Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021
Nguyễn Du - Đôi điều ngẫm nghĩ
Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du, Hội Kiều học, UBND tỉnh Nghệ Tĩnh, Bộ Văn
hóa Thể thao va Du lịch, Hội Nhà văn Việt Nam đã có nhiều hoạt động để tôn
vinh nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cũng đã có rất nhiều
người nghiên cứu viết về Nguyễn Du. Chỉ riêng một hội thảo quốc tế với chủ đề
"Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du - Di sản và các
giá trị xuyên thời đại" do Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ngày 08.08.2015. đã có hơn 100 tham luận,
trong đó có 13 tham luận đến từ các học giả Pháp, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Đài
Loan… với những hướng tiếp cận mới mẻ.
Lời cuối con đường
Lời cuối con đường
(Suy tư)
Sinh ra và đi về cõi chết. Trong cõi nhân gian không ai đi ra ngoài con đường
đó. Và trong cái vô cùng của thời gian, cái mênh mông vô tận của vũ trụ, trái đất
chỉ là một hạt cát, và sự tồn tại của một con người hoàn toàn là vô nghĩa.
… Sống là bi kịch lớn nhất của con người.
Những dòng này tôi viết cho riêng tôi, trong hành trình đi tìm con đường dẫn đến
chân lý. Vì thế nó chỉ là để giải tỏa những nghĩ suy không có câu trả lời, và
chẳng đem lại ích lợi gì. Bởi tư tưởng, tình cảm, và vạn vật luôn luôn thay đổi,
phù vân, phù vân [1]
Các triết gia, những nhà sáng lập tôn giáo là những người chỉ đường (Đạo, Bát
chánh đạo). Họ đã suy tư, để tìm con đường chân lý cho nhân loại, và nhân loại
đã đi trên những con đường ấy. Nhưng cho đến nay, đã bao nhiêu thế kỷ rồi, nhân
loại vẫn vậy? Thành ra họ cũng chỉ là những kẻ mù dẫn người mù đi trong đêm, họ
cũng không biết gì hơn một bà già nhà quê.
Kinh thánh đã nói, chân lý chỉ được mạc khải cho những kẻ bé mọn (Luc.10, 21). Heraclites cho rằng không ai tắm hai lần trên một
dòng sông. Ngược lại, Parmenides lại cho rằng bản thể vũ trụ là bất biến, vĩnh
hằng. Hegel thì duy tâm còn K.Marx thì duy vật. Phật phủ định linh hồn, phủ định
thượng đế, các tôn giáo khác thì lo cứu rỗi linh hồn và quy hướng về thượng đế.
Khổng Tử sống theo Thiên Mệnh, còn lão tử thì “vô vi”. Chủ nghĩa Thực dụng thế
kỷ 20 thì phủ định cả duy tâm và duy vật, cái gì có ích thì đó là chân lý...
Đâu là chân lý? Mỗi người phải tự tìm lấy chân lý cho chính mình…Phật nói: ”Hãy
tự thắp đuốc lên mà đi”
1. ĐỜI LÀ BỂ KHỔ
Đó là Khổ đế trong Tứ Diệu Đế.của nhà Phật. Khổ Đế là chân lý thứ nhất
trong Kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên Đức Phật giảng dạy cho các tỳ kheo. Tất cả
là vô thường, là khổ. “Này các vị, như vầy gọi là KHỔ ĐẾ [dukkhā]: sinh là khổ,
lão là khổ, bệnh là khổ; buồn phiền, bi ai, đau đớn thể xác, sầu não, thất vọng,
chúng là khổ; dính líu với những gì không ưa là khổ; cách biệt với những gì ưa
thích là khổ; mong muốn mà không được toại nguyện là khổ. Tóm lại, năm-uẩn [2] vốn
có tính chất dính-mắc là khổ”.
Nhưng có thực đời là bể khổ không?
Tất nhiên là không, bởi ai cũng ham sống sợ chết. Con người sinh ra, Tự nhiên
ban cho Ngũ Uẩn để cảm thụ thế giới. Sắc uẩn gồm có năm căn và sáu trần. Đó là
mắt, tai, mũi, lưỡi và thân thể. Thọ uẩn là sự tiếp nhận của lục trần bởi lục
căn. Chẳng hạn như khi tai nghe một bản nhạc thì cảm nhận được cái vui hay cái
buồn của bản nhạc đó. Tưởng uẩn là sau khi lục căn tiếp xúc với lục trần để
lãnh thọ các cảnh khổ vui và sau đó sanh ra tưởng nhớ để bắt đầu so sánh phân biệt.
Hành uẩn là sau khi so sánh phân biệt, ý niệm bắt đầu sai khiến thân và khẩu thực
hành những gì ý muốn. Vì thế ý nghiệp là nhân và thân khẩu nghiệp là kết quả của
nó. Thức uẩn là cái kho chứa tức là Tàng thức (A lại da thức).[3]
Nếu con người không có các giác quan và tiếp nhận thế giới cảm tính, thì chẳng
còn đau khổ hay hạnh phúc. Nhờ có mắt ta thấy đời bao nhiêu cái đẹp, từ đó sinh
ra nghệ thuật thị giác như tranh vẽ, nhiếp ảnh, phim ảnh, làm phát triển công
nghệ nghe nhìn, thời trang, người mẫu, thi hoa hậu. Tai không chỉ để nghe âm
thanh thông tin mà còn cảm thụ, từ đó làm phát sinh nghệ thuật âm nhạc. Vị giác
không chỉ để cảm nhận mùi vị, nhưng đem đến hạnh phúc cho ta khi ăn. Điều này
thật khác với chiếc xe khi đồ xăng (nạp năng lượng). Nó chẳng có cảm giác
gì…Vâng, nếu không có Ngũ Uẩn, con người sẽ chẳng khác gì khúc cây, cục đá, đó
không phải là sống. Tự nhiên ban cho con người thân xác với nhiều khả năng kỳ
diệu. Nó có thể tự điều tiết sự tiếp nhận của ngũ uẩn. Chẳng hạn khi đói thì ta
ăn, và cơ thể đã có một cơ chế tự nhiên báo cho ta biết rằng đã no. Khi cố tình
vượt quá các cơ chế này, cơ thể sẽ có phản ứng ngược lại. Một kích thích nhẹ
trên da sẽ làm dễ chịu, nhưng kích thích mạnh sẽ làm đau. Vì thế hạnh phúc hay
đau khổ là do chính ta gây ra, không phải bởi tại Ngũ Uẩn. Ăn là một trong những
hạnh phúc hàng đầu của con người, nhưng do ăn, con người tự chuốc lấy bệnh tật
(khổ), biết cách ăn uống, con người có thể khỏe mạnh, hạnh phúc. Phật Thích ca,
dù đã thành đạo, Ngài vẫn không vượt qua được Khổ đế do ngũ uẩn gây ra. Tại thủ
đô Pàvà (xứ Malla), sau khi thuyết pháp, Phật đã dùng món cháo nấm của ông
Cunda dâng cúng. Đêm ấy Phật đau bụng dữ dội, bệnh kiết lỵ tái phát. Trên đường
đi Kusinàgar, Phật phải ngồi nghỉ khoảng 25 lần vì đuối sức và khát nước. Đêm
đó Phật chết [4]
Con người đã tìm ra bao phương cách để diệt đau khổ. Tăng gia sản xuất để không
đói. “Đói ăn rau, đau uống thuốc”. Y học đã tìm ra bao nhiêu thứ thuốc giảm
đau, chữa bịnh. Nghệ thuật cũng làm ra bao nhiêu chương trình giải trí để đem đến
niềm vui cho mọi người. Con người đã tự mình vượt qua đau khổ để sống an vui.
Nghĩ cặn kẽ hơn, đời người có thể chia làm đôi, một nửa bình thường và một nửa
bất thường. Nửa bất thường ấy chia đôi, một nửa là khổ, một nửa là hạnh phúc.
Như vậy đau khổ chỉ là ¼ đời người. Tiếng khóc chào đời không phải là dấu hiệu
của khổ. Khi người vợ vào phòng sinh, cha mẹ và chồng chờ ở ngoài. Họ sẽ vui mừng
biết bao khi nghe tiếng trẻ khóc mạnh mẽ, vì đó là sự sống, là sự nối tiếp máu
thịt của cha mẹ ông bà, với bao nhiêu tình yêu và hy vọng.
Điều kỳ diệu bậc nhất ấy là sự sống, thể hiện trong ngũ uẩn.
2. VÔ THƯỜNG
“Tất cả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng
luôn luôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giới không một
vật nào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều vô thường,
không những vô thường trong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từng
sát-na sanh diệt. Ðối với con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày
mai soi gương lại đã thấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấy
nếp nhăn nheo. “[5]
Nhà Phật lý luận Vô thường là khổ, bởi người ta muốn mọi thứ phải thường hằng.
Người ta muốn để đời sự nghiệp của mình. “Không công danh thà nát với cỏ cây/ Lưu
thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Nguyễn Công Trứ). Các đế chế bắt thần dân phải
tung hô “vạn tuế, vạn vạn tuế” hoặc “muôn năm”, nhưng rồi mọi đế chế cũng chỉ
còn là đống gạch của những thành quách sụp đổ.
Từ nhận thức vạn pháp là vô thường, nhà Phật dẫn người nghe thuyết Tánh Không.
Trong Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật dạy đệ tử :
“Nầy các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là:
"Cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế tôn.
Có thực vô thường là khổ không?
Xin hãy nhìn vào vạn vật. Tất cả đang biến đổi, đang vận động và phát triễn
không ngừng. Chúng về đâu? Chúng tiến về phía trước, theo nguyện vọng của con
người. Có thể thấy rõ sự vận động “vô thường” chính là sự sống. Dòng sông tuôn
chảy mang bao phù sa cho cánh đồng. Sông tù đọng là sông chết. Giả thử, nếu
trái đất ngừng quay thì vạn vật sẽ thế nào? Nếu người ta không chết, sống mãi
thì mặt đất toàn người già, vô dụng. Cây già phải chết đi để mầm xanh mọc lên sức
sống mạnh mẽ hơn.
Vận động là quy luật của sự sống, là giải pháp khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa. Vô
thường không phải là khổ mà là hạnh phúc. Không gì chán bằng sự tù đọng không
thay đồi. Cuộc sống hôm nay phong phú biết bao nhiêu, hạnh phúc biết bao nhiêu
so với con người thời ở trong hang động.
Toàn bộ cuộc sống là một vận động mạnh mẽ tiến lên phía trước với sức sống mãnh
liệt hơn bao giờ. Hãy nhìn vào nước Nhật, sau hai trái bom nguyên tử 1945, sau
những động đất, sống thần tàn phá dữ dội, họ đã xây dựng lại tốt đẹp hơn trước
đó.
Con người là vậy, không gì cản được bước chân đi tới, kể cả vô thường.
3. NHÂN QUẢ - LUÂN HỒI
Thích Thông Tuệ luận dạy đệ tử rằng: “Là người Phật tử chân chính, phải có sự
tin tưởng tuyệt đối về lý nhân quả vì là một lẽ thật.”
Thuyết nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang
tính khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của
sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta
vui vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do
chính mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ
trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống
tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống
chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.” [6] (Phật giáo không
có Đức Tin, nhưng sư thầy lại dạy đệ tử tuyệt đối tin!)
Nhưng luật nhân quả có đáng tin hay không?
Nhân quả là một luật có sẵn trong tự nhiên, nhà Phật chỉ nhìn vào luật này để
suy luận về nhân sinh. Thuyết Nhân - Quả trở thành xương cốt của toàn bộ hệ thống
lý luận của Phật Giáo. Từ nhân quả, nhà Phật chỉ ra có luân hồi, nghiệp báo,
không có linh hồn, không có thượng đế, con người tự giác ngộ không cần ai cứu rỗi.
Con người cần xóa nghiệp, xóa nhân quả thì sẽ thoát khỏi luân hồi, cũng đồng
nghĩa là giác ngộ.
Thực ra trong tự nhiên, không chỉ có luật nhân quả, mà còn nhiều luật khác, thí
dụ, luật đối xứng, luật vạn vật hấp dẫn của Newton, luật bảo toàn năng lượng,
luật cung - cầu trong kinh tế, các định luật tâm lý trong tâm lý học. Nhưng quy
luật của sự sáng tạo mới là luật quan trọng bậc nhất. Chính luật sáng tạo mới
làm phát tiển cuộc sống. Sự kết hợp một trứng và tinh trùng tạo nên bào thai,
bào thai ấy phát triển thành con người, con người ấy theo những gien di truyền
tiếp tục phát triển, và con người ấy tiếp tục sự sáng tạo. Điều gì là bí mật của
sự sống, của sự phát triển? Nhân loại chỉ có một Einstein. Người ta không thể
tìm thấy “nhân” nào tạo ra “quả” Einstein. Cũng vậy, nhân loại hơn 6 tỷ người,
là hơn 6 tỷ hình hài, tính tình, số phận khác nhau, ngay cả anh em trong nhà
cùng cha mẹ cũng khác nhau. Nếu không sáng tạo, thì con người có khác gì loài
khỉ, vẫn chỉ là một giống loài cách nay 4 triệu năm. Và với tốc độ sáng tạo như
hiện nay, không biết loài người sẽ còn đi tới đâu.
Nếu một người nào đó chết cách nay 200 năm mà sống lại, họ xem TV, họ coi phim
3D, chắc họ sẽ cho con người hôm nay là thần thánh. Vâng, chính sự sống, sự
sáng tạo mới làm con người phát triển. Một chiếc đồng hồ nhỏ, là một bộ máy
tinh vi, nếu không có người làm ra nó thì không có nó. Vũ trụ là một bộ máy khổng
lồ, vận hành theo những luật tự nhiên, nếu không có Đấng Sáng Tạo cũng sẽ không
có vũ trụ. Ngay từ thời Platon (427-347 tr.Cn) đã nhận ra thực thể hằng hữu, thực
thể tối cao, đó là Thượng Đế, đấng sáng tạo nên vũ trụ này. Con người là một bộ
máy tuyệt hảo, chỉ có Đấng sáng Tạo mới có thể làm nên. Một điều hiển
nhiên, ngày xưa con người chỉ là con số rất nhỏ, nếu là nhân quả, một người
“nhân” chỉ có thể tái sinh là một người “ quả”, không thể thành hai người, vậy
hơn 6 tỷ người là “quả” do “nhân” nào mà ra? Và nếu nhân quả là tất yếu, tại
sao những bọn gian ác vẫn sống phây phây, nhà cao cửa rộng, chúng cướp không ruộng
đất, bóc lột sức lao động người khác, sao chúng không bị quả báo?. Đức Đạt lai
lạt ma bao nhiêu năm rồi vẫn phải lưu vong, chẳng nhẽ kiếp trước của Ngài “có vấn
đề”? Năm 1945 hơn 2 triệu người Việt Nam chết đói do Phát Xít Nhật, vậy kiếp trước của
họ làm ác hay sao. Sau 1975 hàng triệu người đi cải tạo, hàng triệu người vượt
biên chết trên biển, kiếp trước họ làm ác hay sao?
Nhà Phật nói không có linh hồn nhưng ngày Vu Lan (15.7al) họ lại cúng cô hồn
đói khát. Người ta liệt kê 12 loại cô hồn, có cả các nhà sư bị đày làm ngạ quỷ.
“Khi Phật ở thành Vương xá, thấy một chúng sanh có lưỡi rất dài lớn, bị đinh sắt
đóng vào lưỡi, lửa bốc cháy hừng hực, chịu đau khổ suốt ngày đêm. Ngài Mục Kiền
Liên hỏi nguyên do, Phật đáp: Xưa kia, vị ấy từng làm trụ trì chùa, vì hay mắng
nhiếc, xua đuổi Tăng chúng, không cho ăn uống, không bình đẳng cúng dường nên mắc
tội như vậy. Lại có chúng sanh thân thể dài lớn, trên đầu đội vạc đồng sôi bốc
lửa cháy hừng hực, nước sôi chảy tràn ra khắp thân thể. Ngài Mục Kiền Liên hỏi
nguyên do, Phật đáp: Xưa kia, vị ấy từng làm tri sự chùa, vì không chia dầu thắp
cho chúng Tăng nên bị quả báo như vậy. Lại có có một ngạ quỷ chuyên nuốt những
hoàn sắt nóng. Do đời trước làm một Sa-di đã trộm cắp đường phèn của chúng
Tăng… (Thích Viên Giác dịch, chương 7- Nói rõ quả báo, Nxb Tp.HCM, 1998,
tr.202). [7]
Đức Giêsu cũng nói đến nhân quả. "Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ
đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.Cứ xem
họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên
cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh
quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt.”(Mt
7.15-18). Đức Giêsu dùng lý luận nhân quả để xem xét bản chất con người che dấu
đàng sau hiện tượng. Người không coi nhân qua là luật chi phối vũ trụ, tâm
linh.
Rõ ràng luật Nhân - Quả không thể giải thích mọi hiện tượng của cuộc sống, càng
không thể giải thích hiện tượng tâm linh, tôn giáo.
4. TÂM LÀ GÌ?
Kệ:
“Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Tức tâm tức Phật
Thời thời như vậy”
Đạt-ma sư tổ:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật
Nhà Phật hay nói đến chữ Tâm, định tâm, an trú tâm, tâm sai biệt, tâm Bát Nhã,
vô lượng tâm. Nhưng tâm là gì?
“Nguồn gốc của Phật pháp là tâm. Nguồn gốc của vũ trụ cũng là tâm. Người học Phật
pháp phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm của mình chứ chẳng phải ai khác…
Vậy tâm là thế nào? Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng
ai biết”.
(Thiền sư Thích Duy Lực, http://www.hoalinhthoai.com/)
Người đời thường chỉ hiểu tâm là tấm lòng. Đó là thiện tâm, ác tâm (lòng thiện,
lòng ác). Tâm cũng là tâm hồn, tức là toàn bộ những gì con người suy nghĩ, cảm
xúc vượt lên trên thân xác. Chủ nghĩa duy tâm coi tinh thần có trước vật chất,
vật chất tan đi, tinh thần còn mãi, tinh thần quyết định vật chất. An tâm là
tâm hồn bình an, không lo sợ, không dằn vật xao xuyến. Tâm cũng là ý thức. Người
vô tâm không để ý những điều cần phải giữ gìn. Người vô tâm là người không để bụng
điều gì, vô tư. Tâm lý là sự vận động bên trong tâm hồn. Khoa tâm lý học nghiên
cứu những quy luật của sự vận động này. Tâm lý tội phạm, tâm lý khách hang,
tính cách nghệ sĩ, tâm lý lứa tuổi. Có thể nhận thấy, dân gian hiểu tâm là trạng
thái suy nghĩ, nhận thức, cảm xúc của tâm hồn. Chữ tâm này hoàn toàn khác với
chữ Tâm của Phật.
“Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là Ngài Long Thọ dùng "Hư không vô sở hữu"
để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể số lượng, do đó dùng bộ óc
suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời nói văn tự để diễn tả. Phật
pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là Tánh Không… Bản thể của tâm vô sở hữu tức là
trống rỗng, vì trống rỗng nên gọi là Tánh Không, vì tánh không nên cùng khắp
không gian thời gian..” (Thích Duy Lực, sđd)
Đức Phật dạy Sona thế này
“Tâm xả tức là tâm vắng lặng, không chỉ, không quán
Khi thấy tâm mạnh mẽ tinh tấn thì nên tu quán hay định, không nên tu xả
Khi thấy tâm dao động bất an thì nên tu định, không nên tu quán
Khi thấy tâm dâm dục nổi lên thì nên quán bất tịnh, không nên quán từ bi
Khi thấy tâm nóng giận nổi lên thì nên quán từ bi, không nên quán bất tịnh
Khi thấy tâm mê muội thì nên quán nhân duyên, không nên quán bất tịnh hay từ
bi”
(Sự tích Đức Phật - Trần Hữu Danh, Nxb Tổng hợp Tp HCM 2011. tr.343)
Chữ tâm trong đoạn văn trên là trạng thái tâm lý, cảm xúc, suy nghĩ của con người: tinh thần sảng khoái, tâm bất an, ham muốn tình dục, nóng giận, không nhận thức
được chân lý (mê muội). Đó là lời dạy của Đức Phật về thực hành định tâm, chưa
phải là tâm Bát Nhã (Phật)
Đức Phật dạy Subùti về an trụ tâm: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm".
Phải an trụ tâm vào nơi không có chỗ trụ, và không có gì để trụ. Lục Tổ Huệ
Năng tổ thứ sáu của Thiền Tông khi nghe câu kệ nầy trong Kinh Kim Cang ngài đã
khai ngộ (giác ngộ) trong lúc là một tiều phu đi bán củi (chi tiết hơn trong
Kinh Pháp Bảo Đàn).
Trong Kinh Lăng Nghiêm, đoạn Phật đối thoại với Anan về tâm là đoạn phân tích rất
sâu sắc, quả thực Phật rất giỏi về lý luận:
”A-Nan thưa: "Bạch Thế Tôn, ngày trước con thấy khi Phật cùng với ông Đại
Mục Kiền Liên, Tu Bồ đề v.v... nói pháp, Phật có dạy rằng: Cái tâm hiểu biết phân
biệt, không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở chính giữa, không ở chỗ
nào cả; không dính mắc (vô trước) tất cả đó gọi là tâm. Vậy nay con lấy cái
không dính mắc đó làm tâm, chẳng biết có hay được không?"
Phật nói: “Vì cái gì không có hình tướng thì không, còn cái gì có hình tướng là
có. Nếu có hình tướng thì phải bị dính mắc. Thế nên ông nói: không dính mắc tất
cả làm tâm cũng không phải."
Đức Phật nói về Chơn Tâm: “Do đâu mà có Bồ Để (giác ngộ) Niết Bàn (giải
thoát)?. Một khi người tu hành dứt hết tâm vọng động, suy tư, nghĩ tưởng theo trần
cảnh thì Chơn Tâm nguyên minh, thanh tịnh, sáng suốt từ vô thỉ sẽ hiển lộ. Chơn
Tâm nguyên minh đó là Bồ Đề, Niết bàn, luôn an lạc, thanh tịnh, sáng suốt,
không lay động, mặc cho trần cảnh lao xao biến đổi... Người muốn tu Bồ Tát thừa
để thành Phật phải hội đủ hai điều kiện: 1/ Lúc sơ phát tâm, phải biết rõ mình
có Chơn Tâm thanh tịnh, thường trụ, rồi dùng tâm đó mà phát nguyện tu nhành…” (Sự
tích Đức Phật tr.316).
Quả thực đọc những lời Phật dạy trên, người không có công phu tu tập thì không
thể hiểu, bởi nghĩa của tâm luôn từ nghĩa này chuyển sang nghĩa kia, mà chung
quy lại, tâm là tâm hồn, là lòng muốn, là tâm trạng, là ý thức.
“Tâm vọng động, suy tư, nghĩ tưởng theo trần cảnh” là trạng thái lo lắng suy
nghĩ chuyện trần gian.” Lúc sơ phát tâm” nghĩa là lúc khởi niệm về Tứ Diệu Đế,
về Tánh Không, tâm này là ý thức. “Chơn Tâm nguyên minh đó là Bồ Đề, Niết bàn,
luôn an lạc, thanh tịnh, sáng suốt, không lay động, mặc cho trần cảnh lao xao
biến đổi” là tâm hồn bình an, không vướng mắc.
Thực sự cái tâm (sự suy nghĩ lo lắng) làm cho ta mệt nhoài, khổ sở, khi không
thoát khỏi vướng mắc thì ta khổ tâm. Khi không bận tâm đến điều gì (xả), ta sẽ
an tâm. Lý luận Phật Giáo quá phong phú về Tâm khiến cho người học đạo rối trí.
Thực ra tất cả những kiến giải của Phật chỉ là dựa trên tâm lý học thí dụ: tâm
nóng giận, tâm dâm dục, tâm mê muội, tâm giác ngộ, chơn tâm, vọng tâm… (ngày xưa
chưa có khoa tâm lý nên những kiến giải ấy trở nên thành thánh hóa).
Nói thật đơn giản, tâm là tự ý thức về chính mình dưới ánh sáng của lẽ thiện,
trong tương quan với con người và vũ trụ. Thí dụ, khi con người có thân xác khỏe
mạnh, no đủ, tự do, không vướng bận lo âu cuộc sống, thanh thản trong thiên
nhiên thì tâm an lạc. Người với người phải có lòng nhân ái (đó là thiện tâm).
Xin đừng bận tâm đến những kiến giải rắc rối làm gì, hãy lắng nghe lòng mình,
hiểu lòng mình, hiểu chân lý, đó là tâm. Ác tâm là quỷ, thiện tâm là thánh, những
kẻ vô lương tâm thì không phải là người
4. TÂM LINH
Ở VN có nhiều đền đài, đình chùa thờ các thánh, được dân chúng đến làm lễ, xin
khấn với lòng thành vô hạn. Chùa Hương, Khai ấn đền Trần, Vía Bà núi Sam. Đạo
Công Giáo có đền thánh Giuse, thánh Martin, thánh địa La Vang, mộ cha Bửu Diệp...
những nơi ấy nhiều người đã xin được ơn. Bảng tạ ơn để ở khắp nơi trong đền.
Điều ấy có ý nghĩa gì? Phải chăng chỉ những người có lòng thành mới được mạc khải
những vấn đề tâm tinh. Trong Kinh Thánh Ki tô Giáo, Đức Giêsu cất tiếng nói:
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những
người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ
bé mọn.” (Mt 11. 25) Kinh Thánh cũng tường thuật nhiều lần Đức Giêsu trừ quỷ nhập
vào người ta. Đó là hai người bị quỷ ám (Mt 8 28-34), là thần ô uế (Mc 1
23-24), là quỷ câm (Lc 11.14). Người cũng nói ai có lòng tin và nhân danh Ngài
thì có thể trừ quỷ (Mc 16.17)
Trong dân gian kể nhiều chuyện ma quỷ, có cả chuyện ma nhập, quỷ nhập. Bên đường
hay bên sông thường có những miễu nhỏ trong có bát nhang để cho những oan hồn
(chết vì đụng xe, chìm tàu) tá túc. Ở những nơi có tai nạn chết người thì hàng
năm đều có người chết. Người ta bảo rằng những người chết bất đắc kỳ tử (chưa tận
số) không siêu thoát được. Họ chờ để bắt một người thế chỗ rồi mới thăng. Vì thế
tai nạn lại xảy ra. Trong dân gian người ta vẫn thường lên đồng, cầu cơ, nhà
ngoại cảm nói chuyện với người đã chết. Gần đây những nhà ngoại cảm đã giúp tìm
được nhiều hài cốt liệt sĩ. Chỉ có điều, các nhà ngoại cảm hay Đồng cốt không
miêu tả được thế giới bên kia (sau cái chết) là một thế giới như thế nào.
Một nhà sư Thái Lan đã trả lời cho mọi người biết Steve Jobs đang ở đâu. [8]
“Steve Jobs tái sinh vào một cõi trời Dục giới thuộc cõi Vidhaydhara-Yakkha
(cõi trời Tỳ Đề Đà La-Dạ Xoa) - một trong sáu tầng trời Dục giới. Cõi Thiên giới
của ông ta tồn tại song song với quả địa cầu gần văn phòng cũ của ông ta. Cõi
giới mới mà Steve Jobs đang sống có một lâu đài thiên thể bậc trung và đơn giản,
có chiều cao lớn như một tòa nhà sáu tầng. Bản thân lâu đài được làm bằng bạc
và pha lê trắng, và mặt nền thì hoàn toàn thoáng rộng. Nó nằm không xa văn
phòng cũ của ông ta trên trái đất. Tất cả xung quanh lâu đài thiên thể của ông
có những lâu đài khác cũng thuộc về cõi trời Dục giới. Cõi giới mới có một đoàn
tùy tùng 20 người phục dịch cho ông”. Nghe có hơi hám của khoa học giả tưởng về
thế giới song song.
Những vấn đề tâm linh dân gian nói trên không được các tôn giáo chấp nhận.
Thiên Chúa Giáo cho rằng, con người sau khi chết sẽ bị phán xét riêng, hoặc lên
thiên đàng, hoặc ở Luyện Tội hay xuống Hỏa Ngục. Phật giáo phủ định sự tồn tại
của linh hồn, con người từ kiếp này sang kiếp khác tùy theo nghiệp của mình mà
vận động theo luật nhân quả. Họ có thể vào 1 trong 6 cõi: cõi Trời, Người, A
tu La, Quỷ thần, Địa Ngục và Súc sanh. Nhưng dân gian lại tin rằng người
chết chẳng đi đâu cả, họ vẫn ở nơi họ vẫn ở, trong gia đình Việt Nam có bàn thờ gia
tiên, và ông bà vẫn ở bên con cháu.
Hãy thử tưởng tượng. Vũ trụ mênh mông, chỉ một dải Ngân Hà cũng có hàng trăm tỷ
ngôi sao. Nếu sau khi chết, linh hồn người ta đến các thiên hà, thì mỗi linh hồn
cư ngụ ở một hành tinh, cũng chỉ là muối bỏ bể. Nhân loại mới có hơn 6 tỷ người.
Vả lại vũ trụ xa xôi, lạnh lẽo chẳng hồn nào đến ở để rồi sống cô độc. Lại thử
hỏi, từ khi con người xuất hiện, đã bao nhiêu người chết, linh hồn họ đi đâu
hay tan biến vào hư không.
Ngày nay cả Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo đều phải điều chỉnh cách hiểu về Thiên
Đàng, Địa ngục, Niết bàn. Ngày xưa người ta cho rằng Thiên Đàng là ở trên trời,
Địa ngục là ở trong lòng đất, Niết bàn là nơi Phật ở, ở phương Tây. Ngày nay
khoa học đã chỉ ra vũ trụ mệnh mông chỉ là vật chất, Thiên Đàng và Địa ngục
không tồn tại trong thế giới vật chất ấy, vậy ở đâu?
Câu trả lời là tại tâm. Chính tâm của ta lúc chết thế nào thì cảnh giới ta chết
là như thế. Tâm ta thanh tịnh, đó là thiên đàng, tâm ta bất an, đó là địa ngục.
Nhưng không phải vậy, bởi người tu Phật có thể đạt tới cảnh giới Niết Bàn ngay
trong cõi đời này, không chờ tới lúc chết mới siêu thoát.
“Niết bàn là một thể dạng của tâm thức khi mà nó không còn có gì để phải làm nữa.
Đấy là thể dạng không sinh, không tạo tác, không còn bị trói buộc bởi bất cứ một
điều kiện nào. Không hư vô. Không hiện hữu. Vượt lên trên cả sự an bình cũng
như mọi hình thức xung đột.”
(Fabrice Midal - http://www.thuvienhoasen.org/)
”Cần phải nhìn nhận rằng câu hỏi về Niết Bàn là vấn đề khó nhất trong Giáo Lý
của Đức Phật. Dù cho chúng ta có thể suy đoán về nó tới đâu chăng nữa, chúng ta
không bao giờ hiểu được chân tánh của Niết Bàn” (NARADA MAHA THERA http://www.chuadieuphap.us/)
Thế có nghĩa là những khái niệm tâm linh (linh hồn, Niết Bàn, Thiên Đàng, địa
ngục…) chỉ là những cách giải thích, ý nghĩa của nó tùy thuộc vào người giải
thích. Nó chịu sự chi phối của thời đại. Khi khoa học chỉ ra tính chất phi
logic, thì những nhà truyền đạo buộc phải tìm một cách giải thích khác. Dẫu thế
nào, diễn giải chỉ là diễn giải, không phải là thể tính (Chữ Niết Bàn không phải
là thực tại Niết Bàn, mà chỉ là khái niệm để chỉ một thực tại tu tập đạt đến mà
ngôn ngữ không thể diễn tả). Dân gian có cách giải thích thực nghiệm hơn, trong
khi cách giải thích của tôn giáo lại hoàn toàn là lý trí, áp đặt.(Xin lưu ý Phật
giáo còn có những Kinh giả - Xin đọc: Kinh ngụy tạo - http://www.thuvienhoasen.org/)
Cứ theo những cách giải thích ấy ta có thễ hình dung ra thế giới sau cái chết
như sau: những người bên lương thì sống cùng con cháu trong gia đình trên bàn
thờ gia tiên, còn lại là cô hồn lang thang như người trên trần, cũng đói khổ
khóc lóc, chờ tháng Vu lan được húp cháo lá đa. Những người theo Phật mà chưa đắc
đạo thì vào 1 trong 6 cõi, những người theo Chúa thì lên Thiên Đàng hoặc xuống
hỏa ngục. Vũ trụ bao la, sáu tỷ linh hồn chẳng thấm vào đâu, mỗi vị sáng lập
tôn giáo quy tụ tín đồ vào một chỗ (một hành tinh hay một thế giới song song
nào đó), rồi tự tại ở đó. Thật là bịa đặt.
5. TÔN GIÁO
Người Cộng sản lấy lời K.Marx làm nền tảng chính sách tôn giáo: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân lọai”… Chủ nghĩa duy vật tuyệt đối vô thần, kiên quyết phản
đối mọi tôn giáo… Chủ nghĩa Mác bao giờ cũng coi tôn giáo và các giáo hội, tất cả
các tổ chức giáo hội hiện có, đều là những cơ quan của thế lực phản động tư sản,
dùng để bảo vệ chế độ bóc lột và đầu độc giai cấp công nhân”,… phải đưa tôn giáo
đến chỗ diệt vong. Nguồn gốc của tôn giáo là nguồn gốc xã hội, phải tiêu diệt
nguồn gốc xã hội của tôn giáo…” [9] Trên Đại Học, trong Văn Hóa Đại Cương có Tôn
Giáo Học, người ta dùng chủ nghĩa Marx để dạy cho sinh viên, rằng tôn giáo là sự
phản ánh hư ảo thế giới vật vào trí não con người, rằng sự sợ hãi đẻ ra thần
linh.
Thực tiễn (đến nay là 2016) đã chỉ ra rằng, tôn giáo chưa bị diệt vong thì chủ
nghĩa Marx đã bị người ta đã vứt vào sọt rác. Nhân loại có trải nghiệm này: Chủ
nghĩa Marx đã thống trị nhân loại trong thế kỷ 20 và gây ra bao nhiêu là tội
ác! Các chế độ chính trị xây dựng trên lý thuyết chủ nghĩa Marx đã sụp đổ (Liên
xô là thành trì của chủ nghĩa Cộng sản). Marx lấy yếu tố vật chất, xã hội để giải
thích mọi vấn đề về con người, bỏ quên con người cá nhân, con người thân xác,
con người tâm linh. Đó là sai lầm căn cốt. Marx nhìn xã hội bằng con mắt giai cấp,
là con mắt bé bằng hạt đậu, trong khi nhân lọai toàn cầu hóa, đối mặt với những
vấn đề của toàn nhân loại. Giải quyết vấn đề của nhân loại cần phải có một “con
mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” (Mộng Liên Đường nhận
xét về Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Khảo cổ học đã tìm thấy chứng tích về lịch sử loài người qua những hóa thạch
còn lại. Con người đã tách ra khỏi giống người khỉ từ 4,5 triệu năm trước. Con
người văn minh hiện đại (Homo Sapiens) đã xuất hiện 200 ngàn năm trước đây. Giống
người này xuất phát từ đông Phi, họ di chuyển dọc bờ biển đến châu Á, sang châu
Úc, vòng lên Trung Quốc rồi sang Nga, qua Alaska sang châu Mỹ. Một nhánh khác từ
Đông Phi hướng về phía tây, lên châu Âu, sau nhập với dòng sang Nga, qua Alaska
sang châu Mỹ. Như vậy là không có Vườn Địa Đàng, không có Adam-Eva như Sáng Thế
Ký miêu tả (Thực ra Sáng Thế ký chỉ là thần thoại, con người nghĩ ra để giải
thích sự hình thành vũ trụ và vạn vật. Đó là một cách nhận thức, một trình độ
nhận thức, và đã là nhận thức thì không bao giờ có thể đạt tới chân lý, vì năng
lực của bộ não là giới hạn).
Đã có một thời Thuyết Tiến hóa có tham vọng giải thích nguồn gốc giống loài
thay cho Sáng Thế Ký, nhưng cho đến nay, sau hơn 100 năm, thuyết Tiến hóa của
Darwin vẫn không vượt qua được những lỗ hổng lý thuyết, khiến cho nó chỉ còn là
một giả thuyết để tham khảo. Khoa học dù tiến bộ vẫn không sao tổng hợp được một
tế bào có sự sống, mặc dù họ biết rõ những gì đã tạo nên tế bào, từ đó dẫn đến
hệ quả: sự sống không khởi đầu bằng chất vô cơ, và người ta đặt giả thuyết sự sống
đến từ ngoài trái đất [10]… Đến nay Di truyền học đã lật đổ thuyết Tiến hóa.
(xem bài DNA lật đổ tuyết tiến hóa: http://trithucvn.net/
Con người khôn ngoan đã xuất hiện 200 ngàn năm, nhưng lịch sử văn minh nhân loại
mới chỉ có 10 ngàn năm, và “bằng chứng về những đức tin như những bức tranh tường
Cro-Magnon giai đoạn sớm (có lẽ có ý nghĩa ma thuật hay tôn giáo) [71] chỉ xuất
hiện khoảng 32.000 năm trước [11]. Tôn giáo xuất hiện sớm nhất cũng chỉ mới có
10 ngàn năm, Phật Giáo 2500 năm, Thiên Chúa Giáo 2000 năm. Vậy 198.000 năm trước
đó, có tôn giáo không? Hay tôn giáo chỉ là cái mà con người tưởng tượng ra mãi
về sau này? (2000 năm)
Thức tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng, Tôn giáo với hình thức tổ chức xã hội, với đền
đài, chùa chiền, nhà thờ cùng các nghĩ lễ, chỉ xuất hiện khi con người đã đạt tới
một xã hội văn minh, đặc biệt văn minh trong ý thức tâm linh. Họ nhận ra, hoặc
được mạc khải, hoặc giác ngộ về một cõi vượt lên trên cõi người, về một đấng
(thần linh có sức mạnh vượt trân cõi trần) họ tiếp cận được với thế giới ấy bằng
nhiều hình thức như lên đồng, cầu cơ, cầu nguyện, nhà ngoại cảm.
Tiến trình của lịch sử loài người có thể so sánh với tiến trình của một con người.
Từ lúc sinh ra, lớn lên nếu không được giáo dục thì không thành người, nếu
không được giáo dục tôn giáo, nó sẽ chẳng biết gì đến Phật hay Chúa hay thánh
Ahla. Thế nhưng đến một lúc nào đó nó sẽ phải đối mặt với những vấn đề tâm
linh, và sẽ bị ám ảnh về một thế giới siêu nhiên (Phim kiếm hiệp, phim khoa học
viễn tưởng chính là tìm cách lý giải về thế giới phi thường ấy). Chẳng hạn, khi
cha mẹ hay người thân yêu chết, con người sẽ hỏi chết là gì, người chết còn tồn
tại hay tan biến, nếu tồn tại (linh hồn) đi đâu. Trong sâu xa con người thấy rằng
người thân yêu vẫn còn đó, độ trì cho con cháu. Bất cứ dân tộc nào nghi lễ an
táng đều mang tính tâm linh và thần linh, từ đó những hình thức và niềm tin tôn
giáo ra đời.
Cũng vậy, con người đứng trước sức mạnh tự nhiên, nó nhận ra sự hữu hạn của
thân phận con người, từ đó nó phóng chiếu một đấng thần linh để giải thích
thiên nhiên. Thần cây đa, ma cây đề, thiên lôi, hà bá xuất hiện. Khởi đầu dận tộc
nào cũng thờ nhiều thần. Trong Cựu Ước, Giao Ước của Đức Chúa với tổ phụ
Abraham có một điều quan trọng là, dân Do Thái không được “phủ phục trước một
thần nào khác, vì Đức Chúa mang danh là Đấng ghen tương, Người là một vị Thần
ghen tương “[12] Nhưng dân Do Thái nhiều lần từ bỏ Đức Chúa mà thờ thần khác
nên bị xử phạt (Điển hình là vua Salomon)
“Vua Salomon đi theo nữ thần At-tô-rét của dân Xi-đôn, theo thần Min-côm ghê tởm
của dân Am-mon, Như thế vua Salomon làm điều dữ trái mắt Đức Chúa chứ không
theo Đức Chúa trọn vẹn như phụ vương Đavit. Bấy giờ vua Salomom xây trên núi đối
diện với Gierusalem một nơi cao cho thần Cơ-mốt của dân Mô-ap, cho thần Mô-lea
ghê tởm của con cái Am-mon… Đức Chúa nổi giận với Salomon…” [13]
Tín ngưỡng, tôn giáo khởi đi từ đấy. Và còn theo mãi nhân loại đến ngày tận thế,
bởi dù khoa học tiến bộ đến đâu cũng không lý giải được những khát vọng tâm
linh của con người, không lý giải được những vấn đề tâm linh huyền bí, những bí
mật của vũ trụ.
Chẳng hạn, người ta đặt ra thuyết Big bang để giải thích khởi nguyên vũ trụ là
một vụ nổ lớn. Nhưng trước khi có vụ nổ ấy, vũ trụ là gì? Điều này không biết đến
bao giờ con người mới trả lời được. Bây giờ người ta hiểu vũ trụ là lớn không
thể tưởng tượng nổi, và không thể hiều được, thách thức mọi quy luật vậy lý.
Con người không thể vượt ra ngoài thái dương hệ thì không có gì để nói. Và có
vượt qua thái dương hệ, thì cũng không thể qua nổi dãy Ngân Hà với bề ngang rộng
100 năm ánh sáng (Ngôi sao gần trái đất nhất cũng cách trái đất 4,5 năm ánh
sáng), khoa học cũng không thể trả lời được sau cái chết con người sẽ là gì?
Vâng, tôn giáo là khát vọng tâm linh của con người, giải đáp cho những vấn
nạn tâm linh của con người, chỉ trừ robot mới không có tâm linh. Người bên
lương tin thờ Trời Đất, thờ ông Táo, thờ ông bà, người buôn bán thờ Thần Tài,
nhà xe cúng cô hồn. Bởi họ tin chắc vào chân lý của các thần linh ấy, và chắc
chắn họ cầu xin có linh nghiệm. Trời che chở, đất bao dung. Phật giáo phủ định
thượng đế, phủ định thần linh, nhưng người Phật tử vẫn tin vào thần lực của Phật
A-di-đà, tin vào lòng từ bi cứu khổ của Quan Âm Bồ Tát, và cậy trông vào sự độ
trì cho giác ngộ của Như Lai (bởi có tỳ kheo chỉ một lần nghe Phật thuyết pháp
là giác ngộ. Đức Thích ca đã giác ngộ cho cả công chúa (vợ) và con trai của Người).
Tôn giáo thuộc về đức tin, không thuộc về khoa học. Tôn giáo là sự chọn lựa của
cá nhân, thuộc quyền tự do nhân bản. Trước những vấn đề tâm linh mà khoa học
bất lực, mỗi người tự tìm cho mình một người thầy dẫn đường. Sự chọn lựa này
tùy vào cơ duyên. Sau 49 ngày thiền định, Đức Phật ngồi dưới cây Ràjàyatana. Có
hai thương gia người Miến Điện đi qua đó, dâng cho Ngài món bột rang và mật
ong. Hai người đã nghe lời Phật quy y. Đó là hai thiện tín đầu tiên của Phật.
Kinh Thánh cũng thuật lại các ông Phêrô, An-rê, đang đánh cá, Đức Giêsu gọi,
các ông liền bỏ lưới mà theo Ngài. Các ông Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới với
cha ở trong thuyển, nghe Đức Giêsu gọi, các ông bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Ngài
(Mt 4.18-22)
Và vì thế, cần có cái nhìn trân trọng với mọi tôn giáo, bởi vì tôn giáo (đạo)
là con đường dẫn người ta đến lẽ thiện, còn chuyện tâm linh là chuyện riêng của
mỗi người. Thái độ thù địch, kỳ thị với người có tôn giáo là thái độ thiếu hiểu
biết, nếu không nói là vi phạm nhân quyền. Ts Trần Chung Ngọc (đã chết) và
Charly Nguyễn là hai người chống Vatican hung hăng và cực đoan nhất. Các ông cố
moi móc mọi sai lầm của Giáo hội Roma trong quá khứ ra để phỉ báng.
Thực ra năm 1054, Chính thống giáo Đông phương đã ly khai khỏi giáo hội Công
giáo Rôma. Và Ngày 31.10.1517, Martin Luther, một Linh mục Công giáo, đã đưa ra
95 luận điểm công kích giáo hội Roma, sau đó ông đã bỏ Roma lập một giáo phái mới
(Tin Lành).
Mọi tổ chức xã hội do con người ý thức, lập ra và điều hành, luôn có những sai
lầm. Bởi cuộc sống luôn vận động về phía trước, sẽ làm lộ ra những gì không còn
phù hợp. Dù là Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, kể cả các lý thuyết triết học,
khoa học, các lý thuyết xã hội… đều như thế. Lý thuyết ra đời sau phủ định lý
thuyết trước đó. Di truyền học quật ngã Thuyết Tiến hóa của Darwin. Toàn cầu
hóa phủ định chủ nghĩa Marx.
Lịch sử là lịch sử, và nhân loại từ phương đông sang phương tây đi từ sai lầm
này đến sai lầm khác. Đời một con người cũng đầy dẫy những sai lầm, có ai dám
khẳng định từ lúc mình sinh ra đến lúc nhắm mắt mà không sai lầm. Ngay cả việc
(bị/ được) sinh ra đã là sai lầm. Trên cõi nhân gian này không có chân lý vĩnh cửu.
Cái gọi là chân lý chỉ là cảm quan cá nhân trong những trường hợp cục bộ (một
lúc nào đó tôi thấy là đúng, lúc khác lại là sai).
Ai theo tôn giáo thì cần có đức tin. Người không theo tôn giáo thì trong tâm
linh họ vẫn tiềm ẩn những niềm tin. Ở góc độ văn hóa, tôn giáo là một thành tố
của văn hóa cộng đồng, thể hiện khát vọng của cộng đồng và góp phần làm cho cộng
đồng tốt hơn lên, đời sống tinh thần phong phú hơn.
6. LỊCH SỬ TÔN GIÁO - TÔN GIÁO TRONG LỊCH SỬ
Các tổ chức tôn giáo xuất hiện trong những bối cảnh lịch sử, chính trị nhất định,
đáp ứng yêu cầu của con người thời đại. Chẳng hạn Thiên Chúa Giáo xuất hiện
trong khát vọng của dân Do Thái về một Đấng cứu thế, cứu dân Do Thái khỏi ách
nô lệ. Ở Việt Nam, đạo Cao Đài, Hòa Hảo cũng xuất hiện trong giai đoạn lịch sử
những năm 1920, như là sự phản ứng có tính dân tộc trước sự xâm lăng của chủ
nghĩa thực dân phương Tây. Đạo Cao Dài dung nạp cả Phật, Chúa, Khổng Tử, Victo
Hugo, Nguyễn Bỉnh Khiêm…
Trong tiến trình lịch sử, các tổ chức tôn giáo dần dần bị thế tục hóa so với
nguyên thủy. Nó bị chính trị lợi dụng và trở thành thế lực chính trị. Phật Giáo
có Phật Giáo Nguyên thủy, Tiểu Thừa, Đại Thừa. Thiên Chúa Giáo tách ra thành
Chính Thống Giáo, Tin Lành, Cơ Đốc Phục Lâm và Hồi Giáo xuất hiện như là sự phủ
định Thiên Chúa Giáo. Họ thờ thánh Ahla. Như vậy tôn giáo đã thế tục hóa theo
nhu cầu của con người, trở thành một hệ thống quyền lực cả vật chất và tinh thần
(Tòa Thánh Vatican là một Nhà Nước, được LHQ công nhân). Đã nổ ra các cuộc
thánh chiến giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo làm chết nhiều người, thực chất đó
là sự tranh giành lãnh thổ, quyền lực [14]. Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS đang
là mối bận tâm của thế giới. Có thể nhận thấy các giáo hội trần gian (của mọi
tôn giáo) đều mưu cầu quyền lực chính trị, kinh tế xã hội.
Mọi Nhà Nước đều quyết liệt chống lại ảnh hưởng chính trị của tôn giáo, bởi đã
có thời trong lịch sử, tôn giáo trở thành thống trị, đứng trên cả chính trị. Ở
Việt Nam, thời Lý Trần, Phật giáo trở thành quốc giáo. Vua Lý Thái Tổ (Lý Công
Uẩn. 974-1028) vào chùa từ lúc 3 tuổi, được sư Vạn Hạnh dạy dỗ từ nhỏ. Ngày nay
ở những nước Phật Giáo như Thái Lan, Cambodia, Lào, Ấn Độ, Phật giáo vẫn có vai
trò quan trọng. Cũng vậy, ảnh hưởng của tôn giáo là rất lớn ở các nước Hồi
Giáo.
Sự phân hóa của các giáo hội là do sự giải thích chủ quan của con người.
Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, Giáo hội Công giáo nguyên thủy dần dần bị phân
tách thành hai cực: Tây phương (Latinh), là Giáo hội Công giáo, và Đông phương
(Hy Lạp), Chính Thống giáo. Hai giáo hội này bất đồng quan điểm về cách tổ chức,
nghi thức và những học thuyết mà đặc biệt là địa vị của giáo hoàng. Phong trào
Kháng Cách (Protestantism), phong trào Tin Lành (Evangelicalism), đã tách khỏi
giáo hội Công Giáo. Họ giải thích Kinh Thánh theo quan điểm khác với Công Giáo
Rôma. Họ có 5 Tín Lý Duy Nhất khác biệt hẳn với Rôma [15].
Phật giáo cũng có nhiều hệ phái khác nhau như vậy. Đại Thừa xuất hiện vào thế kỷ
thứ 3, Tịnh Độ Tông xuất hiện thế kỷ thứ 6 (Do Thiện Đạo: 613-681), Mật Tông xuất
hiện vào thế kỷ thứ 6, Thiền Tông thế kỷ thứ 6. Có thể nhận mỗi hệ phái chọn
kinh riêng để xác định cách tu tập. Thiền Tông không dùng văn tự mà “trực chỉ
nhân tâm”, Tịnh Độ Tông Chọn Kinh A-di-đà và chỉ cần tin vào phật lực của Phật
A-di-đà, niệm A-di-đà Phật là được vãng sinh. Các Kinh điển Phật giáo đều do đệ
tử viết lại, thường bắt đầu bằng các chữ "Như thị ngã văn" (như vậy
tôi nghe). Sau hàng trăm năm mới thuật lại những gì mình nghe, chắc chắn không
thể bảo đảm trung thực lời của Phật [16].
Ngày nay có người đã tìm sự tương đồng giữa Phật Giáo và học thuyết Freud: ”Và
thật kỳ lạ, những điều Freud phân tích và khám phá ở trên gần như trùng khớp với
những khái niệm cơ bản nhất của Phật giáo, chỉ có điều tất cả đều được diễn đạt
bằng một thứ ngôn ngữ khác. Này nhé, bản năng thì tăm tối và hình thành từ thuở
con người còn là những động vật bầy đàn hú hét trong rừng sâu. Nhà Phật cũng có
khái niệm Vô minh hình thành từ Vô thủy, thường được gọi chung là Vô thủy Vô
minh.” [17]
7. THIÊN MỆNH - ĐỊNH MỆNH - ĐỨC TIN
“Gẫm hay muôn sự tại trời” (Nguyễn Du - Đoạn Trường Tân Thanh). Người Việt tin
vào Trời. Trước nhà người bên lương có bàn thờ Thiên. “trời cao có mắt”, ”Thiên
bất dung gian”, ”chạy trời không khỏi nắng”, ”Trời kêu ai nấy dạ!” Đó là một niềm
tin hồn nhiên. Không có lý luận, không có nghi lễ, cũng không có tín điều. Trời
đẵt đặt để cho mỗi người mỗi phận, người ta gọi là cái số. Quần áo giày dép còn
có số thì con người làm gì mà không có số. Những người tai to mặt lớn thì làm
vương làm tướng. Dân ngu khu đen thì là dân. Ngày xưa, các thánh nhân, vua chúa
xuất hiện đều có điềm trời. Thiên thần Gabriel loan báo Ngôi Lời nhập thể.
Hoàng hậu Màyà, Mẹ của Đức Phật nằm ngủ mơ thấy một voi trắng 6 ngà từ trên hư
không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu mà chui vào. Các bốc sư đều cho rằng
Hoàng hậu sẽ hạ sanh một quý tử tài đức song toàn. Nguyễn Trãi nằm mộng thấy
ngôi sao vua của Lê Lợi xuất hiện ở phương Nam. Người xưa nhìn sao chiếu mạng một
người mà biết thời vận của người ấy.
Khoa Tử Vi đã lập lá số cho con người, nói rõ đặc điểm cá tính, gia đình, vận hạn.và
nếu ngày giờ chính xác thì những lý giải của Tử Vi là rất đúng. Điều ấy có ý
nghĩa như thế nào? Đấng Sáng Tạo tạo ra vũ trụ và con người, điều khiển thế giới
vật chất bằng những quy luật khoa học tất nhiên điều khiển thế giới con người
cũng bằng những quy luật như thế, chẳng hạn luật về sự phát triển sinh học của
cơ thể con người, những quy luật tâm lý, những vận hạn ở năm tuổi (25, 31, 33,
37, 49, 58… tam tai). Và Đấng Sáng Tạo cũng cho con người sự thông minh để tìm
ra chìa khóa của các quy luật ấy (thí dụ lập bản đồ gien, tìm ra tế bào gốc…vậy
nếu con người có các khoa bói toán, chỉ tay, bói bài, bốc Dịch, Tử Vi, Tử Bình
để tìm biết những gì chưa sảy ra thì cũng là điều có thể hiểu được. Bởi sự vật,
sự việc luôn có mối quan hệ nhiều chiều, mà nhờ đó con người có thể lần ra manh
mối những quy luật. Con người trong tương quan với vũ trụ, trong sự tác động của
ảnh hưởng các vì sao mà có số phận khác nhau (do cá tính, hoàn cảnh). Nhìn
theo mệnh trời là cái nhìn của Nho Giáo.
Theo cái nhìn của Phật Giáo, con người không có số phận. Cái gọi là số phận là
do nghiệp quả tạo ra. Cái nhìn của Thiên Chúa Giáo về số phận là ý Chúa. Chúa cắt
đặt cho mỗi người một hoàn cảnh (giao cho mỗi người một số nén bạc), để qua
hoàn cảnh ấy mà vác thánh giá nên thánh. Con đường số phận là con đường vác thập
giá chịu khổ nạn và phục sinh. Rõ ràng cách giải thích của ba hệ tư tưởng trên
là rất khác nhau.
Trong thực tiễn, người ta tin có mệnh trời, và người Công Giáo cũng tin mệnh trời
ấy là ý Chúa, vì Kinh Thánh nói rằng Thiên Chúa quan phòng mọi sự “ngay tóc
trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10.30)
Nếu đã là số phận thì tất yếu sự việc sẽ phải xảy ra như đã được đặt định. Khổng
Minh tài giỏi như thần nhưng cũng không thể vượt qua số phận. Khi Ngụy Diên làm
tắt ngọn chủ Đăng, Khổng Minh biết số mình đã hết. Tư Mã Ý nhìn thấy một ngôi
sao to, sắc đỏ tía, ánh tỏa ra như có sừng, từ phương đông bắc bay sang phương
nam, rồi sao xuống trại Thục. Ba lần sa xuống, ba lần vực lên, tiếng chuyển ầm ầm.
Tư Mã Ý biết Khổng Minh đã chết. Sấm trạng Trình (Nguyện Bỉnh Khiêm) cũng được
người đời truyền tụng và thêu dệt thành huyền thoại, ít nhiều ứng với lịch sử
Việt nam mấy trăm năm qua. Nhà Nho đến 50 tuổi thì biết mệnh trời “ngũ thập tri
thiên mệnh”. Họ sống thuận theo mệnh trời.
Như vậy, các tôn giáo đều đưa ra các lý giải về số phận đời người. Tất cả
đều nhằm mục đích hướng thiện. Nhưng chính con người làm nên số phận của
mình và số phận do “ma đưa lối quỷ đưa đường/ cứ tìm những chốn đoạn trường mà
đi”. Người ta cũng nói đến “đức năng thắng số”. Người ta nhờ ăn ở phúc thiện có
thể thắng được số phận. Chúa Giêsu biết rõ số phận của Giuđa, nhưng Người cũng
không cứu được hắn, mặc dù Người đã cảnh tỉnh hắn nhiều lần, nhưng hắn đã thuộc
về bóng tối, và bóng tối đã dẫn hắn đi con đường bán Chúa rồi treo cổ tự tử (Mt
27. 3-5)..
Vấn đề là, trời, Thiên mệnh, có phải là Thiên Chúa, là thượng đế hay không?
Câu trả lời là không phải, tuy có đôi chỗ tương đồng. Trời là ý niệm dân gian.
Thiên Mệnh là ý niệm của Nho giáo phục vụ cho nhà nước Phong Kiến (Vua là con
Trời, thay trời hành đạo). Thiên Chúa là ý niệm tôn giáo của Thiên Chúa Giáo (từ
đa thần chuyển sang độc thần). Thượng đế là ý niệm của triết học (Đấng Tuyệt Đối,
Chân lý tuyệt đối)
8. CỰU ƯỚC - SÁCH LỊCH SỬ CỦA NGƯỜI DO THÁI
Sáng Thế Ký chỉ là một dạng truyện thần thoại, như kiểu Truyện Họ Hồng
Bàng của Việt Nam, bởi ngày nay khoa khảo cổ học đã chỉ ra nguồn gốn con người ngày
nay (Homo Sapiens) là từ đông Phi cách nay 200.000 năm. Không có vườn địa đàng.
Và rồi Đức Chúa tuyển chọn Abraham. Thiên Chúa phán với Abram: "Hãy đi khỏi
xứ sở của ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho
ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và Ta sẽ
cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho
những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến, Ta sẽ chúc dữ. Mọi thị tộc trên
trần thế sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau". (St 12, 1-2). Abraham từ Ai Cập
đến miền Ne-ghep, rồi ở lại Ca-na-an. Đức Chúa lập Giao Ước với Abraham thế này: ”Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả tức song
Êu-phơ-rát, đất cua3 những người Kê-ni, Cơ-nat, Cát-môn, Khết, Pơ-rit-di,
Ra-pha, E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15, 18-19)
Hành trình của Cựu Ước là hành trình thành lập một nước Israel, từ việc đi tìm
đất hứa, thiết lập nhà nước, phong vương… Thiên Chúa đã Giao Ước với Abraham, một
người được tuyển chọn từ thị tộc Thare sống tại Ur gần vịnh Ba Tư, Ur cũng thường
được gọi là Chalđê..Cựu ước từ đầu đến cuối là một lời hứa. “Ta sẽ giữ lời Ta
đã thề với Abraham cha ngươi, Ta sẽ cho dòng giống ngươi nên đông đảo như sao
trên trời. Ta sẽ ban cho dòng giống ngươi tất cả xứ này. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy
dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau”.
Sách Xuất Hành kể chuyện Môise đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Israel ở Ai Cập
430 năm (Xh 12.40). “Cuộc xuất hành thường được cho là đã xảy ra vào hạ bán thế
kỷ thứ XIII trước Thiên Chúa giáng sinh, dưới thời vua Pharaoh Ramsès II” (*).
Khi Môise chết dân Israel vẫn còn là dân du mục. Sau đó là chinh phục đất
Canaan. Sau đó là thời kỳ các thẩm phán (200 năm). Vị vua đầu tiên của Israel
là Saul thuộc thị tộc Benjamin. Sau Saul là vua Davit (năm 1000 TCN), nhà vua
cung nghinh Hòm Bia, làm vua Israel 40 năm, trị vì tại Giêrusalem 33 năm.
Salomon kế vị cha là Đavit làm vua. Ông hoàn tất xây đền thờ. Đây là ông vua
giàu có bậc nhất “Số vàng vua Salômôn thu nhập hang năm là 20.000kg... Tất cả
các chén uống của vua đều bằng vàng... vua là người trổi vượt hơn tất cả các đế
vương trên mặt đất về sự giàu có và khôn ngoan...”(2 Sb 9.13-24).
Salômôn làm vua Israen 40 năm, truyền ngôi cho con là thái tử Khơ-ráp-am.
Hơ-ráp-am bất trung với Đức Chúa, bị Vua Ai Cập là Sisác tiến đánh Giêrusalem,
Khơ-ráp-am gần bị tiêu diệt. Sau đó chiên tranh liên miên chế độ quân chủ do
Salomon thiết lập sụp đổ. Đây là “kỷ nguyên của các tiên tri, một khoảng thời
gian chừng 900 năm từ khoảng 1050 đến 150 trước TCGS, thật sự bắt đầu với
Samuel… nhiệm vụ chính của tiên tri là khuyên răn và cảnh cáo vua” (*)
"Mồng Mười tháng Năm. Nơbuzarađan, hồng lô tự khanh, quan hầu cận trước mặt
vua Babilon đến Yêrusalem. Ông đã đốt nhà của Yavê, cung điện nhà vua và tất cả
các nhà ở Yêrusalem; mọi ngôi nhà to lớn đều bị lửa thiêu hủy. Quân lính Kanđu
dưới quyền quan hồng lô tự khanh, đã triệt hạ tất cả các tường lũy quanh
Yêrusalem.: (*) khoảng hai mươi lăm đến năm mươi ngàn người Yuđa bị đưa đi lưu
đày. Giai đoạn đầu tiên trong chuyến này, phải đi độ bảy trăm dặm đến Babilon.
Năm 537 trước TCGS, (vua Ky-rô nước Ba Tư ra sắc chỉ). Một năm sau khi sắc chỉ
hồi hương được ký, người Dothái bắt đầu trở về lại Yuđa, nhưng không phải tất cả
đều trở lại. Nhiều người đã có nhà cửa đầy đủ tiện nghi tại Babilon và đã làm
ăn phát đạt, nhất định ở lại đó…
Đọc suốt Cưu Ước, ngưởi đọc hôm nay chỉ thấy các cuộc chiến tranh bộ tộc giành
đất, hình thành một quốc gia. Đó là tiến trình từ bộ lạc thành bộ tộc thành quốc
gia phong kiến có vua chúa cai trị. Trên nền của thực tế lịch sử đó, Đức Chúa
như một lực lượng tinh thần, một lý tưởng, một định hướng con đường lịch sử.
Các lãnh tụ Israel luôn lấy Đức Chúa làm điểm tựa để đoàn kết toàn dân.
Xin đọc một đoạn về Đavit:
Các cuộc chiến tranh thời vua Ða-vít (2 Sm 8:1-14)
1 Sau đó, vua Ða-vít đánh bại người Phi-li-tinh và hạ nhục chúng. Vua chiếm lấy
Gát và các vùng phụ cận, khỏi tay người Phi-li-tinh. 2 Vua đánh bại người
Mô-áp, người Mô-áp phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua.
3 Vua Ða-vít đánh bại Ha-đát-e-de vua nước Xô-va về phía Kha-mát, khi vua này
đi tái lập chủ quyền trên vùng sông Êu-phơ-rát. 4 Vua Ða-vít bắt được của vua ấy
một ngàn chiến xa, bảy ngàn kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh; và vua Ða-vít đã
cắt gân chân tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ chừa lại một trăm. 5 Người A-ram
ở Ða-mát đến cứu viện Ha-đát-e-de vua Xô-va, nhưng vua Ða-vít đã hạ của A-ram
hai mươi ngàn người. 6 Vua Ða-vít đặt những trấn thủ cai trị người A-ram ở
Ða-mát, và người A-ram phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua. Ðức
Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó. 7 Vua Ða-vít lấy các khiên vàng mà tôi
tớ vua Ha-đát-e-de mang, và đưa về Giê-ru-sa-lem. 8 Và từ Típ-khát và Cun, các
thành của vua Ha-đát-e-de, vua Ða-vít lấy được rất nhiều đồng, sau này vua
Sa-lô-môn dùng đồng ấy làm bể nước, làm cột và các vật dụng khác.
9 Nghe tin vua Ða-vít đã đánh tan toàn bộ lực lượng của Ha-đát-e-de vua Xô-va,
10 Tô-u vua Kha-mát liền sai con là Ha-đô-ram đến vấn an và chúc mừng vua
Ða-vít vì vua đã chiến đấu với Ha-đát-e-de và đánh bại vua ấy - đó là vì vua
Tô-u cũng đã khai chiến với Ha-đát-e-de. Vua Tô-u còn gởi tặng vua Ða-vít đủ thứ
vật dụng bằng vàng, bạc và đồng. 11 Vua Ða-vít cũng thánh hiến cho Ðức Chúa tất
cả các vật dụng ấy cùng với vàng bạc vua đã lấy được của tất cả các dân Ê-đôm,
Mô-áp, con cái Am-mon, Phi-li-tinh và A-ma-lếch.
12 Ông Áp-sai con bà Xơ-ru-gia đánh bại quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, giết chết
mười tám ngàn người. 13 Ông đặt những trấn thủ cai trị tại Ê-đôm. Toàn dân
Ê-đôm phải làm nô lệ vua Ða-vít, và Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng
đó.”
Đọc Cựu Ước, người Việt Nam hoàn toàn xa lạ với một dân tộc không hề có quan hệ gì với
lịch sử dân tộc mình. May ra người Việt Nam nhớ được vài tên tuổi như Abraham, Davit,
Solomon. Các vị này được biết đến như những người kiệt xuất khôn ngoan, tài giỏi
dũng lược và giàu có. Hỡi ơi, đâu có biết rằng cả Davit và Solomon cũng có những
mặt rất kém cỏi về đạo đức.
Davit thấy nàng Bat Se-va tắm liền cho người bắt về và ăn nằm với nàng. Sau đó
Davit lập mưu cho chồng nàng là U-ri-gia ra trận, để địch giết chết (tội gian
dâm và giết người) [18]. Solomon có 700 vợ và 300 thiếp, bỏ Đức Chúa mà tôn thờ
thần ngoại, bị Đức Chúa nổi giận giành lại quyền bính chỉ để cho một chi tộc
[19]
Đức Chúa của người Israel chỉ là một vị Thần (vị thần hay ghen tương và độc
đoán), nhiều đoạn trong Cưu Ước chỉ nói Đức Chúa nói với… không miêu tả cụ thể
chân dung như thế nào. Có khi đức Chúa hiện ra trong thị kiến. Nhưng rõ nhất là
Môise và Đức Chúa. Người đọc hôm nay có cảm giác Đức Chúa như một tù trưởng, một
già làng, một người dấu mặt, quyền uy (hoặc chỉ là nhân vật các lãnh tụ Israel
dựng nên để nhờ sức mạnh thần linh mà quy tụ toàn dân).
Xin đọc: Ông Môise diện kiến với Đức Chúa, sau đó ở trên núi Sinai 40 ngày Ông
Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt
quần áo. 15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn
sàng. Ðừng gần gũi đàn bà."
16 Ðến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có
tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. 17 Ông Mô-sê đưa dân
ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. 18 Cả núi Xi-nai
nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói
lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh.
Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. 20 Ðức Chúa ngự xuống trên
núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên. 21
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để
xem Ðức Chúa, kẻo nhiều người phải lăn ra chết“ (Xh 19. 14-21)
Chỉ thị sau đây của Đức Chúa chẳng khác gì của một người trần gian:
1 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en là phải
đóng góp vào việc thờ phượng Ta. Các ngươi hãy nhận phần đóng góp nơi những người
nhiệt tâm. 3 Ðây là phần đóng góp các ngươi sẽ nhận của họ: vàng, bạc và đồng,
4 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê, 5 da cừu nhuộm đỏ,
da cá heo và gỗ keo, 6 dầu thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm
hương thơm, 7 hồng mã não và ngọc quý để nhận vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực.
8 Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. 9 Theo như các mẫu
chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như vậy. (Xh
25. 1-9)
Giống như vua chúa trần gian gom góp vàng bạc lụa là trong dân.
Trong 10 Điều răn của Đức Chúa, cũng có điều rất trần tục:
5 Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta
phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.6 Còn với những ai yêu mến
Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. (Xh
20. 5-6)
Chẳng khác gì lệnh tru di tam tộc của vua chúa phong kiến đối với nghịch thần.
Và vì Đức Chúa chỉ là một vị thần nên người Israel sẵn sàng bỏ vị thần Đức Chúa
mà thờ các thần khác. Điều này đã diễn ra suốt lịch sử Cựu Ước, từ dân đến Vua.
Như vậy quá trình chuyển hóa từ vị thần Đức Chúa thành Thiên Chúa toàn năng là
một quá trình lịch sử, do trình độ nhận thức của dân Israel (từ cảm tính đa thần
đến lý tính triết học), và do yêu cầu tách thần quyền khỏi thế quyền, Đức Chúa
không còn hiện diện như một vị vua trần gian đòi vàng bạc lụa là nữa.
9. CON ĐƯỜNG CỦA TÔI
Tôi kính trọng những thánh nhân đã đi trước tôi, và tôi học được ở họ nhiều điều.
Đạo Nhân Nghĩa của Khổng Tử có giá trị nhân bản. “Nhân là yêu người”. Bất nhân
chính là hạng thú vật. Thuyết Thiên Mệnh đáng suy nghĩ. Sống thuận theo Thiên Mệnh
có lẽ là cách sống phù hợp với người trí thức. ”Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã“ (Luận ngữ, thiên Nghiêu Viết)... Không biết mệnh không phải là người quân tử.
Con người có số mệnh, điều này ai cũng trải nghiệm, bởi nếu không có số mệnh
thì ai cũng có thể làm vua. Số mệnh thể hiện rõ trên sắc tướng. Những người tai
to mặt lớn, khí phách, đường bệ thì ở trên thiên hạ. Những kẻ trán nhọn, tai
lép, mặt chuột luôn là kẻ tiểu nhân hiểm ác. Giàu, nghèo, sang, hèn, thọ, yểu đều
có số.
Đạo “vô vi” của Lão Tử, thực ra là sống thuận theo tự nhiên, giữ lấy cái tự
tánh trời sinh, trở về với uyên nguyên bản thể của mình, “Trời, đất cùng ta
cùng sinh mà muôn vật cùng ta là một”(Trang Tử), Đạo Đức Kinh có nhiều lời
khuyên quý giá về kinh nghiệm sống ở đời:
“Vi vô vi; sự vô sự; vị vô vị. Đại tiểu, đa thiểu. Báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kì
di; vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự, tất tác ư dị; thiên hạ đại sự, tất tác ư tế.
Thị dĩ thánh nhân, chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại. Phù khinh nặc, tất
quả tín; đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nân chi, cố chung vô nan dĩ”.
(Làm cái “vô vi”, lo cái “vô sự”, nếm cái “vô vị”; xem cái lớn là nhỏ, coi cái
nhiều là ít, lấy đức báo oán. Tính việc khó từ dễ, làm việc lớn từ nhỏ. Nên việc
lớn, việc khó trong thiên hạ đều khởi từ chỗ tế nhị, dễ dàng. Thế nên thánh
nhân suốt đời không làm lớn, mới thành việc lớn. Ôi kẻ nói dễ ai mà dám tin? Dễ
nhiều thì khó nhiều.Thánh nhân coi cái gì cũng là khó, nên suốt đời chẳng hề gặp
việc khó” (Chương 63 Đạo Đức Kinh- Khai.K. Pham dịch)
Lời dạy của Phật: "Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình y tựa
chính mình, chớ y tựa một cái gì khác” có thể làm kim chỉ nam để mình tự tìm lấy
con đường giải thoát cho chính mình. Tứ Diệu Đế, Thuyết Tánh Không và Vô Ngã
Tánh không giải quyết được những vấn đề của con người. Bởi con người, dù lý luận
thế nào về Vô thường, nó vẫn tồn tại trong đời với những quan hệ xã hội phức tạp,
nó phải đối mặt giải quyết mọi vấn đề của chính nó, tư tưởng Phật Giáo không
giúp giải quyết được những vấn đề xã hội, khi những bất công xã hội vẫn còn đó,
những thế lực áp bức chà đạp con người vẫn còn đó, khi tội ác ngày càng tăng
lên. Từ khi Phật đắc đạo đến nay, sinh, lão, bệnh, tử vẫn còn đó, không giải
quyết được gì.
Phật giáo phủ nhận đời sống, nhưng chính sự sống là điều kỳ diệu nhất của Thượng
Đế. Luật nhân quả chỉ là một luật trong tự nhiên bên cạnh nhiều luật khác. Nhân
quả không thể lý giải mọi vấn đề nhân sinh và tâm linh. Ngoài luật nhân quả,
trong thiên nhiên còn có luật vạn vật hấp dẫn, kinh tế có luật cung cầu, nhân
sinh có luật trẻ già rồi chết... Hơn 2 triệu người Việt chết đói năm 1945 chẳng
lẽ kiếp trước của họ sống ác? 6 triệu người Do Thái bị Hitler giết, chẳng lẽ kiếp
trước cũng là những kẻ giết người? Nếu thế thì chính là bào chữa tội lỗi cho thực
dân phát xít rồi. Có điều thiện nghiệp hay ác nghiệp, cũng đều là nghiệp, là
dây trói, nên Phật giáo không quan tâm đến những tội ác của lịch sử chăng?
Thiên Chúa Giáo trong Cựu Ước, như đã tìm hiểu, đó là lịch sử của người Do
Thái, chẳng liên quan gì đến đức tin Công Giáo sau này. Đức Giêsu là người Do
Thái, Người nói đến Cựu Ước là bởi Người giảng đạo cho người Do Thái. Người Việt Nam không thể lấy Cựu Ước làm Kinh Thánh cho mình.
Nền tảng Kinh Thánh Công Giáo theo Tân Ước là Đức Giêsu. Bài giảng trên núi về
Tám Mối Phúc đã chỉ rõ. Nước trời thuộc về nhữnng người lương thiện, khó nghèo
khao khát đời công chính. Bởi Nước Trời là của họ."Phúc thay ai có tâm hồn
nghèo khó,vì Nước Trời là của họ” (Mt.5, 3-12). Trong ngày cánh chung, khi Đức
vua phán xử, Người cũng căn cứ trên hành động cụ thể của mỗi người đối với người
nghèo khổ (Mt 25, 34-40).
“Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ
thuở tạo thiên lập địa.Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi
đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi
đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến
thăm".
Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng
con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là
khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy
Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu ?"
Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy".
Con đường theo Đức Giuêsu chỉ có hai điều: mến Chúa và yêu người (người nghèo
khổ)
Một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy,
trong sách Luật Môi-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?".
Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng
đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình". (Mt 22.35-40)
Vâng, nếu ai cũng thực hiện lời đạy của Đức Giêsu thì thế giới này đã là Thiên
Đàng rồi.
Đức Giêsu nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Người cũng
khẳng định: ”Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Kinh thánh đã chỉ ra Đức Giêsu có quyền năng trên sự chết (Nazarô. Ga 11,
1-44), trên quỷ thần (Mt 28, 28-34) và trên quy luật tự nhiên (dẹp yên biển động-Mt
8.23-27). Hai nhân chứng vĩ đại cho sự thật về Đức Giêsu là Tôma (Ga 20, 19-29)
và Phaolo trên đường Đamas (Tông Đồ Công Vụ 9, 1-19). Ở Việt Nam đã có hàng
trăm ngàn người tử đạo về đức tin vào Đức Giêsu. Đó là những nhân chứng về sự
thật. Đó cũng là Con Đường mà họ đã chọn lựa. Đó cũng là điều mà Pilat đã hỏi Đức
Giêsu: ”sự thật là gì?”
Đức Giêsu khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc
về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người
Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18-36)
Khi biến Giáo hội thành Nhà nước với quyền lực, lãnh thổ, tiền bạc, chức tước...
như Nhà nước trần ngian, ấy là đã sai với Đức Giêsu dạy.
Nhà nước Roma trong lịch sử đã có quá nhiều sai lầm, từ Thánh chiến đến Tòa Dị
giáo: Năm 1200, Giáo hoàng Innocent III thiết lập tòa án dị giáo, và phát động
Thập tự chinh. Năm 1233, Giáo hoàng Gregory IX công bố hình phạt dị giáo. Năm
1252, Giáo hoàng Innocent IV cho phép tra tấn, và ra lệnh thiêu sống bất cứ người
nào chống lại Công giáo. Nhiều Giáo hoàng hư hỏng...
(Dẫn theo Diễn đàn lịch sử: http://webcache.googleusercontent.com/)
Tôi tin Đức Giêsu nhưng không tin Giáo hội trần gian nhân danh Ngài là nước
Vatican. Vì nước của Đức Giê-su không thuộc về thế gian này. (Ga 18-36)
10. LỜI CUỐI
Tôi hoàn toàn thanh thản vì tự nhận thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ xã hội,
không vướng mắc điều gì. Suốt đời gắng giữ thiện tâm. Tôi cũng đã hỷ xả mọi
chuyện ở đời với tha nhân. Mọi dự định của đời tôi, tôi đều đã làm được, và đạt
được 40% ý nguyện (bởi trong Tử vi của tôi, sao Thiên Hư theo sát năm hạn suốt
đời, nên làm việc gì cũng chỉ đạt 40% là cùng). Xét lại cuộc đời mình, tôi thấy
mình làm gì cũng chịu thiệt. Càng làm càng thiệt. Tôi tuổi Sửu, tuổi trâu. Làm
trâu chỉ biết cày cho người khác hưởng (Mệnh vô chính diệu, đắc tam không, Thân
vô chính diệu có Thiên Cơ-Hóa Khoa xung chiếu). Tôi nghĩ, cứ coi phần mình bị
thiệt ấy là phần phúc dành cho con cháu. Đối với người Việt, phúc đức là cái gốc
của tất cả. Vô phúc thì thật bất hạnh. Và tôi bằng lòng với cách giải thích ấy.
Sống ở đời, tôi thấy con Người bị chi phối hoàn toàn bởi Bản năng và Định mệnh
(Freud và Thiên mệnh đúng). Trong xã hội, con người phải chịu bao nhiêu hệ lụy,
bị trói buộc bằng bao nhiêu thứ dây trói: Chính trị-tổ chức, pháp luật, văn
hóa, tôn giáo, đạo đức, tình cảm, (triết học K.Marx đúng), giải quyết những vấn
đề tâm linh thì tôn giáo đúng, thế nhưng lại có nhiều tôn giáo giải thích vấn đề
rất khác nhau, thành ra không biết tôn giáo nào đúng…
Tôi đã nỗ lực hết sức mình, vắt kiệt sức cho những ước vọng, cuối cùng, trong
tay chỉ có đồng xu của bà góa (trong Kinh Thánh). Định mệnh là thế.
Tôi cố dùng trí tuệ nhận thức xem trong lời dạy của các bậc thánh nhân đâu là sự
thật, đâu là chân lý. (chữ sự thật và chữ chân lý có hàm nghĩa khác nhau). Nói
sự thật là nói đúng bản chất sự việc, không vì mục đích tuyên truyền mà xuyên tạc
sự thật. Chân lý là sự thật vĩnh cửu, thí Có sinh thì có tử, một quy luật hiển
nhiên từ nghìn xưa tới nghìn sau, đúng với mọi tạo vật, kể cả thánh nhân. Tất cả
các thánh nhân đều đã chết, thành ra thánh nhân cũng chỉ là những kẻ đi lừa người
khác.
Rằng, có một sự thật là, mọi nhận thức của con người xuất phát từ não bộ. Một bộ
não dù vĩ đại đến đâu cũng có giới hạn. Thế có nghiã, mọi nhân thức của nhân loại
từ xưa đến nay cũng là nhận thức trong giới hạn, nhiều lắm là nắm bắt được một
nửa chân lý, vì thế nhân loại đi từ lầm lạc này đến lầm lạc khác. Lịch sử nhân
loại là lịch sử của sự lầm lạc.
Toán học là khoa học nhận thức chân lý bằng những gì chứng minh được, vậy mà định
đề Euclid lại chỉ ra rằng, những gì chứng minh được lại phải dựa trên những gì
không thể chứng minh. Định lý bất toàn của Kurt Gödel (Theorem of
Incompleteness) đã chỉ ra “Bất kỳ cái gì có thể khoanh một vòng tròn quanh nó đều
không thể tự giải thích về bản thân mình mà không tham khảo tới một cái gì đó ở
bên ngoài vòng tròn - một cái gì đó mà bạn coi là đúng nhưng không thể chứng
minh”.[21]
Như vậy bên ngoài vũ trụ này nhất định còn có một vũ trụ khác, và muốn hiểu vũ
trụ này thì không thể đứng bên trong vũ trụ mà có thể hiểu được. Phải vượt ra
ngoài khoa học để hiểu khoa học, đó là đức tin. Nguyên lý bất định của
Heisenberg cũng chỉ ra rằng trên thế giới còn tồn tại những sự việc, những lĩnh
vực không tài nào quan sát hay nghiên cứu được [22]. Nói cách khác, khoa học
không bao giờ có thể hiểu được tất cả, mà cần phải dựa vào đức tin. Những gì gọi
là mạc khải hay đốn ngộ là không thể chứng minh và không thể dùng lời để diễn tả.
Và tôi tin rằng có một thế giới không phải là vũ trụ vật chất này, nơi đó linh
hồn con người tồn tại. Linh hồn không là vật chất nên không còn chịu sự tác động
bởi những quy luật vật chất, nghĩa là không còn sinh tử, không còn khái niệm nhị
nguyên như sướng khổ, vinh nhục. Con người hoàn toàn tự do…
Và Thượng Đế là gì thì con người không thể hiểu, không thể giải thích, không thể
hình dung. Trong nhận thức của con người, chết là hết, vĩnh viễn hư không và đời
này thật vô nghĩa và phi lý. Con người sinh ra trong cõi đời này để làm gì? Thượng
Đế vĩ đại chẳng cần gì ở con người cả. Ngài chẳng cần con người phải ca ngợi.
Tôi ghét nhất cái mặc cảm con người là tội lỗi, và vì thế nó phải mang ơn thượng
đết, phải cúi đầu cảm tạ thượng đế. Thượng đế cần gì sự ngợi ca của một hạt
cát! Hóa ra con người tự hù dọa chính mình (xin đừng nói tôi ảnh hưởng
Nietzsthes)
Sáng Thế Ký nói rằng Đức Chúa dựng nên tất cả, và tất cả đều tốt đẹp. Tôi là một
phần tốt đẹp mà Ngài đã tạo nên. Vì thế, nếu tôi từ giã cuộc đời này, thì đó là
một niềm hân hoan miên viễn của sự trở về với Thượng đế, cội nguồn của cái đẹp.
Chú thích:
(1) Câu 2, Sách Giảng Viên.
(2) Ngũ uẩn: năm yếu tố tạo thành thân tâm con người; có tính chất dính mắc, bám
víu; gồm: sắc - thọ - tưởng - hành - thức.
(3) Lê Sỹ Minh Tùng :Ngũ Uẩn và căn nghiệp của con người-http://www.thuvienhoasen.org/
(4) Sự Tích Đức Phật, Nxb Tổng hợp Tp HCM 2011. Tr406.
(5) Thích Thiện Siêu - http://www.thuvienhoasen.org/)
(6) Thích Thông Huệ - Thuyết Nhân Quả: http://www.daophatngaynay.com/vn/
(7) Nhiên Như - Quảng Tánh: Trầm tư về các loại cô hồn “Truy y thích tử chi lưu”: http://www.thuvienhoasen.org/
(8) Sư Phrathepyanmahamuni, Viện trưởng tu viện Wat Phra Dhammakaya, Thái Lan (http://www.thuvienhoasen.org/)
(9) Về thái độ của đảng công nhân đối với tôn giáo - V.I.Lenin toàn tập, tập 15,
Nxb Sự Thật Hà nội 1972, tr 575-593.
(10) Sự sống trên Trái đất có nguồn gốc từ vũ trụ-http://www.khoahoc.com.vn/
(11) Bách khoa toàn thư- Lịch sử trái đất
(12) Xh 34,14 - Mười điều răn, sách Đệ Nhị Luật (Dnl 5, 7, 8)
(13) Sách Các Vua quyển I. (I V 11, 5-9)
(14) Từ năm 1095, thời Giáo hoàng Urbanô II, những cuộc Thập Tự Chinh bùng phát.
Đó là hàng loạt chiến dịch quân sự tại khu vực Đất Thánh (Jerusalem) và những
nơi khác. Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập Tự đã thẳng
tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo, hoặc
cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn trẻ em bị bắt bán làm
nô lệ.
(15) Năm Tín Lý Duy Nhất: 1/ Duy Ân Điển: Chỉ bởi ân điển mà con người nhận lãnh
sự cứu rỗi, không phải bởi công đức. 2/ Duy Đức Tin: Đức tin dẫn đến sự xưng
công chính và việc lành”. 3/ Duy Kinh Thánh : Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa, là
thẩm quyền và mặc khải duy nhất đến từ Thiên Chúa được ban cho mọi người (nghĩa
là mọi người có thể hiểu và tự giải thích Kinh Thánh), phủ nhận quyền giải
thích Kinh Thánh bởi Giáo Hoàng. 4/ Duy Chúa Cơ Đốc: Chúa Cơ Đốc là Đấng Trung bảo
duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Không phải Maria , hoặc các thánh, cũng
không phải linh mục. 5/ Duy Thiên Chúa được tôn vinh: Mọi vinh hiển đều dành
cho Thiên Chúa, vì sự cứu rỗi là công việc bởi tay Ngài làm - không chỉ là sự
chết chuộc tội của Chúa Giê-xu trên thập tự giá,
(16) Các lần kết tập kinh điển Phật Giáo: Các kinh điển được sắp xếp lại sau những
lần kết tập. Lần kết tập I ngay sau khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn, soạn các bộ
Kinh A Hàm làm kinh điển cho Phật Giáo Nguyên Thủy. Lần kết tập thứ IV sau 400
năm, sắp xếp lại Tam Tạng Kinh.
(*) Lịch Sử Ơn Cứu Độ - ĐGM Jos Vũ Đức Minh.
Ramses II trị vì Ai Cập trong khoảng 68 năm, từ năm 1304 đến năm 1237 trước
Công nguyên là vị vua thứ 3 của Triều đại thứ 19, và là một trong những pharaoh
có tầm quan trọng nhất thời đó. Ông được ghi nhận là người sáng lập nên Ai Cập
cổ vì đã xây dựng hoặc cho mở rộng nhiều ngôi đền trong triều đại của mình hơn
bất cứ vị vua nào khác.
(17) Hồ Trung Tú - Freud và Phật Giáo-nguồn: Tia Sáng
http://www.hoalinhthoai.com/
(18) Sách Sử Biên Niên quyển 1 (1Sb 18. 1-13)
(19) Sách Sa-mu-en quyển 2, chương 11 (2 Sm 11,2-17)
(20) Sách Các Vua quyển 1, chương 11 (1 V 11 1-13)
(21) Phạm Việt Hưng -http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org/
(22) Nguyên lý bất định trong Cơ Học Lượng Tử - Vietsciences -GS Trịnh Xuân Thuận - http://vietsciences.free.fr/.
Tháng 1.2013Bùi Công Thuấn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Ký sự miền Tây lục tỉnh
Ký sự miền Tây lục tỉnh Đầu năm Kỷ Hợi (2019) nhóm bạn cũ của chúng tôi tại Sài Gòn và vùng lân cận tổ chức chuyến đi VỀ MIỀN TÂY Nam bộ. Ri...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...