Thạch Lam - Những tác phẩm
Nhận xét về
sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết: "Xúc cảm của
nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thach Lam là một
nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh.
Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú
của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học". (Theo tuyển tập
Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)
Giữa bộn bề
phồn tạp buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng
mạn, Thạch Lam được nhận như một khách hàng đặc
biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy đã không đưa ta tới những chân trời
phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trời lãng
mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đáng sống, con người dịu dàng nhân ái ấy
đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân
trọng sự sống nơi trần gian. Nói như Nguyễn Tuân: "Xúc cảm của nhà
văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thach Lam là một
nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh.
Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú
của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học".
Cũng là một
nhà văn có tâm huyết với đời, Nguyễn Tuân đã đem tấm lòng mình ra để cảm Thạch Lam, để thấy được bên trong dòng chữ rất
đỗi yêu bình ấy là cả trái tim một con người không khi nào vơi cạn tình yêu cuộc sống và tình yêu với dân nghèo. Lời nhận xét của
Nguyễn Tuân đã khái quát được phẩm chất tâm hồn Thạch Lam và những giã trị đích thực của văn
chương Thạch Lam.
Giống như cái
cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ sâu chắc vào
mảnh đất cuộc đời để từ đó tỏa ra tán lá rộng, dày góp phần làm cho cuộc sống
tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất phát từ những
rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực, nẩy nở lên từ những tình cảm
của nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình. Nếu thiếu đi
trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện
thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên lặng. Vâng, không gì khác ngoài tình yêu và tâm huyết của nghệ sĩ đã làm nên
giá trị cho tác phẩm.
Giá trị của
những truyện ngắn của Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Nguyễn Tuân cho rằng: "Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo".
Sống trong
lòng chế độ thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn bạo của
một chế độ mục rữa, thối nát, Thach Lam đã dám nhìn thẳng vào sự thực ở đời để
thấy được bao kiếp người đang quằn quại đau khổ, đang vật vã trong những bế
tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn
nhà văn, khơi gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành. Có
lẽ Thạch Lam đã đau nỗi đau của con người trong
thời đại ông đến thế nào, ông mới có thể bước qua những ngưỡng cửa văn học lãng
mạn để đến với văn học hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông
về văn chương:" Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho
người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới
giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú
hơn". Chính nhận thức đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với
những con người ở tầng lớp dân nghèo. Những "chân cảm"- phải chăng Nguyễn
Tuân muốn nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ Nguyễn Tuân đã nói lên được
dòng tư tưởng, tình cảm dào dạt trong những sáng tác của Thạch Lam, cái đề tài mà mà ông quan tâm hướng
tới.
Hiện thực
cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ thuật
trong tay mình đã đào xới một mảnh đất để lật lên những vĩ hiện thực và tìm cho
mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mảng đề
tài về cuộc sống thành thị của xã hội "chó đểu", nếu như Nguyễn Công
Hoan tài năng trong việc khắc học bức tranh thế giới quan lại khả ố, bất lương
và Nam Cao rực rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu tư
sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống
của những người ở tầng lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội
tâm, đời sống tinh thần bên cạnh những nỗi khổ "áo cơm ghì sát đất"
Chúng ta
không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh "Nhà mẹ Lê" - một người
mẹ khốn khổ cùng với một người con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực
hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém phần bất kỳ một tác phẩm
nào viết về cái đói, cái nghèo. "Nhà mẹ Lê" là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của người mẹ đáng thương ấy
cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà "đứa lớn nhất mới mười bảy
tuổi, còn đứa bé nhất thì đang bế trên tay" chính là vấnđề đáng quan tâm
nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không thể thờ ơ. Viết
về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha thiết nhất
đối với ngòi bút nhà văn.
Với Thạch Nam
cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá. Và ông thấy
được ở trong cái lạnh lẽ của cơm gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ của bé Hiên
không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt cua, bắt ốc
không kiếm được cho con tấm áo.
Những con
người ấy thân thuộc với ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình
cảm khi viết về cảnh đời của những con người nhỏ bé. Có nhà triết học cho rằng,
biết xúc cảm cũng là một năng lực. Tôi thấy điều đó đúng với Thạch Lam. Cái
năng lực ấy vốn dĩ không phải của trời ban mà nó được hình thành từ chính tấm
lòng tràn đầy tình yêu thương của nhà văn đối với người
lao động.
Viết riêng về
tầng lớp dân nghèo, Thạch Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật
chất mà với ông, cái đáng sợ là sự xói mòn về tâm hồn. Truyện ngắn "Hai
đứa trẻ" đã chỉ ra bi kịch ấy. Cái mới của Thạch Lam trong việc thể hiện nỗi khổ con
người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong cảnh quẩn quanh, tù túng, bế
tắc, phải chìm nghỉm trong cái "Ao đời phẳng lặng" (Chữ của Xuân Diệu).
Cuộc sống của
Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần? Mỗi ngày cứ đi qua trong sự im
lặng đáng sợ của bóng tối, trong lặng lẽ của quầy hàng không có khách. một cuộc
sống không sôi nổi, không biết động, không mơ ước, cuộc sống ấy không đáng bị
thay đổi lắm sao? Ngay cả đến cảnh thiên nhiên cũng nhuốm vẻ u
buồn: "Chiều, chiều tối. Một buổi chiều chầm chậm lặng lẽ của cuộc đời và
đáng sợ nhất vẫn là bóng tối, bóng tối trùm lên phố huyện" Cái hay
của Thạch Lam là đã diễn tả bóng tối qua ánh
sáng leo lét của ngọn đèn dầu nơi chõng hành chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở
bác Siêu. Cái leo lét nhập trời nữa cũng không chống chọi nổi sự bao phủ của
màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng và bóng tối.
Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những chị Tí bác
Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể tỏa sáng được
giữa bóng đêm mịt mù của cuộc đời.
Truyện giản
dị, nhẹ nhàng mà gợi cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc
cảm của nhà văn đã đem đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn,
day dứt trong mỗi chúng ta.
Tôi đọc
văn Thạch Lam trong một buổi trưa yên tĩnh và
tôi thấy chưa hẳn nhà văn của chúng ta đã hoàn toàn thất vọng về cuộc sống. Cũng
giống như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua, tôi cảm
nhận được luồng gió vô tình mà Thạch Lam mang lại sau những trang văn tưởng
như bế tắc không có lối thoát ấy. Tôi vẫn thấy lờ mờ rằng hình như Thạch Lam cũng đồng cảm với Pauxtopxki trong
ý nghĩ: Dù ai đó có nói với bạn điều gì đi chăng nữa, bạn hãy cứ tin rằng cuộc
sống kỳ diệu và đẹp đẽ. Thạch Lam đã tin vào điều ấy. Ông tin rằng
chính linh hồn con người sẽ cứu sống con người ra khỏi sự tăm tối, chính những
ước mơ,hoài bão và cả tình thương của con người sẽ giúp họ vượt qua nghiệt ngã
của cuộc sống. Và ông đã xây dựng nên những tính cách như thế.
Ông đã thổi
vào trong Gió lạnh đầu mùa sự ấm áp của tình người, của lòng thương. Ông đã để
nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiên bớt đi cái lạnh, để Hiên cảm thấy
cuộc sống chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưng dù gió có lạnh đến thế
nào thì tình người vẫn cứ vượt lên trên tất cả. Nguyễn Tuân đã rất đúng khi cho
rằng: "Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc
sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh". Phải rồi, nếu không
có sự quý trọng cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiên sẽ
suốt đời không có được một manh áo ấm và triết lý về tình thương sẽ tuột khỏi
tác phẩm, rơi vào trong cái lạnh lẽo của thiên nhiên. Đọc Gió lạnh đầu mùa, tôi
không cảm thấy cái lạnh tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi
nóng của tình yêu thương con người.Vâng, tình cảm
thánh thiện trong tâm hồn của một đứa trẻ như Sơn sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc
nghiệt của thời tiết bởi vì "không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu
quý con người". Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lý ấy và
còn gì đẹp hơn một tác phẩm "ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công
bình... Nó làm cho người gần người hơn" (Nam Cao).
Có một ai đó
đã nói: Hy vọng chính là một nghệ thuật sống. Đọc như những trang viết của Thạch Lam, người ta cũng thấy một niềm hi vọng
được nhen nhóm lên từ trong chính những đau khổ, mờ mịt của cuộc đời. Nhà văn đã
yêu cuộc sống, trân trọng và nâng niu nó; đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem
theo cái hơi thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc.
Từ cái quẩn
quanh, ngột ngạt của cuộc sống tù túng nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy được
niềm tin ở tương lai cho dù nó thật mong manh, yếu ớt - mong manh như chính
cuộc đời của những con người nơi đây, yếu ớt như ánh sáng những ngọn đèn, ánh
lửa trong đêm tối.
Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn
lửa của niềm tin hi vọng. Tình yêu mến và trân trọng cuộc sống đã giúp
ông xây dựng nhân vật Liên trong "Hai đứa trẻ", để cho Liên có một
ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước của chi em Liên là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì trong nhận thức của con
người (Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:
"Tôi
thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời
không đủ sức đi mau
Có chi vương
víu trong hơi máy
Với những toa
đầy nặng khổ đau")
Nhưng với
Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên không phải
chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng của phố huyện
này. Con tàu chở mơ ước của chị em Liên về một Hà Nội đầy ánh sáng, Hà Nội của
niềm vui rực rỡ. Nên cái ước mơ được nhìn thấy chuyến tàu ở chúng ta thật bình
thường thì đối với Liên,nó thật mãnh liệt và lớn lao biết bao.Nhưng Thạch Lam muốn cho người đọc hiểu rằng: Liên
mơ ước chuyến tàu cũng chính là đang mơ ước về một sức sống sôi nổi hơn,về một
cuộc đời có nhiều ánh sáng hơn,nhiều niềm vui hơn.Và khi nhà văn miêu tả nỗi
khát khao bé nhỏ hết sức tội nghiệp của chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó
thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế, nhà văn
còn gợi lên trong ta những khát khao cao đẹp, những ước muốn được đấu tranh cho
sức sống tươi đẹp của con người. Nói như nhà văn Nga Sôlôkhôp: "Đối với con
người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng
người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho
con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích
cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người". Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhôp trong quan
niệm về văn học ấy khi ông khẳng định văn chương chính là thứ khí giới để làm
cho "lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Với Thạch Lam, "cái đẹp chính là sức
sống" (Secnưsepxki).Không có gì cao cả hơn sức sống trên trái đất này. Và
thông qua Hai đứa trẻ. Nhà văn đã mang đến cho ta một niềm tin về cuộc sống,thức
tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn mỏi, bế tắc, ngột ngạt về tinh thần, khơi dậy
trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn những đứa trẻ,cũng là cho
cái đẹp trên trái đất này.
Thiếu
đi tình yêu mến cuộc sống, lòng trân trọng sức
sống của mọi người xung quanh, làm sao Thạch Lam có thể viết nên những tác phẩm có
giá trị, những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh
về hạnh phúc, niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và cho cái rực rỡ
như những mặt trời không bao giờ tắt?
Có một lần
khi viết về Nguyễn Tuân, Thạch Lam đã khẳng định: "Trong cái vội
vã cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây,những sản phẩm đã hạ thấp văn
chương xuống mực những tác phẩm đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy
một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là một công
việc quý báu và thiêng liêng". Chúng ta cũng có trách nhiệm với ngòi bút
của mình. Đọc văn Thạch Lam, quả thực, ta thấy được "đầy đủ cái
dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học".
Nguyễn Tuân
đã cảm nhận ở Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút nhà
văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn dịu dàng trong hành
động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để
cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé nhỏ nhất trong
đời. Văn Thạch Lam cũng có cái phong thái ấy. Đó là
phong thái của những tác phẩm "cốt cách và phẩm chất văn học". Trước
hết nên hiểu thế nào là một tác phẩm có "cốt cách và phẩm chất văn
học"? "Cốt cách" là cái riêng, cái độc đáo, phong cách thể hiện
được hồn người, tình người. Một tác phẩm có "cốt cách" phải là một
tác phẩm có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết và khơi gợi những
tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có "phẩm chất văn học" nghĩa là phải
được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiêu biểu hiện nghệ thuật
tương xứng.
Quả thực ta
đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao,
hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc
cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giờ đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhặn, bình
dị, đượm buồn trong lối viết của ông. Cái dư vị Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất
cuộc sống với những đau khổ của con người, những nỗi thương tâm của những chị
Tí, những cô hàng xén và những cao đẹp trong hồn người: tình yêu thương con người của bé Sơn, khát
vọng đáng quý của Liên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng
hoàng lan) khi trở về quê,... Những rung động ấy chính là cái dư vị của chất
thơ trong trang viết Thạch Lam và đó cũng là "nhã thú"
mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ
mà Thạch Lam lượm lặt để góp lên trang viết của
mình - một chất thơ bàn bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là cái đẹp.
Đưa ta vào
thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn, Thạch Lam đã có được "niềm vui của
những người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của những người biết vươn tới tương
lai" (Pauxtôpxki)
Suốt đời tâm
huyết với văn chương và những năm tháng ngắn ngủi của những ngày sống trên đời
này, Thach Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang viết, cho nó sống mãi với ý
nghĩa của những tác phẩm có giá trị.
Bằng
"những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học', Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý và trân
trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người nghệ sĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét