Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Gặp gỡ tác giả bài thơ “Con số không”, “Bài thơ cầu hôn” và "Hạt bụi"

Gặp gỡ tác giả bài thơ “Con số không”, 
“Bài thơ cầu hôn” và "Hạt bụi"
Về bài thơ “Con số không” của anh
Trần Chí Dũng
  Trong hệ đếm thì nhiều, ta chỉ đề cập đến hai hệ đếm thường dùng nhất: Hệ thập phân và hệ nhị phân. Hệ nhị phân dùng hai chữ số là 0 và 1. Chữ số 1 ở một hàng có giá trị bằng hai lần chữ số 1 ở hàng kế cận bên phải. Hệ nhị phân được sử dụng nhiều đối với máy tính điện tử vì máy tính điện tử sử dụng các thành phần vật lý có hai trạng thái để nhớ các bit. Còn trong hệ đếm thập phân, bảng chữ số gồm 0,1,2,3,...9. Trong hệ thập phân ngày nay thì con số "không" được tìm ra chậm nhất khoảng 200 năm sau Thiên Chúa giáng sinh. Con số "không" đã được tượng hình do người Hindu Ấn Độ. Người Hindu là người đầu tiên đưa ra con số này để trình bày quan niệm "Không có số lượng". Sự chậm ra đời trong mấy ngàn năm đã quyến rũ ta nhất là nó trở thành căn bản cho hệ đếm ngày nay. Chắc có lẽ bản thân con số không chất chứa một điều gì bí ẩn, diệu kỳ chăng so với những con số khác như 1,2,3... trong hệ đếm thập phân. Một thi nhân, chứ không phải là nhà khoa học hay là người khám phá ra chân lý gì của tự nhiên, một người tìm được con số không qua bài thơ “Con số không” của mình: Nhà thơ Trần Chí Dũng, chủ biên tập thơ “Hạt bụi vàng”.
   Con số không biểu thị cho sự không có gì trong hệ đếm thập phân, ví như chúng ta cho con cháu chúng ta một viên kẹo chẳng hạn, nhưng ta nắm bàn tay lại và thả tay ra đã là một con số không to lớn. Mình lại đi đánh láo với trẻ con ư? từ việc cho viên kẹo, nhưng không có viên kẹo nào trong tay. Trẻ em sẽ hiểu điều này, chắc chúng ta cũng biết giá trị của con số không!.
    Suy nghĩ về bài thơ “Con số không” của anh Trần Chí Dũng mãi mấy hôm, tôi mới cầm viết và viết được những dòng nhạc này.
   Thế là, tôi cũng cảm giác bởi con số không của nhà thơ, tôi viết nhanh đoạn mở đầu: “Con số không, con số không đời ta, đời em...”. Thế là, bắt nhịp được toàn bài theo dòng thơ của anh Trần Chí Dũng.
     Bài thơ "Con số không" của anh chỉ vỏn vẹn có ba khổ, mỗi khổ bốn câu viết theo thể ngũ ngôn, riêng khổ thứ ba thì có năm câu. Nếu viết cho trọn vẹn một ca khúc thì thiếu chữ. Nên ngoài việc viết đoạn mở đầu ra, tôi viết tiếp một mạch bốn câu cuối để kết bài, mỗi câu tám chữ mà cũng trọn vẹn cả ý lẫn nội dung bài thơ của anh: "Con số không đứng bên trái cuộc đời. Là vô nghĩa, chẳng khi nào có nghĩa. Bên phải cuộc đời, số không đứng đợi. Ngàn vạn triệu lần, tuyệt quá người ơi!...".
   Con số không quan trọng lắm ư?. Nó có thể thay đổi cả đời ta lắm ru?. Phải chăng nếu nó đứng bên phải và trước nó là một con số có nghĩa. Khi đó, nếu là bạc tiền thì có vô số tiền muôn bạc vạn, biết bao nhiêu cho vừa nếu nhiều số không đứng bên phải. Và lúc đó, chắc hẳn đời ta sẽ khác hơn xưa, nhưng chắc gì hạnh phúc đâu, hay là khi ấy sẽ khổ sở vì bạc tiền, vì con số không. Nhưng có khi rủi thay, con số không lại chuyển công tác về đứng bên trái thì chẳng còn gì để nói, để trông mong, để ngóng đợi; và nó cũng chỉ là một con số không, số zrô vô nghĩa mà thôi. Chuyện đời, sự đời biết đâu cho cùng, thôi thì tùy ý con số không. Ở đời có những sự việc lạ lùng như thế, nhưng lại là chuyện thực mà thôi: Chuyện con số - Số không 
  Bài thơ được viết theo nhịp 2/4 với lối Con Spirito (Với tư tưởng...), giọng Fa trưởng. Riêng bốn câu của đoạn cuối tám chữ được viết theo nhịp 4/4.         
 Chúng ta sẽ trở về với bài thơ: "Con số không" của nhà thơ Trần Chí Dũng. Ở bốn câu đầu của bài thơ: "Chỉ là con số không. Đứng sau từng số có. Số có gấp mười lên. Số không còn đứng đó...". 
   Bốn câu đầu may quá cho con số không đứng đàng sau con chữ có nghĩa. Và như thế thì tuyệt vời biết bao, bởi vì số có cứ tăng dần lên và cứ tăng đến bao nhiêu cũng được tùy ý, không chỉ gấp mười lần mà đến trăm, vạn ngàn lần cũng được chứ sao đâu. Ai mà trách cứ
    Nói như thế không phải là người tham lam quá độ đâu, mà quý giá là con số không đứng sau con số có nghĩa. Thôi thì cứ thoải mái giữ vị trí con số không đến ngàn đời, vẫn đứng mãi đó yên lành, ung dung tự tại. Ai có chê trách số không đâu mà lo. Và đến khi em là số một tuyệt vời, tuyệt vợi thì giá trị của nó đã gấp mười lần lên. Con số 1 đứng trước và số 0 đứng bên, có nghĩa là em và anh đứng cạnh bên nhau, em bên trái và anh tự tại bên phải, thế là em và cả anh nữa sẽ không bao giờ cô lẻ. Chúng ta cùng có bạn, có bè.
    Viết đến đây, tôi nghe văng vẳng bên tai bài hát tự bao giờ của nhạc sĩ Trịnh Công sơn: "Không có em buồn vui với ai...'. Trịnh Công Sơn rất thâm thúy, sâu sắc về thân phận con người, về bóng dáng hình người đẹp trong từng ca khúc của ông. Một nhà văn hào từng nói: "Trong tất cả các tác phẩm vĩ đại của nhân loại đều có sự đóng góp mặt của những người đàn bà". Thật đúng vậy, anh và em không thể rời bến nhau, cùng chung nhau ngân nga một khúc nhạc, cùng hòa tấu một hợp xướng trong giàn nhạc giao hưởng đó sao!. 
    Đời mà như thế thì còn gì cho bằng!: 
   "Nếu em là số một. Sẽ gấp mười lần lên. Vì số không đứng bên. Em đâu còn cô lẻ..." 
  Anh và em luôn bên nhau như ngày nào. Và cứ thế như mọi ngày. Em tăng lên tùy ý: Là vạn, trăm, ngàn vạn triệu lần tùy thích, anh không nỡ trách em đâu. Em sẽ là tuyệt diệu đấy. Và hỡi ôi anh vẫn tròn trịa một con số không to tướng, có nghĩa hay không tùy em.
     "Và cứ thế, cứ thế. Em có thể là mười. Là trăm, ngàn, vạn, triệu. Em sẽ thật tuyệt diệu. Anh vẫn tròn số không."
    "Con số không" của nhà thơ Trần Chí Dũng là một bài thơ hay, mới lạ về ý tưởng và đầy cảm xúc của một tư tưởng lớn. Cái hay của bài thơ là sự biến chuyển hóa con số không sao cho phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi chốn để nó xứng đáng với vị trí của từng lúc, từng nơi, từng người mong đợi. Số không có khi nâng lên giá trị của nó ghê gớm, mà đôi khi cũng chỉ bằng thừa vì nó là con số không, một con số không có số lượng.  
    Nhưng dù sao đi nữa, con số 'không" vẫn chiếm giữ một vị trí hàng đầu trong hệ thập phân. Vinh dự thay, tự hào thay!.
    Thôi thì, tùy ý mỗi người chúng ta khi xem xét, định đoạt sao cho phải lẽ, hợp lý hợp tình để một khi đề cập đến con số không ta khỏi phải tiếc nuối, ngậm ngùi vì những con số không như đời ta.
Triều Châu
TP. HCM 10/6/2014

Một chút tản mạn “Bài thơ cầu hôn” 
của nhà thơ Trần Chí Dũng
   Lâu nay người ta thường ví von về một tình yêu lứa đôi thủa ban đầu và chỉ mới nói đến: “Chiếc vòng cầu hôn”, hay “Vòng tay cầu hôn” của nhạc sĩ Trần Tiến: "Vòng tay cầu hôn tình yêu của em. Lung linh trên cao vầng trăng dịu êm.... hoặc "Ai mang trên tay chiếc vòng của em...". Chứ ai nào biết “Bài thơ cầu hôn” có từ bao giờ. Thật ra đây là một khái niệm có lẽ mới, lạ lẫm làm người ta để ý, quan tâm sâu sắc. 
    “Bài thơ cầu hôn” không xa lạ lắm vì nó gắn với những dòng thơ lai láng, tuôn trào như nước lũ của nhà thơ quen thuộc Trần Chí Dũng trong tập thơ “Hạt bụi vàng” do anh chủ biên.
    Tình cờ tôi quen biết anh ở một quán cà phê Phong Lan trong hẻm số 42/11 đường Đồng Xoài, phường 13, quận Tân Bình - TP. HCM vào một ngày đẹp trời nắng ráo hôm Quốc tế Thiếu nhi 01/6/2014. Gặp biết được anh Trần Chí Dũng trong một ngày thật vui, thật cảm động tình người nghệ sĩ. Sau bao hồi lâu hàn huyên, tản mạn về chuyện thơ với văn chương chữ nghĩa; anh nỗi hứng và cảm xúc trong tâm hồn mình đến nỗi quên cả đẫm mồ hôi, nhưng anh vẫn ráng hì hục với chiếc kèn đồng trong tay để một lúc thổi liền năm, sáu bản nhạc cho anh chị em cùng nghe, cùng thưởng thức âm nhạc, trong đó có bài “Hạ trắng” của Trịnh Công Sơn, “Đêm đông”, của Nguyễn Văn Thương, “Riêng một góc trời” của Ngô Thụy Miên...Sự nhiệt tình, cái bình dị đến dễ thương, cái lắng đọng trong tâm hồn anh làm anh em trân trọng, quý mến anh ngay từ lúc đầu gặp gỡ. Thế rồi anh giới thiệu cho chúng tôi về những bài thơ anh thích, nguyên nhân có những bài thơ ấy, và hiệu quả của nó theo năm tháng dòng đời; trong đó có hai bài đăng trong “Hạt bụi vàng” tập 1 của anh; “Bài thơ cầu hôn”  “Con số không”.
    Trong bài thơ anh tâm sự: “Chưa ai mang thơ đi cầu hôn...”. Chắc có lẽ như vậy. Anh có thể là người đầu tiên mang thơ của mình đi cầu hôn chăng?!. Chắc chắn rồi, vì biết có ai nói đến bao giờ bằng bài thơ mộc mạc, nhưng giàu cảm xúc và trữ tình: ”Bài thơ cầu hôn”. Anh bộc bạch tâm trạng của mình, riêng mình anh “Đời còn nghèo xơ xác”, nhưng hay hơn và thấm thía hơn “Anh chỉ có những vần thơ đạm bạc”. Ôi sao mà tình cảm quá, chân thật quá. Những “Vần thơ đạm bạc” đi suốt quãng đường đời của nhà thơ đầy tài năng Trần Chí Dũng. Nhưng rồi những vần thơ đạm bạc sẽ làm lòng em ấm lại, vơi đi những nhọc nhằn, vấn vương trong cuộc sống đời thường. Anh khẳng định một điều quí giá nhất trong những điều quý ”Những vần thơ thực sự ấm lòng em”. Anh đã đem lại hơi thở, đem lại sự sống, nhen nhóm trong lòng em sự ấm áp, vơi đi nỗi cô đơn, tẻ nhạt thường ngày vì thiếu vắng...
   “Bài thơ cầu hôn” gồm năm khổ, mỗi khổ bốn câu và mỗi một câu có bảy hoặc tám chữ tùy theo. Tôi thích nhất lời thơ ở khổ thứ tư: “Chưa ai mang thơ đi cầu hôn. Riêng mình anh đời còn nghèo xơ xác. Anh chỉ có những vần thơ đạm bạc. Những vần thơ thực sự ấm lòng em”. Ai đã thổi vào hồn thơ của nhà thơ Trần Chí Dũng để có những vần thơ thực sự tình cảm , thực sự chân thực về cuộc sống thường ngày... làm ấm áp lòng em bằng những vần thơ chan chứa cảm tình. 
    Cả bài nhạc tôi viết theo nhịp 4/4, riêng chỉ có đoạn đã trích trên tôi chuyển sang nhịp ¾ cho rộn ràng hơn. Toàn bài giọng Re trưởng, tính chất bài nhạc theo thể Amoroso... ca tụng một tình yêu sâu lắng. 
“Anh yêu em vào giữa mùa nước cạn. Con sông quê in bạc bóng mây trôi. Cá cũng bỏ để lạnh dòng trong suốt. Chỉ còn em sưởi ấm một góc trời”. Đây là bốn câu đầu của “Bài thơ cầu hôn”. 
  Bãi bồi mùa này bắt đầu cạn nước, bỗng thấy xanh mơn mớt hơn. Bãi cát nâu óng trải mình trong cái nắng cuối thu, thật thà giãi bày nỗi niềm của dòng sông mùa nước cạn
   Mùa nước cạn này ai biết tình ai có đậm đà, sâu lắng như dòng sông kia mùa nước chưa cạn. Thế rồi, anh và em đã yêu nhau từ giữa mùa nước cạn năm nào ai có hay, có biết. 
    Nếu nói đến con sông quê, chúng ta hãy lắng đọng lòng lại ngâm nga bốn câu thơ sau về hình ảnh con sông quê của nhà thơ Tế Hanh còn vấn vương dấu yêu: 
"Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng..."
    Còn con sông quê trong thơ của nhà thơ Trần Chí Dũng thì lại khác "In bạc bóng mây trôi...". Mùa nước cạn, con sông quê, bóng mây trôi là những ảnh hình của dòng thời gian trôi theo năm tháng cùng đất trời. Một áng mây trôi, một con sông quê, giữa một mùa nước cạn để rồi anh và em yêu nhau cũng từ dạo ấy. Tình yêu thiên nhiên và tình người đôi khi hòa cùng làm một. Chim trời cá nước cũng đành bỏ lạnh một dòng sông, duy chỉ có một mình em, một mình em thôi cũng có đủ một sức mạnh gớm ghê đến chừng nào: "Sưởi ấm một góc trời."
   Đọc lai tác phẩm "Lời nguyền" của nhà văn Khái Hưng: "Phải, một lời nguyền!.Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động làn không khí âm u nơi đồi núi ?.Lời nguyền của những kẻ bỏ xác nơi ma thiêng nước độc chốn sơn lâm? Bên sườn đồi dưới bóng một cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào lời oán trách trong gió thoảng qua...Từ đó lời nguyền vẫn thiêng. Những người cha, người vợ lên đây thăm con, thăm chồng, khi trở về đều ốm nặng rồi chết. Và những binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống dưới sự đe dọa và sự thực hiện của lời nguyền....
    Lời nguyền của khái Hưng là như thế, còn với Trần Chí Dũng thì khác đi: Một ngàn lần thề thốt độc thân, nhưng hỡi ôi lại chẳng dám một lời nguyền, vì dễ hiểu thôi đời anh cũng nên bề gia thất. Mà cần gì thứ chuyện ấy, cứ yêu nhau thực tình, thực sự là được rồi cần gì những lời hoa mỹ, dối trá. Anh cũng biết em như thế tận đáy lòng, cần gì thứ lụa là gấm vóc, kim cương để lừa dối nhau trong yêu đương, vì những thứ ấy cũng chỉ là của phù du thôi, có gì mà quí với giá. Càng chắc chắn hơn những thứ đó không thế đánh đổi được yêu thương:
"Anh không dám một ngàn lần thề độc. Không lụa là, gấm vóc, kim cương. Vì anh biết em đâu cần thứ đó. Của phù du đem đánh đổi yêu thương"
    Người ta thường nói với nhau hằng ngày như tụng niệm về một tình yêu chân thực, thực sự: "Yêu nhau là cùng nhau hướng về một mục đích". Đúng vậy, anh có giả vờ, giả dối gì đâu! Yêu em bằng cả tấm lòng như dòng sông quê kia chất phác, mộc mạc, chân thành. Và anh cũng hiểu được tình cảm của trái tim em, của con tim em như thế, nên anh chẳng tiếc gì ngay cả bản thân, và sẵn sàng trao hết những gì quí giá nhất đời anh, của anh cho em khi em cần: "Chẳng lẽ anh giả vờ đau nhói. Giả vờ buồn và nhung nhớ cuồng điên. Vì anh hiểu con tim em da diết. Điều em cần anh có để trao em".
Trong đoạn kết của "Bài thơ cầu hôn", anh thật thà tâm sự: Những vần thơ không mong gì sẽ thay cơm áo, gạo tiền hằng ngày, bởi những vần thơ ai có mua đâu?. Từ xưa đến nay, riêng chỉ có Hàn  Mặc Tử rêu rao, thở than: "Ai mua trăng tôi bán trăng cho...". Thật cả gan rao bán một vầng trăng của đất trời, lại càng có người không dám mua. Lại nữa, Truyện Kiều của Nguyễn Du: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi. Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường...". 
   Toàn là những chuyện kinh thiên động địa chẳng liên quan, chẳng đếm xĩa gì đến chuyện bạc tiền. Rốt cuộc những vẫn thơ đạm bạc cũng chẳng làm nên một cắt nào, một đồng bạc nào; để rồi sự khó khăn trong đời sống vật chất thường ngày vẫn chất chồng, nặng nợ thế gian; tiền bạc vẫn thiếu trước hụt sau bao lần. Tuy như thế, nhưng mà vui, mà sống được với đời nhờ những vần thơ chính của mình an an, ủi ủi. Một nhà thơ nào đó từng nói: "Tôi sống được với đời là nhờ những vần thơ và nhạc Trịnh". 
   Có phải vậy không? Nào ai mà biết được. Nhưng điều quan trọng hơn là không nỡ đem đi chôn thơ của mình vì sự sống còn trên thế gian, khi ấy chắc chắn sẽ không còn gì để nói; và lúc đó tưởng chừng như anh sẽ mất anh và vĩnh viễn chẳng còn em đâu trên cõi đời này. Nói như vậy để thấy một giá trị vô song của những vần thơ: "Anh không mong thơ sẽ thay cơm áo. Của đời thường thiếu trước hụt sau. Nhưng nếu phải chôn thơ đi để sống. Anh sẽ mất anh...và vĩnh viễn mất em". 
    "Bài thơ cầu hôn" thật trọn vẹn cả lời lẫn ý, thật hay tự đáy lòng người: Nghệ sĩ Trần Chí Dũng, nó đong đầy nghĩa lý của một tình cảm chân thực còn ấp ủ, còn đọng lại trong lòng nhà thơ. Tuy chỉ với những vần thơ đạm bạc, nhưng anh vẫn luôn sẵn sàng đi cầu hôn người mình yêu, người mình quí; cần gì phải lụa là kim cương, bạc vàng châu báu mới đánh đổi được yêu thương.    
   "Bài thơ cầu hôn" sẽ nói thay cho chiếc vòng hay vòng tay nào đó đi cầu hôn thế thôi!. 
Triều Châu
TP. Cam Ranh 8/6/2014

 
Đôi điu suy ngm v “Ht bi” 
trong thơ Vương Chi Lan
  Tình c tôi quen biết nhà thơ Vương Chi Lan ti quán cà phê Phong Lan đường Đng Xoài s 42/11, phường 13, qun Tân Bình - TP. HCM trong mt ngày nng đp Quc tế Thiếu nhi 01/6/2014. Ch tng cho chúng tôi tp thơ “Rót nh vào đêm” do nhà xut bn Hi nhà văn in và phát hành tháng 4/2013, chưa đ ch còn đc và chép li bài thơ mà ch tâm đc nht: “Ht bi”. Thế ri, tôi đc đi đc li bài thơ ch viết này nhiu ln đ tìm kiếm tiết điu ca bài thơ, may đâu s viết nhc được.
    Tôi bt đu viết nhc bài thơ “Ht bi” khi v li Cam Ranh ngày 6/6/2014. Bài thơ được viết vi nhp 2/4, ging La th bun chm. Khi bt đu viết tôi nh li ca khúc “Cát bi” ca nhc sĩ Trnh Công Sơn đ khi đu ly đà cho bài nhc: “Ht bi nào hóa kiếp thân tôi. Đ mt mai tôi v làm cát bi...”.
    Bài thơ ca Vương Chi Lan gm 5 kh, mi kh 4 câu, mi câu 5 ch khá đu đn. Đip ng: “ Ta bt được...” được ch lp đi lp li ti bn ln kh 1 và 2. “Ta bt được...” nào là Git sương- Làn gió- Ht bi- Si nng. Nhưng Git sương long lanh trong mí mt; Làn gió thong mt chút gì thơ ngây; Ht bi ng tht say; Si nng cho mi ngày. Tht là nhng hình nh tuyt đp ca thiên nhiên: Nng, sương, gió, bi mt mùng hng ngày trong đi sng mi chúng ta. 
   Mt git sương còn đng li trên lá cành cây bui sm mai. Mt làn gió thơ ngây hôn lên má ai: “Ta bt được git sương. Long lanh mí mt này. Ta bt được làn gió. Có chút gì thơ ngây”.  Một hạt bụi trong muôn nghìn hạt bụi của đất trời đang ngủ thật say trong mộng mị. Một sợi nắng chiếu qua cành cây ngọn cỏ làm tốt tươi cho sự sống trên trái đất và thiết yếu cho đời sống muôn loài. Thế là  chị lại tiếp tục thổn thức về Hạt bụi, về Sợi nắng trong bốn câu tiếp:
“Ta bt được ht hi. Ht bi ng tht say. Ta bt được si nng. Si nng cho mi ngày”.
     S ví von đến d thương, mang đm nét tình cm gia hai con người khác phái: Anh và em. Đ ri anh s là ht bi, mà em cũng là ht bi không hơn không kém. Chúng ta sinh ra t ht bi, ri mt ngày nào đó cũng tr v vi cát bi muôn trùng bin khơi thế thôi. Gió và mây như mt cp song sinh. Gió s đy nhng làn mây đi v mt phương tri vô đnh nào; mây nh gió mà trôi bàng bc v mt nơi xa xăm. Mây và gió khng khít vi nhau không ri nhau na bước, như em và anh trong cuc đi này. Ht bi đã có t ngàn xa xưa, t tha khai thiên lp đa, nhưng ht bi ca mt chiu mưa bay nó hay hay làm sao y! Ai mà thu hiu, biết được: “Ht bi anh trong gió. Ht bi em trong mây. Ht bi như đã có. Ht bi chiu mưa bay.”
   Ht bi cũng t t đi mà hp thành: đt, nước, la, gió. Nhưng may thay ht bi hp li s in bóng hình c hoa, in bóng hình anh, em và bóng hình ca chúng ta tn ti trên mt đât. Mt sáng mai sương sm nht nhòa hình bóng ai trong ký c vn chưa phai m theo năm tháng dn trôi: “Ht bi nào hp li. In bóng hình c hoa. Ht bi trong t đi. Mt sm sương nht nhòa”.
    Nhân khi đc bài "Ht bi" ca nhà thơ Vương Chi Lan mà quên mt, không h nh v "Cát bi" ca nhc sĩ Trnh Công Sơn cũng là điu thiếu sót lm vy. Thôi thì ta hãy tn mn mt chút xem sao. Trong "Ht bi", Trnh Công Sơn đã tng ưu tư, khc khoi v thân phn con người mng manh trên trái đt, trong cõi trn ai đy đau thương này; và có khi ông t hi lòng mình: Ta sinh ra t đâu?; Ta là ai?; Ta t đâu đến?; Ri s trôi dt v nơi đâu, chn phương nào?. Tht khó hiu và cũng lm điu ri rm: “Ht bi nào hóa kiếp thân tôi?”. Ông nhn ra thân phn con người cũng đến t bi đt, mang kiếp sng mong manh ngn ngi như kiếp phù du sm n ti tàn. Ht bi nh bé trong vũ tr bao la, bt lc trước đnh lut t nhiên ca to hoá, b lôi cun theo con to xoay vn ca cuc sng. Sau khi “Mt mai vươn hình hài ln dy” đ sng kiếp cát bi phù du tm b, dù mun hay không, chp nhn hay chng đi, ht bi li rũ áo ra đi v vi thân phn bi đt ca mình. “Đ mt mai tôi v làm cát bi”. Thế là hết, là xong mt kiếp người; cũng như bài thơ "Ht bi" mà tôi dn nhp bài nhc vi nhng dòng ch còn nguyên li “Cát bi” ca nhc sĩ Trnh công Sơn.
    Vn biết bi đt mt mai s tr v vi cát bi. Vn biết nơi đến, chn v như nhau: Tt c ch là phù du, vô nghĩa mà thôi. Nhưng trong lòng người nhc sĩ vĩ đi h Trnh vn thn thc: “T vc sâu nghe li mi đã dy” đang mong ch mt điu gì đó thâm sâu hơn, cao qúi hơn nhng gì tm thường trong đi sng hng ngày, đang cun hút ht bi xoay vòng trong cơn lc đo điên. 
Hình như đôi tai, tâm hn Trnh Công Sơn đã nghe được nhng li mi gi thiêng liêng ca núi sông nào đó. Thì ra mi biết cát bi mt nhoài sau nhng chui ngày “Mt tri soi mt kiếp rong chơi”, sau nhng tháng năm nht nhòa hòa mình vào nhng âm thanh cuc sng: “Tiếng đng gõ nhp không nguôi ca cuc đi, và ri đ mai sau mt kiếp người: “Bao nhiêu năm làm kiếp con người”. Đến mt ngày kia, ông bng cht nhn ra thiếu vng mt cái gì đó trong cuc sng. Ht bi nh bé như pha lê được mt tri soi sáng đ ri trái tim khát khao tin yêu thn thc theo dòng thi gian, theo dòng đi ni trôi.
   Cuc sng dn trôi, vi bao đng cay cht đy lên đôi vai yếu gy, mà ý nghĩa cuc đi vn bit tăm, h Trnh li buông lơi mt tiếng th dài chán chường cùng tri đt: “Ôi cát bi mt nhoài!”. Tiếp tc cuc hành trình vô đnh ca con người, sp đến đích mà không biết nơi đến là đâu vi mt li chua chát xuôi tay tuyt vng: “Ôi cát bi phn này!”
  Con người, ch khi “Cht mt chiu tóc trng như vôi” mi git mình nhìn li mình, vi vàng đi tìm ý nghĩa cuc sng. Khi nhìn “Lá úa trên cao rng đy” vi “Cm rng nào lá xác xơ cây” lòng người mi chùng xung, băn khoăn lòng hi lòng, chiếc lá vàng kia đi v đâu? Thân phn con người có gì hơn mt chiếc lá vàng rơi, mt ht bi này không? “Trăm năm vào chết mt ngày”, đi người ky cóp, mt ngày xuôi tay!. 
    Tôi đã sa đà vi ca khúc "Cát bi" ca Trnh Công Sơn, âu cũng là điu d hiu không đáng trách, bi vì sut c đi tôi vn mãi mê nhng dòng nhc h Trnh, cũng như ông thường nói: "Yêu lm cuc đi này..."
  Nay li tr v vi chính "Ht bi" ca Vương Chi Lan.
  Tm thân hình hài nh bé ca ta cũng t ht bi mà ra, cũng là tm thân t đi ca đt tri. Con người sinh ra, ln lên dong rui theo tháng ngày vi cuc đi, cuc sng bao b bn lo toan. Đ đến mt ngày mai kia chân yếu gi mm ri cũng s tr v cát bi, tr v vi nguyên thy ban đu ”Ht bi”. Nhưng con người hơn hn nhng sinh vt khác là có lý trí, có trí khôn, luôn ước vng vươn lên, thm chí là tham vng vi ngàn mt, ngàn tay đ trông mong, đ nhìn ngm cnh đi, đ làm đi thay tt c t nhng quyn phép, nhng ước vng xa xôi...: “Ta cũng t ht bi. Dong rui sut tháng ngày. Ôi ước gì ta có. Ngàn mt vi ngàn tay”.
    Bài thơ tuy ngn, nhưng đong đy ý nghĩa ca mt kiếp nhân sinh. Thi nhân cũng đã nói lên nhng tâm tư, tình cm ca chính mình, ch bc bch hết nhng ước ao, nhng khát vng vươn lên ngay t bn thân, và có chăng ca mi mt con người, đ ri s đi xa hơn, vươn cao hơn tm cao ca cuc sng thường ngày, không ch dng li chuyn cơm áo go tin nơi chn trn gian này.
Triu Châu
TP. HCM 8/6/2014
Triều Châu
 Theo http://trieuchau1957.blogspot.com/
























Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...