Những nét chính trong quan điểm
nghệ thuật của Nam Cao
Nam Cao là
một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn
lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như
vậy bởi cả cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi
Mắt" của mình. Tất cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm
gương của một người "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh
để vươn tới những cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như
vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước
cách mạng tháng Tám.
Quan điểm
nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng
Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan
niệm văn chương nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho
hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang
sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên
là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.
Trước cách mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một
người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là
tâm sự của người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp
nghẹt sự sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc.
Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo
lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những tiếng đau
khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".
Trong
"Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng,
Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ
thuật làm nghiệp của mình thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới
làm nghệ thuật tốt được. "Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ
say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những
lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một
thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán.
Đối với hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng
quan tâm nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm và
trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả
trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương
thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn chương là đồng nghĩa
với sự sáng tạo "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm
theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào
sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có". Quan điểm của Nam Cao là, một tác phẩm văn chương đích thực phải góp
phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao
vừa cao cả, vừa đau đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác
ái, sự công bình, nó làm người gần người hơn".
Văn nghiệp
của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể hiện trước cách mạng tháng Tám. Quan
điểm sáng tác thể hiện trong hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời
Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp
về nghệ thuật cũng như tư tưởng của Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp
ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho
cuộc đời một sự nghiệp văn chương vĩ đại đến như vậy.
Câu 2 (5
điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ
chồng A Phủ - Tô Hoài).
Mị là nhân
vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài
đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập
"truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào
giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với
đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng
để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không
chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa
một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều
biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân
tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy
thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của
nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực
và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác
phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái
"dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó
là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống
đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân
cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở
kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do
uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một
đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,
nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau
khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc
cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị
dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với
nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong
muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện
trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa
xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau,
cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc,
Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp
thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi.
Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy
chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói"
được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy
thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau
hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt
lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa
xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này,
Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất
che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ
sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị
vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở
chỗ đó.
Và cuối cùng,
luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng
Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng
ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang
bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa
hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị
lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là
một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên
chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa
lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp
đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt
A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết
đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp
băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ.
Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước
mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống
mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị
nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến
chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra
“Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong
rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng
năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi
sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng
bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện
tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ
bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.
Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải
chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì
mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong
đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay
cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy
tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu
đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành
một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người
đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế
ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị
diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện
người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật
độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị
lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy
Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là
một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của
Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt
dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến
vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi,
còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn
ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo
A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị
phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước
chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương
thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời
đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây
thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị.
Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó
chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc
cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã
rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn
đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và
đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng,
trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng
đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài
đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những
người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số
phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và
chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong
trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác
phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất
công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự
phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc
sống.
Với truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì
sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong
cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn
ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này.
Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do
Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để
lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn
tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng
em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng
khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã
góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện
ngắn “Đời thừa”.
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối
gió mây đường mây
Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó
Có chở
trăng về kịp tối nay?
Cảm nhận thơ
trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm trạng
của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng
mạn Việt Nam, giai đoạn 1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu
lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Đúng
thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên
cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ
thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong
thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách
đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"
của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ
Dạ" trích từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiện cụ
thể và rõ nét trong khổ thơ:
"Gió
theo lối gió mây đường mây
Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu
bến sông trăng đó
Có chở trăng
về kịp tối nay?"
Với lời trách
cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ
trong mộng tưởng:
“Sao anh
không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng
hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc
Cảnh vật ở
thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những vườn
cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một
hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết,
rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai
mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn trề sức sống xanh tốt.
Màu “mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen cây
cối xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết vẻ đẹp của “vườn
ai”. Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa
quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ
đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau
làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở
đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi
được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng
cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới
lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn.
Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong
cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo
lối gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai
vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở
đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy “mây” và
“gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự là một điều
nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói “gió theo lối
gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi lí ấy.
Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ
trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?.
Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có
lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ
Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa
lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước
buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng Hương
Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại
“buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính
là con sóng lòng "buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu
nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa
bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn
đến thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình
lại thay đổi:
“Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó
Sông Hương
“buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm
xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ
tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách
đến thôn Vĩ cất tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền
ai” đó có chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang
lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng
như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng
của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy
quả thật là tình cảm của “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai
quên” (Thế Lữ).
Đến đây ta
hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều. Như vậy
diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất
“điên” của một tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn
được thể hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ này:
“Mơ khách
đường xa khách đường xa
Áo em trắng
quá nhìn không ra
Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình
ai có đậm đà?”
Vẫn là một
tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm
trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết
tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả.
Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính
mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu
chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình
trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của
thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đọc xong bài
thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -…. kịp
tối nay” để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu
thêm tâm tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn,
sâu lắng, đầy suy tư.
Bạn đọc đương
thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng
nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu
tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó
sẽ ở mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy
nắng và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét