cuồn cuộn bến giang

Buồm dong đôi tấm ráng vàng ngàn xa
Thành Tây ải đỏ lạc hà
Theo thuyền man mác cỏ hoa dương chiều
Vàng ơi chi lắm tiêu điều
Xanh ơi ngăn ngắt qua đèo hàn san (2080)
Tím ơi cỏ nội ngút ngàn
Màu gieo cuối bãi, màu tan ngọn triền
Chim quyên xuống đất sầu riêng
Mặt trời thu một hồi chiêng lửa hồng
Xe ai đẩy hát trên đồng
Tiếng ca bán rượu từng không lạnh bầu
Dáng Kiều thơ thẩn vườn sau
Dấu chân gieo nhẹ dấu sầu vẩn vơ
Gió vàng áo nhạt màu mơ
Hoàng hôn toả ngọn khói mờ ai hun (2090)
Cỏ êm đã thoảng tiếng trùng
Hoa cau hương quyện vài chum nước ngần
Gió chiều cũng nhớ giai nhân
Quẩn quanh theo với bước chân tìm gì
Rào tre lả ngọn tường vi
Tiếng quen ngâm mấy câu thi ngoài tường
Nàng trông ra thấy chàng Vương
Ung dung dắt ngựa buộc cương dưới đào
Hoa hiên cũng lả cánh chào
Hiên lam Kiều đón em vào vấn an (2100)
Vương rằng: Rong ruổi quan san
Ngựa đeo trăng lạnh, vó tan sương chiều
Cho dù thất suối tam đèo
Chút hương hoa cũ ướp theo bấy ngày
Mới về em vội qua đây
Ẩn Lan gửi lượng trầm này kính dâng
Ngó em – Kiều lại thêm mừng
Hoa in đáy mắt còn rưng rưng lòng
Nhà Thầy bên động Huyền Không
Mái tranh tàng ần thu đông mịt mờ (2110)
Tóc người đã bạc như tơ
Bạn thân chim tụ, quân cờ hoa rơi
Sớm lên đào thuốc dong chơi
Chiều về dạy học khắp nơi tụ hiền
Danh thơm đã nức mọi miền
Làng trong mến chuộng, quan trên nể vì
Chẳng ham quyền tước kinh kỳ
Thong dong gậy trúc, đến, đi ngoài vòng
Rượu thơ phơi phới một lòng
Trà thơm viết sách, suối trong ngâm mình (2120)
Xin Thầy được đón về dinh
Sớm khuya vẹn nghĩa sư sinh một nhà
Thác rằng tuổi đã nua già
Núi non mến cảnh, cỏ hoa luyến người
Ẩn Lan giờ vẫn đẹpp tươi
Một chiều bên suối ngỏ lời hằng mơ
Chỉ bông hoa nở ven bờ
Nàng rằng: Suối chảy có chờ đâu hoa
Nhắc chi chuyện cũ đôi ta
Ngày nay Lan vẫn như là ngày xưa (2130)
Vị gì chung nắng chia mưa
Giữ thơm mộng cũ ngày chưa ngọc vàng
Kiều ngồi nghiêng tựa hành lang
Gió lùa tóc quyện theo làn hương bay
Hoa cà ráng ướp hiên Tây
Sao hôm vừa mọc trên cây suơng chiều
XX. Chải tóc thu phong ↑
Bức thứ hai mươi:
(Kiều thăm lại chốn cũ, cho trồng cây Hoàng Mai
trên nền am xưa. Đạm Tiên nhập thần cảnh tỉnh Thuý Kiều.
Nàng thăm mộ đàn lần cuối, trước khi hồi hương)
Rèm đào gió lọt phiêu diêu
Kiệu phu chừng đã được điều tới sân
Mây Thu phơi tóc xanh ngần
Hiên lam nghe rộn bước chân chim vào (2140)
Tưởng hoa sớm rụng mái cao
Kiều nằm dõi bóng chiêm bao ơ hờ
Ngang mình lệch mảnh chăn tơ
Mắt nhung dịu thiếp đôi bờ cỏ xanh
Tay dài tơ búp lan nhành
Dáng Thu lãng đãng nhạt vành trăng cong
Bên giường chải tóc thu phong
Tai nghiêng nghiêng cánh sen hồng mát thơm
Má đào gò ửng tuyết đơm
Môi in nét trổ nụ hường ban mai (2150)
Bên song khép nép lan đài
Hoa trong thiêm thiếp hoa ngoài bâng khuâng
Hương đêm còn thoảng lâng lâng
Chăn tơ phủ xuống như tầng hoàng hoa
Đôi hài cong mũi kiêu sa
Im im lắng tiếng chim ca ngoài vườn
Nghĩ ra nay sớm hành hương
Vươn vai Kiều dậy, ngắm gương tần ngần
Hương nhi đem áo lại gần
Khoác lên vai ngọc gò xuân mịn hồng (2160)
Qua hiên bướm nổi bềnh bồng
Tung tăng gió vuốt vài bông cúc hiền
Vườn ngoài non nỉ yến uyên
Xách hoa lên kiệu gót tiên dịu dàng
Đồi thưa lấm tấm bông vàng
Hoa Thu hỏi mấy lần sang đất này
Đổi thay từng khắc từng ngày
Mà vòng nguyên định chen đầy hoa dung
Xét trong trời đất vô cùng
Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh (2170)
Bao nhiêu cung điện tan tành
Xô đi, dựng lại dưới vành trăng tươi
Thăng hoa cuộc sống con nguời
Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên
Đường dài sỏi nhạt thu thiên
Trước sau biết mấy gót phiền qua đi
Bóng người cổ tích còn chi
Còn nghe gió kể chuyện gì bên nương
Bước nào ngượng ngập yêu đương
Bước nào rầm rập giáo gươm chói loà (2180)
Bước nào lay lắt nua già
Bước nào xe ngựa lại qua rộn ràng
Nhớ không ngọn cỏ may vàng
Ngày xưa lữ khách qua đàng còn không
Hỏi mây mây trắng như bông
Riêng đường sương tụ bụi hồng trăm năm
Bãi sông cỏ lạnh căm căm
Tưởng Từ áo vải xưa nằm chốn đây
Phách thiêng khí vẫn loà mây
Xưa ai trộm xác gò này mang đi (2190)
Xưa ai đạp vỡ mồ bi
Gò xưa còn bãi cỏ chi rầu rầu
Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu
Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng
Cuộc ra vùng vẫy chim bằng
Cuộc về đồn ải mưa giăng bóng cờ
Kiều ngồi như ngẩn như ngơ
Dường đâu lãng đãng trong mơ hiện về
Lâng lâng hương cận hoa kề
Đạm Tiên buông giải tóc thề vương vương (2200)
Tiếng nàng thoang thoảng khói hương
Rằng: Không có hội đau thương đoạn tràng
Quả, Nhân – tôi trót lỡ làng
Khiến em vào chị - giục đàng trầm luân
Giờ nên đuổi mộng khỏi thân
Nhiều vương vấn cũ – dễ phần chiêu ma
Dáng nàng lãng đãng mưa sa
Giật mình mới biết mộng hoa lúc nào
Vào Thu chim cũng xanh xao
Tiếng kêu theo gió thoảng vào rèm thêu (2110)
Não nùng thay nỗi lòng Kiều

Nhìn bông lan ngọc đăm chiêu nền trời
Hồn Tiên nhắn nhủ chơi vơi
Chừng nghe còn vẳng trong lời hoàng khuyên
Nền xưa kiệu đã dừng nghiêng
Dây hoa núi dại vàng nguyên ngọn tường
Tàn lan lóng lánh hàng sương
Hoa chao nhỏ hạt nước hương rùng mình
Chập chùng đồi núi lung linh
Vén rèn, xuống kiệu, dáng quỳnh mông lung (2120)
Rã rời từng bước rêu nhung
Hài reo giữa cõi vô cùng hoang mang
Truyền phu đem cội mai vàng
Trồng lên trên đỉnh nền hoang cỏ dày
Giác Duyên thầy có về đây
Trông hoa xin tưởng vóc gầy Kiều nhi
Hoa này là nguyện đại bi
Giữa đông, vàng rộ sá gì phận côi
Thân con dù chốn xa xôi
Lời Thầy, sóng dậy gió dồi dám quên (2230)
A hoàn sắp lễ dâng lên
Sợi hương tím loãng trên nền cỏ cao
Chắp tay khấn nguyện thì thào
Khay hoa đậu cánh chim vào bỗng nhiên
Kiều xin: Có phải Đạm Tiên
Hương linh còn quyện chút duyên má hồng
Cảm nhau – một sợi tơ đồng
Thì xin bay đậu cành bông mai vàng
Hoặc Từ dũng khí hiên ngang
Anh linh lưu luyến trần gian chẳng lìa (2240)
Đồ vương nuối mộng xưa kia
Hay còn vì thiếp, chưa chia ngả đường
Thì xin bay xuống đầu tường
Khấn xong, chim cất cánh hường bay đi
Lưng trời buông giọng từ quy
Đáp vào rừng vắng như vì sao sa
Run run Kiều chắp tay hoa
Cúi đầu lễ vọng, hương nhoà khoé môi
Tiếng chim lảnh lót bên đồi
Dường như thê thiết bồi hồi bụi mưa (2250)
A hoàn lại cất tiếng thưa
Thỉnh bà lên kiệu, cơn mưa – kịp về
Ở đây sầu lặng buồn tê
Sơn lam chướng khí lỡ bề ốm đau
Kiều nhìn phơ phất hoa lau
Ngọn cờ tập trận - ngày đầu thơ ngây
Đã vàng dặm cát đồi mây
Thêm hiu hắt gió ngàn cây vật vờ
Tàng hoa lan cũ trông chờ
Vẻ đang thiêm thiếp giấc mơ tuyệt vời (2260)
Mốt mai ta ở chân trời
Riêng hoa còn mãi – sương rơi một tàng
Rừng hoang trả lại rừng hoang
Cội lan kia liệu hoa vàng bao Thu
Nhớ hồi Thầy lập am tu
Chọn đây là cảnh thâm u hữu tình
Sớm chiều niệm Phật nghe kinh
Mảnh trăng ẩn chốn phù sinh điêu tàn
Một chiều trồng gốc ngọc lan
Thầy rằng: Mai mốt còn làn hương bay
Đời người như cánh hoa lay
Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi
Giờ Thầy Tam Hợp đâu rồi
Nhớ ai hoa lạnh lùng rơi cánh buồn
Lan còn hoa lệ sầu tuôn
Hương bay vơ vẩn dõi muôn hướng tìm
Mốt mai ta cũng theo chim
Về thâu ngọc rớt vàng chìm sông Ngô (° )
Đêm đêm tơ tưởng đi mò
Sông Thương hoa có neo đò nhớ thương (2280)
Kiệu phu lại thỉnh lên đường
Hồn lâng lâng kiệu, hồn vương vương rừng
Lá đưa khăn lệ rưng rưng
Nhắn nhe chim cũng lạnh lùng tiếng ca
Sông buồn đỏ quạnh âm ba
Mây đưa đỏ bãi hoàng sa lạnh lùng
Mắt buồn vời vợi mông lung
Tiễn chân cội đá khóm tùng, ngất ngây
Con tim chôn lại rừng này
Theo hoa rụng xuống chân Thầy hôm mai (2290)
Những đêm chớp biển mưa dài
Hồn bên núi, xác phương ngoài – thảm chưa
Mỗi xa mỗi bước rừng thưa
Yên hà theo tiếng đò đưa thuyền về
Chợ chiều rạ nhạt mái quê
Hắt hiu gió gợn tái tê sóng trường
Sào ai phất phới mây hường
Nhịp hò mái đẩy khói sương ngút mù
Kiều truyền kiệu ghé gò Thu
Mộ đàn hoa nở âm u lối mòn (2300)
Một gò cỏ úa héo hon
Xưa kia Từ Hải – cũng chôn gò này
Bây giờ liệt sĩ nằm đây
Mộ đàn – thêm trắng một cây đoạn trường
Lòng Kiều chín nhớ mười thương
Hai mồ ngát một tuần hương Thuý Kiều
Áo bay lẫn giữa mây chiều
Bâng khuâng suối tóc, đăm chiêu nét ngài
Chim nào hót giữa lùm mai
Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên (2310)
Gò xanh thơ thẩn gót tiên
Chân trời cõi đất hai miền sầu chia
Xương tàn nấm đất ai kia
Núi sông – không một tấm bia để đời
Anh em chí cả nghiêng trời
Lòng chung chẳng thể tách rời – Bắc, Nam
Vẫy vùng một cõi giang san
Thương người cơ cực, chém quan tế cờ
Ai từng tuốt kiếm ngâm thơ
Chí toan sắp lại ván cờ máu tươi (2320)
Ai từng nốc rượu cả cười
Sau rung tiếng hát giữa nơi chiến trường
Tưởng khi cờ cuộn mây vương
Thành cao ném một ngọn thương san bằng
Bây giờ mây uốn ngành trăng
Gió ù cổ miếu, nhện giăng chiến bào
Mồ chung le lói vì sao
Hồn oan tử sĩ xạc xào cờ lau
Cỏ hồng đỉnh núi thay màu
Tưởng như sắc ngựa Phong Châu anh hùng (2330)
Còn đâu trống giục kiếm cung
Chiều nay ếch nhái lạnh lùng khua xa
Trăm năm còn lại gò hoa
Lất lây giải ánh lạc hà cô thôn
Nhà ai hun lá bên cồn
Nhìn mây phu kiệu bồn chồn ngồi quanh
Bãi sông rải rác mái tranh
Trẻ vui ném sỏi dưới cành dương khô
Sườn non nửa mảnh trăng nhô
Cong thành một nét mơ hồ mi ai (2340)
Lại nghe trong cội hoa mai
Bật thêm tơ tóc rùng vai đàn bầu
Nàng dừng lắng đợi âu sầu
Quả như tiếng vẳng hương lầu trước đây
Hồn ai nấc tiếng ngân này
Xưa nương đàn cũ, giờ cây mai vàng
Tiếng ngân chìm đắm mơ màng
Một dây to nhỏ hồn man mác trời
Buông chi tiếng nhặt tiếng lơi
Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng (2350)
Kiều còn thơ thẩn tiên dong
Núi xa nhoà mấy vành cong sương mù
Quạt trần khép mở vân du
Hoa dung đáy nước cho dù khói vương
Bâng khuâng bước dạo cầu sương
Tóc bay dài một dòng hương la đà
Có nàng cắp rổ bèo hoa
Vén quần cánh nhuỵ lội qua sưối về
Bè ai thả vó ven đê
Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh (2360)
Gió Thu hiu hắt lùa nhanh
Đáy khe cát trắng long lanh ngấn trời
Qua cầu suối cũng đua tươi
Bờ vai phơ phất tóc xuôi hững hờ
Trên dòng tơ, dưới dòng tơ
Hai dòng thêu một đoá mơ nhạt nhoà
XXI. Tơ thiêng nhập hoá ↑
Bức thứ hai mươi mốt:
(Kiều hồi tưởng buổi tối đánh đàn cho Kim Trọng và sư thầy
Văn Chương nghe - Nhà sư trợ điển giúp Kiều tỉnh thức khỏi
nghiệp đàn, hoà tâm cảm vào thiên nhiên đại đạo)
Ngoài sân buông nắm tơ ngà
Đêm Thu bắc chõng, Kiều ra ngó trời
Ai treo chiếc ấn trăng ngời
Đóng lên mấy giải mây dời mơ xanh (2370)
Ấn trang nhỏ mực loang cành
Con chim khách lạ bỏ nhành liễu bay
Giọt trăng là hạt rượu say
Vò trăng hoành thạch nghiêng đầy giàn dưa
Gió lay vàng rụng như mưa
Tưởng đâu âm vọng chuông chùa Văn Chương
Trăng chân thường giữa vô thường
Ánh trăng như với dạ hương hẹn hò
Bây giờ cửa núi quanh co
Trăng ơi có đổ đầy vò tâm ai (2380)
Nhớ hồi trên các Sương Mai
Dâng Thầy Văn, được so vài cung tơ
Ba người chìm lắng đêm thơ
Âm dư tiền kiếp nghìn xưa dồn về
Lòng riêng phiêu hốt đê mê
Trời riêng nguyệt cận hoa kề bâng khuâng
Mây ùn mười ngón lâng lâng
Viền trăng hư ảo trên tầng khói xây
Đất dồn nhựa mạch ngất ngây
Ánh trăng đọng xuống mấy dây lặng chìm (2390)
Tiếng nào bàng bạc ngàn sim
Tiếng nào mạch máu ngàn tim rung thành
Cây đàn tự vỡ nên thanh
Tiếng đàn óng ánh trên nhành đọng sương
Sóng đàn là giải thoát hương
Dây đàn bốn mạch chân thường thiết tha
Song ngoài chênh mảnh gương nga
Áo người nhuốm nguyệt lay tà hàn quang
Hương trời bát ngát mênh mang
Sao trời lấp lánh, nến vàng lắng chia (2400)
Bên này trầm mặc trăng nghe
Bên kia sao kết đôi bè âm thanh
Tay là sao hiện lên nhành
Mười phương đổ xuống đan thành áng tơ
Tóc huyền giải suối phất phơ
Sông Ngân nước chảy qua bờ vai nghiêng
Tay nào đẫm hạt trăng thiêng
Hào quang lấp lánh một viền tâm hư
Dáng Thầy trầm mặc hiền từ
Áo nhoà hạt quyện áng tơ vô vàn (2410)
Tiếng tơ theo gió hoà tan
Một chùm sao gãy, một làn trăng rung
Cỏ cây cảm ứng vô cùng
Chừng như xao động say vùng âm ba
Lòng thiền trợ điện tố nga
Phá tan cái nghiệp dư ba tội tình
Sóng đàn tiền kiếp lung linh
Bao năm xô đầy thuyền tình trăng ai
Hạt sương lóng lánh lăn dài
Cành đêm chợt rụng một vài sao băng (2420)
Ba người ngồi đắm hiên trăng
Tâm tư hoà dệt cung hằng phân vân
Hơi thanh thoát chí hiền nhân
Cung phong nhã khách, tiếng ngần ngại hoa
Còn gì ngoài những thiết tha
Ba lòng ứng một tay ngà mưa rơi
Kìa xanh xanh ngắt tơ phơi
Kìa thăm thẳm nỗi hoa dời cành trao
Là chi bát ngát trời cao
Là chi hiện tướng trăng sao vô cùng (2430)
Là vô thuỷ gặp vô chung
Là chan chứa nguyệt năm cung sương mù
Là hương rạo rực rừng Thu
Cò bay theo trắng tiếng ru mẹ hiền
Bản đàn khói lượn đền thiêng
Tiếng con linh phượng nhiệm huyền chợt bay
Nửa đời mệt lả đôi tay
Trái tim siêu thoát sum vầy xa xăm
Âm dư man mác hiên trầm
Dường đâu vô vạn tơ tằm dệt đan (2440)
Viền trăng dính giữa nền lam
Phơi nghiêng nụ mướp trên tàn thu thanh
Phím đàn cánh bướm vờn quanh
Nến hồng tay ngọc, trầm xanh màu vòng
Bước tơ cao thấp long đong
Cảm ngoài như thiếu tình trong như thừa
Dường như trở gió sang mùa
Dường như réo rắt tơ mưa ngoài trời
Lúc trầm mặc lúc chơi vơi
Khi hong vẻ thuý, khi phơi dáng vàng
Dưới hoa cỏ ngẩn ngơ hàng
Trên sương trăng gõ tình tang dặt dìu
Sóng tơ hoà vận nên Kiều
Lòng ai vừa đổ cơn triều biển dâng
Hơi đàn siêu thoát lâng lâng
Mỗi tơ cảm ứng mỗi tầng thiên nhiên
Tưởng ngày dưới mái đông hiên
Nụ hoa như ngón tay hiền chỉ đưa
Cánh chim vượt cõi sương mờ
Trang Kinh ẩn những bài thơ giải trần (2460)
Khiến mình sương khói phân vân
Khiến mình tĩnh ý xuất thần bâng khuâng
Đêm rồi lả ngọn tơ dâng
Thành đàn tan biến trong vần trăng lơi
Cỏ hoa hiện tướng tự ngời
Ngón tay măng trúc run lời nguyên âm
Kim ngồi bóng nguyệt trầm ngâm
Ba lòng chung một ý cầm hoà tan
Tâm hư ai dạo nên đàn
Năm cung tẩm nguyệt vô vàn tơ bay (2470)
Gió ngừng ngan ngát hương say
Riêng quỳnh hoa hé nét mày trong sương
Cỏ ngàn thấp thoáng đêm vương
Sóng vàng chan chứa khu vườn hào quang
Xưa mênh mang giờ mênh mang
Còn chi giữa thể Đạo, Đàn chia đôi
Hiên hoa lãm thuý bồi hồi
Tơ nghiêng nhập hoá ba người thẩm âm
Bây giờ còn vắng trong tâm
Đâu không là khúc nguyệt cầm gió mây (2480)
Tơ thương cỏ úa hoa gầy
Tơ thương cánh bướm lạc bầy phân vân
Tình vương cho nụ tầm xuân
Đất trời thu lại một nhân uyên tuyền
Tầng tầng lớp lớp thiện duyên
Huyền cơ mở đóng, chung riêng vẹn toàn
Lạ thay cũng một ngón đàn
Mà trong tương ứng vô vàn khác xa
Người đạt đạo kẻ tài hoa
Tiếng đàn chừng mở riêng ra mỗi trời (2490)
Chàng Kim áo nguyệt lay ngời
Thầy Văn chừng để chí nơi vô cùng
Trăng nhoà ảnh đậu mông lung
Đất trời hội lại năm cung lặng chìm
Tóc Kiều xõa một dòng im
Quạt trần phe phẩy sao in nhạt nhoà
Bóng nàng lồng dưới bóng hoa
Nhiệm mầu trăng cẩn tay ngà dưới chân
XXII. Mây thu cuộn vàng ↑
Bức thứ hai mươi hai:
(Kiều từ giã cỏ hoa, hoạ thơ tiễn biệt,
lên đường về quê)
Canh gà eo óc hương lân

Đã nghe nhà dưới gia nhân dậy rồi (2500)
Ngoài ao xốc gạo đồ xôi
Tiếng con chó Quít buông hồi sủa trăng
Sương mờ ngõ trúc giăng giăng
Lá Thu hiu hắt qua mành rung êm
Nhành lan sương trĩu đầu thềm
Vẻ như phờ phạc trắng đêm đợi ngày
Song hồng phơn phớt trăng lay
Kiều ra sân dạo – đóm bay nhạt dần
Gạch vuông từng mảnh sao ngần
Tóc nàng tưởng dấu phù vân lay mờ (2510)
Bếp xa ngọn lửa vật vờ
Dưới giàn bầu nậm, Quít chờ vẫy đuôi
Côn trùng ri rỉ im hơi
Cỏ cây chừng cũng run lời tiễn đưa
Cố hương đằng đẵng gió mưa
Bao năm xa cách ai ngờ - còn khi
Dặm về tưởng dặm từ ly
Hoa sim tím chết ngày đi theo chồng
Cánh chim Hát Núi ngoài đồng
Tiếng ca bay vút từng không khói mù (2520)
Cỗ xe gỗ liệm hồn thu
Ngựa thiên lý soãi gật gù vó bay
Đưa tay đồi trắng ngàn mây
Đón ta lau lách có gầy thu dung
Cầu ao lợp bóng tàng sung
Còn rơi trái đỏ vương cùng nỗi mong
Núi Diều xanh gợn đường cong
Buồn lên hiên cỏ lại trông chiều về
Bãi mồ biêng biếc tiểu khê
Mùa Xuân tìm hỏi đoá lê thuở nào (2530)
Còn ai qua ngõ bưởi đào
Dừng chân mà nhớ hoa nào ngẩn ngơ
Còn chăng suối đợi non chờ
Cồn vàng nổi gió, sông tơ cuộn hình
Bao năm sưởi ấm lòng mình
Ai xưa đốt đuốc, ca tình - còn vang
Đường trần bạc áo nữ lang
Tiếng ca nâng bước lỡ làng, phân vân
Làng quê đòi đoạn muôn phần
Có đêm trở giấc mắt ngần ánh sương (2540)
Mộng về hư ảo cố hương
Mừng sao, muốn nuốt dặm trường cỏ non
Lô nhô hoa trắng đồi son
Chan đầy âm điệu lối mòn chim vui
Nhưng rồi khi giấc mơ lùi
Thêm ngao ngán dạ, thêm bùi ngùi châu
Đành thôi bọt nước qua cầu
Tương lai còn lại chút màu thiên thanh
Tấm lòng bát ngát mây xanh
Mà đời giam héo một cành thu ba (2550)
Kiều nhìn trăng khuất rừng xa
Còn loang bụi phấn ngà ngà khói sông
Tiếng chim thảnh thót giàn đông
Mừng vui gọi áng mây bồng bềnh tơ
Bướm bay từ cội sương mờ
Cánh tung nắng mới qua bờ thảo phương
Nụ hoa thức giấc bên tường
Vô tình để ửng má hường nắng trong
Đèo xa phơn phớt cỏ bồng
Cành đa oằn một nét cong trữ tình (2560)
Nhện giăng nội cỏ băng trinh
Từng dây lưới ngọc in hình sao tan
Xanh, Lam, Trắng, Tía, Đỏ, Vàng
Long lanh làm đẹp mấy hàng hoa thu
Người buồn lãng đãng sương mù
Gió tai tải lạnh về ru nét mày
Đồi tùng mờ mịt sương bay
Nàng thầm lặng hướng một ngày xa khơi
Xin từ tạ hạt chuông lơi
Tiếng ngân tự thể sáng ngời Văn Chương (2570)
Ngậm ngùi khi sắp lên đường
Đã nghe tiếng ngựa buộc cương rặng đào
Chàng Kim thong thả đi vào
Gió lay giải mũ xanh xao lá quỳnh
Mắt ai chôn một trời tình
Bóng sương thấp thoáng đôi hình khói mây
Ngẩn ngơ sỏi đá nhìn cây
Nao nao gió lạnh liễu gầy hỏi nhau
Hoa rơi hai kẻ cúi đầu
Chia tay ai chẳng ưu sầu như ai (2580)
Lao xao tiếng vọng hiên ngoài
Nhác trông đã thấy ba người tìm qua
Nguyện theo tay níu áo bà
Vân xem ái ngại nét hoa phớt buồn
Bà Vương nôn nóng lên đường
Tưởng như muôn dặm bụi hường giục xe
Thôi thì to nhỏ nhắn nhe
Mỗi câu thêm lại buồn nghe ngậm ngùi
Xe phu loáng thoáng đôi người
Lên đem hành lý nàng dời lầu mai (2590)
Kiều vào sửa áo trâm cài
Giò lan bạch ngọc vươn dài ngọn trông
Cửa hờ, giường quạnh lầu không
Ngoài sân Thu cúc trổ bông sớm vàng
Mắt nhìn bốn hướng mênh mang
Vuốt ve hoa cỏ, lên đàng về quê
Mây trôi từng cụm ven đê
Người đi kẻ ở sầu tê lòng quỳ
Có ai mai mốt buồn chi
Lên lầu tựa ngó những khi nắng tà (2600)
Một phương rầu rĩ cỏ hoa
Một phương lau lách nhạt nhoà thu phong
Một phương xoã tóc chiều hong
Một phương nhớ mảnh trăng cong nét mày
Hai phương gió dạn mưa dày
Đường đi ngại những non mây mịt mù
Rừng buồn rung trái sầu u
Người buồn phủi hạt mưa thu bẽ bàng
Hương nhi vội vã tìm sang
Dâng lên đã nhác đôi hàng đề thư (2610)
Hương rằng: Có một nhà sư
Sớm nay tìm đến thưa: Từ chùa Văn
Thư này gửi đến phu nhân
Bây giờ chú hiện nghỉ chân nhà ngoài
Ngập ngừng nàng mở xem ngay
Mười bài tiễn biệt nhủ ai đăng trình
Mỗi bài là một bài Minh
Nghĩa sâu mối Đạo, chữ linh tụ thần
Đọc xong Kiều lặng phân vân
Bâng khuâng vóc liễu – tần ngần mày hoa (2620)
Mắt nàng trầm lắng thu ba
Ý lên đỉnh núi, chữ nhoà lòng trang
Tay tiên rạng ngọc tươi vàng
Thảo bài Đường luật liên hoàn phiêu diêu
Gói trong một giải lụa điều
Tạ lòng tri kỷ ít nhiều vấn vương
Cho đem thơ lại khách đường
Hiên Tây ngơ ngác chùm hương gượng cười
Tiễn đưa xoắn xuýt bao người
Ba xe ngựa hướng chân trời xanh xanh (2630)
Nẻo đi dằng dặc mây thành
Bóng mây trĩu nặng mấy cành hắt heo
Quan, Kim sóng ngựa đưa theo
Chân non cát đỏ, lưng đèo sương bay
Dùng dằng tay lại cầm tay
Sầu Thu chan chứa giọt đầy giọt vơi
Bánh lăn cọc cạch rả rời
Ngựa say mây nhớ phương trời chảy đi
Não nùng hai tiếng từ ly
Buồn thưa thốt miệng, sầu chi chít lòng (2640)
Qua khe ngó cá lòng tong
Áo xanh ai đó in dòng suối xanh
Nhớ nhà xe cuộn thêm nhanh
Ải xa cổng đỏ mấy nhành hồng mai
Đầu sông ai hát Nam Ai
Giọng cao nước chảy, giọng dài đò đưa
Nỗi buồn ngàn vạn xa xưa
Luồn theo mạch máu bây giờ chưa tan
Tiếng ca ngơ ngác lau vàng
Lồng trong khói sóng tràng giang rụng rời (2650)
Chim bói cá biếc mây trời
Ven sông đậu hót trông vời nước mau
Gió Thu san sát bông lau
Giục người quẩy gánh hát câu ề à
Bóng ai đã khuất cồn hoa
Còn nghe gió thoảng tiếng ca ơ hờ
Cỏ tranh ngoài nội bạc phơ
Gió lay lay tưởng sóng vờ vật xuôi
Tiễn theo mấy đoạn bùi ngùi
Bẻ hoa rượu nhớ, gượng vui lên đường (2660)
Kim, Quan dưới liễu gò cương
Cỗ xe bánh đạp sỏi hường – tung bay
Ngựa xuôi bờm dựng hí mây
Bạn về hoa cũ giục hoài không đi
Ngậm ngùi cu gáy từ ly
Héo lòng ai có thương gì chim cu
Con xe gỗ vượt dặm mù
Mui cao chở những mây Thu cuộn vàng
Kiều ngồi hướng mắt mơ màng
Chí cao Từ Hải - thiên đàng Phuơng Đông (2670)
Vó câu vi vút non bồng
Đàn xanh yên ngựa gươm hồng bóng trăng
Hoa giờ còn đợi mưa giăng
Cỏ cây nhớ cánh chim bằng đợi tươi
Rừng Thu nhớ trận cả cười
Cờ mây lá nhớ vọng trời Đại Nam
Mắt xanh đây cửa khải hoàn
Chờ trông chỉ thấy gió quan san về
Dường trong hiu hắt sương kia
Như đâu thấp thoáng nhành bia sa trường (2680)
Sóng dài lấp lánh làn gươm
Đồi phơi áo trận phong sương đổi màu
Khí thiêng lau lách rầu rầu
Người đồn: Gươm giáo đêm thâu rộn ràng
Lên non trẻ hái hoa vàng
Còn reo nhặt được kiếm han rỉ cùn
Đêm về bần bật kiếm run
Mồ hôi thép toát hiện hồn ba quân
Rừng vương cốt ngựa trắng ngần
Kiếp người mây nổi một lần qua mau (2690)
Nghìn xưa lưu lại nghìn sau
Còn chăng rêu mộ trơ màu vàng xanh
Lại sông loang máu hùng anh
Trăm năm đáy nước kết thành ngọc trai
Người đem giũa chiếc trâm cài
Trăng lên thoảng tiếng thở dài ngọc xưa
Dường trong ánh chớp tơ mưa
Có hồn tử sĩ vất vơ chửa tàn
Cõi đời chất ngất hờn oan
Cuộc cờ bày xoá mấy bàn đua tranh (2700)
Ném ra xe ngựa tung hoành
Thu về còn lại một vành trăng suông
Bể dâu thay đổi bao tuồng
Cái chi còn lại trong luồng gió xoay
Bàn tay tiếp nối bàn tay
Trả vay vay trả đoạ đày mãi nhau
Một bầy tâm bệnh khổ đau
Nghìn xưa vạch sẵn nghìn sau – một đàng
Nghìn dòng máu lệ mênh mang
Biết bao giờ mới chỉnh trang nguồn đời (2710)
Núi sông rực rỡ con người
Mở trang sử mới nơi nơi đẹp lành
Cõi lòng bát ngát mây xanh
Đổi xoay đương thức kết thành thiện duyên
Giữa đời Tự Chỉnh như nhiên
Trăm năm thoát mối đảo điên buộc mình
Cho bao sỏi đá hồi sinh
Bốn phương chung hưởng thái bình thịnh an
Cỏ cây thấp thoáng qua màn
Dập dồn vó ngựa gõ khan mặt đường (2720)
Non xa tím ngắt mây vương
Sông xanh trời nhuộm, đồi hường nắng hong
Tưởng ngày hoa lạc long đong
Niềm quê sợ cả nỗi mong vụng thầm
Sợ nhìn vóc núi trầm ngâm
Tưởng đâu thành quách giam cầm chim bay
Sợ đêm tơ tưởng bóng mây
Oán sao trời đất đoạ đày mình riêng
Sợ trông hoa lả trăng nghiêng
Thêm đau đớn phận – người chuyên tay người (2730)
Ngại trông xuân trổ màu tươi
Bẽ bàng thêm nữa buồn ơi là buồn
Ngại gì non đổ suối tuôn
Nước đi có biết cành hương phai tàn
Ngại trông xe cuộn bụi đàng
Hồn quê theo dặm mây vàng giục xuôi
Dối mình đùa cợt làm vui
Lại nghe tẻ ngắt nụ cười tái tê
Dám mong chi nữa ngày về
Chân mây cỏ áy não nề một phương (2740)
Bây giờ rong ruổi mây vương
Mây bay tưởng những dặm trường thăng hoa
Ngỡ cây đa đợi quê nhà
Ai lên Quán Dốc hát mà trách ai
Đá non hỏi nước sông dài
Hoa trôi một thuở u hoài còn riêng
Đèn còn sợi khói xanh thiêng
Cho bông tầm gửi láng giềng còn leo
Còn cây trúc đợi trăng treo
Hỏi hoa vương giả có neo cánh tình (2750)
Từ hoa đổ chuyến đăng trình
Người qua ngõ nhỏ chạnh tình khóc hoa
Lên nương có hái bông trà
Ngó mây tím chết ngỡ tà áo bay
Trở về chếnh choáng men say
Chờ hoa bưởi rụng đưa tay đỡ buồn
Giờ ta về lại cô thôn
Liệu con nhện cũ neo hồn sầu chăng
Cho dù trúc đã đâm năng
Miếng trầu vôi đỏ dùng dằng trao thơ (2760)
Đêm đêm cung nguyệt lay mờ
Tưởng đâu con sáo bây giờ qua sông
Xin từ tạ những ngùi trông
Cho tôi quên nhé những bồng bềnh xa
Tạ từ khe quỷ đường ma
Cho tôi dựng lại mái nhà nhân gian
Xin cùng cỏ biếc quá quan
Một đường nhân ái rẽ làn mây bay
Trong xe nàng nhẹ quơ tay
Ngoài đồng lúa đã dâng đầy lúa hương (2770)
XXIII. Bao năm tơ tưởng ↑
Bức thứ hai mươi ba:
(Kiều nhìn qua màu xanh vách núi cố huơng mới ngộ ra chính
hoàn cảnh thiên nhiên và thân thuộc ban đầu đã tạo nên
tâm thức nàng - chỉ có quê hương mới mang lại thứ
chân hạnh phúc – viên Ngọc Báu trong mình mà mãi lãng quên)
Kiều qua muôn dặm bụi hường
Thôn mây vần vũ, quán sương rạc rời
Vượt non xe kiếm mặt trời
Sang sông ngựa hí trông vời nước xanh
Xe theo vó đổ mưa nhanh
Người qua đồn cũ ngó thành rêu trơ
Núi non thấp thoáng sương mờ
Rõ ràng đâu phải giấc mơ đêm tàn
Chao ơi suối tía đồi lam
Bao năm tơ tưởng lòng tam tứ sầu (2780)
Cỏ cây xưa vẫn xanh màu
Xanh ơi! Một cõi nhiệm màu trong ta
Xanh từ mấy chục năm qua
Dạy người khôn lớn yêu nhà yêu quê
Ta đi – xanh gọi ta về
Nôi ru trời đất bốn bề trăng sao
Mặt trời luyện chí người cao
Núi non giục vượt ba đào đấu tranh
Cỏ hoa dậy đức hiền lành
Chim muông nhịp bước xuân hành tiến đi (2790)
Mây bay nhủ lẽ từ quy
Mãi quên một cõi lưu ly toả ngời
Mùa Xuân dậy lý đất trời
Mùa Thu dậy tiếng ru hời gió thu
Mùa Đông để trán ưu tư
Hạ Vàng để mắt trầm từ thâm sâu
Dậy hoà bốn biển năm châu
Dậy khai địa ngục, dậy xâu mộng vàng
Bản di chúc toả hào quang
Mẹ, Cha thầm nhủ con đàng – vượt lên (2800)
Lòng chung bát ngát cõi Tiên
Trí ngời quẫy khúc Rồng thiêng vẫy vùng
Giờ đây tâm trí tao phùng
Tái sinh giữa tấm lòng chung sơn hà
Xanh xanh đất mẹ hiền hoà
Giang tay ôm đứa con xa bấy ngày
Nàng còn mặc khải ngất ngây
Non cao phục xuống một bầy voi xanh
Dây diều đây dựng quách thành
Non ơi non vẫn yên lành đó non (2810)
Ô kìa! Ngũ Nhạc chon von (° )
Mai Sưu vươn ngọn hao mòn bạc sương
Phượng Hoàng núi nghỉ cánh hương
Bao năm theo gió tha phuơng gọi người
Triền này, Cổ Vịt rừng tươi
Triền kia, Đá trắng là nơi trại mình
Nương khoai gốc sắn là tình
Cỏ hoa mây suối tạc hình vóc ai
Nhìn ra tre trúc vươn dài
Cầu Giòng thôn, khói bay vài sợi lam (2820)
Suối giăng lấp lánh tơ ngàn
Đồi kia gởi nấm mộ tàn hoa leo
Xe qua đàn trẻ ùa theo
Dắt nhau lả tả hò reo rộn ràng
Nắng chiều rũ xuống mênh mang
Líu lo sáo đậu trên tàng Đá Đôi
Khe sâu nước vọng bồi hồi
Mái rêu Nghè Nấm lợp trời nhung xanh
Đường viền sỏi đá quanh quanh
Chốn xưa đã hiện nét tranh lạc hà (2830)
Ngực mừng tưởng vỡ tan ra
Nàng truyền xuống ngựa thướt tha bộ về
Bước chân nẫu nhớ mùi quê
Đất truyền nhựa mạch, mừng tê tái người
Lòng rạo rực hé môi cười
Mở ra bát ngát hơn mười Kinh Thơ
Cỏ cây tươi mắt xanh chờ
Núi non chín ửng phất phơ ráng hường
Ngồi trên cội đá ven đường
Áo Kiều lay vạt tà dương nhiệm màu (2840)
Nhìn trời ngâm khẽ đôi câu
Ý thơ theo bướm quanh đầu vờn bay
Cỏ cây ngan ngát hương say
Đồi Thu chợt cánh chim bay hoạ đờn
Tiếc đời hoài mấy năm hơn
Tìm nơi bọt nổi mây vờn hồi sinh
Nhãng quên Báu Ngọc trong mình
Là quê hương kết muôn hình hào quang
Bày chi địa ngục thiên đàng
Bên trong sự sống mênh mang tràn đầy (2850)
Bây giờ mới hiểu lời Thầy
"Cỏ hoa đâu chẳng hiện bày chân ngôn
Con người cứ mãi xa nguồn
Đày mình giữa những chán chường quẩn quanh
Cho người tu luyện rừng xanh
Thầy xin cày cuốc tựu thành tự nhiên
Mặc ai tìm kiếm Tây thiên
Riêng ta biến cái não phiền thành hoa
Hoài công sớm tối ê a
Chi bằng hái cúc ươm trà ngẫm thu (2860)
Tu mà chẳng biết mình tu
Nhập cùng mối Đạo cho dù rong chơi
Thân tự tại giữa đổi dời
Một lòng vô bệnh – trí ngời lên cao
Ngâm thơ giữa cõi trần lao
Dù cho vọng niệm khác nào Như Lai
Một khi minh triết xa người
Còn chăng giả tướng giữa nơi hồng trần
Phân chia này nọ, ngã, nhân
Càng tìm càng vạt gót chân lạc nguồn" (2870)
Bao năm trí bệnh đoạn trường
Truân chuyên đã trải, đau thương đã rồi
Dòng dòng nước mắt nổi trôi
Bây giờ mới mở chân trời uyên ngôn
Tóc nàng dài sợi hoàng hôn
Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều
Một vùng mây núi đăm chiêu
Dưới chân giun dế nở đều trường ca
Kiều lên trang trại quê nhà
Mảnh trăng theo hiện lên tà áo lơi (2880)
XXIV. Lắng tiếng chim vang ↑
Bức thứ hai mươi bốn:
(Kiều đi hành hương đền Mẫu – ngôi đền
mang nhiều kỉ niệm từ thủa ấu thơ)
Dưới tàng đào lý hồng phơi
Kiều ngồi rửa mặt chim khơi tiếng lòng
Cánh hoa rụng trắng thau đồng
Đáy in thăm thẳm từng không xám chì
Sớm nay má ửng xuân thì
Nét mày dìu dịu, đường đi não nùng
Vai thon óng giải tơ nhung
Vương qua gò yếm một vùng hạ xanh
Tay lan trắng muốt đôi nhành
Vớt hoa làm rụng hạt long lanh trời (2890)
Lim dim nét mắt mê người
Dịu đưa khăn lụa cổ ngời nhành cao
Trên đào hoa dưới má đào
Hai bông đua sắc nghiêng vào thau hương
Ngó hoa mây cũng ửng hường
Vờn đôi bướm nhỏ bên tường nịnh hoa
Xóm gần cho đến thôn xa
Mấy ngày kéo đến đầy nhà viếng thăm
Xa quê biền biệt bao năm
Trùng hoa đất cũ – âm thầm sầu bi (2900)
Lối xưa – rêu lục xanh rì
Tường xưa – hồng rụng hoa Ty Tâm gầy
Nàng về - lại trắng hoa bay
Hoa đơm vì một nét mày Tố Nga
Gót ai tía nở nụ cà
Sáng lên dạo núi, chiều ra thăm đồng
Áo hoa, nón giắt nụ hồng
Chân dài, thắt một lưng ong dịu dàng
Sen hường đôi cánh mơ màng
Nghiêng mình giặt lụa, suối vàng dòng lơi (2910)
Có trưa ngồi vẽ mây trời
Có đêm đọc sách trăng rơi vàng thềm
Ngoài song liễu lả lơi mềm
Ngừng tay nàng tưởng áo xiêm ai về
Nhìn hoa trĩu cánh trăng khuya
Tắt đèn lặng ngắm sao chia mấy vần
Có chiều vời trẻ hương lân
Qua hiên dạy hát ngoài sân gió chờ
Quây quần bên ánh trăng thơ
Ôm đàn rung mấy nhánh tơ hoàn đồng (2920)
Nàng riêng ở mái thư phòng
Thơ treo đầy vách một lòng thênh thang
Sớm nay sắm sửa quả nhang
Dâng hoa đền Mẫu thăm tàn lan xưa
Thuở nào cánh rụng như mưa
Nhặt về ướp kín trang thơ khói vờn
Tục truyền chân Ngũ Nhạc Sơn
Có đầu gối đá son hường màu da
Một hôm trẻ đánh trâu qua
Lưng non vẳng tiếng hát ca trẻ nào (2930)
Tìm lên đầu gối đá cao
Ngồi đây một vị hồng hào uy nghiêm
Chung quanh hoa bướm chao nghiêng
Lưng trời thêm tán mây viền rũ che
Trẻ trâu Đa Cóc gần kề
Tranh đem cờ quạt rước về thôn trang
Trẻ Yên Mô lại xa làng
Vòng tay làm kiệu vội vàng rước đi
Bẻ lau làm ngọn linh kỳ
Nón xâu cán lọng khác gì tàn hoa (2940)
Cung nghinh vừa đến rừng nhà
Giải mây đầu núi hoá ra kiệu rồng
Thần Nhi cất tiếng cười trông
Bay lên vút cánh chim hồng khuất mây
Trẻ nhìn như ngất như ngây
Chạy về đem chuyện tỏ bày trước sau
Thôn làng người vội kéo nhau
Ra coi một chiếc tán màu còn bay
Thế rồi ghi sự tích này
Dựng ngôi Đền Thánh tháng ngày lửa hương (2950)
Riêng nơi đầu gối son hường
Dựng thành Cửa Mẫu trầm vuơng sớm chiều
Thềm lên đá xếp cheo leo
Chung quanh tùng bách gió reo nhạc đàn
Giữa sân trồng cội ngọc lan
Bốn mùa hoa trải vô vàn cánh rơi
Hành hương vừa tới chân đồi
Mùi bông thanh khiết trao người phương xa
Chị em thuở chửa lìa nhà
Hay thường theo mẹ dâng hoa cảnh này (2960)
Kể từ gặp trận cát bay
Cành Xuân vùi dập lắt lay bẽ bàng
Nhiều đêm thoảng giấc mơ vàng
Bước theo theo mãi con đàng quanh co
Rừng xưa chim vẫn chuyện trò
Thềm phơi quạnh quẽ, mái co lạnh lùng
Dấu chân buông giữa mông lung
Mà sao lạc mãi trong vòng khói sương
Ngôi đền đôi mái trầm vương
Tàn lan xanh đó bên đường chưa phai (2970)
Tỉnh ra thương phận lạc loài

Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm
Thềm rêu tím ngắt ngôi đền
Hồ như vóc dáng Mẹ hiền chờ ta
Trách con nỡ bỏ quê nhà
Trách sông chia cách đường xa lối về
Cho lan nọ nhớ lan kia
Một trăng vàng bủng sầu chia mấy lòng
Cho dầu dãi nhớ long đong
Buồn tê đầu lối, sầu hong cuối đường (2780)
Bây giờ lãng đãng qua nương
Sách hoa theo vượt dặm trường phiêu diêu
Chừng nghe mây nổi theo Kiều
Mây bao nhiêu dặm bấy nhiêu dặm tình
Đồi hồng chín mọng bình minh
Bờ Tu, Trại Sắt ẩn mình sương bay
Khoai môn xanh lẫn ngàn cây
Qua đồi dứa đỏ nghe bầy nhạn xao
Nương lang tiếp ruộng thuốc lào
Lối qua Oẻ Ngựa, lối vào Yên Mô (2790)
Chim Rừng Cấm hót líu lô
Lẵng ai sách cả sương mờ chon von
Chập chờn bướm trắng leo non
Áo bay bạch lộ chân son tóc thề
Bao năm bước lạc cửa mê
Giờ như mây nổi hồn quê bừng bừng
Dấu chân khắc lối in rừng
Nhựa thơm đất mẹ chôn từng dấu đi
Thôn xa mấy cụm xanh rì
Mái đền cong vút uy nghi hiện dần (3000)
Tàn hoa trắng cội phù vân
Tiếng chim khuyên rụng trong ngần như sương
Bao năm vẫn một mùi hương
Trước sau thơm đến dị thường trong ta
Phải chăng hoa của quê nhà
Thơm trong hoài niệm mới là mãi tươi
Hoa cao quý bởi lòng người
Mượn hoa sánh cái tuyệt vời hồng nhan
Hương ơi! Thơm nhé đừng tan
Đừng như lò biếc, đã tàn hương mơ (3010)
Tay Kiều vuơng vấn ngàn tơ
Nghe trong dáng dấp ngày thơ ấu về
Tưởng khi mái tóc vương thề
Nghiêng vai bạch thạch thơ đề trăng sao
Tưởng khi gò má bông đào
Áo bay hoàng hạc, ý vào hồn mây
Ngày xưa cô bé qua đây
Hoa nao dệt ý, cỏ ngây gợn tình (3020)
Là hoàng hôn lẫn bình minh
Cho ta tưởng suối, cho tình tự hương
Núi non mở lá thần chương
Hoa phô bóng Thuý, khói vương dáng Kiều
Từ trâm cài tóc mây chiều
Dặm Xuân, dại lỡ gieo liều gót hoa
Bây giờ lắng gợn thu ba
Cỏ cây lại trổ màu ra thuở nào
Khám thờ bay sợi trầm cao
Áo tơ rơi hạt nắng đào còn run (3030)
Vẳng nghe chuông tự Chùa Hun
Hồ đang vượt thức mây un ngọn đèo
XXV. Kiều ngồi ven suối ↑
Bức thứ hai mươi lăm:
(Kiều thăm lại mộ Đạm Tiên, bài thơ tức cảnh
khắc trên cây ngày xưa, bay lên bốn con bướm,
đậu trên bàn tay nàng như một đoá hoa)
Kiều Thu lá úa bay vào
Tiểu khê dải nước trong veo một dòng
Ai đem tơ lụa ra hong
Gió bay lụa xuống vàng lòng xuân thu
Đôi bờ liễu rũ vi vu
Soi khuê dung mãi – mãi từ bao Xuân
Chờ ai tàn cuộc phù vân
Lá bay tưởng tóc, bướm vần tưởng hoa (3040)
Dòng Thu biền biệt quan hà
Mãi đi riêng để liễu sa nụ vàng
Đất xưa mộ nấm hàng hàng
Bây giờ cỏ nội lau ngàn lất lây
Cành lê trắng cũng hao gầy
Tưởng hồn lưu lạc ngó mây đoạn trường
Tàn tàn mộ quạnh khói hương
Hiu hiu gió thổi nắm xương trở sầu
Liễu xanh lả ngọn bên cầu
Xuân thu chất chứa trên đầu mấy mươi (3050)
Bẽ bàng thay đoá cúc tươi
Cỏ cây như thế - mỉm cười chi hoa
Biết đâu ngàn vạn năm qua
Mối tình cây cỏ cùng ta kết nhiều
Nên Thu hoa sắc tiêu điều
Vì Thu ta cũng đăm chiêu võ vàng
Buồn ra bãi mộ thăm nàng
Thấy chi, trong đám đoạn tràng lá bay
Tiểu khê cỏ vẫn xanh dày
Mùa Thu chết đuối bóng mây giữa dòng (3060)
Sầu dâng chan chứa trong lòng
Mặt trời gác núi như vòng ngọc rơi
Tiếng cò lẫn giữa mù khơi
Về Nam cánh trắng muôn đời nổi cao
Kiều ngồi ven suối nao nao
Sóng xanh tưởng hội xanh nào cuối Xuân
Chốn này xưa nhớ dừng chân
Khóc mồ bạc phận khắc vần thơ gieo
Nước in kiều lẫn bóng Kiều
Vó câu ngựa giục ít nhiều hương rơi (3070)
Áo tơ thưa đẫm tơ trời
Trời sa khói tím, suối dời dòng cam
Một làn Xuân gợn mang mang
Mắt giao sóng mắt mơ màng liễu tơ
Đoạn trường từ mấy vần thơ
Thân cây, trâm khắc chưa mờ sương phong
Sóng thiêng thưở nổi hai lòng
Mười lăm năm buộc bốn vòng tơ oan
Kể từ có kẻ cáo gian
Bánh xe đưa chiếc hoa tàn vụt bay (3080)
Lầu xanh giam tấm thu gầy
Hết tay lừa lọc lại tay lọc lừa
Lỡ làng đành phận tơ mưa
Giữ chi liễu thải hoa thừa mặc ai
Thời gian gió dạt mưa dài
Trời cao nguyện trả thân này cho qua
Nghiệp đàn trót nợ âm ba
Hết vào vực lửa lại sa bẫy ngầm
Ngón tay mười mạch lệ thầm
Ôm thân đi giữa cát lầm gió bay (3090)
Đầu đường trôi nổi bóng mây
Sau lưng còn lại những ngày vàng hoe
Còn viền trăng đó bạn bè
Nằm đêm dõi mộng chờ nghe gió trời
Người cho chẳng được làm người
Biến ra một thứ đồ chơi lạ lùng
Ruột tằm quặn quại năm cung
Bốn dây rên xiết gấm nhung đổi màu
Thôi thì ngọc trả dòng châu
Chút tình xin gửi đáy sâu Tiền Đường (3100)
Thì thôi cho dứt đoạn trường

Cầu qua nhịp thuý, lệ vương nhạc vàng
Sông xanh sổ trải nguyên trang
Tên ai lác đác đôi hàng sao rơi
Bóng in tưởng dấu hoa ngời
Dòng sông ảo hoá gọi mời thiên thu
Còn chi biển hận non thù
Sao giăng đáy nước, sa mù đầu non
Chừng nghe sông hát véo von
Âm dư ngày cũ trong lòng hòa nhau (3110)
Tơ xưa đan lưới ưu sầu
Giờ đây hóa hiện nhịp cầu qua sông
Sao rơi lấp lánh giọt hồng
Người gieo mặt sóng bềnh bồng như sao
Xuôi dòng dịch hoá nao nao
Cửa ra ảo ảnh, lối vào như nhiên
Thân ta một hạt lệ thiêng
Đoạn truờng sổ quý thấm riêng một tờ
Khởi từ lạch suối xanh mơ
Rồi trôi nổi đến bên bờ sông Thương (3120)
Bốc lên thành sợi mây hường
Sợi mây cất cánh thiên hương trở về
Bây giờ bên ngọn tiểu khê
Mây tan thành hạt bồ đề hào quang
Bao nhiêu nghịch cảnh bên đàng
Khiến ai đọng ngọc kết vàng đó thôi
Sóng sông – giúp vượt cầu đời
Sóng đàn – giúp vượt cầu hơi bảy màu
Chẳng bờ trước, chẳng bờ sau
Lại qua tim óc - một bầu trời xanh (3130)
Bước lên – mỗi bước đẹp lành
Năm châu hoà hợp – tự thành Một Hoa
Thông linh Đất Mẹ, Trời Cha
Hợp đoàn chim Lạc hót ca rộn ràng
Đổi thay chuyển nghiệp trần hoàn
Bốn phương Vuông Chỉnh – Một Đàng Tròn lên
Cây xưa Kiều khắc thơ tiên
Giờ bay đàn bướm dịu hiền phất phơ
Bốn con như bốn dòng thơ
Quẩn quanh vờn mãi bên bờ vai thon (3140)
Kiều đưa năm ngón tay son
Lạ thay đàn bướm có con đậu vào
Rung rung cành nguyệt cánh đào
Nở trên cung mệnh khác nào dâng hoa
XXVI. Báo ngày xuân quang ↑
Bức thứ hai mươi sáu:
(Kim Trọng về thăm Kiều, dừng cương ngó dòng tiểu khê,
chợt bao nhiêu tiếng đàn Kiều, theo nước chảy,
hoá thành bản Vô Thanh, khiến Kim thấy được hào quang trên dung nhan Thuý Kiều)
Cuối Thu theo gió tìm qua
Bước đi là một giẫm nhoà nhạt sương
Bạch đàn gỗ trắng bên đường
Đàn chim khép cánh bụi đường quan san
Đồi cao nở đoá hôn hoàng
Tảng mây lấp mặt trời vàng vàng hoe (3150)
Cồn rừng ung ủng khói che
Diều hâu báo rét tiếng nghe mơ hồ
Nẻo xa tím ngắt cỏ bồ

Sương vàng lãng đãng bóng cô thôn chiều
Quá quan Kim vượt tìm Kiều
Bâng khuâng băng núi, tiêu điều vượt sông
Nhớ người cương buộc chùm bông
Áo xanh nắng nhạt, ngựa hồng gió phai
Riêng trăng cật ngựa u hoài
Cỏ xanh xanh tưởng dấu hài cố nhân (3160)
Đêm thâu giục giã trăng gần
Ngày dài vó soãi phù vân dập dồn
Về qua muôn dặm hoàng hôn
Dừng cương Kim ngó cố thôn Thạch Đào
Đất xưa Đố lá hội nào
Hoa nay nhớ chuyện hoa nao mỉm cười
Liễu xanh tha thướt dáng người
Thầm trông dạc vóc, ngó vời gầy hoa
Ngày nào mắt đắm thu ba
Nước xuôi theo tóc la đà cài hương (3170)
Tấc lòng lẫn nhớ pha thương
Tiểu khê ơi! Sóng bên đường về đâu
Một dòng chảy miết thiên thâu
Còn in xanh chuyện tình đầu thơ ngây
Chàng nhìn giải nước lùa mây
Khe xanh biêng biếc hoá dây đàn lòng
Sóng ngoài hoà với đàn trong
Trên yên tượng ngọc mơ mòng năm cung
Tơ nào chén lệch trăng rung
Nghiêng hiên Lãm Thuý tơ chùng sao rơi (3180)
Tơ nào suối lượn chơi vơi
Hương dâng sợi cũ đàn lơi dòng huyền
Tơ nào hạc cất trầm lên
Dưới hoa sương rụng, đầu thềm khói giăng
Tơ nào rực rỡ hiên trăng
Ba lòng neo một bến hằng đêm xưa
Con tim rạo rực âm thừa
Bây giờ rung với nước xưa một nhành
Bản hoà bát ngát Vô Thanh
Đoá phù dung mộng đã đành trắng tay (3190)
Mơ hồ như một hoa dây
Theo hương về cội, bao ngày xuân quang
Tiếng ngân đã bặt lòng đàn
Hồn Kim thanh thoát trong ngàn liễu tơ
Bếp hồng cao ngọn khói mơ
Mùi rơm chiều thoảng bao giờ chưa quên
Ngựa dài vó giục đường lên
Mặt trời đỏ thẫm ngọn liềm đá trau
Dáng Kiều thấp thoáng vườn rau
Có con mèo mướp theo sau quện hoài (3200)
Chiều vàng bướm cũng vàng bay
Vờn trên hoa cải vàng dài bông hương
Hoàng hôn phủ tóc Mỵ Nương
Hào quang trời ửng thêm hường má Xuân
XXVII. Tìm động hoa vàng ↑
Bức thứ hai mươi bảy:
(Bốn người lẩy Kiều, canh bánh chưng đêm nơi thôn Bạch Vân
(Quê hương Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm). Nhà sư kể chuyện vui
chờ xuân - huyền thoại một bài thơ nơi Chùa Hương Tích, vì nghiệp luỵ
thử thách đã nhập vào đời Kiều - đi suốt Đoạn trường,
rồi thăng hoa trong Việt Tính Dân Tộc)
Đêm khuya nơi xóm Bạch Vân
Bốn người luộc bánh chưng xuân chuyện trò
Lửa bừng lách tách reo hò
"Chú miêu" nằm cạnh co ro sưởi mình
Một chàng mảnh khảnh thi nhân
Một người áo vải nông dân hiền từ (3210)
Một Chiến sĩ, một Thiền sư
Vây quanh bếp lửa hồng như ráng chiều
Thuốc lào nhả khói đăm chiêu
Rung đùi sư bác lẩy Kiều ngâm nga
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài"
Thầy sao lắm vẻ cảm hoài?
Chờ Xuân bạn kể nghe vài chuyện vui
Thầy se điếu xuống cả cười
Thì dư nước mắt khóc người đã sao (3220)
Rằng: Xưa có gã chiêm bao
Ngâm thơ rỗng bụng tạt vào chùa Hương
Ăn nhờ đôi bữa rau tương
Một đêm – chuông rụng trăng vương gió ngàn
Lòng chàng siêu thoát mênh mang
Sáng lên tìm Động Hoa Vàng chen mây
Gối tay ngủ cỏ nằm say
Tỉnh trông – thì lách lau dày lối ra
Giật mình thấy một chùm hoa
Nhành lan Bạch Ngọc bên toà tịch tâm (3230)
Ý thơ nổi dậy khôn cầm
Cảm lan dệt một trường ngâm xuất thần
"Kiếp hoa trắng ngát hồng trần
Nụ dài tưởng bút thi nhân đại đồng
Dù nơi động núi sương phong
Nhuỵ lan vẫn toả tấm lòng tinh anh
Lá dài cong nhịp cầu xanh
Vượt qua đoạn lệ trổ nhành hoa Tiên
Thiên hương hé nụ cười hiền
Biến thân qua vạn bút nghiên hoá Người" (3240)
Thần Nhân ra khỏi cuộc đời
Tim đông thành ngọc, vọng lời ngân xa
Thần Thơ quyện với Hồn Hoa
Vào nàng con gái nguyệt ngà họ Vương
Cỏ cây quanh động chùa Hương
Hoá thân làm nhịp gió sương đời Kiều
Nào là Mã, Sở gian điêu
Huyện quan Kim Trọng, đại triều Hồ Tôn
Cũng vì diệu dụng càn khôn
Cho bài thơ tỉnh mê hồn bay cao (3250)
Cho Thơ hoà với trăng sao
Cho trăng sao hoá chiêm bao cõi Người
Khí thiêng sông núi nên lời
Cỏ cây giam kín một đời tinh anh
Thần Nhân mới ứng thân thành
Một chàng Từ Hải áo xanh bạc màu
Giang hồ bụi nhuốm hàm râu
Đón bài thơ nọ khỏi cầu đau thương
Lại vào sư bác Văn Chương
Đem Kim Cương cắt tơ vương giấc vàng (3260)
Cho Thơ hoà với mênh mang
Cho mênh mang đọng hạt đàn Vô Thanh
Đất dày nhập với trời xanh
Đoạn trường xưa hoá trường thành lưng mây
Áo thơ hồng quả tươi cây
Tiếp thu lẽ sáng chan đầy Mạch linh
Muôn loài mở cuộc hồi sinh
Dựng lên khắp cõi bình minh Đại hoà
Kiều giờ là cỏ là hoa
Đường gân mạch máu xương da cũng nàng (3270)
Bài thơ Thoát vận đoạn tràng
Hoá thành hạt ngọc nghiêm trang Trời Người
Nhà nông nghe chuyện mỉm cười
Xắn tay vớt bánh Chưng ngời lá Vuông
Mặt trời Tròn bánh Dầy hương
"Tròn Vuông Trời Đất" - lên đường sáng soi
Trẻ reo pháo nổ từng hồi
Bạch Vân Am ngát lưng đồi trầm mai
Buồng trong thoảng tiếng ru hoài
"Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan" (3280)
Mây bay trời dựng tàn vàng
Gió cao tung cánh Phượng hoàng núi Đông
Rừng xa lá cuốn bềnh bồng
Dáng như Sư tử dựng lông vươn mình
Đất trời thắm lại Minh Minh
Dân gian mở hội thái bình bốn phương
Thánh Nhân quẩy gói lên đường
Bước chân Tự Chỉnh áo vương màu trời
Dáng xa như úp chuông ngời
Tiếng ngân đất trổ tuyệt vời trăm hoa (3290)
Non Hồng núi Tản chim ca
Sông Hà sông Cửu la đà dòng xuôi
Núi sông chiếu diện tinh khôi
Ngọc lên mặt biển, vàng trôi mạch rừng
Mừng Người Trời Đất tưng bừng
Ruộng Lam trâu kéo một vừng long lanh.

 Phạm Thiên Thư 
Theo http://vietmessenger.com/




1 nhận xét:

  Dịch giả Dương Tường: Dịch ‘Kiều’ xong tôi thấy mình đã báo hiếu tiếng Việt 27 Tháng Hai, 2023 Dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh là một ...