Bình Nguyên Lộc,
đất nước và con người
Tiểu sử
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914
(giấy tờ ghi 1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay
thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Ðồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova,
Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn.
Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô
Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy
đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường
không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở
kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố.
Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và
1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo.
Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh
Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập
truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến
Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất.
Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều,
phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn.
Tác phẩm đã in:
Thơ: Thơ tay trái, Việt sử trường ca và Thơ ba Mén (tiểu thuyết thơ).
Sưu tầm, chú giải: Thổ ngơi Ðồng Nai (ca dao miền Nam, và chú giải cổ văn, viết
chung với Nguyễn Ngu Í), Chiêu hồn và Tiếc thay duyên Tấn phận Tần, Tự tình
khúc và Thu dạ lữ hoài ngâm, Tỳ bà hành và Trường hận ca.
Dân tộc học và ngôn ngữ học: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (1971), Lột
trần Việt ngữ (1972)...
Truyện ngắn: Nhốt gió (Thời thế, 1950), Ký thác (Bến Nghé, 1960), Tân liêu trai
(Bến Nghé, 1960), Tâm trạng hồng (Sống Mới, 1963). Mưa thu nhớ tằm (Phù Sa,
1965), Tình đất (Thời Mới, 1966), Cuống rún chưa lìa (Lá Bối,1969), Nụ cười nước
mắt học trò (Trương gia, 1967)...
Tạp bút: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (Thịnh Ký,
1966).
Truyện dài: Ðò dọc (Bến Nghé, 1959), Gieo gió gặt bão (Bến Nghé, 1960), Ái ân
thâu ngắn cho dài tiếc thương (Thế Kỷ, 63), Mối tình cuối cùng (Thế Kỷ, 1963),
Bóng ai qua ngoài song cửa (Thế Kỷ, 1963), Bí mật của nàng (Thế Kỷ, 1963), Hoa
hậu Bồ Ðào (Sống Mới, 1963), Xô ngã bức tường rêu (Sống Mới, 1963), Nhện chờ mối
ai (Nam Cường, 1963), Nửa đêm... Trãng sụp (Nam Cường, 1963), Ðừng hỏi tại sao
(Tia Sáng, 1965), Quán tai heo (Văn Xương, 67), Một nàng hai chàng (1967), Thầm
lặng (1967), Trăm nhớ ngàn thương (1967), Uống lộn thuốc tiên (1967), Ðèn Cần
Giờ (1968), Diễm Phương (1968), Sau đêm bố ráp (1968), Khi Từ Thức về trần
(1969), Nhìn xuân người khác (1969), Tỳ vết tâm linh (?),Lữ đoàn mông đen (Xuân
Thu, Hoa Kỳ, 2001)
Truyện dài chưa in: Ngụy Khôi, Ðôi giày cũ chữ Phạn, Thuyền Trưởng sông Lô, Mà
vẫn chưa nguôi hình bóng cũ, Người săn ảo ảnh, Suối đổi lốt, Trử La bến cũ, Bọn
xé rào, Cô sáu Nam Vang, Một chuyến ra khơi, Trọng Thủy-Mị Ðường, Sở đoản của
đàn ông, Luật rừng, Trai cưới gái nào, Cuồng ca thế kỷ, Bóng ma dĩ vãng, Gái mẹ,
Món nợ thiêng liêng, Khi chim lià tổ lạnh, Ngõ 25, Hột cơm Ngô chúa, Lưỡi dao
cùn, Con khỉ đột trò xiếc, Con quỷ ban trưa, Quật mồ người đẹp, Người đẹp bến
Ninh Kiều, Bưởi Biên Hòa, Giấu tận đáy lòng, Quang Trung du Bắc, Xóm Ðề bô, Hai
kiếp nhả tơ, Muôn triệu năm xưa, Hổ phách thời gian,... (Theo Nguyễn Ngu Í
trong Sống và viết với...( 1966), đến ngày 31/5/1966 Bình Nguyên Lộc đã viết:
820 truyện ngắn (in năm tập), 52 tiểu thuyết (in 11 quyển).
Việc thất lạc văn bản và sự đánh giá sai lầm về Bình Nguyên Lộc.
Có sự trùng hợp lạ lùng giữa ngày sinh và ngày mất của Bình
Nguyên Lộc: cùng 7/3, cách nhau 73 năm: 7 và 3 như hai yếu tố biện chứng của định
mệnh, như thể nhà văn đã quyết định chấm dứt đời mình trong vòng bẩy, ba; ba, bẩy.
Một thân phận ba chìm bẩy nổi gắn bó với chữ nghĩa, khổ đau vì chữ nghĩa: suốt
đời bị thất lạc tác phẩm. Ngay từ năm 1965, khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn
Ngu Í (trong cuốn Sống và viết với...) Bình Nguyên Lộc cho biết: Tác phẩm đầu
tay tựa đề Hương gió Ðồng Nai viết trong gần mười năm (1935-1942), là "tập
truyện ngắn và tùy bút bát ngát hương đồng gió nội, và dẫy đầy màu sắc điạ
phương này, đã được hai nhà thơ có tiếng đương thời: Xuân Diệu và Huy Cận tán
thưởng" (Nguyễn Ngu Í, sđd, trang 220), bản thảo bị thất lạc trong lúc tản
cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió Ðồng Nai chỉ
còn lại một truyện ngắn và một tuỳ bút (đăng báo khoảng năm 1943). Mấy chục năm
sau, Bình Nguyên Lộc còn có lời rao trên báo, tìm người nào tình cờ giữ được trọn
vẹn hay một phần bản thảo, rồi ông đã thử viết lại Hương gió Ðồng Nai, nhưng cả
hai cố gắng đều vô hiệu.
Phù sa, tác phẩm thứ nhì, khởi viết năm 1942, cũng chung số phận như Hương gió
Ðồng Nai, nhưng may mắn hơn, đoạn mở đầu đã đăng trên báo Thanh Niên năm 1943,
với tên Di dân lập ấp (khiến độc giả biết đến ông) và về sau ông viết lại được
độ 1/6 tác phẩm, cho in trên tuần báo Nhân Loại. Theo lời Bình Nguyên Lộc, Phù
sa là "tác phẩm quan trọng nhất" của ông, làm sống lại cuộc "tiến
vào Nam" của đồng bào Nam-Ngãi để dựng nên miền Lục Tỉnh (sđd, trang 221).
Trong những sách đã xuất bản, Bình Nguyên Lộc phân biệt: loại sách không thương
mại, mà ông cho là không mấy ai đọc, in thật ít, còn ghi thêm không bao giờ tái
bản, như cuốn Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966)
Thịnh Ký in 658 cuốn. Thầm lặng (1967) cũng được ông liệt vào loại này; ngoài
ra còn cuốn Thu hẹp thiên nhiên, mới thấy quảng cáo sẽ in 569 cuốn và cũng
không bao giờ tái bản, nhưng có lẽ đã không in được, vì không thấy các tư liệu
về Bình Nguyên Lộc nhắc đến cuốn sách này. Tập Nhốt gió (1950) khi ông còn sống
cũng không tái bản. Số phận bộ sách biên khảo Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt
Nam (đã in một phần năm 1971), sau 75, được Mai Thảo thuật lại trong bài Nhân
cách Bình Nguyên Lộc. Theo lời người thân kể lại, khi rời nước năm 1985, ông bị
lạc một va-li tác phẩm và bản thảo, những gì còn vớt vát lại của một đời văn.
Mặc dù với những khó khăn về văn bản như thế, ở hải ngoại đã có những cố gắng
đáng kể trong việc bảo tồn những tác phẩm giá trị của Bình Nguyên Lộc:
Nhà xuất bản Văn Nghệ của Võ Thắng Tiết đã in lại hai tập truyện ngắn Ký thác
(1986) và Cuống rún chưa lìa (1987). Tạp chí Văn Học, do Nguyễn Mộng Giác chủ
biên, ra số đặc biệt tưởng niệm nhà văn, sau khi ông qua đời (số 18, tháng 7/1987),
trong có bài nhận định đặc sắc của Hồ Trường An về Bình Nguyên Lộc và in lại
bài Bình Nguyên Lộc trả lời phỏng vấn Nguyễn Nam Anh (Nguyễn Xuân Hoàng), đã in
trên báo Văn trước 75 với những thông tin chính xác về tác giả. Năm 1999, nhà
xuất bản An Tiêm của Thanh Tuệ đã cố gắng in tuyển tập Bình Nguyên Lộc, với lời
giới thiệu của Võ Phiến. Rất tiếc, trong bài "giới thiệu" này, Võ Phiến
không cho độc giả thấy cái hay của Bình Nguyên Lộc (lý do làm tuyển tập), mà
ông lại kín đáo chứng minh sự "bất tài" của Bình Nguyên Lộc, với những
nhận định giễu cợt mỉa mai như: "Cả tháng trời, Sơn Nam đọc từng đoạn (cuốn
Nhốt gió) như thế, và ông lâng lâng. Thì ra ông có đọc truyện đâu! Tay cầm cuốn
truyện, ông đọc... ca dao!
Như thế, Sơn Nam quả là tay sành sõi. Ông Cao Huy Khanh, ông Nguyễn Văn Sâm đọc
truyện của Bình Nguyên Lộc, và không mấy bằng lòng...", "Chúng ta có
cảm tưởng ông Bình Nguyên Lộc có hảo ý muốn làm vui người đọc. Hảo ý không thuộc
về nghệ thuật" (Sđd, trang XVII, và XIX). Việc Võ Phiến trích lại những nhận
định sai lầm của Cao Huy Khanh và Nguyễn Văn Sâm trong Văn Học số 18, đưa vào
tuyển tập như những nhận định chính xác về Bình Nguyên Lộc là một việc làm đáng
tiếc, vô tình hay hữu ý nhân cái sai làm hai. Bởi Cao Huy Khanh không muốn, hay
không thể hiểu và thông cảm cái mà ông gọi là "tâm lý bình dân" mà
ông cho là "tủn mủm" và "dễ dãi" trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc, và Ðò dọc cũng không phải là "sự thành công duy nhất và quá hiếm
hoi so với sự nghiệp sáng tác đồ sộ của tác giả", như Cao Huy Khanh đã nhận
định.
Nhà xuất bản Trẻ ở Sài Gòn, năm 1999, cho in lại cuốn "Những bước lang
thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc", do Sơn Nam viết tựa. Sơn Nam biến
Sài Gòn thành "vùng tạm chiếm", và ông có ý "biện hộ" cho một
Bình Nguyên Lộc "nhà văn tiểu tư sản yêu nước". Nhưng điều đó cũng
chưa đáng tiếc bằng việc họ đã bỏ lời nói đầu trong bản Thịnh Ký (1966) mà có lẽ
do chính Bình Nguyên Lộc viết. Mấy lời nói đầu rất ngắn, nhưng đầy đủ thông tin
về văn bản, như sau:
"Nhà văn Bình Nguyên Lộc có viết một thiên điều tra phóng sự dài, nhan là
"Thám hiểm đô thành", gồm nhiều bài ngắn và chia ra làm hai phần.
Phần thứ nhứt, cho đăng báo hằng ngày, kể những chuyện lạ của Sàigòn mà chưa
báo nào nói đến, chẳng hạn như những bài "Ma máy đá", tả cái viện cơ
thể học đầy dẫy xác chết ngâm thuốc của trường Y khoa Ðại học, chẳng hạn bài
"Người chuột cống", theo dõi những người phu của ty vệ sinh đô thành
họ chun xuống hệ thống cống tối thui và chằng chịt như mạng nhện để vét bùn đất
cho thông cống.
Phần thứ nhứt ấy, tác giả không muốn in thành sách.
Ðây là phần thứ hai mà tác giả đã cho đang riêng ở các tạp chí. (Nhân Loại, Thời
Trân, Sáng Tạo, v.v...) không có tính cách xã hội, hoặc "giựt gân" như
các bài của phần thứ nhứt mà chỉ nên thơ hoặc đượm một tý triết lý vụn vặt nào
đó thôi".
Thịnh Ký
Theo lời tựa này, thì Những bước lang thang... chỉ là phần
"không giựt gân", tức là "hiền lành" hơn, có thể không hay
bằng phần thứ nhất? Vậy sưu tầm lại phần thứ nhất, sẽ rất bổ ích cho văn bản học
và văn học.
Sự thất lạc tác phẩm, kèm theo việc bị đánh giá sai lầm, và thêm khó khăn thứ
ba: chưa có công trình tập hợp toàn bộ sáng tác đồ sộ của ông, một nhà văn có
bút lực dồi dào như Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, (trên dưới 100 tác phẩm), để
lựa ra phần chủ yếu, phần đáng kể nhất. Chính Bình Nguyên Lộc cũng đã "tâm
sự" với Nguyễn Văn Sâm: "viết hai, ba chục bài mới mong thấy được một
bài khá" (Xin được lần cuối gọi bằng anh, Nguyễn Văn Sâm, Văn học, số 18,
trang 67). Nếu chấp nhận sự đánh giá nghiêm khắc này của nhà văn thì qua trên
dưới 1000 truyện ngắn, tùy bút ông đã viết, cũng có trên dưới 50 "bài
khá", (không chỉ một, hai, như ý kiến của Nguyễn Văn Sâm), và nếu nghiên cứu
một số những "bài khá" ấy, con số 50 quả là đáng kể, không phải nhà
văn nào cũng có thể đạt được.
Tinh thần hòa hợp dân tộc
Bình Nguyên Lộc có một lập trường văn học riêng, không theo Bắc,
hoàn toàn theo Bắc như Ðông Hồ, cũng không giữ nguyên đặc chất Nam kỳ như Hồ Biểu
Chánh, Vương Hồng Sển... Nếu trong truyện ngắn chất Nam thường nổi bật, thì
trong truyện dài ông ngả theo lối Bắc. Ðó là một thái độ lựa chọn: Bình Nguyên
Lộc chọn thái độ trung dung trong tinh thần giao hòa Nam Bắc, kết hợp lịch sử
di dân với ngôn ngữ con người.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Hồ Biểu Chánh đã dùng tiếng Nam như một chính ngữ; như
thể Hồ muốn chống lại thành kiến của số đông người Bắc, tự cho tiếng Bắc là
"chính", là "chuẩn", tiếng Nam là "phụ", là tiếng
"địa phương", "quê mùa", "hủ lậu". Thành kiến
này, gần đây, vì lý do chính trị, có vẻ được củng cố mạnh mẽ hơn, cho nên ba
mươi năm sau ngày thống nhất đất nước, vẫn có người không bằng lòng khi thấy một
số bảng hiệu ở ngoài Bắc đã bắt đầu dùng tiếng Nam. Ðối với một số thành phần bảo
thủ ở Bắc, tiếng Nam, vẫn tiếp tục là thứ tiếng ngoại vi "không chấp nhận"
được. Dùng tiếng Nam làm chính ngữ, Hồ Biểu Chánh chỉ làm một việc tự nhiên,
nhưng nó mang tính cách thách thức: dựng nên một vùng đất mới của ngôn ngữ, một
thứ ngôn ngữ giàu có, sống động, đầy âm thanh, tiết điệu, thành quả của sự kết
hợp âm thanh ngôn ngữ Việt với những nền văn hoá phía Nam. Hồ chẳng quan tâm gì
đến "gốc Bắc". Ðối với Hồ, Nam Kỳ cũng là một "gốc", một địa
phận, một thổ ngơi, từ đó phát sinh ra văn chương, tư tưởng và xã hội miền Nam.
Sự so sánh văn phong Hồ Biểu Chánh với văn phong Bình Nguyên Lộc sẽ là một đề
tài lý thú cho phê bình, nhìn dưới lăng kính đối chiếu ngôn ngữ, để xác định
hai thời kỳ xã hội: thời đầu thế kỷ, khuynh hướng "Nam kỳ tự trị" còn
mạnh và thời sau 1954, với làn sóng di cư, khuynh hướng Bắc Nam hòa hợp trổi dậy,
đồng thời sự chia rẽ cũng đã manh nha vì nghịch cảnh chia đôi đất nước.
Ðông Hồ Lâm Tấn Phác đi ngược lại phong cách Hồ Biểu Chánh. Tâm hồn Ðông Hồ và
ngôn ngữ Ðông Hồ dường như đã bị "Bắc hóa" hoàn toàn. Dưới con mắt những
người như Vương Hồng Sển, Ðông Hồ có thể bị "khai trừ" khỏi "thổ
ngơi" miền Nam. Văn phong Ðông Hồ không thoát khỏi không khí Tương Phố, Á
Nam Trần Tuấn Khải.
Bình Nguyên Lộc bắc cầu giữa hai khuynh hướng trên: Ông không theo Bắc, hoàn
toàn theo Bắc như Ðông Hồ, mà cũng không giữ nguyên đặc chất Nam kỳ như Hồ biểu
Chánh, Vương Hồng Sển. Bình mở con đường thứ ba: giao lưu văn hoá Bắc Nam trong
truyền thống di dân và tiếp cận ngôn ngữ.
Cái "gốc Bắc", "tổ tiên" nguồn cội ngoài Bắc, được Bình
trân trọng tìm kiếm, không riêng gì khía cạnh lịch sử Nam tiến, mà còn cả về
nguồn cội ngôn ngữ. Ngoài sách biên khảo, trong tiểu thuyết, khi dùng một chữ
có tính chất đặc biệt địa phương miền Nam, ông thường tìm cách giải thích ngay
bên cạnh, chữ này ngoài Bắc dùng chữ gì. Ðôi khi còn phê bình luôn là chữ Nam
hay chữ Bắc hay hơn, có lý hơn, hoặc nói rõ xuất xứ tại sao lại có sự khác biệt
như vậy. Tất cả những lý giải, nhiều khi trở thành nhược điểm làm nặng sáng
tác, nhưng chúng thoát thai từ lối kể chuyện đường dài, trong truyền thống
"kể", "nói" của văn chương miền Nam.
Trong hoàn cảnh thiếu tư liệu để có một cái nhìn hoàn chỉnh về tiểu thuyết của
Bình Nguyên Lộc, bài viết này tập trung khảo sát truyện ngắn. Tuy vậy, qua một
vài tác phẩm đã đọc, chúng tôi tin rằng: Bình Nguyên Lộc tiếp nối truyền thống
tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Ông chưa mở ra được một hướng đi mới cho tiểu thuyết
như ông đã làm cho truyện ngắn: ảnh hưởng Khái Hưng, Nhất Linh bàng bạc trong
cách phát triển kỹ thuật truyện dài. Cuốn Ðò dọc (1959) được giải thưởng văn
chương toàn quốc 1960 (của miền Nam), mang dấu ấn truyện tâm lý viết theo lối Bắc,
khác hẳn lối viết của Hồ Biểu Chánh. Ðò dọc là cuốn tiểu thuyết đầu tay, trong
những cuốn sau, Bình Nguyên Lộc đào sâu thêm, như Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc
thương (1963), Hoa hậu Bồ Ðào (1963), sự phân tích tâm lý đã chiếm gần trọn tác
phẩm, mở rộng và đào sâu về hướng hiện thực xã hội thành thị miền Nam.
Ðò dọc viết về gia đình ông bà Nam Thành và bốn người con gái. Ông Nam Thành
nguyên là thầy giáo làng, gốc ở Bạc Liêu, trôi dạt lên Sài Gòn thời Pháp thuộc
những năm 50, kiếm sống bằng nghề bán rương và va-li da cho lính Pháp. Năm
1954, khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, gia đình này phải về quê, tìm cách chăn
nuôi và trồng trọt để độ thân. Ðây là một mẫu ảnh của người dân chợ (Bắc gọi là
kẻ chợ) phải về quê (Nam gọi là về vườn). Và hai mẫu đất vườn, đất mới này của
họ, cũng là thứ "nửa quê nửa tỉnh", nằm trên đường Sài Gòn-Thủ Ðức, một
con đường "thiên lý", một thứ xa lộ tương lai.
Người di dân ngược xuôi như chuyến đò dọc, bị bấn từ Bạc Liêu lên Sài Gòn, rồi
từ Sài Gòn sang gần miệt Thủ Ðức. Gia đình Nam Thành khi nói "nhớ" là
không biết "nhớ" đâu: cha mẹ thì nhớ quê má Bạc Liêu, các cô con gái
thì nhớ Sài Gòn. Nhưng rồi cuối cùng ngôn ngữ cũng mách cho họ một thứ nguồn gốc
xa xôi hơn: "gốc Bắc".
Ðò Dọc cho thấy tư tưởng chủ yếu của Bình Nguyên Lộc: ở thời điểm 1954, khi đợt
sóng di dư từ Bắc tràn vào, vừa có một đòi hỏi đoàn kết Bắc Nam, nhưng lại có một
thực tại kỳ thị, khác biệt lối sống và cá tính đôi bên, có sự trịch thượng của
người Bắc di cư trên văn đàn, có tình trạng người Nam bị chiếm thị trường chữ
nghĩa và kinh tế. Tất cả những yếu tố ấy đôi co, dằn vặt nhau, trong không khí
xã hội ngấm ngầm căng thẳng, khi nhẫn nhục chịu đựng, khi trực diện đối đầu. Ðò
dọc là tác phẩm bao dung và nhân hậu mở vòng tay chào đón đồng bào di cư, trong
giai đoạn lịch sử khó khăn, bằng con đường kết hợp dân tộc, bằng cách nhắc lại
lịch sử di dân, khai phá đất hoang, mở rộng cõi bờ và giao hoà ngôn ngữ. Có lẽ
đó là một trong những lý do khiến Mai Thảo, ngoài sự kính trọng tài năng, còn
tìm thấy ở Bình Nguyên Lộc, một nhân cách lớn, và Nhất Linh đã sớm coi Bình
Nguyên Lộc là một nhân tài, cho nên ông không đề nghị "đưa" Bình vào
Tự Lực Văn Ðoàn như một nhà văn đàn em. Dòng tư tưởng hoà hợp đất nước và con
người trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc, không phải đợi đến 1954 mới xuất hiện, mà
nó đã sống trong ông từ lâu, nằm trong xương thịt các tác phẩm đầu tay, dù đã
thất lạc, nhưng vẫn còn để lại những cái tên đầy ý nghĩa: Hương gió Ðồng Nai,
Phù sa, và chúng ta có thể nhận diện tinh thần ấy ngay trong tác phẩm đầu tiên
được in ra năm 1950: Nhốt gió.
Nhốt gió, ý thức về tự do
Nhốt gió là gì? Làm sao mà nhốt được gió?
"Cả bàn ăn đều kinh ngạc". Truyện bắt đầu bằng một câu ngắn như vậy.
Kinh ngạc cái gì? Chưa biết.
1- Kinh ngạc vì "thằng Kiệt không được thưởng xe máy theo lời hứa?
2 - Vì thằng Kiệt có những ý muốn làm cho mẹ nó khiếp đảm?
3 - Vì thằng Kiệt tái diễn sự xô sát thế hệ (giữa cha nó và ông bà nó)?
4 - Vì thằng Kiệt có những tư tưởng mà cha nó không thể nào ngăn cản được?
5 - Vì thằng Kiệt có một nhân sinh quan khác người?
Cả 5 giả thiết đều có thể đúng hoặc sai, và đến dòng chót, độc giả vẫn chưa biết
"cả bàn đều kinh ngạc" cái gì. Ðọc không được thì phải đoán. Trước mắt
bạn là một văn bản không hiển nhiên, bắt bạn phải suy nghĩ, phải xử dụng đến
"chất xám" của mình: vậy là một văn bản bất thường, một tác phẩm có
tham vọng làm đảo lộn nội quy thường trú. Bình Nguyên Lộc tung ra một lúc hai
đòn bí mật: nhốt gió, và kinh ngạc, để làm lạc hướng những người đọc truyền thống.
Thủ pháp đầu tiên là "hãm" thời gian, "nhốt" nó lại. Bảo nó
đừng chảy nữa, bắt phải đợi chờ, đùa với những hấp tấp của những "kẻ đọc"
vội vàng muốn tìm ngay đến kết luận.
Hãm trở thành động tác chính trong truyện: nhốt tất cả những gì không giam hãm được.
Trước tiên hãm nằm trong ý đồ của nhân vật Tạo, người cha muốn nhốt con trong
vòng giáo dục "tiến bộ" của mình. Tạo là một kiến trúc sư Tây học, tưởng
mình văn minh, tưởng mình hiểu con lắm. Tạo có thấy thế giới chung quanh thay đổi
và chính chàng cũng đang thay đổi: kiểu nhà vừa vẽ xong, chàng đã thấy chán ngắt,
nhưng Tạo là kẻ cầu an, không chịu dùng kinh nghiệm thực tiễn, để tìm bài học
cho mình, chàng quen dựa vào kinh nghiệm của những người đi trước, cho việc
giáo dục con cái xưa nay tự nhiên vẫn thế: mình bắt gì chúng phải nghe như vậy.
Tạo thuộc lớp người biết hãm, biết nhốt mà không biết thả. Tình cờ chàng được mục
kích cảnh thằng nhỏ năm tuổi "tiếp xúc" với gió, thấy cách nó đối xử
với gió, chàng chợt tìm thấy lối thoát cho mình. Thử xem thằng nhỏ làm như thế
nào:
"- Mẹ, sập hoài!
Tạo giựt mình, dòm xuống cỏ. Trên khoảng đất hẹp giữa xóm nhà lá và dãy phố
chàng ở, một đứa bé chừng năm tuổi đương ngồi chơi gì trên cỏ. Ðứa bé ở trần,
đưa lưng đen thui lại phía chàng. Nó mặc một cái quần dài đen. Chàng bước sấn lại
thì thấy nó đương loay hoay với những cành cây nhỏ và ngắn. Nó cắm trên cát bốn
cành cây đầu trên có nạng, rồi gác ngang lên nạng những cành khác. Thì ra nó
chơi cất nhà. Khi nó vừa phủ lên cái giàn đó một tấm lá chuối để làm nóc nhà thì
gió ở đâu thổi đến. Nóc nhà của nó bay lên, bốn cây cột đều ngã. Thằng nhỏ
gương mặt dễ thương này tức giận chưởi thề nữa, nhưng không nản chí, bắt đầu
xây dựng lại. Gió lại thổi lên phá hoại công trình của nó. Lần này nó nắm chặt
hai tay bặm môi như muốn đánh ai. Ðoạn nghĩ ra điều gì, nó cởi tuột quần ra, mò
dưới cỏ tìm gặp hai sợi dây chuối, nó cột túm hai ống quần lại. Nó phành lưng
quần đưa ra trước gió như người lớn phành bao bố hứng gạo và nói: "Nhốt
mày lại coi mày còn phá nữa hết". Gió chun vào thổi phồng quần lên. Hai ống
quần bọc no nứt gió, bay nằm ngang trên không trung như hai khúc dồi. Nó vừa muốn
túm lưng quần lại để gói gió trong ấy, thì chợt nhận ra rằng ở đâu cũng có gió
hết, gió chạy trên người nó để trôi ra phía sau, gió thổi cát bay, gió lay tầu
chuối. [...]
Ðứa bé đang lính quýnh vì gió nhiều quá không biết đâu mà hốt cho hết. Một tay
nó thả lưng quần, cào gió lại, chơn nó đá như muốn đuổi gió đi. [...]
Một cơn gió đổi chiều làm cho cái quần nó ốm xếp ve và bành bạch bay day qua hướng
khác.
Thằng bé thấy mình thất bại vội bỏ quần xuống đất, giăng tay ra rước gió. Nó
hít gió, nó nuốt gió, mặt nó sung sướng trông thấy. Ðoạn nó cầm quần lên phành
lưng đưa trước chiều gió mới. Lần này nó không có ý nhốt gió nữa mà lại hớn hở
nhìn hai ống quần no như hai khúc dồi. Nó giỡn với gió chứ không ghét gió nữa
Tạo mỉm cười nói lầm thầm: "Thằng nhỏ biết điều quá". (trích Nhốt
gió, nxb Văn Nghệ thành phố in lại, 1998, trang 8-9).
Nhốt gió là hành động tiếp xúc đầu tiên của con người với thiên nhiên, Husserl
gọi là "cuộc gặp gỡ đầu tiên của ta với thế giới". Gặp gió, thằng nhỏ
đã coi ngay gió như một thực thể có thể giao thiệp được. Nếu một người lớn biết
làm như vậy, thì có thể bảo là anh ta đang áp dụng "phương pháp giảm trừ
hiện tượng", nghĩa là gạt bỏ tất cả mọi thành kiến mà anh ta có về gió qua
sách vở, qua những kiến thức lượm được từ bên ngoài, để tiếp xúc với gió như lần
gặp gỡ đầu tiên, chưa bị bất cứ thành kiến nào về gió chi phối. Thằng nhỏ năm
tuổi, dĩ nhiên là chưa bị sách vở đầu độc, chưa bị môi trường ảnh hưởng, cho
nên nó đãi gió một cách chân tình, nhờ sự chân tình đó mà nó tìm ra chân lý:
không thể nhốt gió, nó bèn thả gió.
Không nhốt được gió, thằng nhỏ xử huề, nó tìm cách chơi với gió. Bắt tay với đối
thủ, thằng nhỏ "biết người biết ta". Cái lý mà chỉ trong nháy mắt một
thằng nhỏ năm tuổi đã "thấu triệt", người lớn lại "ngu
lâu". Bởi vì thằng bé dùng kinh nghiệm trực tiếp của mình, không qua trung
gian, mối lái, tức là nó đã bỏ hẳn giai đoạn suy nghĩ, lập luận, lý giải (đương
nhiên, vì nó bé), để trực tiếp thể nghiệm sự tiếp xúc giữa thân xác nó và thân
xác gió, và thằng bé hiểu ngay là phải cộng sinh với gió, nó không thể bắt được
gió cũng như gió không dạy được nó: giữa gió và nó có mối tương quan biện chứng
hệt như tự do và con người; hệt như tư tưởng và con người: con người không thể
nhốt tư tưởng, không thể nhốt tự do. Nhốt tự do, nhốt tư tưởng cũng vô ích như
nhốt gió. Thằng nhỏ năm tuổi đã "ngộ" ra lẽ sống bình đẳng trong trời
đất: Gió đối với nó là một thực thể khác và hơn nữa: gió là người khác. Vì
không bắt được kẻ kia phải theo cái lẽ phải của mình, thằng nhỏ chấp nhận đối
phương, để lũy thừa điều kiện sống, điều kiện giỡn, khả năng hưởng thụ, khả
năng sống còn. Sự từ chối bạo lực, tư chối đàn áp, nơi thằng nhỏ dẫn nó đến một
thế giới mới đầy thú vị, hòa bình và hạnh phúc.
Âm thanh của đời sống
Bình Nguyên Lộc cho biết Nhốt gió là truyện thật giữa ông và
người con trai cả, chúng ta lại càng thấy cách nhà văn rút từ kinh nghiệm nhìn,
ngắm, suy nghĩ, sống thật của mình như thế nào để làm ra tác phẩm nghệ thuật:
Ông không chịu dừng lại ở nhận xét bề ngoài của hiện tượng, mà ông còn tìm cách
bóc vỏ, để vào sâu hơn, tìm đến bản chất, đến cơ năng bên trong của hiện tượng,
của những thực thể như lá, gió, rừng, nắng, đất, nước... Những thực thể ấy hiện
diện quanh ta, nhưng không mấy ai chú ý. Bình Nguyên Lộc khác. Ðọc văn ông, cảm
tưởng đầu tiên là ông viết rất phớt (nếu chỉ chú ý đến khía cạnh "kể"
hoặc giải thích nhiều người cho ngay là dở) phải đọc lại lần nữa mới thấy hay,
và đọc đến lần thứ ba mới thấy tất cả cái nền tư tưởng sâu lắng của Bình. Vì vậy
mà Sơn Nam cứ "phải đọc" Nhốt gió, đọc mà không hiểu tại sao:
"thỉnh thoảng đọc lại năm ba hàng, tình cờ, lại thấy vui và mới. Nó giống
như ca dao, những câu ca dao bằng văn xuôi". (dẫn theo bài của Võ Phiến,
trong tuyển tập BNL). Cái mà Sơn Nam thấy vui và mới, là gì? Mà tại sao lại mới
giống như ca dao ? Cái đó chính là giá trị vĩnh cửu của một văn bản, vừa hiện đại
(mới) vừa cổ điển (ca dao).
Lý do đưa đến cảm giác ấy có thể là như thế này: Bình Nguyên Lộc đối xử với những
thực thể tầm thường một cách bất thường: chúng ta nhìn những vật xung quanh một
cách nhàm chán, bởi lúc nào chúng cũng có đấy, tưởng chúng không hề thay đổi,
chúng im lặng vô cảm. Bình Nguyên Lộc nhìn, nghe mọi vật dưới những góc độ
khác: ông để ý đến đời sống riêng của chúng, và chính cái đời sống riêng này,
quan trọng hơn đời sống thứ nhất (đời sống vô cảm mà ta cấp cho nó). Cho nên
ông để ý đến hành động cỏn con của một thằng bé năm tuổi muốn "nhốt
gió", đến tiếng "trở mình của lá chết", tiếng "đất hả họng
khát nước", tiếng "đồng hồ bụng" của anh Chím Rắc báo hiệu đã đến
trưa, tiếng phổ ky hát: "Vách bên trái cà phê không đậm, nhớ lược bằng vợt
mới nghe không?", "Người nầy ba muổng đường, người kia một muỗng rưỡi
thôi" v.v... Tất cả những tiếng tầm thường của đời sống, được ông nghe, và
ghi lại lần đầu. Sau ông, người ta thấy cái cách ghi lại âm thanh ấy, cách mô tả
chi tiết ấy, tinh thần bắt mạch đất nước và con người ấy tái hiện trong Sơn Nam
(Hương rừng Cà mau, 1962), trong Võ Phiến (Ðất nước quê hương, 1973) v.v...
Bình Nguyên Lộc là nhà văn đầu tiên đã trình bày một diện mạo rất lạ về vùng đất
mới, bằng cái nhìn "ngây thơ" vào đời, cái nhìn "biết người biết
ta" của thằng nhỏ năm tuổi, cái nhìn khôi nguyên của một nhà thơ vừa khám
phá ra vũ trụ: đất nước và con người.
Ðiểm thứ nhì, ông dùng âm thanh tiếng Việt để tạo âm, tạo động mà không cần đến
phụ tùng nào khác. Tiếng Nam của Bình Nguyên Lộc giàu âm thanh hơn tiếng Bắc
nhiều: rụp rụp, rôm rả, rôm rốp, tươi rói, mỏng lét,... Sự láy âm, láy ý đã biến
ngôn ngữ từ chức vụ thuần tuý diễn tả, sang chức vụ tạo thanh, tạo hình. Và
Bình đã xử dụng khả năng thứ nhì này một cách tài tình khiến những quang cảnh,
hiện tượng mà ông mô tả trở thành những cảnh nổi.
Nguyễn Tuân là người cực kỳ nhạy cảm, ông "nghe" thấy tiếng lửa reo
trong lò sưởi, tiếng các loại gỗ cháy khác nhau... Nhưng Nguyễn Tuân nghe tiếng
sự vật theo "lối Bắc", dùng chữ đầy chất thơ, mượt mà uyển chuyển
theo lối Bắc, văn Nguyễn Tuân thể hiện mỹ tính nhẵn nhụi thuần túy Bắc, cũng
như thơ Nguyễn Du đặc giọng Bắc, thỉnh thoảng mới có vài âm Nghệ, mà phải Hoàng
Xuân Hãn mới nhận ra. Bình Nguyên Lộc thường "nghe" ở chỗ người ta
"ngửi", (ông nghe mùi), đó là một đặc chất Nam kỳ (xuề xoà mà nên
thơ) và ông ghi lại tiếng sự vật bằng tiếng Nam, chân chất và thô nhám, làm nổi
bật tính gồ ghề sần sủi trong ngôn ngữ và âm thanh tiếng Nam. Có thể nói các
nhà văn Bắc làm phim phẳng, nhà văn Nam (khi xử dụng thuần thục tiếng Nam như Hồ
Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc), có thể làm phim nổi. Phi Vân trong Ðồng quê
(1943, Nxb Bốn Phương in lần thứ ba, không đề năm), cũng đã có mạch văn đầy âm
thanh như vậy (Hồ Trường An cũng đã nhắc đến trường hợp Phi Vân). Tuy nhiên,
văn Phi Vân là văn phóng sự, mang chất hài hước mua vui, Phi Vân chưa đạt đến mức
độ dùng âm thanh để diễn tả toàn bộ đời sống như Bình Nguyên Lộc.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ví dụ với một cuộc đua ghe trên sông Ðồng Nai, Bình
Nguyên Lộc cũng có thể vận dụng ngữ âm như yếu tố chính để thực hiện cuốn phim
có âm thanh nổi:
"Một hồi trống. Tức thì mấy mươi chiếc ghe chuyển mình, lượn tới để sắp
hàng.
Một tiếng súng. Trả lời tiếng súng ấy, mấy mươi chiếc phèng la đánh lên một lượt,
rồi mấy trăm tiếng người hô lên một lượt để ra hiệu khởi hành:
Phèng!
- Hè!
Phèng!
- Hè! [...]
"Bây giờ sông nổi sóng. Mũi ghe rẽ nước vo vo. Giầm chém xuống mặt sông
làm bắn nước lên trắng như bọt thác.
Phèng!
- Hè![...]
Hai chiếc ghe giữa đi kề sát nhau. Dân bơi bên nây dùng giầm mà chém vào tay
dân bơi bên kia. Cuộc chém trả gây thành một trận thủy chiến tai hại cho cả đôi
bên. [...]
Ghe An Thịt lấn hơn nghe Ba Doi nửa mình. Ghe sau hổn hển rượt theo, coi muốn hụt
hơi mà chỉ nhích lên đưọc một nửa gang thôi. Ðã kém, nó lại không đi đường ngay
lối thẳng, mà chĩa xéo mũi vào bờ bên nây." (Ðồng đội, trong Ký thác, các
trang 113, 114, 136).
Chính ngữ âm trong tiếng Việt đã làm cho cuộc đua thuyền trên sông Ðồng Nai có
vị rùng rợn của một cuộc thủy chiến, với thứ ngôn ngữ anh chị, chầm bập như những
nhát búa:
"Tám Tơ khà một cái dài như rắn hổ, đặt tô trà Huế xuống bàn một cái cộp,
rồi hỏi:
- Mầy liệu làm sao?" (sđd, trang 131).
Không khí, giọng kể và tiếng nói ăn rập với nhau, trong nhịp điệu âm thanh và
ngữ nghĩa lạ lùng, từ tên người:Tám Tơ, Tư Nết; tên đất: Vằm Tắt, Cồn Gáo, Ba
Doi, An Thịt, Rừng Sát... đến các âm thanh khác như: ăn rập, tái lét, rượt bối,
xà bát, có u, có nần... đều đồng loạt ướp ngầm đao búa với ý đồ khiêu chiến,
chém trả: Hành động, ý đồ và ngôn ngữ có gì ăn khớp với nhau, trong cuộc chiến
khốc liệt giữa hai làng băng đảng: Ba Doi-An Thịt. Cả đến lối chào của kẻ chiến
thắng cũng mang hình ảnh quái gở: "Ba mươi chiếc giầm sơn đỏ của ghe An Thịt
bỗng đưa cao lên một lượt để chào quan khách trong bờ. Khán giả có ấn tượng như
thấy một con rít chạy tới đó rồi ngã lăn đùng ra, đưa mấy trăm chân lên trời"
(trang 137).
Bình Nguyên Lộc dùng chữ như những quân cờ tác chiến: trong trận địa, chữ cũng
xung phong, ông vận dụng tất cả "khí giới chữ nghiã" trong tay, để
"làm sống" lại tinh thần "quyết thắng" làng xã: mọi đòn đều
tốt, mọi thủ đoạn đều khả thi. Tác phẩm gói ghém, cô đọng như một thứ
échantillon của tinh thần thua đủ mất còn Nam-Bắc, trong truyền thống lịch sử
không mấy vinh quang của dân tộc.
Khuynh hướng hiện thực thô lậu
Nếu âm thanh là yếu tố thứ nhất, thì chuyển động là yếu tố thứ
nhì, xác định bản chất của vạn vật: dưới mắt Bình Nguyên Lộc mọi vật di động
không ngừng:
"Cây tăm ngậm nơi môi chàng điên cuồng chuyển động. Nó hươi đủ chiều, xoay
đủ hướng, có khi nó nằm yên để người ta đoán thấy chàng đương cắn răng dữ tợn"
(Nhốt gió, trang 4).
"Ruồi mặc sức mà bay vù vù, mà đậu trện các món ăn, trong sự im lặng nặng
nề ấy. Hơi nước mặc sức mà đọng chung quanh mấy ly nước đá, không ngón tay nào
rớ tới ly để xóa những mụt nước trắng mờ đang đơm lổm chổm trên vách pha lê.
Cùng với tim của người quanh bàn, thời gian như ngừng hẳn lại" (Nhốt gió,
trang 4).
"Mấy mươi lò gốm, nóc dài, đen khói, như cố trèo lên dốc. Khói đen, dày và
đậm trào lên khỏi đầu lò; khói dày thành khối cứ trào lên như nước mội; trào lên,
trào lên cao, gặp gió nhẹ, nó chảy thành những mạch khói, cuồn cuộn đi xa.
Trong khi đó thì những lưỡi lửa cứ thò ra khỏi mấy lỗ thông hơi ở hông
lò". (Lò chén chòm sao, Nhốt gió, trang 27).
"Có khi đang đêm trời mưa ầm ỹ, anh nghe chõng tre anh đang nằm lắc lay,
dao động, toàn thể đám đất rung chuyển như cơn địa chấn sắp đến. Ðó là rác mục
đang biến thành đất, gặp mưa nó dẽ xuống, lớp đất trên cũng sụp theo" (Cái
Bách- xê, Nhốt gió, trang 36-37).
"Lửa cháy lấn qua hai bên, lấn vô trong sâu. Người ta, từ trong đó chạy ra
như kiến. Con nít khóc, đờn bà la, tre, nứa nổ rắc rắc. Mái nhà cứ nối tiếp
nhau mà chảy như sáp. Nhiều căn nhà hình như là có chứa dầu xăng trong chai.
Khi lửa bò qua đó thì nghe tiếng nổ, rồi ngọn lửa bùng lên một vài giây.
Gió nghe lửa rủ, kéo tới. Lửa gặp gió mừng rỡ, càng hung hăng thêm" (Cái
Bách-xê, Nhốt gió, trang 42)
Nghệ thuật kết hợp âm thanh trong tiếng nói với sự chuyển động của vật thể, chiếu
vào những sự kiện nhỏ nhoi như con chấy, con rận, cái răng, cái tóc, cái tăm...
đã được Bình Nguyên Lộc khai sinh. Chưa thấy trong văn Hồ Biểu Chánh, cũng chưa
có trong lối viết Tự Lực Văn Ðoàn.
Thế giới quan tế vi và thô lậu trong Nhốt gió, xuất hiện năm 1950, tạo xúc cảm
mà không có vị lãng mạn, đã trở thành một lối hiện thực mới: hiện thực thô lậu
và ảnh hưởng sâu xa đến những người viết đi sau, như Sơn Nam, Võ Phiến, Nhật Tiến,
Thanh Tâm Tuyền, Lê Xuyên, Thụy Vũ, Hồ Trường An... Một tình cảm khác thường
xâm chiếm tâm hồn người đọc, nhất là những người gốc Bắc, bởi Bình Nguyên Lộc không
chỉ dùng thứ ngôn ngữ "địa phương" đầy tiếng "lạ hoắc", mà
lại còn cả tiếng Triều Châu: "Huệt nía, huệt cưn cưn". Chỉ riêng một
nhận xét thực thà thô vụng của anh Pô: "Cả trăm năm nay người mình và người
An Nam sống chung lộn với nhau một đời sống cực khổ, lai bậy hết, thét rồi
không còn biết ai là Trung Hoa, ai là An Nam nữa" (trang 29), đã mang chất
gì như "tình nhân loại", nhưng anh Pô đâu có biết đến chữ nhân loại
sang trọng như thế, anh chỉ nói lên ý nghĩ quê mùa của mình trong một thế giới
ít chữ; một thế giới lai, chung lộn yêu thương, nghèo khổ, trời nước, bọt bèo,
của vùng Sa Thảo nào xa lắc miệt Triều Châu pha với làn khói bốc lên ở lò chén
Chòm Sao, miền Hậu Giang đất Việt.
Ðối diện với một thứ truyền thống dân tộc cổ hủ dựa trên tinh lọc, không thích
lai giống, chống việc lấy người ngoại quốc, Bình Nguyên Lộc đã xây dựng một thế
giới lai: thế giới chung lộn, lai tạp, giữa người Việt và người Hoa, giữa người
Việt và người Chàm, giữa người và ma, người và cỏ cây, một thế giới gắn liền
con người với đất nước đã "bốc lên" trong Nhốt gió, từ Nhốt gió.
Thế giới đó có ông Cựu Xã An nghe được tiếng đất hấp hối. Nó hấp hối chầm chậm.
Ban đầu là cái xa quay nước suối, đang kiệt sức: "Cái xa nó quay làm biếng
như cái chong chóng của trẻ con lúc vừa tắt gió. Có khi nó đứng sựng lại, mặc dầu
nước suối vẫn chảy xiết. Những lúc ấy thì nước bị vật liệu xiêu vẹo của cái xa
cản lại, kêu khàn khàn. Ông Cựu Xã An nghe như cái xa thở hổn hển gần muốn đứt
hơi. Nó ngừng như vậy lâu lắm, ông Cựu Xã An tưởng chừng như đó là phút cuối
cùng của nó, và không bao giờ nữa, nó còn múc nước lên máng xối để tưới đám đất
ông.(...)
Nhưng mà... nó lại quay. Trông bộ tịch nó ráng lắm, như là một người kiệt sức
té qụy, cố lồm cồm dậy. (...)
Những ống tre múc nước mà cái xa nặng nhọc đưa lên cao, vì sút dây, trật ra một
bên lại trút nước trở xuống suối chớ không rót vô máng xối. Ông Cựu Xã An cứ
nhìn những nước trút bậy mà tiếc, trong khi đám đất ông nó khát hả họng.
Ðất hả họng thật. Nó nứt ra như để hứng sương cho đỡ khát. Cỏ ở đó khô cỡ quăng
xuống một tàn thuốc là nó cháy chạy theo không kịp.
Ông An đứng nghe con suối trong khảy đờn, bụng cứ lấy làm lạ rằng sao những người
hồi xưa khai đất lập làng lại tìm chỗ khô hạn như vầy. Mà lạ sao đất không nuôi
nổi người mà đã bao đời rồi người vẫn ở đây. (...)Mặt đất đã cạn nguồn sống, mà
lòng đất cứ bịn rịn hoài. Nó đã nuôi sống người, người sao nỡ bỏ đi để nó chết
khát" (Ðất hấp hối, Nhốt gió, trang 46-47).
Trong thế giới quê mùa hạn hán, đói khát, nứt nẻ ấy, con người chưa biết cắt sợi
nhau dính liền với bụng mẹ là đất, cuống rún họ chưa lìa khỏi bụng đất, họ có
cha là nước, anh là gió, em là mưa, bà con với hươu nai, dị thảo. Con người đó
nghe được nỗi đau của vạn vật, con người đó bị gió hành, con người đó có khả
năng phân biệt giữa tiếng gió và tiếng lá: "Ở vườn, ở rừng, trời gió, người
ta chỉ nghe tiếng cây, tiếng lá, rồi ngỡ là nhờ cây lá, gió mới kêu. Ở đây mới
rõ thật là gió có tiếng riêng của nó, không nhờ gì hết. Nắng càng xuống, gió
càng lên và tiếng gió vù vù càng nổi dậy.
Nhà chòi kêu răng rắc như sập đến nơi, Huấn nghe như mình ngồi trên thuyền, giữa
biển cả, trong một cơn dông tố. Má anh rát dưới những cái tát mạnh của gió:
khoé mắt anh nóng rực như bị banh bét ra." (Hai buổi giậm cù, Nhốt gió,
trang 91-92).
Phải vào thế giới ấy, ta mới hiểu: yêu đất, yêu nước và thương nhà, là như thế
nào. Bình Nguyên Lộc không chỉ quan sát vạn vật bằng con mắt mới, không chỉ
dùng những nhận xét tế vi; ông còn nhập vào thiên nhiên, vào đất vào nước, chú
ý đến chuyển động của các sinh thể, ông còn chuyển thể, làm cho những tĩnh vật
di chuyển, làm động lá, động rừng, động đất, động nhà; làm cho những yếu tố phi
vật chất như gió, nắng cũng chuyển thành cụ thể sờ mó được. Bachelard kinh nghiệm
rằng: khi ta bắt gặp trong văn chương một sự chuyển thể từ tĩnh sang động, từ lỏng
sang đặc như thế, ấy là dấu ấn một nghệ sĩ lớn. Người ta nghe thấy trong Nhốt
gió, biết bao di động, biết bao chuyển thể, trong tiếng "nhà chòi kêu răng
rắc", trong những chuyển động liên hồi của nắng, gió: "nắng càng xuống,
gió càng lên", trong "cái tát mạnh của gió", hoặc có thể phân biệt
"gió có tiếng riêng của nó", ngay cả những thực thể bị bắt buộc phải ở
vị trí cố định như mắt cũng có thể bạo động: "mắt ông trừng trừng nhìn như
muốn vọt ra khỏi mặt" (Tôi là người, Nhốt gió, trang 132).
Sau cùng, sự gặp gỡ tình cờ giữa hai phạm trù đối nghịch, tạo ra những bức
tranh sống động biểu hiện cuộc tranh đấu ác liệt để sinh tồn: "Ðàn nai lớn
đi lần theo, dè dặt, nghe ngóng từng mỗi bước, nghi ngại đến tiếng trở mình của
lá chết, đến đám cò xám hiền lành. Nai đầu đàn bọc hậu, oai vệ như ông tướng
soái điều binh. Nó không xuống nước, chỉ đứng canh giữa quãng từ mé rừng tới bờ
ao. Một tiếng động. Nó vừa kịp quay đầu lại thì một con cọp đã rơi xuống trên
lưng nó rồi. Rồi, thì rôm rốp, những móng nai bay trên cỏ." (Tôi là người,
Nhốt gió, trang 130).
Tất cả những chủ đề lớn trong văn chương đều đã xuất hiện trong Nhốt gió: con
người và thiên nhiên, con người và đất nước, con người và cõi âm, di dân và sống
còn, với một giọng văn quê mùa, khiêm tốn. Ông kể chuyện dềnh dang như những
người ít học, nhưng không phải người nhiều chữ nào cũng có khả năng đọc và hiểu
ông; ngược lại người bình dân chắc chắn thấm lối kể chuyện của ông, bởi Bình
Nguyên Lộc là lương tâm của họ, ông nói tất cả những gì họ nghĩ mà không viết
ra được.
Sàigòn, thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ
Làm sao mường tượng được Hàng Châu nếu không có Tô Ðông Pha.
Một thành phố dù đẹp đến đâu, nhưng nếu văn chương chẳng đoái hoài, rồi cũng sẽ
"cát bụi trở về với cát bụi". Nếu Platon không nhắc đến Atlantide, liệu
ảo thành này có "sống còn" đến ngày nay.
Huế, Hà Nội, có cái may và cũng là cái rủi được nhiều người nhắc đến. Hầu như
chẳng có nghệ sĩ gốc Bắc, gốc Trung nào mà không có vài câu văn, lời thơ, bản
nhạc... ngậm ngùi, nhớ thương, ca tụng thành phố của họ. Sự lạm phát tình cảm,
lạm phát tự hào, có thể đưa đến lạm phát quyền uy, lạm phát chính nghĩa. Sài
Gòn không có cái may ấy và cũng chẳng có cái rủi ấy, bởi Sài Gòn không thơ mộng
như Huế và không có bề dầy lịch sử như Hà Nội.
Bình Nguyện Lộc biết rõ điều đó: "Thủ đô miền Nam là một thành phố mới. Cây,
đá, nhà, phố, phong tục, đều chưa mang được cái vẻ cổ kính, chưa biết kể lể những
kỷ niệm cảm động để quyến luyến con nguời." (Sông ông Lãnh, Những bước
lang thang... nxb Thịnh Ký, 1966, trang 12).
Chưa nhiều kỷ niệm, nhưng Sài Gòn có một không gian, một nền đất và một hiện tại,
đủ để nhà văn dẫn chúng ta vào "Những bước lang thang...", tìm lại bản
lai diện mục của thành phố sinh ra từ một dòng sông, chưa kịp có dĩ vãng:
"Con sông con thân mật, đứng bờ bên nây hú một tiếng là bên kia nghe liền...
Con sông gợi tình, thỉnh thoảng mầu nước trong xanh biến ra vàng sậm vì từ lòng
cạn vẩn lên phù sa gợi nhớ Thuỷ Chân Lạp hoang vu, nê địa, gợi nhớ cuộc đổ xô
vào Nam, gợi hình ảnh đẹp đẽ của đoàn người chiến đấu với thiên nhiên để khai
thác đất mới...
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai vào Bến Nghé, Ðồng Nai thì vào.
Con sông làm vận thừa cho một giang cảng sầm uất, (cái bụng của Sài gòn), tập
trung tất cả ghe thương hồ của một hậu phương trù phú [...]
Một người bạn ghe nào đó, không tiền để đi hưởng các cuộc vui của thành phố
tưng bừng, ngồi trong khoang thuyền gảy nhẹ chiếc độc huyền, và cất giọng nói
thơ.
Với tiếng nhạc quê mùa, hương gió của Ðồng Nai, mùi bùn của Ba Thắc, tất cả
linh hồn của đất nước như đã theo thuyền buôn mà về đây.
Con sông đặc biệt Á đông với những chiếc ghe dùng làm nhà, trên mui chưng vài
ba cây cảnh, trước mui một con heo đứng ngơ ngác nhìn bờ, một con gà muốn cất
cánh bay mà ngại chết đuối.
Nên chi, đi xa mười năm vẫn nhớ Sàigòn. Không nhớ những phố lớn nhà cao vô vị
vì giống phố nhà nơi khác, mà nhớ con sông nho nhỏ, khổ đau vì chở nặng những
ghe chài khẩm lừ hàng hoá, thủ phận người vợ hiền chăm nuôi con dại, và bỡ ngỡ
như một chị nhà quê vào thành phố." (Sông Ông Lãnh, Những bước lang
thang..., trang 14).
Giọng văn thầm thỉ giữa người và sông, đôi khi sông biến thành người, một thứ đối
thoại tay ba giữa người viết, đối tượng được viết và linh hồn đôi bên: người ôm
lấy sông, vỗ về, an ủi như an ủi một người vợ, một người mẹ, bao năm âm thầm
lam lũ làm những việc nhỏ nhoi và cực nhọc nhất để nuôi sống gia đình, nhưng có
ai biết đến công lao dưỡng dục can trì, thủ phận ấy. Sông mẹ nằm đây nghe cả chỗ
thắt ngoặt của tâm hồn mình. Những chiều tối một tay chơi nào đó, cất giọng
"nói thơ", trong tiếng nhạc quê mùa phát ra từ chiếc đờn một giây, một
gáo. Tất cả chất quê, chất vụng về thô lậu của Sài Gòn tan loãng trong mùi bùn
Ba Thắc, ngậy lên linh hồn của đất nước, một đất nước 80% dân chúng làm nghề
nông. Một đất nước 80% tìm thấy căn cước của mình trong lòng nước, trong dòng
nước.
Con Sông Ông Lãnh hay con Kinh Tầu Hủ là vòng đai nhẹ, là xa lộ nước ôm siết bụng
dưới của Sài Gòn, bằng hệ "thương hồ" chở "khẩm lừ " trái
cây và các hàng hoá khác chăm nuôi thành phố, không quên các món ăn khuya:
"Ở đây không có xe hơi, không có ra đi ô, không có trẻ nô đùa, nên những
tiếng bí mật của đêm trường mang rõ linh hồn của nó, âm thanh có sự sống đã
đành mà cho đến tiếng động, lắm khi cũng thành nhạc.
Một chiếc xuồng tam bản, chuồi êm rơ trên mặt nước, một mái chèo khua nhẹ trên
dòng kinh, một đèn dầu leo lét soi mờ bóng một cô chèo xuồng, rồi từ tất cả các
thứ ấy, vẳng lên: "Ai... chè đậu... cháo cá... hông?" (Quà đêm trên
sông Ông Lãnh, trang 15).
Ðấy mới là một Bình Nguyên Lộc chưa thoát khỏi ảnh hưởng Thạch Lam, nhưng còn một
Bình Nguyên Lộc khác, từ Thạch Lam rẽ qua ngã khác: không dựa trên nền lịch sử
đã có mà dựa trên nền lịch sử chưa thành hình, trên quá khứ chưa thành quá khứ
của thành phố: Bình Nguyên Lộc dùng hiện tại, cái đang có trước mặt để xây dựng
quá khứ, bởi vì ông biết "Ðất, có ở lâu, tình đất mới sâu", nên ông
đào xuống, đào sâu vào lòng đất, lòng người để tìm cái dĩ vãng chưa có của Sài
Gòn:
"Tình đất Sài Gòn tản mát trong người trong vật. Nhứt là trong vài câu ca
dao hiếm hoi. Vì hiếm hoi nên tình không thoả. Vì không thoả nó mới cố lắng sâu
như để tìm chính mình, trong chỗ không có gì hết." (sđd, trang 24).
"Tình đất Sài Gòn tản mát trong người trong vật" là gì? Nếu không là
sự sống chung giữa người sống và người chết; sự sống chung ấy đã "xẩy
ra" trước Sài Gòn rất lâu, ở những nơi xa xăm, những thế giới khác: thế giới
vương mộ Ai Cập, thế giới xác ướp Pérou cách chúng ta ba bốn ngàn năm.
Người Ai Cập xây âm cung cho người chết, để duy trì cái vô cùng sau khi chết. Ở
Thèbes (tức Louksor bây giờ) sông Nil chia đôi kinh thành: hữu ngạn là dương
cung, triều đình với những lâu đài tráng lệ Louksor, Karnak. Tả ngạn là âm
cung: đền đài của người chết chìm sâu trong lòng cát. Người Ai Cập gọi những
nhà mộ trong âm cung mới là sinh cơ (maison de vie), nhà sống. Công việc ướp
xác (được thực hiện trong sinh cơ) chuẩn bị để người chết ra đi, sống đời thứ
nhì trong cõi vô cùng, không bao giờ còn phải chết.
Du khách đến Louksor bây giờ, đêm đêm có thể dạo chơi trên bờ phải sông Nil, hoặc
ngồi trong du thuyền hay khách sạn cửa nhìn sang tả ngạn, sẽ thấy một cầu vồng
ánh sáng bao bọc âm cung như một thị trấn sầm uất. Từ dẫy sinh cơ cửa ngỏ, vọng
ra những âm thanh đồng thiếp, pha trộn tiếng gió hú, tiếng cát hò, tiếng khí giới
va chạm trong nhà sống của Ramsès II, tiếng nhã nhạc trong sinh cung của hoàng
hậu Néfertari, vợ yêu của Ramsès II. Lắng tai nữa, ta còn có thể nghe được cả
tiếng gieo mạ, tiếng hái dâu, tiếng dệt cửi, tiếng "chồng cầy vợ cấy con
trâu đi bừa " của đám nông dân, trong chung cơ dành cho thợ thuyền, nông
trại. Họ vẫn sống đấy dù đã xa ta hơn bốn nghìn năm.
Trên xứ Pérou, Nam Mỹ, rải rác trong những khu di tích các nền văn hoá như
Chavin, Paracas, Moshica, Nazca (tiền thân của văn minh Inca sau này), sự bảo tồn
linh hồn và thể xác người xưa còn thắm thiết hơn: người chết được giữ lại trong
tư thế ngồi xổm của bào thai đang chuẩn bị chào đời. Xác ướp mặc áo đẹp, đeo mặt
nạ trang điểm như lúc còn sống, không chôn mà ở riêng một gian khác trong nhà.
Hàng năm, trong dịp giỗ kỵ, lễ lạt, người chết được con cháu ôm ra, ngồi cùng
bàn, đoàn tụ ăn cỗ với con cháu.
Hai thế giới Ai Cập và Nam Mỹ xưa, có gì tương hợp với câu thơ của Bình Nguyên
Lộc: Thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ.
Sài Gòn, mới hơn hai trăm năm, chưa kịp có quá khứ lịch sử, cho nên nhà văn phải
tìm cho thành phố một quá khứ khác, thấm sâu trong lòng đất, lòng người với những
"hồn ma cũ". Chỗ cách biệt sâu xa giữa Sài Gòn của Bình Nguyên Lộc và
Huế, Hà Nội của các nhà văn khác, là ở đó. Ông dựng lại Sài Gòn của ông, không
bằng kỷ niệm, bằng trí nhớ, bằng óc tưởng tượng như mọi người mà ông dựng lại
thành phố bằng da thịt người chết, hệt như thủ pháp của người Ai Cập xưa:
Một hôm "Ði trên vỉa hè, phố Bùi Chu đến góc Bùi Chu - Bùi Thị Xuân bạn bỗng
nghe một cảm giác là lạ dưới chơn. Vỉa hè đất thịt bằng phẳng bỗng gập ghềnh và
làm cho tiếng giày của bạn vang lên. Nhìn xuống, bạn mới nhận ra dấu vết của một
mả vôi trám cả bề rộng khá lớn của vỉa hè" và bạn khám phá ra "thành
phố của ta xây cất trên một bãi tha ma minh mông". (Hui nhị tỳ II). "Ở
đâu cũng mả hết, nhứt là Ô Ma. Người ta nói Ô Ma tức là "Phía vũng lầy"
(Aux mares) của tiếng Pháp. Sao ta chôn xác người ở xóm vũng lầy? (...).Mồ mả ở
Sài gòn thân mật quá chừng. Người ta sinh hoạt giữa mồ mả như quen biết với ma
dữ lắm". (Hui nhị tỳ II).
"Bạn ở Sađéc trôi nổi lên đây làm ăn mà rủi có mạng hệ nào bạn, bạn đừng
lo bỏ thân nơi xứ người. Trong nghĩa địa, bạn sẽ gặp đủ mặt người đồng hương giữa
một ô riêng dành cho tỉnh Sađéc.
Những đêm mưa dầm, ma ở đây chắc không lạnh bao nhiêu, vì quanh họ đông đúc những
khuôn mặt thân yêu, tha hồ mà trò truyện cho ấm lòng.
Tỉnh này muốn qua tỉnh kia thăm bạn, chỉ phải bước qua một hàng rào. Gần hai
mươi tỉnh sát cánh nhau để dựng lên một miền Nam trong cõi âm.
Người sống hay đòi thống nhất nhưng họ lại bắt người chết phân ly: Bắc Việt nghĩa
trang, Trung Việt nghĩa trang, và Nam Việt nghĩa trang này là ba thế giới riêng
biệt không có đường xe lửa nối liền.
Riêng dân chết ở Nam Việt họ tự trị mỗi tỉnh một ô riêng ngăn ranh giới bằng
dây kẽm gai, ý chừng đề ngừa xâm lăng" (Hui nhị tỳ I).
Tất cả sinh hoạt kỳ thị của người sống, chôn cùng, nhập mộ, diễn lại trong đất
chết. Tính kỳ thị Nam Bắc, kỳ thị làng xã, rất sâu trong lòng người Việt, di xuống
tuyền đài, ô nhiễm cõi âm. Chưa hết, ở nghĩa địa đất thánh nhà thờ Cầu kho, bạn
còn gặp một cảnh chung sống âm dương kỳ lạ:
"Những ngôi mộ bia bị giấu mất dưới những nếp nhà lá nhỏ như chiếc khăn mu
xoa, rồi trong đó, đám người kẻ dương gian người âm cảnh, ngủ chung với nhau.
Nếu có ma thì ma ở đây rất sợ người ta, những người lỳ lợm; mả mới mả cũ gì họ
cũng cất nhà chồng tưới lên.
Nhiều nhà mồ biến thành trại mộc và có vài ngôi mộ có rào sắt, bị người ta dùng
làm chuồng heo". (Hui nhị tỳ I).
Rút cục, cảnh sống chung âm dương trong Hui Nhị Tỳ chỉ là nền đệm cho một bối cảnh
sống khốc liệt hơn: cuộc cạnh tranh sinh tồn.
Cuộc cạnh tranh sinh tồn
Trong truyện Ba con cáo (Ký thác) sự tranh đấu dành miếng ăn
đã đạt tới cực điểm đắng cay, xót chua, tàn ác. Ba người-cáo sống chung trong
nghiã địa đất thánh Cầu Kho: Sáu Sửu, một tay anh chị gặp bước đường cùng, một
mụ điếm hết thời, giấu tên và một con chồn, cả ba chia nhau hai "căn hộ"
dựng trên mả.
Cảnh người sống squatter đất người chết, phong tỏa nghiã địa, lấy "nhà chết"
làm "nhà sống" trở thành một hoạt cảnh hài hước. Nghệ thuật của Bình
Nguyên Lộc ở đây là sự chuyển thể từ bi sang hài từ hài sang bi, hay chính hài
đã là bi, bi đã là hài:
"..nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn [...]
Họ cất vây tứ phía ngôi đất thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại,
người chết không còn lối nào để thoát ra được nữa". (Ba con cáo, Ký thác,
trang 38). "Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế.
Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một
vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ, vậy ông thứ lỗi nhé!" (trang 38)
"Một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết rồi mới nhận ra rằng cuộc đời
bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán". (trang 37).
Người sống xâm nhập vào đây, là đã như chết, là đã hoá cáo.
Con cáo thứ nhất là một con chồn chính hiệu, cư dân lâu đời nhất ở đây, đục lỗ
làm nhà dưới ngôi mộ cổ, biệt lập trên một "cù lao", có địa thế hiểm
trở, bùn lầy nước đọng, dân chung cư không ai dám bén mảng tới. Ngày chui xuống
mộ, chiếm tầng "sous-sol". Ðêm đến mò ra ăn cắp gà của bọn "láng
giềng".
Con cáo thứ nhì là Sáu Sửu, một tay anh chị trốn bố ráp, cắm chòi trên mộ, chiếm
tầng trệt, nằm trên "sous-sol" của con chồn. Sáu Sửu hành ghề đạo
trích.
Con cáo thứ ba, một ma mới, mụ điếm bệnh hoạn, chạy kiểm tục, đánh hơi thấy
vùng "an toàn", bèn đến định cư, cắm lều trên ngôi mộ bên cạnh, bắt bồ
với Sáu Sửu.
Sự sống chung hòa bình của ba nhân vật kéo dài trong mùa nắng: cả ba đều no đủ
vì có kế sinh nhai. Nhưng tới mùa mưa, người Sài Gòn không ra đường; Sáu Sửu
không làm ăn gì được. Mụ điếm già vắng khách, trùm mền nhịn đói. Hai cáo-người
bèn xực cáo-chồn trước, thua đủ với nhau sau. Cuộc tranh đấu đến chết của ba
nhân vật khốn cùng, trong hai căn lều cắm lậu trên đất chết, như khuôn mặt tàn
son phấn của Sài Gòn hoa lệ, như mặt trái của lầm than, mặt chìm của xã hội,
nhưng nó cũng là dung nhan tàn tạ của mọi vùng ngụ cư trái phép, của những người
sống ngoài lề, của dân lậu, sống chui, suốt đời không căn cước.
Cái "kinh khủng" trong văn Bình Nguyên Lộc là ở chỗ đó: ông viết về
những tình thế quái gở người sống "squatter" chỗ ở của người chết, lỳ
lợm chiếm nhà chiếm đất, nhẹ như không, như kể một chuyện đùa. Kể hay, kể vụng,
kể ngắn, kể dài, không văn, không vẻ, không bố cục, mới đọc qua nghe hời hợt.
Nhưng cái sâu sắc của ông lại nằm trong chính cái "hời hợt" ấy.
Bình Nguyên Lộc không tìm quá khứ lịch sử anh hùng, mà tìm những thực tại không
mấy anh hùng của dân tộc. Ông mô tả thành phố Sài Gòn qua cái nhìn trực thăng,
lướt trên những không gian khác nhau: không gian sống có, không gian chết có,
nghiã địa chôn có, nghiã địa treo có, chằng chịt dây điện, đầy những xác diều:
"Những xác ấy bị treo lủng lẳng như vậy, có xác rơi xuống đất sau vài hôm,
một tuần, một tháng, mà cũng có xác trơ gan cùng tuế nguyệt cho đến mùa mưa mới
chịu để cho phong võ làm rã thịt mục xương.
Diều sống có cá tánh riêng biệt khi bay lượn, mà chết, xác diều cũng có cá tánh
nữa. Không phải xác nào cũng giống xác nào về lối chết và lối an nghỉ ngàn thu
trên dây điện.[...]
Diều ơi, diều có phải là gốc người Tây Tạng hoặc người của vài bộ lạc Phi Châu
mà khi chết xác không thổ táng, hoả táng mà lại không táng?" (Có những xác
diều, trang 28-29).
Sàigòn là vùng mộ huyệt. Chôn người. Chôn diều. Sài Gòn là mộ những bầy chim dại
dột, vì miếng ăn mà phải "cảm tử đáp xuống các đống rác" nên bị sa lưới.
Mắc bẫy buổi sáng, đến tối đã nằm phơi thây trên các chảo mỡ sôi sục trong các
tửu lầu. Khoảnh khắc sau đã yên nghỉ trong dạ dầy một thực khách.
Ðang no nê say sưa, bỗng nhiên Sàigòn như hấp hối "chết đi" trong tiếng
"kêu cơm" của những người hành khất: "Ớ... ơ bớ cơm, bớ gạo, làm
đoan, làm phước bố thí cho kẻ bần hàn..." hay một âm thanh lạc loài khác:
"Ai... bột khoai bún tàu... đậu xanh nước dừa đường cát hôn..." (Âm
thanh bí mật, trang 45).
Sài Gòn, bức chân dung chưa từng thấy về một thành phố, vươn lên từ bãi tha ma,
vĩnh viễn sẽ chỉ là mộ địa: Mỗi người trong thành phố mang trong bụng những nấm
mồ. Sinh ra để đi một vòng: từ đất để về lại đất. Xác người, hồn vật, tất cả gắn
bó với đất, chết đi và sống lại trong lòng đất, tạo nên một "thổ ngơi thơm
phức hồn ma cũ". Mỗi chúng sinh đều là mộ chôn những sinh linh khác. Mỗi
không gian đều là "thác gian" của bao nhiêu "cánh diều" muốn
vươn lên tìm dưỡng khí, nhưng lại chết yểu trong vùng khí quyển ô nhiễm của
mình.
Mà không chỉ có Sài Gòn, không chỉ có người Sài Gòn, không chỉ có thổ ngơi Sài
Gòn, mới "thơm phức hồn ma cũ", mà mỗi thổ ngơi, mỗi đất sống, Paris,
Luân Ðôn, New-York... đều "thơm phức hồn ma" như thế cả, bởi mỗi
chúng ta ai mà chả mang trong dạ một bãi tha ma, chôn dấu bao nhiêu vịt, gà, chim
chóc...
Sài Gòn chỉ là địa điểm để nhà văn bộc lộ cuộc sinh tồn khốc liệt của con người.
Cõi âm
Nếu Sàigòn là vùng người hoá cáo, người thành ma, người ăn hiếp
ma, thì trong "Cuống rún chưa lìa" Bình Nguyên Lộc trình bày một thực
tại khác: sự sống chung, gần như hòa bình, không tranh chấp giữa người và ma,
thậm chí người còn sợ ma. Về cõi âm, cũng lại chưa có tác giả nào đi sâu vào
tâm hồn người Việt đến thế. Bình không chỉ dừng lại ở những vùng đất nước, đất
cạn, mà ông còn xuống sâu hơn nữa, ông xuống đến cả vùng đất dưới đất, đất dưới
nước: đất âm. Ba Sa làm trung gian đi về, Ba Sa đã từng xuống "dưới ấy",
đã cam kết với "họ" từ nay không dám đụng chạm gì đến lãnh địa thần
nước, thần cá nữa.
Ðất âm là vùng của những sinh vật không có khả năng tự cắt rún, suốt đời gắn liền
với đất với nguồn, như ông già Sáu Nhánh sống trên sông nước, trước khi chết muốn
trở về "ngửi mùi đất làng" (trong Phân nửa con người). Như mớ cá
"lạc mạ" (lạc mẹ) cố lội ngược dòng, trở về nơi chôn rau cắt rún
(trong Bám níu). Như anh Nguyễn Văn Mun trước khi bỏ làng ra đi, bới trộm hài cốt
của ông bà, cha mẹ đem theo sang xứ khác làm ăn (trong Mấy vụ quật mồ bí mật).
Tất cả những người, những cá, như thế tạo nên một thế giới không cắt rún, vĩnh
viễn gắn liền với đất, không chịu rời nguồn; một thế giới bán khai, bắc cầu giữa
âm và dương, có khả năng giao tiếp với ma, và đó cũng là cộng đồng dân quê, cộng
đồng đông dân cư nhất và chân chất nhất trên đất Việt.
Ba Sa là một đại diện "đặc thù" của thế giới bắc cầu ấy. Sự xuất hiện
của ông Ba mang những nét vừa bí mật vừa thân quen, như thể làng nào cũng có:
"Ông Ba Sa là một người thuộc về cõi âm. Ban ngày không thấy ông đi đâu hết,
trừ khi ông giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đình (...)
Như con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ đèn để
câu dầm, về mùa mưa" ( Câu dầm, trong Cuống rún chưa lià, trang 84).
Những yếu tố: cõi âm, đám ma, nhà héo, cúng chùa, cúng đình, con cú, bóng tối,
đỏ đèn, câu dầm, đổ dồn lên một lúc như thế, trực tiếp chúng đã lập âm, lập một
cõi âm, trực tiếp chúng đưa ta vào vùng nước, với Thuỷ tề, Thiên lôi, tầm sét;
thêm những chuyện ông kể càng gây "không khí": "...chuyện thằng
cha đi câu dầm, đêm kia gặp một bà già lạnh quíu, run rẩy lên đưòng. Ðộng lòng
thương, anh ta cõng bà ấy về làng. Nhưng dọc đường nghe càng lâu, càng nặng, nặng
quá, đi không nỏi. Anh ta ngó ngoài lại thì trời ơi, đó là một cỗ hòm, lâu đời
mục nát, hôi tanh. Lại chuyện anh chàng đi soi ếch, nửa đường có thằng nhỏ xin
theo xách giỏ.
Tới khuya, anh ta xem lại giỏ coi được nhiều hay ít... thấy máu chảy ròng ròng,
ếch thì con nào con nấy cũng mất đầu, anh ta hỏi lẩy thằng nhỏ:
- Bộ mầy ăn ếch sao mậy?
- Ừ, tôi ăn.
- Bộ mầy là ma sao mà...
Anh chưa dứt tiếng thì trời bỗng chớp lòe, thấy miệng thằng nhỏ dính máu tèm
lem, túa lụa, còn lưỡi nó thì le ra dài tới rún..." ( Câu dầm, sđd, trang
84- 85).
Bình Nguyên Lộc không làm việc gì khác ngoài việc kể chuyện ma, hệt như chúng
ta nghe u già kể chuyện ma thuở nhỏ. Ông đưa ta trở lại không khí rờn rợn tuổi
thơ, vừa nghe chuyện ma vừa rút chân co quắp trong chăn, những đêm mưa dầm gió
bấc. Nhưng u già chỉ biết kể chuyện người gặp ma, mà không kể được sự giao lưu
giữa người với ma, không kể được những nét tương đồng giữa hai thế giới người
ma, như Bình Nguyên Lộc. Tại sao vậy? Bởi vì Bình là người đầu tiên mở cuộc
"tiếp xúc trực tiếp" với ma. Giống như thằng nhỏ năm tuổi tiếp xúc với
gió. Nói theo ngôn ngữ Husserl, lại có thể gọi đó là sự tiếp xúc đầu tiên với
thế giới ma để biết thế giới hình thành thế giới như thế nào?
Trước tiên, bạn hãy để ý đến sự "xưng hô" giữa anh chàng đi soi ếch
và thằng lỏi ma: "Bộ mầy ăn ếch sao mậy?". Mầy đầu, mậy cuối. Tại sao
anh ta không bảo: "Bộ mầy ăn ếch sao mầy?" Là bởi vì mậy thân hơn mầy
và mậy thả chót như một dấu chấm, đậm tình hơn. Như vậy, trong cuộc tiếp xúc đần
tiên giữa người và ma: ma là ruột thịt.
Ở một đoạn khác, có cảnh thần đánh cờ: "Hai vị thần nầy, đen hắc, đầu đội
mão hình đuôi cá, xiêm y rực rỡ những vẩy cá ngũ sắc, những vỏ ốc xà cừ. Xem kỹ
lại thì thấy thần đương đánh cờ. Chừng đâu được tàn một điếu thuốc bỗng nghe vị
nữ thần nói: "Ông nè, ở đây nghe như có hơi phàm" ( Câu dầm, sđd,
trang 87).
Hoặc bọn Thần Cù (cặp rắn lớn mồng đỏ, mỏ nhọn) mặc sức hoành hành: "Hễ
năm nào dân làng không cúng hối lộ thì năm đó thế nào cũng bị tai hoạ".
Khiến dân làng phải: "lập đàn làm chay để tế thần Cù, và luôn tiện bố thí
cô hồn, các đảng" (sđd, trang 87)
Bản sắc dân tộc của người Việt chưa khi nào xuất hiện rõ rệt đến thế: vừa sợ thần
thánh, vừa thích buôn thần, bán thánh. Truyền thống quan liêu và hối lộ không hề
thay đổi khi "đối tác" là người hay thần, người hay ma. Có lẽ chưa
nơi nào thần và dân, người và ma lại sống chung một cách đề huề và hiện thực
như thế. Một thế giới đầy tệ nạn tham nhũng, dân phải hối lộ thần, không thần vật
chết và bọn tiện dân cũng ma giáo không kém: Lập đàn cúng bái là làm một công
đôi ba việc: vừa đấm mõm bọn thần Cù cho khỏi rách việc, vừa được tiếng bố thí
cho cô hồn các đảng. Cả đến thời gian ở đây cũng nhiễm chất hiện thực
"kinh tế thị trường": cuộc cờ của hai ông bà thần không kéo dài canh
tàn, bóng xế, mà trong khoảng "tàn một điếu thuốc lá". Bà thần xem chừng
ăn nói y hệt giọng bà Hương, bà Hội, còn đánh hơi được cả mùi "phàm",
ý hăm dọa: đứa nào nghe lén, coi chừng nghe bây.
Như vậy, người Việt đối xử với ma quỷ thần thánh giống người Hy Lạp, tức là coi
ma quỷ thần thánh như người, "người ta". Sự giao tiếp với thần thánh
có tính cách thực tiễn, bán buôn, lời lãi. Thần thánh phò trợ nếu được hối lộ.
Triệt để tuân theo đúng ý thần thánh thì còn đường sống, nếu không thần thánh vật
chết. Như thế, thần thánh, trong óc dân quê, chỉ là phóng ảnh của tập đoàn cai
trị: vua quan dưới thời phong kiến, tổ hợp chính trị độc tài thời nay.
Và cũng là một trong những nét chính của bản sắc dân tộc mà những chuyên gia
chính trị có thể trường tồn khai thác, khi còn người, còn ma.
Tiêu diệt dân Chàm
Tội ác tiêu diệt dân Chàm, chưa bao giờ người Việt công khai
nhìn nhận. Lịch sử Việt Nam là lịch sử anh hùng, mở mang bờ cõi. Linh hồn và thể
xác dân Chàm là đất, đá vô ngôn.
Bà Mọi hú (trong tập Cuống rún chưa lìa, Văn Nghệ, 1987), là tòa án lương tâm đầu
tiên của người Việt, xây dựng công khai trên văn bản, xám hối sự sát hại người
Chàm.
Bình Nguyên Lộc mở truyện bằng bức chân dung một ngọn núi "đi lạc" về
phía Nam:
"... Cả cánh đồng là một biển lau sậy bằng phẳng và buồn hiu.
Giữa cánh đồng, lạ lùng thay, một trái núi nổi lên, giống một hòn đảo nhỏ giữa
biển cả và nhứt là giống một cậu bé đi lạc, ngơ ngác nhìn quanh.
Nói "cậu bé" vì đó chỉ là một quả núi tí hon và chỉ cao độ bốn mươi
thước thôi. Còn nói "đi lạc" là vì những hòn núi rời, tách ra khỏi khối
Trường Sơn đi lang thang về phía Nam, chỉ tới mạn bắc tỉnh Biên Hòa là dừng
chơn lại. Cái anh chàng đi xa hơn hết là núi Chứa Chan đứng sừng sững đằng xa
kia, xanh mờ trên nền trời lam lợt. Nhưng anh ta cũng khá dềnh dàng để xứng
đáng là một phần tử trong bầy Trường Sơn chớ có đâu mà lùn xịt và đi xa quá như
chú núi nhỏ nầy.
Tuy nhỏ mà cũng có tên họ đàng hoàng, mặc dầu không được sách địa dư nào nói đến
cả. Ðó là núi Bà Mọi" (Bà Mọi hú, Cuống rún chưa lìa, trang 53-54).
Chân dung của Bà Mọi, một chân dung núi: pha trộn đất đá và xương thịt con người.
Núi Bà Mọi không chỉ là ngọn núi mà còn là sự hóa thân của một người đàn bà sơn
cước, không biết thuộc bộ lạc nào, nhưng người Việt gọi bừa là Mọi.
Khi bọn người di dân kia, từ Bắc xuống Nam, chiếm hết lãnh thổ của người Chàm,
ăn xém đến đất của người "Mọi". Việt đốt rừng làm ruộng. Mọi tìm cách
chống lại sự xâm lăng, nhưng cuối cùng yếu sức phải rút dần vào rừng sâu, lên
núi, chết hết, chỉ còn lại độc một mình "mụ Mọi già, tóc tai bồm xồm,
trông rất ghê sợ" ở lại giữ công tác du kích tuyệt vọng.
"Rừng già bị gặm ngày một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến ngày kia thì
vòng vây đã siết chặt quanh hòn núi như ở nhà quê người ta cạo trọc đầu con trẻ,
chừa lại chiếc bánh bèo" (trang 56).
"Một ngày kia", bọn chiếm đất thấy sáu con suối phát xuất từ đỉnh
núi, chảy xuống miền đất khẩn hoang dần dần cạn bớt nước, rồi cạn hẳn. Thủ phạm
đích thực là mụ Mọi già. Không bắt được mụ, bọn di dân bèn vây núi, đốt rừng,
tìm cách thủ tiêu mụ:
"Lửa leo núi được vài giờ thì người ta nghe tiếng hú dài ghê rợn trên đỉnh
núi nổi lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng đồng bào sơn dã của mụ đến giải thoát
mụ ta (...) tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có lấy một tiếng vang
nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên và rốt cuộc chết lần, tắt
hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời đã bò lên tới đỉnh" (trang 57).
Về mặt kỹ thuật dựng truyện, Bà Mọi hú chưa phải là một trong những truyện hoàn
hảo nhất của Bình Nguyên Lộc, nhưng có những đoạn hùng tráng, khốc liệt, bi thảm,
xứng tầm vóc núi non của lịch sử dân Chàm, xứng tấm gương oanh liệt của một vị
anh hùng: một tác phẩm đáng gờm, đáng sợ, đáng kính nể. Bà Mọi hú là một nhân vật
phản anh hùng trong tất cả các chiều kích. Người anh hùng ở đây không phải là
Lê Lợi, Quang Trung, cũng không phải Bà Trưng, bà Triệu của Giao Chỉ. Người anh
hùng ở đây là một "mụ mọi già", cà răng, căng tai, cổ đeo răng cọp,
chống lại bọn Giao Chỉ cướp đất. Mụ giữ đất mụ, không bằng gươm, bằng giáo; mụ
giữ đất mụ bằng răng, bằng óc mụ. Mụ chiến đấu tay không với các đội quân đầy
khí giới gươm đao, mụ đơn thương độc mã, một mình mụ chống lại cả một tập đoàn
dân tộc hung hãn.
Khi người ta khám phá ra rằng mụ đã đút nút nguồn của sáu ngọn suối bằng thịt
cây gồ, một thứ gỗ mà khi thấm nước, nó cứ nở mãi, nở mãi...
Nước mội trong lòng đất thoát ra chứa nhiều chất đá vôi. Chất này khô cứng lại
và hoá thạch cái nút làm bằng thịt cây gồ của mụ, biến nó thành cái nút bê tông
đá, không ai lay chuyển được. Lòng yêu rừng, giữ đất, giữ nước của mụ mọi già
đã hoá đá, nó không thể chết, nó không bị thiêu như thân xác mụ.
Mụ chuyển bại thành thắng. Chuyển chết thành sống. Những kẻ cướp đất kia phải lập
miếu thờ mụ. Hoàn trả tên núi cho mụ. Và gọi mụ bằng Bà, như Bà Trưng, Bà Triệu.
Trong lịch sử giữ đất của loài người, Bà Mọi đã làm một việc phi phàm: việc chặn
nước, ngăn nguồn. Bà đã chặn giặc sau khi chết. Núi Bà Mọi chỉ là một cái tên,
không được sách địa dư nào của người Việt nói đến: bởi lịch sử do kẻ thắng viết
ra.
Nhưng chỉ có nhà văn, nhà văn đích thực, mới có thể bắt dân tộc mình phải có một
tòa án lương tâm, phải nhìn nhận tội lỗi, để có thể trưởng thành trong niềm tự
vấn đớn đau.
Lịch sử di dân và ý nghĩa đất nước
Lịch sử "giữ đất" của Bà Mọi, đi đôi với lịch sử
"làm đất" của ông nội thằng Cộc.
Khi thằng Cộc xuất hiện trong Rừng mắm nó đã tạo ra một thế giới: Thế giới
Robinson trong xóm Ô Heo khỉ ho cò gáy với khát vọng "thèm người".
"Ông nội nó với tiá nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng và
lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào vào khối thịt xanh um của biển rừng
tràm này. Thành ra ruộng nhà của nó mang một hình tròn kỳ dị, không tròn đều đặn
vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mặt của ngọn lửa.
Cộc nhìn ruộng mình một hơi rồi cười khan lên. Ðám rừng bị khoét một lỗ để làm
ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng mới cạo có một mảng thì có
chuyện gấp, bỏ dở công việc; đứa trẻ bị chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp.
Lúa ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống để lòi trăm ngàn gốc tràm lên,
trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh
những gốc tràm tươi rói không cháy được này, ía thằng Cộc đành cấy lúa giữa những
gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói mười năm nữa tràm
chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vầy.
Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận lửa khai hoang, không chết
ngay, nhưng "chết nhát", cứ mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi cây. Mấy
hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, căm hận nhìn chiếc chòi
lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của chúng, đã sát hại
chúng." (Rừng mắm, Ký thác, trang 13-14).
Không gian và thời gian trong Rừng mắm được tổ chức một cách khác thường:
Thằng Cộc đứng một mình trong rừng, nhưng những giây thần kinh trong người nó
không khác gì những chân bạch tuộc, cứ chạy sâu, chạy xa, bám đất, bám người.
Nó như một thân cây đang lớn với tốc độ khổng lồ.
Mốc thời gian là hiện tại, tức là lúc thằng Cộc đứng nhìn ruộng mình. Nhưng tất
cả xoay biến rất nhanh: nó "nhìn một hơi", rồi nó "cười khan
lên". Nhìn, khác với nhìn một hơi; cười khác với cười khan lên. Nhìn là chỉ
nhìn mà không động, nhìn một hơi là nhìn mà động. Cười là chỉ cười mà không động,
cười khan lên là cười mà động. Trong khoảnh khắc không đầy một giây giữa lúc nó
nhìn một hơi, đến lúc nó cười khan lên, là bốc lên cảnh cháy rừng ngày ông nội
nó mới đến khẩn đất: trong một giây ấy, thằng Cộc đã quay lại quá khứ, nhìn thấy
ngọn lửa "hung hăng" "rắn mặt", ngọn lửa có thân xác và ác
tính của một con khủng long biến rừng tràm thành một "biển thịt xanh"
phơi thây trước miệng lửa. Hình ảnh con khủng long lửa đớp rừng, mới bùng lên
trong óc thằng Cộc một giây, chưa kịp tắt, nó lại tức khắc trở về hiện tại: trước
mặt nó là một đám rừng đã bị ông nó và tía nó khoét một lỗ làm ruộng, trông y hệt
như cái đầu chó táp của trẻ con. Thằng Cộc trầm ngâm, không biết là cái biển rừng
bị ruộng ăn vụng một đám, giống cái đầu bị chó táp, hay là chính cái mẩu ruộng
trọc lóc, tự nhiên có một chỏm tóc tràm xanh dựng đứng, như tóc thằng Bờm kia,
là cái đầu chó táp. Sự biến ảo hình ảnh, không gian và thời gian cùng một lúc
trong óc thằng Cộc, khiến cho cuốn phim ký ức của nó cực kỳ sôi động, vừa hiện
thực vừa hoang đường. Cả cái mẩu rừng tràm bị ông nội và tía nó đốt cháy mất
xác kia, chết đã năm năm, mà "cẳng vẫn còn chổng lên trời". Chứng tỏ
sức kháng cự mãnh liệt của thứ tràm cứng đầu cứng cổ. Trong trận chiến khắc
nghiệt với bọn người di dân, bọn tràm có đứa trúng lửa chết ngay, có đứa chỉ bị
cháy xém ngắc ngoải, đó là bọn "chết nhát", những thây tràm khổng lồ
hường về phía mái lều của gia đình thằng Cộc ở dưới kia -những kẽ sát tràm và lấn
đất của chúng- với lòng căm hận khôn nguôi.
Chỉ một đoạn văn ngắn, Bình Nguyên Lộc đã lược thâu toàn bộ cuộc chiến với
thiên nhiên để sống còn của con người từ vạn kỷ. Sự đầu hàng tạm thời của rừng
tràm, chỉ là khoảng thời gian hưu chiến mà thiên nhiên dành cho con người trong
một hạn kỳ nhất định, để hai bên dưỡng sức trước khi trở lại cuộc tranh gan
trong một đại hạn khác. Tổ chức thời gian, không gian và hình ảnh ở đây là một
tổ chức sóng thần: tới tấp, vũ bão, tơi bời, không để cho mắt, tai, trí kịp
nghe, kịp nhìn, kịp có phản ứng. Tất cả xẩy ra như một cuộc đổ bộ bất thần của
làn sóng chữ vào những vùng nhậy cảm nhất của người đọc.
Ðổ bộ xuống vùng đất Ô Heo, cả ba đời nhà thằng Cộc phải sống cô độc, giáp trận
với thiên nhiên, chiến thắng rừng tràm, để lập đất, lấn ra biển: cuộc chiến đơn
độc của gã ngư ông và biển cả. Cuộc đời thằng Cộc, từ ông nội, tía má nó, đến
nó, là cuộc di dân, Nam tiến của dân tộc ta.
Từ lúc sinh ra, thằng Cộc đã gắn bó với nước. "Quanh nhà nó có hàng trăm
nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm", và "trong thế giới
bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những
con sinh vật nhỏ mọn quy tụ quanh các ngọn nước".
Nhưng nó chưa biết từ nước đến đất còn phải đi bao nhiêu chặng đường, nếu không
có ông nội nó. Nó đang sống vui thú ở làng, thì bỗng không hiểu sao, "tía
má nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười
tuổi, kéo nhau xuống một chiếc thuyền cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là
xuồng mẹ, ghe con, rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng này, đến kinh hiu quạnh
nọ và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người này mà ông nội nó đặt tên là
xóm Ô Heo" (Rừng mắm, Ký thác, trang 12).
Ðổ bộ xuống vùng đất Ô Heo, cả ba đời nhà thằng Cộc đã phải giáp trận với thiên
nhiên, chiến thắng rừng tràm, làm ra đất.
Thằng Cộc chưa đủ kinh nghiệm để hiểu cuộc chiến trường kỳ này. Nó hỏi ông nội:
"- Sao mình lại tới đây nội?
- Ðã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng, làm công khổ cả đời.
- Ở đây mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội thằng Cộc làm thinh" (Rừng mắm, Ký thác, trang 17)
Ðối cực với ông nội, thằng Cộc có những lo lắng khác. Nó thèm nghe tiếng chó sủa,
tiếng gà gáy, nó thèm trái xoài ngọt, trái khế chua mà từ năm năm nay nó không
được nếm. Nhưng tất cả những thứ đó cũng chẳng nhằm nhò gì, nó còn một thứ thèm
khác: Thằng Cộc "thèm người". Không bao giờ được đã cơn thèm, bởi vậy
nó cứ lén ông nội và tiá má nó để trốn lên gò Ô Heo một mình, vì ở đây nó gặp
"người ta".
"Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn là ở đó có làng xóm, có người
ta".
Có "người ta". Mục đích của thằng Cộc là "người ta". Nó muốn
bỏ xóm Ô Heo vì nó thèm người ta. Nó muốn về làng. Trở lực vượt biên của thằng
Cộc là ông nội.
Ông già biết cháu mình mới chỉ hiểu có một nửa: nó thèm người nhưng nó chưa biết
thèm đất. Phải cho nó biết cả nước, lẫn đất. Biết con đường từ nước đến đất bao
xa, nó mới có thể hiểu được hai chữ đất nước. Và ông già đã dẫn cháu ra cửa biển,
chỉ cho nó thấy cái rễ của đất, chỉ cho nó việc làm đất từ nước như thế nào.
Bình Nguyên Lộc không những đã có cái nhìn nguyên thủy về đất nước, mà ông còn
thò tay vào việc biến đất lỏng (tức phù sa) thành "đất thịt", ông
chính là đời mắm, nằm rạp xuống để cho đời tràm chồi lên: thế hệ trước đắp đường
cho thế hệ sau bằng chính thịt da của mình.
Rừng mắm như một ký thác của Bình Nguyên Lộc về chuyện mở nước, giữ đất, giữ bờ.
Văn Bình Nguyên Lộc là văn kể chuyện, ông không viết văn như một người làm văn,
mà ông kể chuyện như một bà già tràu có kho tàng ngôn ngữ và văn hóa bất tận về
dân tộc. Ông có kinh nghiệm về đất như chưa ai từng có: "Rồi ngày kia mầy
sẽ nghe rằng đất có hồn và hồn mầy rất gần gũi với hồn đất". "Vợ chồng
không thân thiết với nhau hơn là mình với đất. Vợ chồng chỉ ăn ở với nhau ba bốn
mươi năm là cùng, đất thì nó thấy mình sanh ra, lớn lên, già yếu, rồi nó lại ôm
mình khi mình chết" (Phân nửa con người, Cuống rún chưa lìa, trang 97).
Ông là người đầu tiên viết về tình bạn và tình yêu giữa nước và đất: "Nước
với đất là bạn nhau. Ðất không phải là chướng ngại vật của nước. Nước dịu dàng
len lỏi theo đất. Nước mang phù sa mà bồi đất. Ðất ấp ủ nước trong lòng nó như âu
yếm tình nhân Rồi đời đời, kiếp kiếp, nước và đất kết hợp thành hoa màu để nuôi
dưỡng những đứa con biết thương yêu nó." (Hai buổi giậm cù, Nhốt gió,
trang 89)
Ðất và nước là hai thực thể, vì tình cờ hay vì tình yêu, kết chung thành khái
niệm trừu tượng: đất nước? Hay đất nước là một thực thể có linh hồn và thể xác,
tồn tại "nhờ những kẻ nhớ thương, bám víu vào nó" (Bám víu, Cuống rún
chưa lìa, trang 97). Trong cả hai trường hợp, lập luận của Bình Nguyên Lộc vẫn
là lập luận nguyên thủy về đất nước.
Ngoài ông ra, chưa có nhà văn Việt Nam nào viết về đất nước bát ngát và sâu xa
đến thế. Và cũng chưa chắc đã có một thứ tiếng nước nào diễn tả được đất nước với
cả xác thịt và tâm hồn như hai từ đất nước trong tiếng Việt.
Tháng 2/2006Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét