Chưa bao giờ
trong dòng chảy của Văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với
những phát hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương mình đã gắn bó trọn đời
trọn kiếp, vậy mà chỉ viết trong một đêm. Thế nên tất cả những hình ảnh, những
cảm xúc trong bài thơ đều là những hồi ức nóng bỏng, vừa là cháy đỏ yêu thương
thắm nồng tình cảm vừa là ngùn ngụt chí căm thù quân xâm lược.
Đoạn trích:
"Bên kia
sông Đuống
Quê hương ta
lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ
gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc
sáng bừng trên giấy điệp"
Đây là đoạn
thơ mở đầu phần hai của bài thơ. Sau khi bộc lộ nỗi niềm nhớ tiếc về một dòng
sông Đuống êm đềm, thanh bình nay đã trở thành quá khứ, thành nỗi xót xa đến
"rụng bàn tay" nhà thơ tiếp tục hồi tưởng về quê hương với những giá
trị truyền thống.
Mở đầu đoạn
trích Bên kia sông Đuống vang lên như một lời giới thiệu. Nơi ấy là nơi nào?
Đây chính là thôn Lạc Thổ - xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh, nơi
bờ nam sông Đuống của nhà thơ đang bị giặc chiếm đóng. Nơi ấy là nơi lưu giữ
những hồi ức, những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm của tác giả giờ đây đã trở thành
máu thịt của tâm hồn, trở thành một mảng ký ức của nỗi đau. Câu thơ ngắn gọn,
chỉ có bốn từ vang lên như một tiếng gọi, gọi lòng thi sĩ trở về với quê hương
đồng thời cũng như một tiếng lòng của thi sĩ, trở thành một nỗi đau day dứt ám
ảnh. Thế nên điệp khúc Bên kia sông Đuống cứ lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ.
Sau lời giới
thiệu ấy một quê hương Kinh Bắc đã hiện ra với một truyền thống văn vật:
"Quê hương
ta lúa nếp thơm nồng"
Bức tranh quê
hương hiện lên với phong cảnh đồng ruộng, bát ngát, hương thơm bay thoang
thoảng của lúa nếp. Đọc đến đây ta thấy quê hương của Hoàng Cầm có gì đó thật
gần gũi với mọi làng quê Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng thốt lên:
"Việt
Nam đất nước ta ơi
Mênh mông
biển lúa đâu trời đẹp hơn"
(Bài thơ Hắc
Hải)
Nói về quê
hương tác giả tràn ngập một niềm vui sướng tự hào. Cụm từ "quê hương
ta" đứng ngay đầu câu thơ gợi ra một niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương
của tác giả. Một quê hương tươi đẹp và trù phú, ấm no và yên bình. Hình ảnh
"lúa nếp thơm nồng" không chỉ gợi ra một khung cảnh quê hương giàu
đẹp, ấm no, mùa màng tốt tươi mà còn gợi lên truyền thống của quê hương.
Đó chắc hẳn
là một làng quê giàu truyền thống hội hè, đình đám, những lễ hội. Một Kinh Bắc
cổ kính lâu đời. Không chỉ có vậy hình ảnh lúa nếp thơm nồng còn làm cho ta nhớ
tới những sự tích "bánh chưng, bánh dày", ta liên tưởng đến những con
người hiếu nghĩa, hiếu thảo. Có thể cái "nồng" ấy còn là cái nồng của
cảm xúc của tình cảm tác giả.
Quê hương
Kinh Bắc đâu chỉ có ấm no, trù phú ở đó còn có truyền thống văn hóa lâu đời. Đó
chính là tranh Đông Hồ một nét văn hóa dân gian nổi tiếng của quê hương Kinh
Bắc.
"Tranh
Đông Hồ gà lợn nét tươi trong"
Quê hương
Hoàng Cầm là ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ - một làng nghề làm tranh dân gian lâu
đời. Người Kinh Bắc thuở xưa thường làm tranh để gửi vào đó những ước mơ, khát
vọng của mình về một cuộc sống ấm no. Câu thơ trên giới thiệu những bức tranh
quê hương với nét vẽ "gà lợn". Đó là cuộc sống của người dân, những
con vật gần gũi với cuộc sống của người dân. Tất cả đều được đưa vào tranh, trở
thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ta còn nhớ
đến những bức tranh như Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen... Nhưng có lẽ
Hoàng Cầm nói về tranh Đông Hồ là để khen cái tài của người làm tranh. Những
con người Kinh Bắc tài hoa, chất phác, bình dị và rất vui tính nữa. Họ đều là
những con người dễ thương, dễ mến và hiếu khách. Bức tranh Đông Hồ hiện lên với
nét vẽ "nét tươi trong" và được tác giả đánh giá là màu dân tộc sáng
bừng trên giấy điệp".
Người Đông Hồ
vẽ tranh bằng những màu lấy từ tự nhiên như màu đỏ của cánh hoa lựu, màu hồng
của hoa sen, màu vàng của nghệ... tất cả đều là những màu nguyên, đều gợi lên
nét tươi trong. Nhưng liệu có quá to tát khi tác giả nói là "màu dân tộc
sáng bừng" không, chắc chắn là không bởi đó là "màu dân tộc sáng bừng
trên giấy điệp".
Giấy
điệp" là một loại giấy mà có lẽ chỉ có người làm tranh Đông Hồ mời có bí
quyết để tạo ra một loại giấy mỏng nhưng rất bền và chắc. Câu thơ tràn ngập
niềm tự hào của tác giả khi nhớ về quê hương. Cái "sáng bừng" ấy là
cái sáng bừng của cảm xúc, của lòng tự hào kiêu hãnh. Một quê hương giàu đẹp
như thế làm sao không khỏi tự hào, kiêu hãnh cơ chứ và cũng làm sao không khỏi
đau đớn, xót xa khi mất đi quê hương ấy cơ chứ.
Nhưng khác
với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm lại khám phá đất nước ở một khía cạnh khác. Đó
chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra. Nguyễn Khoa Điềm
là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trường ca Mặt đường
khát vọng của ông được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của chiến trường
Bình - Trị - Thiên, đó là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ về vai trò của nhân dân,
về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nguyễn Khoa
Điềm đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã "gắn bó và san
sẻ", đã "đi trả thù mà chẳng sợ dài lâu". Cho nên ta có thể thấy
tư tưởng thấu suốt trong chương thứ năm của trường ca "Mặt đương khát
vọng" là đất nước của nhân dân, do nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ
trong đoạn trích:
"Những
người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu"
... Chẳng
mang một dáng hình, một lối sống ông cha"
Đó là sự cảm
nhận đất nước về phương diện địa lý. Tất cả những dáng núi, hình sông trên đất
nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua một động
từ, đó là "góp". Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể
của động từ ấy là những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa
Thánh Gióng, người học trò nghèo và cả những người dân bình thường... Họ đều là
những con người hiếu nghĩa, thủy chung, cũng giàu truyền thống hiếu học và cũng
kiên cường, anh dũng lắm thay: những núi Vọng Phu đất Tổ Hùng Vương, núi Bút,
non Nghiên, ông Đốc, bà Điểm...
Dường như bàn
chân nhân dân đi đâu, bàn tay nhân dân xây đắp những gì nhân dân đều hà hơi,
thổi linh hồn mình vào đấy. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân,
chính là tâm hồn nhân dân đó. Tác giả còn khắc sâu tư tưởng đất nước của nhân
dân khi diễn tả những thứ nhân dân làm ra: đều có núi Bút, núi Vọng Phu, có Non
Nghiên, có dòng sông, ao đầm nơi nào cung có bàn tay nhân dân xây đắp. Và từ đó
nhà thơ đi đến một khái quát.
"Và ở
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang
một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha"
Câu thơ đã
khái quát, khẳng định một điều rằng tất cả khắp mọi nơi trên đất nước đều do
nhân dân làm và thổi linh hồn mình vào đấy.
Vì vậy mà
trong đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất
nước.
Đất nước và
nhân dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực vừa linh thiêng. Một đất
nước vừa địa linh và nhân kiệt. Đây là một tư tưởng rất mới mẻ, khẳng định vai
trò của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già, trẻ, trai,
gái đều đã ngã xuống, máu của họ tạo thành sông suối, xương của họ tạo lên dáng
núi và tâm hồn của họ thành hồn sông núi, hồn xứ sở. Họ là người làm ra đất
nước.
Qua hai đoạn
thơ trên ta thấy cả Hoàng Cầm và Nguyễn Khoa Điềm đều rất tinh tế, tài hoa và
sâu sắc trong việc khám phá những điều kỳ diệu về đất nước. Thế nhưng, nhà thơ
đều có những sự khám phá thú vị của mình, đều tìm ra những nét khác nhau về đất
nước muôn màu và thăng hoa thành những cảm xúc, những vần thơ tuyệt đẹp.
Hoàng Cầm
khám phá đất nước trong nỗi nhớ thương, tiếc xót. Khi mà đau đớn đến quá đột
ngột lại cộng với tâm hồn tài hoa và nhạy cảm đã tạo nên những câu thơ về đất
nước đầy cảm xúc.
Khác với
Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng đất nước của nhân dân đã phải trải qua
một quá trình chiêm nghiệrn thực tế mới rút ra được. Nhưng cả hai nhà thơ đều
chung nhau là tìm về những giá trị truyền thống của quê hương đất nước, những
nét văn hóa của làng quê phong cảnh đất nước và cả hai thi sĩ đều có chung một
cảm xúc đầy tự hào và yêu thương.
Đề tài về đất
nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một
dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài
này đã nhiều nhưng Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất nước của Nguyễn Khoa
Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách
riêng. Hai mặt đất nước của nhân dân và đất nước giàu truyền thống, góp vào
vườn thơ về đất nước như hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời,
muôn thế hệ.
* Câu 3: Nhận
định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm
lý con người”. (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, trang 201).
Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh/chị hãy chứng minh nhận định
trên.
Bài làm:
Nhà văn Nam
Cao (1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước
cách mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những
ngày đầu.
Trước cách
mạng, do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ
“Chí Phèo” người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước
cách mạng trong tác phẩm “Đời thừa” mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ. Nhà
văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao la
đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi
kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết “Ông có sở
trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người”.
Truyện ngắn
“Đời thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong “Trang tiểu thuyết số 7” số ra
ngày 4-3-1943. Tác phẩm cùng đề tài này có “Mực mài nước mắt” của Lan Khai, “Nợ
văn” của Lãng Tử, "Đời thừa" còn gần gũi về đề tài với một số tác
phẩm của Nam Cao như “Trăng sáng”, “Nước mắt” và tiểu thuyết “Sống mòn”. Qua tác
phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm trạng của một người trí thức tiểu tư sản
trước cách mạng.
Hộ vốn là một
nhà văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm
“vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi” ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không
phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn
khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính.
Điều này được
thể hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương “văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung
nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa có” với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn
chương “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Như vậy qua những quan
niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn
chân chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách
nhiệm của người nghệ sĩ.
Thế nhưng
trước khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có
một gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người
vợ thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một
tâm hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại “tiền nhà, tiền gạo, tiền
nước mắm”.
Hoài bão văn
chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối
mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:
“Nỗi đời cay
đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không
đùa với khách thơ”
Thế là Hộ
điên lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ
trong cảnh túng quẫn ấy “đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa
đi vừa nuốt nghẹn”. Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của
Hộ: thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn
Hộ đầy tâm huyết ngày nào.
Và thế là để
có tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ
muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một
đám thị dân lúc bấy giờ “những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc”. Hộ
phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao
quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế
rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.
Hắn thấy xấu
hổ khi đọc những tác phẩm ấy “hắn đỏ mặt lên”. Đó là sự xấu hổ của một chút
lương tri ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì
không được viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn
gì đau đớn hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm
thông trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có
thể viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.
Thế là từ
không thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính
mình. Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự
khổ cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi - trước từng cơn
sóng dữ của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh
vào một bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.
Mọi chuyện
bắt đầu từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương
của mình đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn.
Gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn
là hắn coi Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc
hắn toan ruồng bỏ vợ con.
Khi say hắn
đã có những hành động vũ phu quá đáng “hắn chỉ tay vào mặt Từ” đuổi mấy mẹ con
Từ ra ngoài. Nam Cao đã có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong
lúc say. Nhưng tất cả đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ
thật đáng trách khi coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên
tắc tình thương mà hắn đặt ra trước đây “kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên
đôi vai mình” đã bị hắn đạp đổ.
Giờ đây đâu
còn là một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con
người vũ phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng
trách. Thế nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị
tha hóa ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin
lỗi và làm lành với vợ con.
Phải là một
người đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao
mới có thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn
chiến thắng. Hộ đã khóc “Anh chỉ là một thằng khốn nạn”. Giọt nước mắt ăn năn,
hối lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của
Từ:
“Ai làm cho
khói lên giời
Cho mưa xuống
đất cho người biệt li”
Như vậy, qua
tấn bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc
bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội
bất công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua
đây ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc
thầy của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội
thì nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét