Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

Bi hài câu chuyện ngoại giao trong Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái

Bi hài câu chuyện ngoại giao trong
Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái

Năm lá quốc thư là “cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về nghề ngoại giao và người ngoại giao trong cuộc sống đương đại”. Chọn mảng vùng ngoại giao (mảnh đất thiêng) với những ngài đại sứ (đẳng cấp cao) làm đối tượng để trào tiếu, giễu nhại, Hồ Anh Thái gần như độc quyền.
“Điều mà chúng ta cần không phải là các tác phẩm lớn mà là những tác phẩm bông đùa (playful)… Một câu chuyện là một trò chơi mà mỗi người tham dự nhờ đó bạn có thể chơi nó”(Ronald Sukenich). Bông đùa, chơi, giễu trở thành phong cách thời đại. Sau hơn 10 tiểu thuyết, và bốn mươi năm ghim ý tưởng trong đầu, với Năm lá quốc thư, một lần nữa Hồ Anh Thái mang lại cho văn học tiếng cười, phần hài nổi bật, phần bi khuất chìm, mang sức nặng của một tác phẩm playful. Theo nhà văn, Năm lá quốc thư là “cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết về nghề ngoại giao và người ngoại giao trong cuộc sống đương đại”. Chọn mảng vùng ngoại giao (mảnh đất thiêng) với những ngài đại sứ (đẳng cấp cao) làm đối tượng để trào tiếu, giễu nhại, Hồ Anh Thái gần như độc quyền.
Nhà văn Hồ Anh Thái
Năm lá quốc thư thể hiện rõ sự đa dạng trong tính thống nhất của phong cách Hồ Anh Thái. Sau hàng loạt tiểu thuyết thuộc hệ hình hậu hiện đại mà mỗi tác phẩm là một cách chơi; càng về sau, Hồ Anh Thái càng dấu trò chơi kĩ thuật, với một lối viết “truyền thống trá hình”. Năm lá quốc thư thiên về lối tự sự chính luận với bố cục theo tuyến tính, được phân đoạn rõ ràng theo đánh số thứ tự; nhưng nội dung không đơn giản là chuyện các lá quốc thư, cũng không liền mạch thứ tự trước sau mà được ghép nối từ những mảnh nhỏ- mỗi mảnh dung hợp nhiều vấn đề: liên văn hóa, ngoại giao, lịch sử, điện ảnh, tộc người, căn tính dân tộc… Từ năm lá quốc thư gắn liền với năm vị đại sứ, người đọc có thể kiến tạo nên một cốt truyện hoàn chỉnh hướng theo tinh thần nhân quả- một chủ đề có tính xuyên văn bản trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái. Cách gọi tên nhân vật theo công việc, chức vụ khiến câu chuyện về giới ngoại giao được soi chiếu nhiều mặt; cá nhân trở thành đại diện, thành đám đông. Cuộc sống, tính cách của những nhà ngoại giao hiển lộ đầy đặn với tất cả những gì thuộc về bản tính Việt ở cả hai mặt tốt và xấu. Nhà văn bóc bỏ mọi lớp giấy bóng mờ, phơi ra các ngóc ngách chỉ có người trong cuộc mới nhìn thấu suốt. Từ những khoảng sáng tối đó, cái đẹp sau những kì thị, vùi dập vẫn trồi lên với một happy end dường như không thuộc về lối viết của Hồ Anh Thái.
Anh và năm lá quốc thư
Trong số những tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, đây là tác phẩm mà hình tượng tác giả rõ nhất. Dẫu nhà văn có rào đón: “Tác giả sử dụng quyền hư cấu để đưa người đọc bước vào một khung cảnh thuần túy tiểu thuyết”(Lời nói đầu); và dẫu người đọc thông diễn tác phẩm từ đặc trưng tiểu thuyết, vẫn nhìn thấy một cái tôi tự truyện, qua nhân vật, qua người kể chuyện. Trong Năm lá quốc thư, Anh vừa là nhân vật, vừa là người kể chuyện, Anh nói tiếng, nói giọng của nhà văn. Anh là một nhà ngoại giao lịch lãm với bề dày văn hóa ứng xử, một nhà văn hóa am hiểu mọi lĩnh vực; thông tuệ về văn học nghệ thuật đông tây kim cổ. Anh là tâm điểm, là sợi giây kết nối toàn nhân vật trong câu chuyện về giới ngoại giao. Anh gắn liền mật thiết với năm lá quốc thư của năm đời đại sứ. Anh là thư kí, người tháp tùng đại sứ để trình quốc thư mà “đằng sau nó là cả một đất nước. Nó là quốc thể”.
Bìa tập truyện “Năm lá quốc thư” của Hồ Anh Thái
Từ câu chuyện ngoại giao(thuộc bí mật quốc gia), từ những cá nhân riêng biệt (đại sứ), câu chuyện trở thành chung của toàn xã hội với sự xuống cấp trầm trọng của các chuẩn mực giá trị. Cuốn tiểu thuyết phản ánh xã hội Việt Nam trong giai đoạn vừa thoát ra khỏi chiến tranh, vừa xây dựng một cuộc sống hòa bình còn nhiều bất trắc và thiếu thốn. Trong hoàn cảnh đặc thù đó, một mặt, tâm lí hưởng thụ của con người trỗi dậy; mặt khác, mặc-cảm-thiếu-hụt khơi dậy bản-năng-lấp-đầy(ông tham tán nghiện giấy vệ sinh, những đại sứ ông đại sứ bà biến hành lang chung cư thành xó bếp, cơi nới, lấn chiếm, trồng trọt chăn nuôi trên đất chung…). Tất cả đều phát sinh từ sự thiếu thốn, thói xấu hình thành như một quán tính, một thứ vô thức tập thể. Những con người đại diện cho quốc thể đó, đang sống ở những vùng đất từng được xem là cái nôi văn hóa, đa phần lại làm nhục quốc thể bằng tư duy tiểu nông vặt vãnh. Trong một thế giới quyền lực, đầy mưu mô, tranh chấp, lẫn lộn giả thật, Anh đại diện cho cái đẹp, cái tốt. Nhà văn sắc sảo đến từng chi tiết khi phơi bày mọi mặt của giới ngoại giao, đồng thời cũng thật lãng mạn khi viết về cái Đẹp- của các nền văn hóa, của thiên nhiên, tâm hồn con người, đặc biệt khi viết về phụ nữ.
Anh – Rosa và cây vĩ cầm đứt dây
Năm lá quốc thư không phải là cuốn tiểu thuyết chủ yếu viết về bi kịch phụ nữ hay ngợi ca thiên tính nữ. Tuy vậy, trong câu chuyện về ngoại giao, vẫn thấy những trang văn lấp lóe cái nhìn thấu cảm với thân phận nữ, dẫu có lúc giấu đi qua tiếng cười giễu nhại. Giữa những khoảng tối, thiên tính nữ cứ ánh ngời làm mềm mại giọng điệu cứng cõi, bỗ bã, thậm chí có lúc tàn nhẫn của nhà văn(khi viết về sự tha hóa). Trừ Bà Đại Sứ(3), giới nữ trong tác phẩm thật đáng yêu. Đặc biệt, hai người phụ nữ trong mối quan hệ Anh – Rosa – Nàng đã làm nên cốt lõi nhân văn của câu chuyện bi hài giới ngoại giao.
Giữa hỗn loạn chính trị của lãnh thổ Malastan, Rosa xuất hiện như một chìa khóa mở ra mạch ngầm của câu chuyện tưởng như chỉ viết về các ngài đại sứ. Rosa xuất hiện không nhiều nhưng cái bóng của cô gái vùng Trung Á ôm trùm tác phẩm. Nhà văn chỉ phác họa một vài nét, nhưng Rosa trở thành điểm thẩm mĩ. Là mã văn hóa và liên văn hóa. Là đối kháng và dung hòa văn hóa. Chính từ mối quan hệ giữa Anh và Rosa, nhà văn đã khắc họa diện mạo đặc thù của một vùng đất với những cuộc đảo chính liên tục, trong đó người phụ nữ bị coi rẻ. Roza là nạn nhân của những biến loạn do “những lực lượng khủng bố mang tên Nhà nước Thánh chiến lợi dụng thời cơ để nổi dậy”. Cha mẹ làm ăn ở Thụy Sĩ, Rosa nhiều lần muốn ra đi nhưng dưới chính quyền mới cô mắc kẹt ở Manlasta. Gắn liền với Rosa là chiếc vĩ cầm và chiếc khăn choàng sắc tộc. Đằng sau Rosa là bóng dáng của những người đàn bà dưới áo choàng đen của một vùng văn hóa. Là người đàn bà bị anh chàng lịch sự, điển trai giáng vào mặt một báng súng, vì những người lính cửa khẩu vừa “phát hiện ra bà ta là người Malastan”; là Rosa bị “lôi xềnh xệch” khi chiếc khăn đội đầu hóa trang tụt xuống, lộ mặt, với ánh mắt “thất thần tuyệt vọng”; là “đôi ba bóng phụ nữ lặng lẽ lướt trên vỉa hè. Áo choàng đen lùng nhùng. Vuông khăn đen kéo che ngang mặt. Chỉ còn hở đôi mắt”. Từ Rosa, xoay  quanh cô gái với chiếc đàn số phận đứt hết dây, vấn đề về phụ nữ của một số tộc người ở Tây Á, Trung Á và Nam Á đầy đặn dần qua từng mảnh ghép. Chính quyền Malastan sau khi đánh đổ chính quyền quân chủ đã trở nên cực đoan, kì thị phụ nữ, “đóng cửa các trường học của nữ sinh, cấm đàn bà con gái đi học”; “…mạng che mặt và áo choàng đen che kín từ đầu đến mắt cá chân”; “khăn đen là màu tôn giáo coi đức hạnh”; sắc đẹp của người phụ nữ chính là nguồn gốc của mọi tội lỗi  “tôn giáo ở đây không cho phép người lạ chụp ảnh phụ nữ, không được phép công khai ca tụng nhan sắc phụ nữ của họ”. Bất bình đẳng diễn ra ở ngay một đất nước cách mạng với những tấm biển nhắc nhở phụ nữ đặt nơi công cộng, lối vào các công viên và các bảo tàng: “Hở tóc và lộ eo sẽ kích động tính dâm dục của đàn ông”. Nhưng vượt qua bóng ma kì thị, vượt lên những khác biệt về sắc tộc, tôn giáo, câu chuyện về Anh – Rosa là câu chuyện đậm chất nhân văn. Cái đẹp chìm sau những lực lượng khủng bố của nhà nước Thánh chiến, những sinh hoạt nhốn nháo của một thiểu số người Việt ở xứ người, cứ từng tí một lại trồi lên. Trực cảm về cái chân-thiện-mĩ khiến con người gần nhau, hiểu nhau. Những giai điệu xuyên không gian thời gian, tộc người đã kết nối những con người không cùng màu da, tiếng nói. Gặp nhau lần đầu, dẫu Rosa không hề chạm vào dây đàn, nhưng âm thanh “trên cả âm thanh. Xuyên qua bóng tối. Nhỏ từng giọt từng giọt da diết vào hai tâm hồn hòa đồng cách cảm”; “Anh tìm vai cô trong bóng tối, siết chặt” giữa màn đêm dày đặc ở sân bay và tiếng rít đanh nhọn của những quả tên lửa bay ngang đầu. Cái siết vai vội vàng đó là nguyên nhân thôi thúc Anh luôn tìm kiếm Rosa. Sự mất tích của Rosa là một tình huống hợp lí giữa lãnh thổ Maslanta biến loạn, nhưng là dụng ý đánh vắng nhân vật của nhà văn. Để thôi thúc kiếm tìm. Để thêm khao khát vẻ đẹp thánh thiện giữa nhiều cạm bẫy. Để câu chuyện dài ra bằng các mảng sáng lấp lánh giữa những khoảng tối. Anh đi tìm Rosa, trên những đường phố đầy phụ nữ “che kín mặt”, qua những “ngõ hẻm hun hút”, những “cái sân lát gạch ẩm ướt và u tối” với hi vọng Rosa sẽ tình cờ nhìn thấy Anh “qua một ô cửa tối tăm nào đó”. Tình huống kiếm tìm và một loạt biểu tượng gắn liền với Rosa lại xuất hiện khiến câu chuyện tình yêu đầy ảo giác.
Lần gặp lại Rosa thực sự bằng xương bằng thịt(cô đã được đoàn tụ gia đình, qua bao nhiêu lần binh biến máu lửa, cô trở lại Manlasta để đầu tư vào một xí nghiệp may mặc xuất khẩu) “họ ôm nhau ngay mà không tự ghìm mình”. Dẫu Rosa vẫn choàng tấm khăn đội đầu, chỉ hở mỗi gương mặt. Dẫu Anh vẫn biết cái ôm đó “không thể xảy ra ở một xứ tôn giáo nghiêm khắc”. Sự liên cảm kì diệu giữa hai tâm hồn đã gắn kết Anh và Rosa vượt qua mọi tôn giáo, sắc tộc, kể cả những bức hại. Rosa là biểu tượng liên văn hóa. Rosa gợi trong Anh những suy tư, ám ảnh về thân phận con người, về lẽ vô thường, sinh diệt. Sự thay đổi số phận của Rosa là sự dung hòa văn hóa, kể cả cách ăn mặc của cô và khuôn mặt không che mạng “đẹp mê hồn”. Kể cả khúc vĩ cầm cũng không còn vô thanh bởi “sự cấm đoán nghiệt ngã của một thời”…
Anh – Nàng và chiếc cặp ngoại giao
Nàng là một trong tám cô gái “xinh tươi làm nức lòng gần bốn chục chàng trai” trong khóa đầu tiên của trường Ngoại giao. Với Anh, Nàng là mối tình trong trẻo thuở sinh viên. Những trường đoạn viết về Nàng gần như là những trang tự thuật của nhà văn về tuổi trẻ của một thế hệ đầy ước mơ hoài bão, thẳng thắn và chân thật; về tình yêu trong trẻo, tinh khôi.
Hai lần Anh – Nàng nằm bên nhau, thời sinh viên, do những tình huống ngẫu nhiên, bị động, khao khát nhường kia mà trong trẻo nhường nào. Giọng hài hước, bông đùa lấn át khi câu chuyện được kể lại từ điểm nhìn hiện tại (khi lần thứ ba họ nằm bên nhau): “Nằm. Hai lần. Và chắc chắc là chỉ có nằm thôi, không có gì khác. Chính xác là kiểu nằm platonic love, nằm chay tịnh”. Cái nhìn thiên vị khiến nhà văn khắc họa chân dung một người nữ thật vẹn toàn. Nàng thật khác đối với thế giới nhốn nháo, bẩn tưởi trong mọi chuyện của Hồ Anh Thái. Nàng hấp dẫn, hoàn hảo. Nàng trong trẻo, ánh sáng còn lại của cái thế giới bé nhỏ mà xám xịt của những nhà ngoại giao ở xứ người.
Lần thứ ba nằm bên nhau (khi nàng đã là một nhà ngoại giao trẻ, năng nổ trung thực và đã trải qua quá nhiều sóng gió), không “chay tịnh” nữa, giữa “tiếng loa cầu kinh vang vang bên ngoài, Anh mới lờ mờ hiểu thêm về Nàng. Cũng giống Rosa, dẫu địa văn hóa có khác nhau, cả hai đều là nạn nhân của các thể chế từ khi nàng làm thư kí, tháp tùng Đại Sứ Bà sang một đất nước ở vùng Nam Á, và một chớp mắt như mơ là đến quần đảo ở phía nam Ấn Độ Dương. Quên hết ngoại giao, chính trị, danh vị,.. cõi lòng Nàng mở ra trước rừng lá phong vàng lá phong đỏ bừng lên ở khắp đảo. “Nàng say sưa như chân không chạm đất…”; “Nàng chạy tung tăng giữa rừng phong đang chuyển sắc đỏ và vàng”; “Nàng nằm lăn ra giữa thảm lá. Nằm im. Im hoàn toàn”… “Cháu muốn ở lại vĩnh viễn trên đảo này cô ơi!”. Câu nói tha thiết trước cái đẹp toàn bích, trong khoảnh khắc giao cảm kì diệu giữa con người và thiên nhiên, giữa cõi lòng và cõi trời, không ngờ lại là cái bẫy đẩy Nàng hoàn hảo đến thế thành “một tên phản động”, mang “tư tưởng vọng ngoại, gọi chủ nghĩa tư bản là thiên đường”, “có biểu hiện thần kinh nặng”; thành tội “đào ngũ lưu vong” phải “còng tay về nước”…  dẫu không một văn bản nào kết luận rằng Nàng có tội hay vô tội. Tất cả tội trạng mà cô gái đó mang vác chỉ vì “quá hồn nhiên quá tin vào bà đại sứ” và vì những phản ứng về các hóa đơn giả chồng chất của Đại Sứ Bà. Lòng tham đã đẩy Đại Sứ Bà đến chỗ tận cùng tội ác. Mưu mô, thâm độc, quyền uy, Đại Sứ Bà đã biến Nàng hoàn hảo đến thế, lãng mạn, hồn nhiên và chân thật đến vậy thành cô gái trầm cảm, “ngẩn ngẩn ngơ ngơ”, như hóa thành người khác. Sự thay đổi của Nàng, từ cô sinh viên trường Đại học Ngoại giao trong sáng, cô thư kí đại sứ năng động, thẳng thắn đến chỗ mất niềm tin, chống cự và thỏa hiệp với cái xấu, rồi bị coi là tâm thần khi Nàng ám ảnh day dứt về sự thỏa hiệp của mình. Chính những sang chấn tâm hồn đó ghim sâu, dồn nén, bùng phát, khơi dậy ở Nàng bản-năng-trả-thù. Một mặt, hành vi trả thù Bà Đại Sứ chính là kết quả của “cái ấm ức tâm lý”(Freud) mà Nàng chịu đựng từ ngày bị còng tay về nước. Mặt khác, với Nàng việc trả thù đó cũng thật “nhi nữ thường tình”: sắp xếp, lên kế hoạch “yêu” để cướp lá quốc thư. Nhà văn vừa tạo tình huống như truyện trinh thám để kể lại những âm mưu, dàn cảnh rất phụ nữ của Nàng, vừa lí giải căn nguyên. Lần thứ ba Nàng nằm bên Anh, vì Anh thì ít mà chính là vì chiếc cặp ngoại giao- “trong cặp chỉ đựng đúng một lá quốc thư”, mà quốc thư là quốc thể, không thể thuộc về Đại Sứ Bà. Nhưng “yêu” thì thỏa mãn, còn hành vi trả thù thì bất thành. Cái còn lại là cảm giác bẽ bàng khó nói của hai người. Anh nhìn thấy “vẻ tuyệt vọng cùng cực trên mặt nàng. Tuyệt vọng và thất vọng”. Với nàng, thêm một sang chấn nặng nề vì mất niềm tin- “Không âm thanh và không lời lẽ nào. Vô thanh và vô ngôn. Có cả vẻ tuyệt tình làm cho Nàng chết sững”. Cảm xúc đóng băng cho thấy tổn thất lẫn mặc cảm nặng nề ở một thiếu phụ muốn lấy lại niềm tin chứ không phải muốn trả thù. Còn anh- “anh cũng chết sững” và sau đó là cảm giác hụt hẩng vì đã đánh mất nàng chỉ để giữ lại lá quốc thư thứ ba “có một góc nhàu và một vết ố”.
Nàng và Rosa, thuộc về hai đất nước, hai nền văn hóa khác nhau đã gặp nhau ở bản chất nhân văn của loài người. Những người phụ nữ bất kể màu da, cứng cỏi là thế mà nhân hậu, dịu dàng đến thế. Nơi súng đạn hoảng loạn ở xứ người, Anh nhận ra Nàng nhờ một mái tóc dài tung bay, “chỉ mái tóc dài Việt Nam mới không trùm khăn và tung bay kiểu như thế”. Còn lại trong Anh là “gương mặt Nàng đỏ hồng và sáng bừng lên cho đến khi xa dần”. Với Rosa, điều còn lại nơi Anh là những khúc nhạc vĩ cầm. Những âm thanh đã từng vang lên trong im lặng, trong “tăm tối chiến tranh và sự bức hại ngăn cản con người”. Những âm thanh hoàn chỉnh, thiết tha, vang vọng, “thanh thoát tiếng đàn. Và rì rầm rì rầm tiếng dòng sông”.
Thật bất ngờ, Đại Sứ Năm(ở Hamania, một nước Đông Âu) chính là Anh. Và cũng thật bất ngờ, quốc thư thứ năm không còn những dòng chữ bóng bẩy, rập khuôn, lặp đi lặp lại đến giả dối, bởi Đại Sứ Năm không cần những lời giới thiệu hoa mĩ. Chỉ còn lại trong Anh khi nghĩ về Nàng và Rosa, “thân gái dặm trường. Một người phụ nữ, bằng ấy biến động đã quá đủ cho cả đời người”.
7/7/2022
Lê Thị Hường
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi… Nói đến làng quê Việt Nam là chúng ta nhắc đến những dòng sông, bến nước, con đò đã gắn bó từ xa xưa...