Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023
Thơ Phạm Tiến Triều với không gian văn hóa xứ Mường
Thơ Phạm Tiến Triều với
Phạm Tiến Triều đến với thơ từ rất sớm. Dường như từ khi là một
chàng trai biết rung động trước ánh mắt xa xăm của người bạn khác giới anh
đã làm thơ – những bài thơ tình học trò trong sáng, hồn nhiên đã từng hiện hữu
trong tập thơ đầu tay “Thơ tình gửi mùa đông” xuất bản từ khi anh còn
là chàng sinh viên năm thứ tư trên giảng đường đại học. Lâu mới gặp anh, cầm
trên tay tập thơ mới mà anh vừa xuất bản, một cảm giác tò mò thú vị đến ngay từ
cái tên “Bùa lá”. Và khi lần lượt trải nghiệm các tập thơ anh xuất bản suốt
từ năm 2014 trở lại đây cùng tập thơ mới này, người đọc sẽ xác lập được một
không gian văn hóa xứ Mường in đậm, dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nghệ thuật
thơ anh.
Tiểu luận của Vũ Quần Phương: Đặc sắc Yến Lan
Tiểu luận của Vũ Quần Phương:
Đặc sắc Yến Lan
Yến Lan làm thơ từ chặng đầu của phong trào Thơ mới, năm
1937. Khi ấy ở Bình Định có nhóm bạn trẻ làm thơ khá nổi. Họ kết thân với nhau,
gọi là Bàn Thành tứ hữu, cái tên toàn chữ Hán, nghĩ ra danh xưng này chắc là
Quách Tấn, người chuyên làm thơ Đường luật. Quách Tấn cao tuổi nhất trong nhóm,
sinh năm 1910. Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, Yến Lan năm 1916, ít tuổi nhất là Chế
Lan Viên năm 1920. Đất Bình Định không lớn, nhưng ảnh hưởng của nhóm thơ này, đặc
biệt là Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, vào nền thơ Việt hiện đại lại không nhỏ.
Với Yến Lan, đóng góp vào giai đoạn thơ trước 1945, thường được
nhắc đến ở đơn vị bài, bài Bến My Lăng. Bài thơ được Hoài Thanh tuyển in
vào tập Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942 và có mặt trong tập thơ đầu
của ông, tập Những ngọn đèn xuất bản năm 1957.
Nhà thơ Yến Lan (1916 - 1998)
My Lăng là một bến đò trong tưởng tượng. Ông lái đò, hẳn là
đò ngang, lại có phong thái một ông đạo sĩ, lúc câu cá, lúc đọc sách, uống rượu,
ngắm trăng, thổi tiêu và say ngủ giữa trời trăng trong tiếng gọi đò của khách
quá giang. Người khách gọi đò trong cái đêm trăng mông lung ấy, cũng đặc biệt:
một chàng kị mã, nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu li. Tiếng gọi đò hối hả, khẩn
thiết làm run rẩy cả ngành trăng cũng chỉ vì chàng sợ trăng vàng rơi khuất lối.
Tình huống ấy, nhân vật ấy đúng là một cơn mơ trong cổ tích. Nó lãng mạn, nó
huyền ảo và giàu sức gợi thẩm mĩ vào cõi mộng của người đọc. Không nên tìm ý
nghĩa hiện thực hay tư tưởng tác động xã hội của bài thơ này. Không tìm, vì nó
không có. Không có vì nó không thực, nhưng nó đủ lí do để tồn tại. Đó là thơ, là
chức năng mộng ảo vốn có của đời thực con người.
Nhiều nhà phê bình nhận xét: thơ Yến Lan không có câu non
lép. Tôi nghĩ đó là một nhận xét đúng. Đúng từ những bài viết ở chặng đầu, trước
Cách mạng tháng Tám, đến suốt cả đời thơ ông. Bài khi hay, khi xoàng nhưng câu
bao giờ cũng kĩ càng, cẩn trọng. Yến Lan đầu tư công sức vào đơn vị câu. Ông chọn
chữ, đổi sắc thái các chất liệu thơ bằng các động từ, ông tác động chất liệu
này lên chất liệu kia một cách khác biệt, tạo nên bối cảnh thơ kì lạ từ các chi
tiết quen. Xin lấy một ví dụ ngẫu nhiên, từ bài Bình Định 1935:
Cây lặng lẽ gượng làm bầy hải đảo
Thuyền bồ câu nghiêng buồm trắng trôi ven
Tăm chiêu mộ nổi trên dòng nước Đạo
Rượu ân tình – Bình Định – xứ lên men.
Thơ tả gì? Tả cây, tả thuyền, tả dòng sông. Ờ mà dòng sông
hay dòng rượu? Bình Định có rượu Bầu Đá nổi tiếng. Sông mà sớm chiều nổi tăm
(tăm chiêu mộ) thì là sông rượu rồi. Mà nếu chưa phải rượu thì ở câu thứ tư nó
cũng thành rượu vì cả Bình Định này là xứ lên men. Cây như đảo, thuyền như
chim, sông như rượu. Nhưng ông không dùng chữ như dễ dãi như tôi vừa dùng. Ông
miêu tả bằng cách cho cây gượng làm bầy hải đảo. Chữ bầy cũng là một dấu vết
lao động. Ghép thuyền với bồ câu và cho nghiêng cánh. Đấy là phép đan cài tung
trên hứng dưới khá tỉ mỉ của Yến Lan. Ông làm mới câu vì ông vốn ham chi tiết.
Mỗi câu miêu tả một chi tiết, ngang cấp về ý tưởng, ngang cấp về tình cảm. Bài
thơ thường bị kéo dài và rất dễ bằng phẳng. Bằng phẳng vì nội lực các câu thơ vốn
bằng nhau. Để tránh đơn điệu, ông kì hóa chất liệu, sáng tạo chữ, đôi khi cao
hơn, sáng tạo cảm giác, tạo nên câu thơ lạ mang cái hay đột xuất giữa mạch thơ
đang thường thường bậc trung của toàn bài, trong bài Bình Định 1935 nói
trên, bỗng vụt lên:
Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc
Em nằm thương xanh biếc của trời buồn
Nhưng sao phải ham chi tiết, ham kể, ham tả. Trước hết là do
tạng cảm xúc của từng nhà thơ. Riêng với Yến Lan, tạng mê chi tiết ấy ngay
trong thơ trước Cách mạng tháng Tám đã có. Sau này ở chặng thơ viết từ các chuyến
đi thực tế sau cuộc đấu tranh tư tưởng Nhân văn – Giai phẩm, lại càng đậm, tính
ghi chép đời sống khá rõ, chắc ông cũng thấy thế nên có bài ông ghi là bút kí
thơ. Bài thơ khi ấy, như một báo cáo thu hoạch thực tế. Kể nhiều để thấy thu hoạch
nhiều, để thấy cuộc sống mới đã tràn vào tâm hồn nhà thơ đầy chật và phong phú
như thế nào. Đây cũng là một kiểu đánh giá thơ hồi ấy. Yến Lan, thương điểu
kinh cung, ông hạn chế bộc lộ riêng tư để chuyển tải đời sống mới:
Những hồi kẻng vang lừng thôn hợp tác
Những mái nhà ngói đỏ cả lùm tre
(…) Bè gỗ thuyền câu kín giàn mặt nước
(…) Chở nụ cười quê lên giàn giáo công trường
Là một nhà thơ tài năng, ông biết sở đoản của lối thơ kể
việc nên dựa vào sở trường của mình, ông nâng cấp nó. Ông đầu tư công sức vào
câu để lạ hóa, để kì hóa nó. Đó là một sáng kiến, một ưu điểm nữa, khi nền thơ
chúng ta lúc đó đang khá dễ dãi về câu (Lục cục lào cào/ Anh cuốc em cuốc/ Đá lở
đất nhào/ Nào anh bên trai/ Nào em bên nữ/ Ta thi nhau thử/ Ai tài hơn ai).
Nhưng sa vào câu mà quên mất bài thì lại là nhược điểm. Yến Lan đây đó cũng vấp
nhược điểm ấy. Tôi coi đấy như sự trả giá để có những thành tựu mà ông đạt được
với Mùa xuân lên cao, Theo gió xuân lên biên giới, Bài ca hợp tác thôn tôi…
Ở những bài thơ này, câu thơ không chỉ tinh xảo trong miêu tả thực tế mà được ảo
hóa ngay trong khâu thu nhận, nghĩa là cảm xúc ông đã nhập chúng vào thế giới
thẩm mĩ mơ mộng của tâm hồn. Chi tiết là hiện thực (chỗ xuất phát) nhưng tác động
vào bạn đọc (chỗ đến) lại do yếu tố phi thực. Trong bài Mùa xuân lên cao,
đoạn đầu ông tạo ấn tượng, rất thực mà cũng rất gợi:
Mới nghe đã sợ
Những tên chẳng hiền
Trái Hút, Mậu A, Ngòi Hóp
Tên như tên của hang beo hốc cọp
Bóng ma theo gót thày then
Sâu quảng sùi lên
Biệt kích còn moi sào huyệt
Lưỡi lê chọc tiết
Chặn đường thổ phỉ cướp xe
Đoạn giữa, một cơn say trùng điệp:
Ta qua những làng
Máng rủ suối sang
Chàm ngâm tím vại
Trâu kéo gỗ về sông Yên Bái
Bến Âu Lâu thóc trẩy sáng đò
Ta đứng trên những nương ngô
Phấn bay giếng nước
Giàn su quả dày
Vườn cam quả sây
Cam hay chim nở
Cam hay em nhỏ
Trên cành múa lay
Cam hay má đỏ
Tay sờ mát tay
Đoạn cuối, thực ảo biến hóa tài tình, dào dạt:
Tay ai dắt ngựa ra phiên tết
Năm cũ người Mèo mai trẩy hết
Năm mới về theo những điệu khèn
(…) Ta mang miền ngược về thành phố
Miền ngược nằm trong những búp đào.
Bài thơ viết tháng Giêng năm 1958, ngay sau cuộc đấu tranh tư
tưởng mà đối với Yến Lan không phải không nặng nề. Có được mạch cảm xúc thênh
thênh thơ mộng ấy là một bản lĩnh thi sĩ, một biểu hiện tài năng đáng khâm phục.
Bài thơ hay trong ý, trong tình, trong nhịp điệu. Câu thơ dài ngắn xuống lên
như tiếng reo, tiếng hát hòa quyện ngoại cảnh với hồn người, tung tẩy xa rộng,
thênh thang, đầy chủ động.
Bài ca Hợp tác thôn tôi là một nhập cuộc tiêu biểu
của nhà thơ, rộng hơn của người trí thức, với bà con cày cuốc chân lấm tay bùn.
Chúng ta từng khâm phục cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến đã bấm ngón trên bàn tay tiến
sĩ tính liệu với bà con lam lũ thôn Bùi:
Quanh năm làm ruộng vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò
Nay thấy Yến Lan lấn nước chân chiêm, ngã mềm chân hóa. Ông sử
dụng lời ăn tiếng nói nông dân, ông nhìn làng xóm ruộng đồng bằng cái nhìn của
người cùng hai sương một nắng:
Tre khép chuồng bèo – trâu nhai bóng mát
Ta đi nhổ cói dệt chiếu ta ngồi
Rót ấm chè tươi mời đón thêm người
Ta bàn chuyện đan nia, phất quạt.
Bút pháp mạch thơ này, tôi có cảm giác nó không dính dáng với
Bến My Lăng mộng ảo mà có lẽ nó là bước phát triển của khuynh hướng hiện thực từ Lại
về tỉnh nhỏ. Lại về tỉnh nhỏ viết năm 1956, nó là một nhịp lạ tài hoa giữa
giàn thơ ca khi ấy. Lạ, trong cách cảm nhận thực tại: cảm vào lõi của hiện thực,
nắm bắt được cả phần hồn hư ảo của hiện thực. Lạ trong thể hiện: một ngôn ngữ
sáng rõ, rành mạch, mà lại giàu sức gợi, đẫn tưởng tượng người đọc đi rất xa.
Âm điệu cũng tạo nên nội dung, cái cuộc sống cũ kỹ, ngưng đọng, chỏng chơ, rơi
rụng của tỉnh lẻ thời Pháp thuộc hiện rõ chỉ trong tám chữ rơi trên bốn bậc thơ
này:
Tỉnh nhỏ
Cô em
Nằm xem
kiếm hiệp
Cuộc sống mới sau ngày giải phóng miền Bắc, ở đoạn sau bài
thơ, được tác giả đặc tả với khá nhiều chi tiết, tuy tỷ trọng ấn tượng của cái
mới chưa đậm đặc bằng khi tả cuộc sống cũ. Nhưng trong toàn thể: cảm xúc bài
thơ tươi mới lắm và câu thơ kết bài trí tuệ như một biểu tượng.
Mặt trời không muốn lặn
Mặt trời len vào mắt con người
Sau ngày thống nhất đất nước, Yến Lan về sống với quê nhà
Bình Định. Thơ ông có một bước chuyển. Một bước chuyển có tính tổng kết, ngẫm
nghĩ lại đời người. Ông không làm thơ dài. Không kể và tả chuyện ngoài đời nữa
mà nói lòng mình. Thơ như viết cho mình. Nói thật, nói hết những nông nỗi dâu bể
đời người mình đã trải. Ông tìm về cách nói cổ điển, hàm súc, đôi khi ước lệ
trong thi pháp thơ Đường tứ tuyệt. Cảm xúc phóng khoáng, ung dung, thoáng chút
ngậm ngùi năm tháng và nỗi cô đơn của tuổi già:
Tàu ngang quê cũ
Khói quyện đầu ô, nửa xóm nhòa
Tàu dừng đổ khách, sắp rời ga
Đồng hương kẻ xuống, người ra đón
Mình suốt đời đi chửa tới nhà
Sinh nhật 1989
Năm nay sinh nhật chẳng ra thơ
Xót bạn, mong con, ốm dật dờ
Đón khách những toan ra mở cổng
Giật mình con nhện đã giăng tơ
Chèo
Vò rối tơ rồi, gỡ rối tơ
Gỡ không ra mối lại đem vò
Nàng Vân giả dại, nàng Vân dại
Vân dại nên đời cũng ngẩn ngơ
Trong thời đất nước cắt chia, nhà thơ Yến Lan xa quê Bình Định,
ra sống ở Hà Nội, nhiều năm là cán bộ biên tập thơ của Nhà xuất bản Văn Học,
khi ấy là Nhà xuất bản chủ lực trong việc giới thiệu thơ. Lứa chúng tôi đều được
ông biên tập cho những tập thơ đầu. Ông sửa chữa góp ý tận tình, tỉ mỉ. Có người
nghĩ ông kỹ tính? Tôi nhớ tập thơ đầu tiên của Phạm Tiến Duật được ông biên tập,
Duật có nói trước với ông, nếu cần sửa đổi gì ông cứ bàn với tôi. Duật vào chiến
trường, ông đưa tôi xem cách sửa của ông với bài “Công việc hôm nay”. Ông thấy
câu thơ Duật ở bài này lòng thòng văn xuôi quá, ông thu gọn lại một số câu làm
mẫu và bảo tôi sửa tiếp. Tôi nghe, về hì hụi làm. Được nửa chừng thấy bài thơ
mang dáng dấp khác. Bớt lòng thòng nhưng hình như mất đi cái vẻ lôi thôi rất
văn xuôi của ngày thường đời sống. Tôi thưa lại với ông. Ông bảo để xem. Hôm
sau ông đồng ý để nguyên như cũ. Và không chỉ với bài này, mà với cả tập, giúp
cho chất thơ mang nguyên cát bụi chiến trường do Duật khởi xướng được nhanh
chóng đến với mọi người. Ông ít nói, ngay cả khi chúng tôi hỏi về kỷ niệm hồi
Thơ Mới, ông trả lời rất tóm tắt như muốn khép lại những chuyện đã qua. Chúng
tôi nhớ ông. Chúng tôi biết ơn ông.
12/6/2022
Vũ Quần Phương
Theo https://vanhocsaigon.com/
Thanh Thảo - Thơ ngoài thơ
Thanh Thảo - Thơ ngoài thơ
Lững thững tuổi già, Thanh Thảo chầm chậm kéo thơ ra ngoài
thơ trong thi phẩm Hát giữa gió mưa (NXB Hội Nhà văn) vừa trình làng.
Tôi bắt đầu đọc thơ Thanh Thảo sau ngày thống nhất, thấy rõ ở
anh một giọng điệu thơ chiến tranh nhưng khác hẳn nhiều nhà thơ thành danh trước
anh, một giọng thơ cách tân, hiện đại, từ chối sự lớn lối, cao giọng mà thủ thỉ,
chia sẻ nhỏ nhẹ, thành thực giãi bày. Ở thơ anh, cái bình thường bước lên ngôi
vương: “Người ta đi tìm vàng/ còn anh/ anh tìm cát/ một hạt cát bình thường/
trong bình thường mặt đất”. Qua thơ anh, người ta nhận ra cái phi thường
trong cái bình thường.
Với xác tín ấy, Thanh Thảo đã thăng hoa trong sáng tạo, tìm
kiếm cho thơ những nơi trú ngụ bất ngờ, khiến người đọc luôn luôn đón đợi ở anh
những phát hiện mới lạ trong hành trình thơ của mình. Hành trình dẫn tới việc
kéo thơ ra ngoài thơ hôm nay.
Nhà thơ Thanh Thảo
Để nhận ra đóng góp này, tôi muốn bàn tới bài thơ Miền Trung.
Trước Thanh Thảo đã lâu, người bạn đồng môn Tổng hợp văn của anh – Phạm Đình Ân
đã có Đi dọc miền Trung khá hay từ thời chống Mỹ. Rồi những năm đầu đổi
mới, Hoàng Trần Cương đã có chương Miền Trung nằm trong trường ca Trầm
tích đầy ám ảnh và đã được chính Thanh Thảo ủng hộ thành tâm cho giải thưởng
hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1999. Người đọc hẳn không bao giờ quên
câu thơ Hoàng Trần Cương: “Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa” – một
câu thơ tuyệt cú. Ở đây, cảm hứng sử thi anh hùng ca hòa cùng cảm hứng trữ tình
đã dựng tượng đài cho miền Trung một thời chiến tranh vang dội.
Còn Miền Trung của Thanh Thảo thì lại làm về cái nạn
lũ lụt ngàn đời của eo đất này, cái nạn lũ lụt ngày càng khủng khiếp khi nạn
phá rừng hoành hành nhiều năm qua. Phải yêu miền Trung đến cùng cực thì mới cảm
thấy nấc nghẹn bởi kiếp nạn phá rừng đưa đến muôn nỗi tang thương khi mở đường
cho lũ lụt tàn phá đời sống dân lành đến cùng cực. Cái nấc nghẹn hóa khô lạnh
như cục cồn trong cái bếp đun sôi nồi lẩu ở các nhà hàng bây giờ. Nếu Hoàng Trần
Cương viết:
Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai gieo mọc trắng mặt người.
Đấy đã là rất hay, đã là rất thơ. Nhưng ở tâm thế của Thanh
Thảo trước nạn lũ năm 2020, anh đã không còn muốn làm thơ nữa, mà chỉ muốn rỉ rả
với mọi người về sự thê thảm này đến mức không thể khóc nổi, mà nghẹn cười:
Bây giờ miền Trung đang lũ lụt
Nước dâng ngập mái nhà
Có đám cưới cả chú rể cô dâu
Dắt tay nhau chạy nước
Cười vui trong khổ cực
“Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”
Cái niềm tin kỳ lạ của con người.
Một cái hay trong thơ. Một cái hay ngoài thơ.
Đặc điểm miền Trung là đặc điểm núi và biển bên nhau độc đáo.
Hoàng Trần Cương viết:
Miền Trung
Đã bao đời núi với bể kề đôi
Ôi Biển Đông giọt nước mắt của muôn ngàn thế hệ
Nóng hổi như vừa lăn xuống
Theo những tảng đá cụt đầu của Trường Sơn uy nghiêm
Còn Thanh Thảo kể:
Nước mắt nào dài hơn nước mắt miền Trung
Nụ cười lại hiền thơm hoa mộc
Nơi tôi sinh biển trào tiếng nấc
Mà nắng vui đùa như trẻ thơ
Miền Trung tôi yêu đến dại khờ
Núi nhào xuống biển
Đột ngột bay lên thiếu đường băng cất cánh
Bay lên là giải pháp sau cùng
Kể mà không kể. Thơ ngoài thơ.
Tập thơ “Hát giữa gió mưa” của Thanh
Thảo
Suốt cả thi phẩm Hát giữa gió mưa, Thanh Thảo đã bao lần
gằn lên những nỗi niềm về thiên tai lũ lụt. Anh không thiết tha du dương gì nữa
trước “mỗi cảnh đời đau miền Trung đều xót”. Những cảnh đời thơ không
thể nói hết được. Phải ngoài thơ.
Suốt thi phẩm, toàn những bài viết về những điều bình thường,
nhỏ nhặt như Rau càng cua, Ổi, Quả mít, An táng hai con gián và đặc biệt là Một
bữa ăn của người Việt. Việc người trẻ gắp thức ăn cho người già, rồi người già
lại gắp miếng ăn ấy cho trẻ nhỏ, bản thân nó đã nói về cái đức “nhường cơm, sẻ áo”
của người Việt Nam – cái đức lớn lao lại hóa thành điều nhỏ nhặt khiến ta không
nhìn ra, nhưng người nước ngoài lại nhìn ra và khâm phục. Chúng ta đang đánh mất
mình và cố biến mình thành người khác. Phải với “thơ ngoài thơ”, Thanh Thảo mới
tìm thấy nghị lực cảnh tỉnh:
Chúng ta đừng tự hào những điều to tát
Hãy cúi đầu trước những điều nhỏ nhặt
Vì đó là Việt Nam
Một điển hình “thơ ngoài thơ” trong thi phẩm này là bài Thầy
tôi. Người cha thân sinh trong mắt Thanh Thảo lớn đến mức không thể bất kính
tuôn ra những lời ngợi ca véo von được, mà chỉ còn được quyền kể ra một cách
chân thành về ông. Ông là nhà cách mạng Hồ Thiết, người cùng lao tù với nhà
cách mạng Phan Đăng Lưu, người bạn thân thiết đồng hương Mộ Đức, Quảng Ngãi với
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông là một nhà cách mạng với lý tưởng mang hạnh
phúc đến cho mọi người:
Một đời thầy vất vả
Chỉ mong gió nồm lên chia mát cho mọi người
Ai cũng có một cái bóng
Dù nhỏ nhoi khi đứng dưới mặt trời
Ai cũng có một tiếng nói
Như chim trên cành mỗi sớm mai trôi
Ông đã đánh đổi cho lý tưởng cháy bỏng ấy bằng sự hiến dâng
trọn vẹn đời mình:
Bấy nhiêu đó đổi mười năm tù ngục
Bao nhiêu năm cơ cực giữa đời
Bấy nhiêu đó kèm theo bao uất ức
Gió thoảng mây bay lặng mỉm cười
Suốt trong thi phẩm toàn những bài “thơ ngoài thơ” như thế.
Người đọc dễ dàng cảm thấu mà không cần phải cố gắng tìm tòi “ý tại ngôn
ngoại” gì cả. Cái hay không dễ nhìn thấy đã được Thanh Thảo xới lật ra bằng lưỡi
cày “thơ ngoài thơ”.
Tôi muốn khép lại bài viết nhỏ này bằng việc giãi bày về bài
thơ “Những bức tường như số phận chúng ta” mà chính tôi là người khơi nguồn cho
nó.
Vào những năm 80 thế kỷ trước, Thanh Thảo đã được phân một
căn buồng trong khu tập thể cao tầng ở Quy Nhơn. Căn buồng ấy cũng là nơi tá
túc của tôi những khi vào Quy Nhơn chơi với Thanh Thảo. Khi chia tỉnh Nghĩa
Bình thành hai tỉnh như xưa: Bình Định và Quảng Ngãi, Thanh Thảo rời căn buồng
đó về nhận căn buồng mới ở thành phố Quảng Ngãi. Căn buồng ở Quy Nhơn chỉ còn
trong ký ức. Mùa Hè 2019, tôi vào Quy Nhơn, tình cờ đến uống cà phê tại một
quán nhỏ ngay đằng sau khu nhà Thanh Thảo ở khi xưa. Nhìn lên, thấy căn buồng
cũ của Thanh Thảo đã lở lói, thấy buồn nhớ quá vãng tụ quần ngày nào kinh khủng.
Tôi nhắn tin cho Thanh Thảo: “Nhìn tường nhà chúng ta từng ở lở lói. Buồn lạ”.
Không ngờ tin nhắn ấy lại khơi nguồn cho bài thơ Những bức tường như số phận
chúng ta. Cuộc đời thế hệ chúng tôi đã đi qua bao bức tường như thế trong chiến
tranh, để bây giờ đi đến bức tường cuối cùng là tuổi già. Và Thanh Thảo đã cảm
thán:
Những bức tường bơ vơ
Tao thấy trước ga Vinh tháng Giêng năm bảy mốt
Ở Lộc Ninh tháng ba năm bảy tư
Ở Lạng Sơn tháng hai năm bảy bảy
Ở nơi nào không nhớ nữa
Những bức tường như số phận chúng ta
Những bức tường tuổi già
Nhìn ta trân trối
Bác Ba Hinh đã khuất
Thằng Tạo “lẫn” đi rồi.
Bác Ba Hinh là anh Trần Hinh – một đàn anh rất yêu quý của
chúng tôi ở Quy Nhơn. Anh là kỹ sư cầu đường nhưng làm nhạc, làm thơ. Đã từng
là đại biểu quốc hội. Anh mất vào năm 2019, sau nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo
– mà chúng tôi hay gọi đùa là “Tạo lẫn” – mấy tháng. Một cảm thán được viết ra
như không, như chẳng cố ý làm thơ, nhưng đọc lên là thấy kỷ niệm ùa về tràn ngập:
Nhớ hồi đó tao với mày mạnh mẽ bao nhiêu
Uống rượu gạo suốt đêm không biết mệt
Cứ lướt qua thời gian xe lao dốc
Tưng bừng rất dại khờ…
Cùng hành trình thơ đi tới ngày hôm nay, có lẽ sự hồn nhiên
và chân thành đã dinh dưỡng trong thơ Thanh Thảo một nguồn năng lượng để kéo
thơ ra ngoài thơ như thi phẩm này.
Tự tin vào từng trải, không câu nệ tu từ, không cần tạo tuyệt
cú, chỉ đi tìm chất thơ ở những hiện thực ngỡ không thể có thơ, những hiện thực
bình thường nhưng sau khi đọc xong, ta luôn cảm thấy rưng rưng. Thơ Thanh Thảo
đã đạt đến độ đốn ngộ, thơ ngoài thơ.
14/6/2022
Nguyễn Thụy Kha
Nguồn: Báo Thể Thao và Văn Hóa
Theo https://vanhocsaigon.com/
Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu trong văn học miền Nam 1954 -1975
Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu
trong văn học miền Nam 1954
-1975
Với một thể chế chính trị đa nguyên, chấp nhận mọi sự khác biệt
nên ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã hình thành một nền văn học khá cởi mở. Sự
cởi mở ấy không chỉ thể hiện ở việc tiếp nhận nhiều hệ hình lý thuyết
của các nền văn hóa Đông, Tây và văn hóa Mỹ mà còn thể hiện ở việc tiếp
nhận một cách khách quan, công bằng, khoa học đối với giá trị của nhiều hiện tượng
văn học, trong đó có tác phẩm của các nhà văn/ thơ thời Tiền chiến và thời
kháng chiến chống Pháp đang sống, làm việc ở miền Bắc, dưới chế độ Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa. Đây chính là căn tố để hình thành một nền văn học đa khuynh
hướng, đa giọng điệu, đa trường phái và không giới tuyến ở miền
Nam. Đó cũng là những nội dung cơ bản mà bài viết hướng đến.
1. Mở
Không biết có dân tộc nào trên thế giới lại chịu nhiều nỗi
đau chia cắt như dân tộc Việt Nam. Có người cho rằng sự chia cách ấy là định mệnh
của dân tộc đã được “dự báo” từ trong truyền thuyết!? Tin hay không còn tùy vào
sự tín niệm của mỗi người. Song, dù muốn hay không, sự chia cách ấy là một thực
thể hiện hữu trong hành trình lịch sử dân tộc, không thể phủ nhận. Nhiệm vụ của
chúng ta hôm nay là phải xóa bỏ sự chia cắt ấy trong tâm thức của mình trên mọi
bình diện của đời sống xã hội, trong đó có đời sống văn học. Bởi, đối với người
Việt Nam sự chia cách ấy chỉ có nghĩa về mặt địa chính trị mà hiệp định Genève
tháng 7/1954 với việc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân chia hai miền Nam Bắc
là một xác chứng nhưng trong tiềm thức mỗi người không bao giờ có sự phân chia
giới tuyến. Chính vì vậy, suốt hai mươi năm chia cắt, tình dân tộc, nghĩa đồng
bào vẫn hằng sống trong tâm cảm mỗi người Việt Nam con Lạc cháu Hồng như một ý
thức về giống nòi: “Các con sẽ không bao giờ quên/ Đã cùng sinh ra trong một bọc
/ Một trăm trứng /Một trăm con/ Các con sẽ không bao giờ quên…” [7, tr. 50-51].
Và, cho dẫu đất nước có bị cắt chia thì văn học dân tộc vẫn vẹn nguyên và không
bao giờ có sự chia cắt. Thế nên, nhiều nhà văn/ thơ Việt Nam dù sống “bên kia
vĩ tuyến” vẫn hiện hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, vẫn được quan
tâm nghiên cứu, được đưa vào sách giáo khoa Quốc văn giảng dạy trong nhà trường,
được tôn vinh như những giá trị cao quí của văn học dân tộc mà không có bất cứ
sự kỳ thị nào. Vì vậy, trong lời “phi lộ” gởi độc giả viết ngày 1/5/1967, khi
tái bản tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận tại Sài Gòn, người biên soạn
đã chia sẻ: “Gần đây một số thi phẩm của các Thi nhân Tiền chiến được tuyển chọn
làm tài liệu tham khảo văn chương cho chương trình Đại học Văn khoa. Trong số
những thi phẩm ấy, có một số của các thi nhân mà hiện thời, họ đang sinh sống
bên kia giới tuyến, nơi phân nửa của lòng đất mẹ cách ngăn! (…) Đứng trong địa
hạt văn chương - đối với thi nhân - chúng tôi quan niệm rằng: Đây là những bông
hoa tươi sắc ngát hương của “Vườn Hoa Tiền Chiến” thì, không lý nào chúng tôi lại
dang tay ngắt bỏ đôi cành! Mà trái lại, chúng ta còn có cái trách nhiệm vun bồi,
và vun bồi mãi mãi để cho Vườn Hoa Đất Nước ngày càng thêm phô Sắc ngát Hương…
Có quan niệm và nhận chân được như thế, chúng ta mới có thể hy vọng sẽ làm tròn
bổn phận của kẻ “chăn Vườn” hiện đại” [1, tr.6 -7]. Và đây là một thực thể hiện
hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975.
2. Văn học miền Nam và việc nghiên cứu các nhà văn/ thơ miền
Bắc
2.1.Văn học miền
Nam với các nhà thơ/ văn Tiền chiến ở miền Bắc
Xuất
phát từ bầu khí quyển văn học cởi mở, dân chủ cùng với tinh thần trân quý các
giá trị văn học dân tộc, nên trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, hầu hết
tác phẩm của các nhà văn Tiền chiến dù họ đang sống ở miền Bắc vẫn được xem là
di sản văn chương, được nghiên cứu, tìm hiểu trong nhiều công trình khảo cứu,
lý luận phê bình văn học ở miền Nam mà chúng ta có thể nhận biết sau đây.
Xuất hiện khá
sớm trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, Biệt ly qua thi ca Việt Nam của
Nguyễn Hữu Chi, (Nam Chi Tùng Thư Xb, Sài Gòn, 1961), khi bàn đến cảm thức
biệt ly trong thơ Việt, tác giả đã viện dẫn Tràng giang của Huy Cận; Viễn
khách của Xuân Diệu; Giây phút chạnh lòng của Thế Lữ cùng thơ của
Thanh Tịnh; Yến Lan, Tế Hanh; Nguyễn Bính; Lưu Trọng Lư… là những nhà thơ Tiền
chiến (theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học ở miền Nam) đang sống và
làm việc ở miền Bắc lúc bấy giờ để luận giải, minh chứng. Còn trong Thi ca
việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967), ta
cũng thấy sự hiện hữu các nhà thơ Tiền chiến đang sống ở miền Bắc, dù họ ở cương
vị nào trong xã hội. Đó là nhà thơ Phan Khôi với Tình già, Chơi thuyền
sông Tân Binh; Thế Lữ với Nhớ rừng, Tiếng gọi bên sông, Bên sông đưa
khách, Cây đàn muôn điệu; Lưu Trọng Lư với Thơ sầu rụng, Thú đau
thương, Nắng mới, Xuân về, Tiếng thu; Vũ Đình Liên với Lòng ta là những
thành quách cũ, Ông đồ; Thanh Tịnh với Mòn mõi; Anh Thơ với Chiều
xuân – Trưa hè; Xuân Diệu với Viễn Khách, Huyền Diệu, Nhị hồ, Lời kỷ
nữ, Hư vô, Nguyệt Cầm ; Yến Lan với Bến My Lăng; Huy Cận
với Tràng Giang, Chiều xưa – Thu rừng, Ngậm ngùi – Hồn xa; Hồ Dzếnh
với Ngập ngừng – Xuân ý, Phút linh cầu, Tình xưa, Phong Châu, Lỡ đò; Nguyễn
Bính với Xa cách, Tương tư, xuân về, Giấc mơ anh lái đò; Chế Lan
Viên với Mơ trăng, Đêm tàn, Những sợi tơ lòng, Ngủ trong sao, Đêm xuân sầu,
Xuân, Cõi ta ; Tế Hanh với Lời con đường quê, Ao ước, Vu vơ và kể
cả Tố Hữu với Mồ côi, Tiếng hò sông Hương, Chiều…
Ở Hồn thơ nước
Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., SG., 1967), Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã
luận giải Hồn thơ nước Việt như một dấu ấn tâm linh của hồn dân
tộc qua thơ của Phan Khôi, Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh Thơ; Vũ Đình Liên, Nguyễn Xuân Sanh… và
xác quyết đây là những giá trị tiêu biểu của hồn thơ nước Việt. Còn ở công
trình khảo cứu khá đồ sộ, có giá trị về lịch sử văn học như Bảng lược đồ
văn học Việt Nam (Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), (Nxb.
Trình bày, SG, 1967) của Thanh Lãng, khi phân chia các khuynh hướng văn học,
ông không quên đề cập đến các nhà văn đang sống ở miền Bắc như: Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyên Hồng; Nguyễn
Tuân, Thế Lữ,… Và trong cái nhìn tinh tế và uyên áo của Thanh Lãng “với Gió
Trăng ngàn, Thế Lữ muốn chúng ta tìm lại không phải cái nếp sống vừa mất
đi như Nguyễn Tuân đã ghi nhận trong Vang bóng một thời mà là mất đi
đã từ lâu. Cuộc đời trầm lặng ngây thơ, hồn nhiên hoang dại của đồng bào miền
sơn cước, cái đời ấy là cái đời của tổ tiên chúng ta ở một cái thời đã xa lắm.
Cái đời ấy mới đẹp, mới say sưa. Những mối tình ở đấy, mới là mối tình chân thật.
Thế Lữ đưa chúng ta trôi dạt trong thế giới của gió, của trăng, của rừng, của
núi, của tất cả cái gì hoang dại” [4, tr. 750].
Là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền
chiến (1932-1945), Nguyễn Tấn Long – Phan Canh trong chuyên khảo Khuynh hướng
thi ca tiền chiến, biến cố văn học 1932-1945, (Sống mới Xb., SG, 1968) đã luận
bàn về Tình già của Phan Khôi; Lửa thiêng của Huy Cận; Điêu
tàn của Chế Lan Viên; Thơ thơ của Xuân Diệu; Lỡ bước sang
ngang của Nguyễn Bính; Nghẹn ngào của Tế Hanh; Tiếng thu của
Lưu Trọng Lư; Mấy vần thơ của Thế Lữ và Thi nhân Việt Nam của
Hoài Thanh. Đặc biệt, trong phần luận giải về khuynh hướng xã hội, các tác giả
đã phân tích bài thơ “Vú em; Tiếng hò sông Hương; Dững dưng” của Tố Hữu và cho
rằng: “Người thi nhân khuynh hướng xã hội không có quyền khách quan trước cái
khổ của loài người, mà phải đem tình cảm mình trộn lẫn vào nỗi khổ cực của xã hội.
(…) Nguồn thi cảm của họ đi tìm cái đau đớn chan hòa: Vú em: “Nàng gửi con về
nương xóm cũ/ Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi/ Rồi ừ hôm ấy ôm con chủ/ Trong
cánh tay êm, luống ngậm ngùi” [5, tr.540 – 543]. Còn trong công trình khảo cứu
của riêng mình với bộ ba tác phẩm Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q.Thượng)
Sống mới Xb., SG,1968, Nguyễn Tấn Long đã luận bàn khá sâu, rộng về cuộc đời,
văn nghiệp và trích dẫn thơ của các nhà thơ: Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ,
Nguyễn Bính, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Anh Thơ; Ở Việt Nam Thi nhân tiền
chiến (Q. Trung) là sự góp mặt của các nhà thơ: Huy Thông, Chế Lan Viên,
Vũ Đình Liên, Huy Cận và ở Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q. hạ) là sự
hiện diện của các nhà thơ: Yến Lan, Đoàn Văn Cừ, Hồ Dzếnh, Hằng Phương, Tú Mỡ,
Tế Hanh. Có thể nói, với hàng ngàn trang viết và những tư liệu cùng sự luận giải
của Nguyễn Tấn Long về đời và thơ của các nhà Thơ Mới, có thê nói, đây là một
trong những công trình nghiên cứu công phu, có giá trị về mặt tư liệu và khoa học
trong những công trình nghiên cứu về phong trào Thơ mới, không chỉ đối với văn
học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà còn có giá trị trong đời sống nghiên cứu,
phê bình văn học của dân tộc. Và dù không nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền
chiến như Nguyễn Tấn Long, nhưng Huy Trâm ở công trình khảo cứu Những hàng
châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963), (Nxb. Sáng, Sài Gòn,1969), cũng
đã phân tích một số bài thơ như: Bươm Bướm ngày xưa (Nguyễn
Bính); Ngập ngừng (Hồ Dzếnh) Buồn đêm mưa, (Huy Cận); Thu (Xuân
Diệu); Tiếng Thu (Lưu Trọng Lư); Ông đồ (Vũ Đình Liên) … Đặc
biệt Huy Trâm đã phân tích bài thơ Chiều của Tố Hữu, một lãnh đạo cao
cấp trên mặt trận tư tưởng – văn hóa – văn nghệ ở miền Bắc với những lời chia sẻ
khá trân trọng: “Lão ngồi bên cửa sổ (…) Đôi chiếc lá vàng rơi/ Vô tình qua trước
mắt/ Lão buông lạt trông trời…”, và nhận xét: “Một bài thơ viết theo lối tả thực
làm chúng tôi nhớ đến bài “saison de semailles, le soir” của Victor Hugo” [9,
tr.153].
Bùi Giáng, một trong
những “quái kiệt” của văn học miền Nam 1954-1975, vốn không dễ ngợi ca ai, vậy
mà trong công trình nghiên cứu được xem như một sự hợp hôn diệu kỳ giữa thi ca
và triết học có tên Thi Ca Tư Tưởng, (Ca dao Xb., Sài Gòn, 1969), khi
luận bàn đến các nhà thơ/ văn Tiền chiến ở miền Bắc, Bùi Thi Sĩ cũng dành cho
họ những lời “có cánh” mà nếu không thật sự nễ phục tài năng của họ, chắc Bùi
Tiên sinh sẽ không “hết lời” ngợi ca như thế!? Đây là lời Bùi Giáng viết về thơ
Xuân Diệu: “Sau ba mươi năm dài, trải bao phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly
trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một
cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi
hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi
xuân bỗng sống dậy kêu gào. (…) Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của
thiên tài tuổi trẻ”[3, tr.32]. Còn với Hoài Thanh, người gắn liền tên tuổi mình
với phong trào Thơ Mới qua tác phẩm phê bình văn học nổi tiếng Thi Nhân Việt
Nam, Bùi Thi sĩ đã xác quyết: “Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du.
Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình kiều,
Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài
Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra
không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau” [3,
tr.65]. Viết về Huy Cận, một trong những nhà thơ Tiền chiến, Bùi Giáng rất
“mê”, rất trân quí, và tình cảm đặc biệt nầy thể hiện rõ trong Thi Ca Tư
Tưởng khi ông dành rất nhiều trang viết về thơ Huy Cận. Với Bùi
Giáng: “Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông
Phương” [3, tr.89]. Đây cũng là điều khá lý thú mở ra những hướng nghiên cứu mới
về thi tài của Bùi Giáng và Huy Cận đối với những ai quan tâm đến đời và thơ của
hai thi sĩ kỳ tài nầy.
Hoàng Diệp, một người bạn thơ cùng thời, đã có những năm
tháng sống và hoạt động văn học với Chế Lan Viên, trong khảo luận: Chế Lan
viên – thi sĩ tiền chiến, (Khai Trí Xb, SG,1969) đã có những cảm nhận sâu sắc về
thơ Chế Lan Viên mà theo Hoàng Diệp: “Hơn một phần tư thế kỷ, Sự hiện diện của
Chế Lan Viên đã khuấy động và làm đảo lộn thật sâu xa một thế hệ Thi ca. Giữa đại
dương của các trào lưu lãng mạn thời tiền chiến. Lan Viên đến như một dũng tướng
từ một cõi xa lạ nào. Với một nguồn suối mới, một khuynh hướng riêng biệt,
chàng đã gây ngạc nhiên không nhỏ đối với các nhà phân tâm học, nhất là về
phương diện thần bí” [2, tr.117].
Uyên Thao, một trong những nhà
nghiên cứu văn học có uy tín ở miền Nam, với công trình khảo cứu Thơ Việt
Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., SG, 1969 cũng đã có những trang viết luận
giải khá tinh tế về thơ của các nhà thơ đang sống và hoạt động văn nghệ ở “bên
kia chiến tuyến”. Đó là Xuân Diệu với Thơ thơ, Gửi hương cho gió; Huy Cận
với Lửa thiêng; Thế Lữ với Mấy vần thơ; Nguyễn Bính với Lỡ bước
sang ngang; Lưu Trọng Lư với Tiếng thu; Vũ Đình Liên với Ông Đồ; Anh
Thơ với Bức tranh quê; Tế Hanh với Nghẹn ngào; Chế Lan Viên với Điêu
tàn; Tố Hữu với Qua cổ tháp; Một tiếng rao đêm…Những bài thơ nầy được người
đọc đón nhận nồng nhiệt như món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn
chương.
Trong Mười khuôn mặt văn nghệ, (Tác giả Xb., SG,1970), một
công trình nghiên cứu khá ấn tượng về thể loại chân dung văn nghệ, Tạ Tỵ đã
dành những trang văn giàu tâm cảm với tất cả sự quí trọng hiếm có của tình văn
chương không giới tuyến cho những bạn văn của mình mà ông luôn thương nhớ dẫu rằng
sự chọn lựa “chí hướng” của họ hoàn toàn khác biệt với ông. Đó là hình ảnh Nguyễn
Tuân với bài viết “Nguyễn Tuân và thái độ kẻ sĩ trước Cách mạng qua tác phẩm Chùa
đàn” mà qua cái nhìn của Tạ Tỵ: “Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt lớn của
văn học Nghệ thuật Việt Nam ở trước và trong cuộc chiến. Nói đến Nguyễn Tuân là
nói một giá trị hiển nhiên, là khơi sáng lại dòng thời gian chìm khuất, là nhắc
nhớ đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng sửng trước
mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn
bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình đi vào tác phẩm Nguyễn Tuân như
hành trình đi vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo” [10, tr.31]. Hay
bài viết: “Nguyễn Bính một thiên tài lỡ dở” và “Văn Cao một tinh cầu giá lạnh”
mà trong tâm thức Tạ Tỵ: “sự hiện diện của Văn Cao ở một hàng ngũ Cách Mạng nào
đó trước 1945, người ta đừng lấy làm lạ, phải coi như một lẽ đương nhiên. Kẻ
thù đã đẩy, chẳng riêng gì Văn Cao mà cả Dân Tộc đứng lên đòi quyền sống” [10,
tr.178].
Bên cạnh các công trình khảo cứu, lý luận phê bình, gương mặt
của các nhà văn/ thơ Tiền chiến ở miền Bắc, còn hiện hữu ở các công trình
nghiên cứu mang tính chất văn học sử. Đó là gương mặt của Thế Lữ, Nguyễn
Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ… trong Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên tập 3 văn học hiện đại 1862-1945, (Quốc học Tùng thư
Xb., SG, 1965), của Phạm Thế Ngũ. Hay gương mặt của Nguyễn Tuân, Xuân Diệu
trong Văn học Phân tích Toàn thư, (Lá Bối Xb., SG, 1973), của Thạch Trung
Giả. Và gương mặt của Xuân Diệu, Tú Mỡ, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Trương Tửu –
Nguyễn Bách Khoa, Phan Khôi, Huy Cận, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên,
Chế Lan Viên, Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Huy Thông, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan…
trong Lược sử văn nghệ Việt Nam – Nhà văn tiền chiến, (Vàng
Son Xb., SG, 1974), của Thế Phong. Còn trong Văn học sử Thời kháng Pháp (1858
-1945) của Lê Văn Siêu, (Trí Đăng Xb., SG, 1974), là gương mặt của Lưu Trọng
Lư, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Anh Thơ, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh,
Nguyên Hồng, Tú Mỡ…
Đặc biệt hơn cả là sự hiện diện của các nhà văn/ thơ ở miền Bắc
trong sách giáo khoa Quốc Văn giảng dạy ở các trường trung học miền Nam
như: Việt Văn toàn thư Tú tài I Ban ABCD của Vũ Ký, Á Châu Xb.,
có trích giảng thơ của các nhà thơ: Phan Khôi với Tình già, Thế Lữ với Giây
phút chạnh lòng; Nhớ rừng; Cây Đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai;
Xuân Diệu với Đây mùa thu tới, Chiều, Tương tư chiều ; Vũ Đình Liên với Hồn
xưa; Huy Cận với Tràng giang; Quốc Văn 12ABCD, Trường Thi xuất bản,
nhóm Giáo sư Quốc Văn, Sài Gòn, 1974, trích giảng Ngậm ngùi của Huy Cận; Trưa
vắng của Hồ Dzếnh; Ông Đồ của Vũ Đình Liên; Giây phút chạnh
lòng; Nhớ rừng của Thế Lữ; Tình già của Phan Khôi; Tiếng
thu của Lưu Trọng Lư, Nằm vạ của Bùi Hiển; Tắt đèn, Việc
làng, lều chõng của Ngô Tất Tố; Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Kép tư
Bền, Cô giáo Minh của Nguyễn Công Hoan; Quê người, O chuột, Xóm giềng
ngày xưa của Tô Hoài; Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng; Quê Mẹ, Ngậm ngãi tìm trầm của Thanh Tịnh; Quốc Văn lớp
tám của Nguyễn Quế Viên, Tác giả Xb., 1974, có Nguyễn Tuân, (Chơi hoa,
Vang bóng một thời); Nam Cao (Chí Phèo) Phan Khôi (Học với chung quanh ta); Thế
Lữ, (Nhớ rừng); Giảng Văn lớp bảy, do Đỗ Văn Tú biên soạn, Việt Nam Tu Thư,
Sài Gòn, 1974, có các tác giả: Thế Lữ (Mấy vần thơ, Vàng và máu, Gói thuốc lá)
Tô Hoài (Quê Người, O chuột, Xóm Giềng ngày xưa, Dế mèn phiêu lưu ký)… Riêng
công trình Văn học từ điển, Nxb.Khai Trí, SG, 1974, của Thanh Tùng đã
đề cập hầu hết tiểu sử và văn nghiệp các nhà văn sống ở miền Bắc như: Anh Thơ,
Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Đào Duy Anh, Đoàn Phú Tứ, Đoàn Văn Cừ , Hằng Phương,
Hoài Thanh, Hồ Dzếnh, Huy Cận, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Mạnh Phú Tư, Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan, Phan Khôi, Tế Hanh, Thanh Tịnh,
Thâm Tâm, Thế Lữ, Tồ Hoài, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Yến Lan…
Ngoài ra, còn có các số báo chuyên đề về cuộc đời và hành trình sáng tạo văn
chương của các nhà văn, nhà thơ đang sống ở miền Bắc lúc bấy giờ như: Văn học số
100 (1/1/1970) về Nguyễn Bính; Văn học số 114 (1/11/ 1970) về Văn
Cao; Văn học số 105 (15/4/1970) về Nguyễn Tuân; Văn học Giai phẩm (20/8/1970)
về Chế Lan Viên; Văn số 4/1973 về Hồ Dzếnh; Thời tập số ra
ngày 15/11/1974 về Nguyễn Tuân; Văn học giai phẩm/1974 về Thế Lữ; Văn
học giai phẩm/1974 về Hồ Dzếnh …
Có thể nói, trong đời sống văn học miền Nam giai đoạn
1954-1975, Các nhà văn/thơ Việt Nam thời Tiền chiến (tên gọi định danh cho thời
kỳ văn học 1932-1945) đều xuất hiện trong các công trình nghiên cứu văn học mà
không có một sự phân biệt đối xử, phân biệt giới tuyến. Không những thế, các
sáng tác của họ đều được tái bản ở miền Nam mà không hề bị cấm đoán, được người
đọc trân trọng tiếp nhận, được xem như một bộ phận “trung tâm” của văn học miền
Nam chứ không “bị” đẩy ra khu vực “ngoại biên”. Điều nầy cũng cho thấy tính
“phi giới tuyến” của nền văn học miền Nam mà chúng tôi đã đề cập đến ở phần tóm
tắt của bài viết.
2.2. Văn học miền Nam với các
nhà văn/ thơ kháng Pháp sống ở miền Bắc
Không chỉ có các nhà thơ/ văn Tiền
chiến mới hiện hữu trong văn học miền Nam 1954-1975 mà trong nền văn học không
giới tuyến ở miền Nam còn có sự hiện hữu của các nhà thơ/ văn trong kháng chiến
chống Pháp. Bộ phận văn học này cũng được các nhà lý luận, phê bình văn học miền
Nam rất trân trọng, với những đánh giá khá cao, xem đây là một phần không thể
thiếu để tạo nên hệ giá trị của văn học dân tộc như Uyên Thao trong Thơ Việt
Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969 đã xác quyết: “Những
cái gì đã hình thành nên do một phần xương máu của chúng ta, của anh em, đồng
bào ta, ta phải giữ lấy, và phải đặt nó vào vị trí xứng đáng của nó. Văn nghệ
kháng chiến trong dòng sinh hoạt nghệ thuật của dân tộc là một mắc xích giữa
hai chuỗi mắc xích. Như các giai đoạn khác, nó là những gạch nối để giòng sinh
hoạt nọ được gọi là một giòng. Thiếu nó giòng sinh hoạt nọ chỉ xứng với cái tên
là “những đoạn không gắn bó, đứt quảng (..) Phủ nhận văn nghệ kháng chiến chúng
ta sẽ trở thành những tên bói mù” [8, tr.311].
Xuất phát từ điểm nhìn này, nên ở văn học miền Nam có khá nhiều
công trình lý luận phê bình quan tâm nghiên cứu đến sáng tác của các nhà văn/
thơ thời kháng Pháp như Hồn thơ nước Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., Sài
Gòn, 1967) của Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã luận bình về các bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng; Viếng bạn của Hoàng Lộc; Màu tím Hoa
sim của Hữu Loan. Hay trong Thi ca Việt Nam hiện đại, của Trần Tuấn
Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967) đã đề cập đến thơ Quang Dũng với kẻ ở,
Đôi bờ; Hoàng Cầm với Em bé lên sáu tuổi; Văn Cao với Chiếc xe xác
qua phường Dạ Lạc, Những ngày báo hiệu mùa xuân; Phùng Quán với Lời mẹ dặn;
Hữu Loan với Cùng những thằng nịnh hót. Còn Huy Trâm trong Những
hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963) (Nxb. Sáng, Sài Gòn,
1969) thì phân tích thơ Quang Dũng với Đôi mắt người Sơn Tây; Kẻ ở ;
Nguyễn Đình Thi với Đất nước, Hữu Loan với Đèo cả; Tố Hữu
với Ngày về mà trong sự cảm nhận của Huy Trâm thì so với “Ngày về” của
Guy de Maupassant, nội dung câu chuyện trong bài xem ra có phần cay đắng hơn” [9,
tr. 171].
Uyên Thao với Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng
Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969) đã luận bàn khá sâu sắc về văn học kháng Pháp qua phân
tích Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Mùa cốm Mới, Lên Cấm Sơn (Thôi
Hữu); Màu tím hoa sim (Hữu Loan); Tháng năm ra trận, Đồng chí (Chính
Hữu); Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây (Quang Dũng); Bên kia sông
Đuống (Hoàng Cầm); Đất nước (Nguyễn Đình Thi); Cá nước, Bầm
ơi, Phá đường (Tố Hữu)…Và theo Uyên Thao: “Đối với lịch sử, văn nghệ kháng
chiến là một tấm gương soi sáng xã hội Việt Nam, soi sáng tâm hồn cũng như tinh
thần người Việt trong một giai đoạn cần nhiều máu đổ. Nó chứng minh với ngàn
sau, tinh thần bất khuất và kiên cường của người Việt Nam trước giông tố
(…) Đối với văn học, đối với lịch sử, vị thế của văn nghệ kháng chiến là
thế. Phủ nhận vị thế đó, chúng ta sẽ là những kẻ phản bội ngay cả cái phần gọi
là NGƯỜI trong con người mình” [8, tr.313].
Ngoài những công trình nghiên cứu có đề cập đến thơ văn kháng
Pháp đã nêu, trên lĩnh vực báo chí cũng có một số bài nghiên cứu về một số tác
phẩm của các nhà văn/ thơ trong kháng chiến chống Pháp. Cụ thể, trên tạp
chí Phổ Thông số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960, trong mục “Những áng
thơ hay” có bài viết về bài thơ Nhà tôi của Yên Thao do Nguyễn Thu
Minh giảng bình. Và đây là lời bình khá tinh tế và sâu sắc của Nguyễn Thu Minh
: “Tôi có người mẹ già…. Tơ tằm rút mãi cho lòng heo hon” . Thử hỏi trong cuộc
đời này, ngoài tình yêu tổ quốc, còn tình yêu thương nào hơn được tình gia
đình, nghĩa vợ chồng nữa đâu? Yên Thao của chúng ta đau buồn, luyến nhớ là phải.
Mà càng nhớ bao nhiêu lại càng lo âu, thắc mắc bấy nhiêu. Vì những người thân
yêu của chàng hiện đang sống trong vùng giặc chiếm đóng, chả biết ra sao, liệu
còn yên ổn sống hay đã không may trong cuộc đời ly loạn (…) Đọc bài thơ trên,
chắc đã làm các bạn thỏa mãn từ lời thơ cho đến ý thơ của tác giả, dầu với hình
thức tơ tự do. Và lòng chúng ta không khỏi rộn lên niềm thương vui, luyến nhớ lẫn
lộn, với thi nhân Yên Thao, lúc thì man mác dìu dịu như làn hương thơm quyện lấy
tâm hồn, lúc lại rộn rã, tha thiết ngập tràn lòng như ánh mai vừa ló ở chân trời
xa mênh mông sáng đẹp của một ngày mới bắt đầu!” [6, tr.98 -99].
Đặc biệt, trong tiểu luận “Thi ca trước tình cảnh cực đoan”,
(Ý Thức số 11 ra ngày 15/3/1971), Huỳnh Hữu Ủy đã đánh giá cao giá trị một
số bài thơ viết trong những năm kháng Pháp của các nhà thơ đang sống ở miền Bắc
như: Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Đình Thi; Hữu Loan; Hoàng
Cầm…Trong đó, Tố Hữu là nhà thơ mà Huỳnh Hữu Ủy quan tâm đặc biệt với những câu
thơ mà nhà nghiên cứu rất ám ảnh: “Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc
rét nước làng em lo”; và “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm”
hay “Đợi anh về (dịch thơ Simonov). Đó còn là hình ảnh anh bộ đội trong
thơ Quang Dũng hay Chính Hữu: “Súng bên súng đầu nép bên đầu/ Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỷ”… mà Huỳnh Hữu Ủy đã xác quyết: “Ai dám bảo chiến sĩ chỉ
biết chiến đấu và nuôi dưỡng căm hờn? Cuộc kháng chiến trường kỳ trước đây của
dân tộc là một giấc mơ to lớn đẹp đẽ, vô ngần thơ mộng, đủ cả thất tình. Tình cảm
đấu tranh, tình dân tộc, tình tự gái trai, tất cả đều chất ngất quyện vào nhau,
tạo thành một trường ca vĩ đại … “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc
hành” Quang Dũng [11, tr.21]. Trong cảm thức của Huỳnh Hữu Ủy: “Thi ca của giai
đoạn kháng chiến (mà những trích dẫn trên chỉ là một phần rất nhỏ của kho tàng
to lớn này) đã đóng góp một phần rất lớn trong việc cổ xúy một cuộc đấu tranh
trường kỳ. Nền thi ca ấy đã hoàn thành sứ mệnh cao đẹp của nó, đã để lại cho
chúng ta những viên hồng ngọc quí giá như minh chứng của một phần hồn thiêng
dũng cảm phi thường của dân tộc, một dân tộc của những người không khuất chí,
luôn sẵn sàng đứng dậy, trước bất cứ hoàn cảnh và chông gai nào” [11, tr.22].
Và cũng như các nhà thơ/ văn Tiền chiến, thơ văn của các nhà văn kháng chiến thời
chống Pháp cũng hiện hữu trong các công trình nghiên cứu về lịch sử văn học và
sách giáo khoa Quốc văn trung học mà chúng tôi đã nêu ở trên. Ngoài ra một số
báo tạp chí cũng ra số đặc biệt về các nhà thơ / văn thời kháng Pháp như tạp
chí Văn học, một tạp chí nghiên cứu, phê bình khá uy tín trong văn học miền
Nam đã dành hai số 125/1971 và 145/1971 giới thiệu về đời và thơ Quang Dũng và
số 139/1971 giới thiệu về nhà thơ Hữu Loan…
Có thể nói, hình ảnh các nhà thơ / văn trong kháng chiến chống
pháp sống ở miền Bắc cùng sáng tác của họ hiện hữu trong văn học miền Nam
1954-1975 đã xác tín tính “phi giới tuyến” của văn học miền Nam, trong việc góp
phần tôn vinh, gìn giữ và lan tỏa giá trị của văn học cách mạng và kháng chiến ở
miền Nam suốt hai mươi năm chia cắt. Chính điều này đã góp phần thức nhận lòng
yêu quê hương đất nước và tình tự dân tộc trong tâm thức người dân miền Nam mà
lẽ nào hôm nay chúng ta có thể lãng quên!?
3. Thay lời kết
Như tên gọi của bài viết: Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu
trong văn học miền Nam 1954 -1975 và với những gì đã minh chứng qua các tư
liệu xuất bản ở miền Nam trước1975 được khảo sát trong điều kiện có thể, đã phần
nào đặt ra vấn đề: “Phải chăng không có “giới tuyến” trong văn học miền Nam
1954-1975?. Rõ ràng qua những tư liệu này có thể xác quyết trong giai đoạn
1954-1975, cho dẫu đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, nhưng trong văn học miền
Nam hình như không có “vĩ tuyến” đó. Bởi, trong tâm thức nhân dân miền Nam,
trong đó có các nhà nghiên cứu văn học, văn chương của các nhà văn/ thơ đang sống
ở miền Bắc luôn hiện hữu như một hệ giá trị của văn học dân tộc. Đây là một vấn
đề cần được khẳng định trong văn học miền Nam 1954-1975 mà dường như lâu
nay đã bị “chôn vùi” bởi những định kiến thiển cận về văn học miền Nam ở một thời
không xa khi cho rằng, đây là bộ phận văn học “đồi trụy” “phản động” mà không
thấy được Tinh hoa của văn học dân tộc vẫn tiềm ẩn trong bộ phần văn
học nầy. Phải chăng, đến lúc cần thay đổi cách nhìn về văn học miền Nam giai đoạn
1954-1975, để nhận ra những giá trị đích thực của nó, với một cái nhìn khoa học,
khách quan trên tinh thần nhuần thấm tình tự dân tộc, để làm thế nào tạo nên một
nền văn học Việt Nam “không giới tuyến” cũng như đất nước chúng ta đã từ lâu
không còn giới tuyến!?
Và để khép lại bài viết nầy, chúng tôi muốn viện dẫn ý kiến
Uyên Thao trong Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng Lĩnh Xb., SG,
1969), khi ông đặt vấn đề tiếp nhận tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong văn
học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà theo ông nếu “vì chính trị mà chạy quá xa,
chối bỏ ngay cả tác phẩm của giai đoạn trước chỉ vì ngày nay tác giả còn ở bên
kia chiến tuyến. Tính chất liên tục của một sự nghiệp nghệ thuật, một giòng
sinh hoạt không có tận cùng buộc chúng ta không được làm thế, dù với lý do nào.
Vì, nếu đắp đất chặn ngang một con sông thì nửa trên sẽ biến thành đầm, thành hồ,
trong khi nửa dưới bơ vơ lạc lõng, không có phát nguồn. Chẳng sớm thì chày cái
phần bơ vơ lạc lõng này sẽ cạn mà thôi” [8, tr.308]. Nhận định ấy, có thể không
còn nguyên ý nghĩa của nó như trước đây khi đất nước còn bị chia cắt nhưng dẫu
sao, cũng là một lời nhắn gởi bổ ích, hữu dụng với chúng ta ngày nay, trong việc
nhìn nhận giá trị của văn học miền Nam 1954-1975, một di sản của văn học dân tộc
không thể phủ nhận…
Tài liệu tham khảo:
(1) Huy Cận (1967), Lửa thiêng, (tái bản tại miền Nam),
Sài Gòn.
(2) Hoàng Diệp (1969), Chế Lan viên – thi sĩ tiền chiến,
Khai Trí Xb., SG
(3) Bùi Giáng (1969), Thi Ca Tư Tưởng, Ca dao Xb.,
Sài Gòn
(4) Thanh Lãng, (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam
(Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), Nxb. Trình bày, SG
(5) Nguyễn Tấn Long – Phan Canh (1968), Khuynh hướng thi
ca Tiền chiến biến cố văn học 1932-1945, Sống mới Xb., SG
(6) Nguyễn Thu Minh (1960),“Bình giảng bài thơ Nhà tôi của
Yên Thao”, Phổ Thông, số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960
(7) Đỗ Nghê (1970), Tâm sự Lạc Long Quân, Ý Thức số
04 ra ngày 15/11/1970
(8) Uyên Thao (1969), Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng
Lĩnh Xb., Sài Gòn
(9) Huy Trâm (1969), Những hàng châu ngọc trong
thi ca hiện đại (1933 -1963), Nxb. Sáng, Sài Gòn
(10) Tạ Tỵ (1970), Mười khuôn mặt văn nghệ, Tác giả
Xb., Sài Gòn
(11) Huỳnh Hữu Ủy (1971), “Thi ca trước tình cảnh cực
đoan”, Ý Thức số 11 ra ngày 15/3/1971
Gò Vấp, 9/4/2022
Trần Hoài Anh
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học Viện văn học số 5/2022
Theo https://vanhocsaigon.com/
"Đố kỵ": Một bí ẩn mang tên con người
"Đố kỵ": Một bí ẩn
mang tên con người
Sẽ ra sao nếu Dostoevksy cùng Charlie Chaplin và James Joyce
hòa nhập làm một? Câu trả lời có lẽ là họ sẽ trở thành Yuri Olesha, nhà văn Nga
vĩ đại, “người cuối cùng của thế kỷ [mười chín]” – như ông tự gọi mình.
Olesha từng tấn công Joyce thế này: “Người nghệ sĩ phải nói với
con người rằng “Vâng, vâng, vâng”, nhưng Joyce lại nói “Không, không, không”,
“Mọi thứ trên Trái đất này đều tồi tệ”. Và vì thế, dù ông ấy thiên tài cỡ nào,
tôi cũng không cần ông ấy.” Olesha chỉ trích cách Joyce gọi phô mai là xác của
sữa. “Hãy nhìn đi, các đồng chí, kinh khủng làm sao. Nhà văn Tây phương ấy nhìn
thấy cái chết của sữa. Ông ta bảo rằng sữa có thể chết.” Với Olesha, đó là cách
viết hay, và có lẽ cũng đúng, nhưng ta không cần đến sự đúng đắn ấy. Cái ta cần
là một chân lý biện chứng đẹp đẽ, rằng sữa từ bầu ngực của người mẹ chảy sang
con, sữa là bất tử.
Thế nhưng, ông đã bắt đầu tiểu thuyết Đố kỵ theo
đúng cách mà Joyce đã bắt đầu Ulysses. Nếu như Buck Mulligan của
Joyce bước xuống cầu thang với chiếc bát đựng bọt xà bông cùng tấm gương và dao
cạo râu thì Andrei Babichev của Olesha cũng xuất hiện đầu tiên khi đang làm vệ
sinh buổi sáng, vừa làm vừa hát “ta ra…ta ra”. Và rõ ràng lời buộc tội Joyce của
Olesha không chính xác, bởi Ulysses đã kết thúc bằng lời độc thoại nội
tâm của Molly Bloom rằng “rồi anh hỏi tôi có đồng ý nói vâng không bông hoa miền
núi của tôi và đầu tiên tôi vòng tay quanh anh vâng và kéo anh xuống để anh cảm
nhận được ngực tôi mùi nước hoa vâng và trái tim anh sẽ trở nên cuồng dại và
vâng tôi nói vâng tôi sẽ vâng.” Còn chính Đố kỵ của Olesha mới kết
thúc trong sự hoài nghi tột bực khi Kavalerov nhân vật kể chuyện dù đã nhận ra
mình suy vi tới nhường nào, và mình lười biếng và gian dối biết bao, và mặc dù
anh đã hiểu tất cả, nhưng rốt cuộc một lần nữa, anh lại thấy mình bước vào sự
vô nghĩa, trầm cảm cùng cái hầm tăm tối nơi xuất phát điểm của anh. Ai mới là kẻ
sa sút ở đây?
Tiểu thuyết “Đố kỵ” của Yuri
Karlovich Olesha (dịch giả Đào Minh Hiệp) do NXB Hội Nhà văn phối hợp với
Phanbook xuất bản. nguồn: Netabook
Nước Nga luôn sản sinh ra những nhà văn lớn kiêm bậc thầy tâm
lý học, có Dostoevsky, có Nabokov, những cái tên mà độc giả Việt Nam đã quen
thuộc, và giờ đây, ta được giới thiệu thêm Yuri Olesha. Nhân vật Kavalerov của
ông thiếu tín nhiệm chẳng thua gì Humbert Humbert trong Lolita, còn mối
bất hòa của anh ta với thế giới cũng trầm trọng không kém tay công chức mà bên
trong “lúc nhúc những yếu tố tương phản nhau” ở Bút ký dưới hầm. Anh ta,
sau một trận say xỉn vật vã, được Andrei Babichev, một giám đốc công ty công
nghiệp thực phẩm, hình mẫu cho một công dân xuất sắc của xã hội, chìa tay cứu
giúp, đưa về nhà sống chung và giao cho một công việc hèn mọn nhưng sạch sẽ.
Thay vì cảm thấy biết ơn Andrei Babichev, Kavalerov ghê tởm anh ta, thậm chí muốn
ám sát anh ta.
Yuri Olesha đã đặt một ống kính văn chương ở tư thế rất kỳ quặc,
kiểu như cách một con bọ hung tức tối nhìn mọi thứ quanh nó. Mọi thứ hiện ra đều
bị bẻ cong méo mó, cay nghiệt, tím tái, bị o ép trong cái nỗi sợ rằng bất cứ
lúc nào, mình cũng có thể bị những thế lực khác đập cho bẹp rúm. Con bọ hung đó
vừa bị thiêu đốt bởi mong muốn được trở thành ngôi sao được thế giới trọng vọng,
vừa ngùn ngụt lòng ghen ghét đố kỵ muốn phá hủy cái trật tự thế giới không thừa
nhận nó. Nó muốn hòa nhập với thế giới đến mức nó căm ghét thế giới.
Thế nhưng, khi đọc kỹ hơn, ta sẽ cảm thấy có một điều gì
không đúng đắn lắm ở Kavalerov. Anh ta hiện ra là một kẻ thất bại toàn tập thì
rõ rồi, nhưng anh ta hình như còn là một thi nhân. Nếu không phải là một thi
nhân, một nghệ sĩ, làm sao anh ta có thể mô tả thế giới phập phồng sống động đến
thế: anh ta thấy mọi món đồ nội thất đều bắt nạt mình, anh ta so sánh máy bay
như một con cá nặng nề, những tán lá như một thiên thần, tàu điện như một con
dao cắt vào bánh gato – anh ta nhìn ra những mối quan hệ kỳ dị giữa vạn vật,
trí tưởng tượng của anh ta thuộc lòng mọi đường tắt xuyên qua những logic vuông
vắn thông thường, và đây là những khả năng chỉ có thể có ở một nhà thơ đại tài.
Vậy thì điều đó có ý nghĩa gì?
Hãy đọc một trong những đoạn hay nhất mà Olesha đã viết khi
Kavalerov được Babichev giao cho mang một thanh giò lụa giá 35 xu tới chỗ chủ một
kho hàng. Kavalerov không thể hiểu nổi tại sao một thanh giò tầm thường lại trở
thành thành tựu chói lọi đưa Babichev thành một vĩ nhân: “Vậy mà niềm vinh
quang trong cái thế giới mới này lại xuất phát từ bàn tay của người thợ làm giò
chả để làm ra loại giò chả chất lượng mới. Tôi không hiểu về sự vinh quang đó,
rằng nó có ý nghĩa như thế nào? Các sự tích, các tượng đài kỷ niệm và lịch sử
không nói gì với tôi về niềm vinh quang như thế.”
Kavalerov đương nhiên không thể hiểu. Anh là một thi nhân. Một
thi nhân thì không thể hiểu được thực tế, càng không thể hiểu được thứ nghệ thuật
“giò chả” nần nẫn, tròn lẳn, ố vàng những hạt mỡ đang được tuyên truyền rộng khắp,
thanh giò đó là ẩn dụ cho thứ điển phạm mới, đỉnh cao mới của nghệ thuật, một
“Mona Lisa” của chủ nghĩa Hiện thực Xã hội sắp cập bến. Kavalerov khác với
Humbert Humbert ở điểm này. Humbert Humbert là người kể chuyện không đáng tin.
Kavalerov bề ngoài cũng bệnh hoạn và không đáng tin, nhưng sự không đáng tin
này là một động tác đánh lừa. Cách anh ta nhìn bữa nhậu của tay chủ kho hàng
cùng Babichev như một bức tranh vẽ yến tiệc của Tiepolo, một họa sư thế kỷ 18,
là cú nốc-ao với nghệ thuật – chiếc xúc xích quyến rũ một cách bí hiểm trong
tranh của Tiepolo đại diện cho nghệ thuật như con đường vượt thoát đã bị kéo thẳng
xuống mặt đất thành một mớ thịt nạc sáng bóng đại diện cho thứ nghệ thuật vì
nhân dân, muôn năm lao động, cổ động sản xuất, một thứ nghệ thuật thiết thực,
đúng đắn, không dành cho những quý bà phè phỡn.
Kavalerov phải có vẻ điên rồ thì anh ta mới có thể nói ra sự
thật – một sự thật tưởng như luyên thuyên, lệch lạc và không hề đáng tin. Cũng
như Olesha phải vờ như sỉ nhục anh ta đến tận cùng nếu muốn để Đố kỵ tồn
tại.
Thật phi thường cái cách mà Olesha lèo lái để qua được ải kiểm
duyệt gắt gao thời bấy giờ. Một mặt, Olesha lên những diễn đàn lớn tiếng chỉ
trích Joyce, một mặt khác, ông chua xót thừa nhận mình không thể viết được nữa
vì nếu ông mà viết rằng thời tiết thật xấu, thì người ta sẽ lên án rằng thời tiết
như thế là tốt cho cây bông, rồi ông ngợi ca Joyce trong nhật ký riêng tư rằng
“Araby là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn chương”, và không nghi
ngờ gì chuyện ông đã coi Ulysses như một nguồn cảm hứng sáng tác cho
mình. Chính ông có lẽ cũng đố kỵ với vị đồng nghiệp người Ireland, rằng Joyce
có được tự do để viết ra một thứ văn chương cổ xúy sự tầm thường của con người,
quay lén con người trong những giờ phút trần trụi nhất như khi họ ngồi trên bồn
cầu vệ sinh mà đi ngoài, nhưng chính trong sự tầm thường ấy ta thấy sự mặc khải,
còn ông, phải làm bộ như hùa theo đường lối sáng tác phục vụ cái “chân-thiện-mỹ”
bị đóng gói tiêu chuẩn kỹ thuật như một chiếc máy nạo khoai tây.
Cuối cùng, câu hỏi mà ta phải đặt ra là, liệu thế giới nào tốt
hơn – thế giới của tất cả những con người như Andrei Babichev, thành đạt, suôn
sẻ, hăng say làm việc, luôn làm tròn bổn phận với xã hội, luôn đứng ngoài ánh
sáng; hay thế giới của những kẻ sa ngã như Kavalerov, những kẻ biết thương xót
và biết căm ghét, những kẻ đi đến tận cùng mọi xúc cảm đẹp nhất như tình yêu
nhưng cũng đi đến tận cùng mọi cảm xúc đen tối nhất như đố kỵ và căm giận? Có
thật rằng thế giới bằng phẳng sáng sủa của Babichev thì tốt hơn? Có tốt hơn khi
con người đốt bỏ căn hầm lắt léo trong tâm tưởng, có tốt hơn khi con người từ bỏ
những hỉ nộ ái ố rất người? Hay là, khi từ bỏ sự tầm thường ấy, thì con người
cũng đánh mất luôn sự thần thánh của mình, đánh mất bí ẩn sâu thăm thẳm không
thể hiểu được, mãi mãi không thể hiểu được, để như chiếc xúc xích của Tiepolo,
con người chỉ còn là một mớ thịt nạc bóng loáng và hoàn hảo?.
26/6/2022
Hiền Trang
Nguồn: Báo Tia Sáng
Theo https://vanhocsaigon.com/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Ký sự miền Tây lục tỉnh
Ký sự miền Tây lục tỉnh Đầu năm Kỷ Hợi (2019) nhóm bạn cũ của chúng tôi tại Sài Gòn và vùng lân cận tổ chức chuyến đi VỀ MIỀN TÂY Nam bộ. Ri...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...