Bốn giờ sáng…đòan khảo sát
xuất phát từ Chùa Đông Lai tiến dần về vùng núi Cấm. Đòan đi hai xe khoảng hơn
sáu mươi vị. Gồm có thầy Chủ nhiệm, quý Thầy Giáo Thọ, tăng ni sinh của ba lớp
Hán Nôm cùng các vị phật tử. Hôm nay đã bước sang ngày thứ hai, và là lộ trình
chính của chuyến tham quan. Khi còn cách chân núi khoảng gần câysố thì mọi người
bước xuống, bắt đầu một cuộc du hành…vượt núi băng ngàn.
Tôi đi theo phái đoàn đầu
tiên có quý thầy dẫn đường, nhưng lần hồi bị tụt lại phía sau. Cũng may là có một
số còn chậm hơn, cùng nhập bọn lại đi chung với nhau. Những người đi đoạn hậu
thì chẳng cần gì phải vội vã. Đòan có sáu vị, hai thầy và bốn cô-đều học khác lớp.
Trên đường đi lại góp nhặt thêm vài thành viên bị bỏ rơi lại nữa. Đi một đoạn
khá xa, tôi nhìn lên ngút mắt cũng chẳng thấy tăm hơi bóng người; nhìn lại đằng
sau thì chỉ có tiếng lá cây xào xạt cùng làn sương đêm giăng kín mịt mù.
Trời vẫn còn tối lắm. Cả đoàn bắt đầu ca hát và chuyện trò rôm rã cho quên bớt
đường dài. Tôi tìm được cây gậy, rồi vừa thông thả bước đi, vừa khe khẻ ngâm
nga một vài câu thơ. Thiên nhiên đối với tôi luôn là người bạn chí tình chí
nghĩa. Có điều…lần đầu tiên leo lên ngọn núi cao hơn sáu cây số….mồ hôi ướt vã
cả người, tôi chẳng còn mấy tâm sức để mà thưởng ngọan cho hết bao vẻ đẹp giữa
cảnh núi rừng hùng vĩ.
Khi trời sáng hẳn thì chúng
tôi đã leo lên được lưng chừng núi. Mọi người ghé vào một quán nước ngồi nghỉ
và gọi cà phê uống. Tôi leo lên một tảng đá nhỏ, phóng tầm mắt nhìn quanh khắp
chốn. Cảnh núi rừng buổi sáng sao mà yên ả quá. Không một tiếng chim rừng ríu
rít. Không cả một cơn gió nhẹ thoảng qua. Trong sự bình yên tĩnh mịch này, tôi
bỗng nghe có tiếng róc rách của suối ngàn. Dòng suối từ trên đỉnh cao đổ xuống ở
phía bên kia thung lũng; vì bị che chắn bởi rừng cây trước mặt nên tôi không
trông thấy gì. Nhưng tiếng suối reo trong nắng sớm, khung cảnh núi đồi huyền hoặc
như sương khói khi gần khi xa…gợi cho lòng người biết bao là thi vị. Bất chợt
đã làm cho tôi nhớ đến bài thơ của một nhà thơ cổ nổi tiếng:
“Bầu trời cảnh Bụt
Thú Hương Sơn ao ước bây lâu
nay
Kìa non non nước mây mây
Đệ nhất động hỏi rằng đây có
phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng
trái
Lửng lờ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng
chày kình
Khách tang hải giật mình
trong giất mộng
Này suối Gỉai Oan
Này non Phật Tích
Nhát trong lên ai khéo vẽ
nên hình”
Ơû đây nào phải là “Hương
Sơn phong cảnh” của thi sĩ Chu Mạnh Trinh, nên làm gì có đệ nhất động. Cũng chẳng
có: “rừng Mai, khe Yến”, không có cả “suối Giải Oan”cùng “Am Phật Tích”. Nhưng
non nước mây trời và cảnh bụt thì chắc là không thể thiếu. Đoàn “du khảo” chúng
tôi đang lần tìm về cảnh Phật. Nơi in dấu tích của các bậc tiền nhân đi khai
sơn mở đất. Đến đây rồi mới thấy hết sự bạt ngàn của sông núi Quê hương. Đến
đây mới thấm hiểu được muôn vàng sự khổ nhọc của con người. Những ngôi chùa
mang tầm vóc qua các thời đại. Những ngôi đền thờ chứa đựng biết bao điển tích
hiển linh thần bí. Bao nhiêu đó cũng đủ hình thành và tồn tại để cho người đời
sau có dịp chiêm bái tự hào. Còn người đi xây đắp thì cứ mãi cần cù lặng
lẽ giữa chốn rừng sâu im vắng.
Dọc đường chúng tôi cứ phải
dừng lại nghỉ ngơi bên mấy quán cốc. Quán nào cũng treo đầy những chiếc võng miễn
phí để chào mời khách. Họ bày bán đủ các thứ trên đời. Từ quà lưu niệm, thức ăn
chay, đồ uống đủ loại…cho đến thuốc chế biến từ cây rừng và cả dầu thoa bóp .Có
quán còn chưng dọn cả dàn karaoke hát ca inh ỏi (núi rừng bây giờ cũng văn minh
lắm rồi).Trên đường tôi gặp rất nhiều người dân tộc. Họ trao đổi với nhau bằng
thứ ngôn ngữ riêng, nhưng tôi đoán biết là họ cũng đang miệt mài nói về công việc
làm ăn. Bứơc chân của họ đi xuống một cách thoăn thóăt lẹ làng. Khi đi lên, họ
trải từng bước vững chắc trên các bực thang đá thẳng đứng.Trên vai họ là những
gánh hàng hóa nặng trĩu…nào là vật dụng đồ đạt của khách, nào là gạch ngói sắt
đá xây dựng, cho đến những giỏ mít, chuối,dâu được mang từ trên núi cao xuống.
Còn chúng tôi, sau khi gởi hết
mọi tay nải, túi xách cho nhẹ nhàng…Mỗi người chỉ mang theo một chiếc gậy, một
cây quạt phe phẩy ma øthung dung cất bước, cứ y như các vị thiền sư đi dạo cảnh
Yên Tử thuở xưa. Dù sao thì đi chậm vẫn có cái thú riêng của nó …Bởi lẽ .tôi sẽ
được nghiền ngẫm cho hết những đoạn đường dốc đá cheo leo khúc khuỷu lượn quanh
các triền núi. Chúng tôi lai có dịp nhìn ngắm bầu trời xanh thẩm một cách thỏa
thích mỗi khi …ai đó thấm mệt, phải dừng lại chống gậy ngửa mặt lên trời để thở.
Rồi còn gì thú vị hơn khi đã quá mỏi mệt vì đói, chúng tôi lại tạt vào một
quán ven đường để thưởng thức món ăn đặc sản của núi rừng. Đó là những chiếc bánh
xèo nóng hổi, ăn kẹp với vài món rau rừng có cái mùi vị chua chua chát chát mà
sao cảm thấy ngon miệng lạ thường.
Đến quá chín giờ sáng thì
đoàn chúng tôi cũng leo lên được tới cổng chùa. Tất cả mọi người đều đã lên trước
đó một vài giờ, đang ngồi nghỉ bên các dãy hành lang hoặc đi ngắm cảnh.
Khi đứng trước ngôi chùa Vạn Linh đầy vẻ uy nghiêm và tráng lệ. Tôi hầu như
trút hết bao gánh nặng trên đường. Chùa do Hòa Thượng Trí Tịnh khai sáng từ mấy
chục năm nay_khi ấy được gọi là chùa lá. Tên gọi này đã trở thành quen thuộc với
người dân ở đây; dù bây giờ chùa được xây dựng lại khá khang trang. Phía trước
mặt chùa sừng sững một ngọn tháp cao bảy tầng.Đi từ xa, tôi đã nhìn thấy ngọn
tháp này.Tháp vẫn còn dở dang nhưng đã lộ rõ vẻ nguy nga trang trọng .
Dù rất mệt nhưng tôi vẫn
thích thả bộ dạo quanh khuôn viên chùa, để được ngắm nhìn mọi công trình đồ sộ
và tận hưởng hết mọi sức sống đang vươn lên từ trong lòng đất .Ở đây con người
và vạn vật dường như có sự cảm thông lẫn nhau. Phải chăng sống giữa khung cảnh
yên bình này ,lòng người trở nên cao thượng và gần gũi với muôn lòai hơn. Niềm
tin sẽ thắp sáng mọi chân trời phía trước, ý chí chính là động lực sáng tạo nên
bao kỳ quan cho hậu thế .Ngày trước ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh tận bênTây Vực
cũng bắt đầu từ một niềm tin và ý chí. Trải qua 17 năm gian khổ, ngài một mình
“vượt suối băng ngàn, chịu đựng mọi sự nóng lạnh khắc nghiệt của thời tiết.
Trên đường đi, ngài chỉ biết nhìn theo đám khói mây mù, dẫm trên sương tuyết mà
lần hồi tiến về phía trước. Như vậy thì làm gì có được quán trọ đường hoàng để
dừng bước nghỉ chân. Thậm chí đến tiếng gà gáy trong am tranh, dấu chân người
qua lại chốn cầu đường cũng không hề thấy. Ngài lại phải vượt qua những dãy núi
tuyết cao hơn nghìn dặm, những bãi sa mạc mênh mông. Trên không một tiếng chim
kêu, dưới không một bóng thú chạy, lại luôn đối mặt với muôn vạn lần cái chết”.
Sự ra đi đầy mạo hiểm của ngài Huyền Trang hoàn toàn do lòng tự nguyện. Tâm chí
thành thiết tha vì đạo, cùng nguyện lực sâu dày đã giúp ngài bao lần thoát hiểm
nạn, để rồi cuối cùng trở về trong niềm tôn nghinh kính phục của muôn người,
muôn đời.
Màn đêm buông xuống bao trùm
mọi cảnh vật. Vậy mà bên trong chùa Vạn Linh hầu như khác hẳn. Dòng điện từ chiếc
máy phát ra tỏa chiếu sáng rực. Trên khắp các dãy hành lang chánh điện, nhà tổ,
nhà khách chật kín khách hành hương nghỉ lại qua đêm. Tiếng tụng kinh trầm ấm
vang xa.Tiếng náo nhiệt của du khách viễn phương làm khuấy động một góc không
gian tĩnh lặng. Một sự khuấy động khá là yên lành và thánh thiện. Rừng núi về
đêm…bầu trời không trăng sao, mọi vật lại xa khuất tầm nhìn. Trong cảnh bàng bạc
của màu trời, tôi cảm nhận có cả hơi thở của từng nhựa cây đang tuôn chảy. Vạn
vật hữu tình… để cho con người thao thức mà suy nghiệm trong thinh
lặng của lòng mình.
Đến nữa khuya thì cơn mưa bất
chợt đổ xuống. Những giọt mưa rỉ rả thâu đêm như cố níu bước chân ngưòi ở lại.
Thế nhưng, dù muốn dù không thì sáng mai này, đoàn du khảo chúng tôi cũng phải
xuống núi. Đoạn đường đi xuống dù trơn trợt vẫn dễ chịu hơn nhiều. Mọi việc đến
đi là điều tất yếu, thì sự lưu luyến chỉ là chút khoảnh khắc nhất thời để
tỏ lòng gắn bó. Mai này xin từ giã rừng núi uy linh ngàn năm còn in dấu chân
người khai phá. Xin từ giã cảnh chùa xưa còn chìm trong sương mờ mà vần
quang đã tỏ rạng. Ngày mai khi trở lại thành phố, tôi xin mang về chút tình nắng
gió phương xa…để lấy đó làm tin và cũng để trang trải lòng mình với muôn trùng
sự sống bao la.
Lam Khê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét