Không gian nghệ thuật trong
"Điêu tàn" của Chế Lan
Viên
Chế Lan Viên bước lên thi đàn với “Điêu tàn” như
hình ảnh một tháp Chàm u huyền ngả bóng xuống cánh đồng thơ Bình Định gây ra
bao niềm kinh dị. Nhà thơ khi ấy mới chỉ là một chàng thanh niên 16, 17 tuổi
nhưng đã dựng lên trong “siêu phẩm” của mình một không gian hoang tưởng, kỳ dị,
bí mật với đầu lâu, xương sọ, ma quỷ, hư vô... Không gian nghệ thuật ấy trong “Điêu
tàn” không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa tự thân mà nó còn chính là thế giới
nghệ thuật thơ để từ đó là chiếc chìa khóa giúp ta tìm hiểu tư duy thơ của ông
– tư duy thơ siêu thực.
Đã có không ít những tác giả quan tâm tới “Điêu tàn”, tới
không gian nghệ thuật nhưng đa phần mới chỉ dừng lại ở những nhận xét chung
chung, mà chưa đi vào tìm hiểu những dạng thức biểu hiện, cắt nghĩa lý do để chỉ
ra tư duy thơ siêu thực trong thơ ông. Bởi tập thơ nằm trong trường thơ Loạn
nói chung nên nó có chung dòng chảy với “Tinh huyết” của Bích Khê, “Thơ điên” của
Hàn Mặc Tử và nó sẽ khơi nguồn cho những cách tân thơ của Dạ Đài, Sáng tạo sau
này để tạo nên những “Mê hồn ca” đặc sắc. Niên luận “Không gian nghệ thuật
trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên” với cấu trúc hai chương sẽ cố gắng giải
quyết những vấn đề nêu trên.
Chương 1: Cơ sở hình thành không gian nghệ thuật trong “Điêu
tàn” của Chế Lan Viên
1. Không gian nghệ thuật trong
tác phẩm văn học
Theo từ điển Thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật trong một
tác phẩm văn học chính là “hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện
tính chỉnh thể của nó”, nó “xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong một trường
nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính của nó bộc lộ toàn
bộ quảng tính của nó... Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên
mang tính chủ quan...Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại
của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế
giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học”.
Như vậy không gian nghệ thuật có thể coi như là “một quan niệm
nghệ thuật”, một “hiện tượng tâm linh nội cảm” (Trần Đình Sử). Và nếu như điêu
khắc tạo không gian bằng hình khối, kiến trúc tạo không gian bằng cách bố trí sắp
xếp, hội họa tạo bằng màu sắc đường nét, âm nhạc tạo bằng thanh âm, giai điệu
thì văn học lại tạo không gian bằng ngôn ngữ. Nhờ đó mà không gian nghệ thuật
trong các tác phẩm có thể vượt mọi giới hạn, nó có khả năng đi tới bề sâu không
cùng đặc biệt là chiều tâm thức, nội cảm. Nó giống như một “màn sương mù” để
tác giả tự “cắt nghĩa, mổ xẻ, phân tích đối thoại với chính mình và với thế giới”
(Milan Kudera). Khám phá không gian nghệ thuật không chỉ để thấy được những chiều
không gian, cấu trúc trong một tác phẩm, mà qua đó ta nhìn thấy được quan niệm
tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ, các họ nghĩ, họ cảm nhận về thế giới.
2.1. Quan
niệm thơ
Trong bài Tựa tập thơ ''Điêu tàn'' (1937), Chế Lan Viên
viết: “Hàn mặc Tử viết: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường.
Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên,
là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu, Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ vãng. Nó ôm
trùm Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những câu vô nghĩa, tuy rằng
những cái vô nghĩa hợp lý. Nhưng thường thường nó không nói. Nó gào, nó thét,
nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu,
nó khóc trào nước mắt, nó cười tràn cả tủy là tủy. Thế mà có người tự cho là hiểu
được nó, rồi đem nó so sánh với Người, và chê nó là giả dối với Người. Với nó,
cái gì nó nói đều có cả...”. Đây là một quan niệm rất khác với Thơ Mới lúc đó,
có thể coi như là một sự tuyên chiến với quan niệm cũ. Nói như Vũ Tuấn Anh: “Thơ
không còn là sự diễn tả xúc cảm của con người; cái hiện có của hiện tại
biến mất nhường chỗ cho cái hỗn mang của quá khứ và cái vô định của
tương lai, làm thơ là thả hồn lạc vào mê lộ của cái phi thường, cái dị thường.
Và nhất là giọng điệu, nó không nói bằng giọng nói quen thuộc của con người mà
là những tiếng khóc than, gào rú...”
Xuất phát từ quan niệm ấy mà thi sĩ đã tạo nên một không gian
hoàn toàn khác lạ với Thơ Mới trước đó, không phải là vườn tình ái, bướm hoa mộng
mơ,... mà là cõi siêu hình ngập ngụa những máu, đôi khi quay cuồng trong vũ điệu
của thần chết, phả ra mùi tanh nồng của thịt rã, xương tan, đôi khi lại đi
trong trời mơ, ngủ cùng trăng sao... Quan niệm thơ ấy cùng với những ảnh hưởng
những dấu ấn từ thời niên thiếu về dân tộc Chàm đã giúp nhà thơ họ Chế sáng tạo
nên một không gian kì dị, ma quái đầy bí ẩn và cũng chỉ không gian ấy mới đủ sức
thu nhận thi nhân, đưa ông về tới tận cùng của bến bờ siêu thực.
2.2. Ảnh
hưởng từ những phong trào cách tân đương thời
Trong những năm này văn học có sự chuyển dịch trung tâm văn học
từ Nam ra Bắc và một trong những quãng đường mà nó phải đi qua không thể không
kể tới vùng đất Bình Định, nơi nuôi dưỡng biết bao tên tuổi trong làng thơ Việt
Nam. Và đó cũng là cái nôi của một trường phái thơ với những quan niệm tư duy
thơ khác lạ.
Chế Lan Viên là một trong “tứ trụ” của nhóm thơ Bình Định hay
còn gọi là Trường Thơ Loạn bao gồm Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Bích Khê và
Chế Lan Viên (Quách Tấn chỉ ủng hộ chứ không sáng tác). Từ đó mà trường
thơ Loạn thực hiện cuộc hành trình đi từ âm vang Đường thi đến thung lũng đau
thương, tràn bờ sang cả những bóng ma Hời trên tháp Chàm u uẩn, rồi chọn cho
mình điểm dừng ở cuộc duy tân của Bích Khê. Và Chế Lan Viên không thể không thể
không chịu những ảnh hưởng từ những cách tân từ nhóm thơ này, và ông cùng
với những người bạn thơ của ông đã thực sự tạo nên một sự đột phá mới, phát triển
Thơ Mới lúc bấy giờ đi theo một hướng mới bắt nhịp với xu thế chung của thơ ca
thế giới đặc biệt là những ảnh hưởng thơ Pháp. Nhóm đã tự chọn cho mình một con
đường đi riêng không phải là chân quê hướng về dân gian như Nguyễn Bính, Anh
Thơ, Bàng Bá Lân..., không phải chỉ dừng lại ở tượng trưng lãng mạn như Xuân Diệu
mà nhóm thơ Loạn đã đẩy thơ ca đi vào địa hạt của tượng trưng siêu thực, huyền ảo.
Khi viết “Điêu tàn” Chế Lan Viên đã lấy lại lời của Hàn Mặc Tử làm lời tựa, ông
đã khẳng định vai trò và sứ mệnh của người nghệ sĩ là làm một sự phi thường, có
khi điên loạn, khi là thần tiên khi là quỷ dữ... Trong lời tựa “Đau thương”
(Thơ điên) của Hàn Mặc Tử: “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn,
bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng...Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối
quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản bội lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn
tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên.
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản
được tiếng lòng tôi!...''. Và sau này Bích Khê xuất hiện đã đưa trường thơ Loạn
tiến thêm một bước vững chắc, ông được coi là “người công dân trung thành
của vương quốc”, và những câu thơ trong “Duy tân” được coi như là tuyên ngôn
sáng tạo của ông:
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy,
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy,
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!...
Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!...
Những câu thơ cứ đánh đu giữa thực và ảo, giữa thực và mộng,
giữa cõi âm và cõi dương, giữa đau thương và khát vọng... làm nên những cái tôi
“nhị nguyên”, tự phân tích cái tôi bản thể của mình. Chế Lan Viên cũng như Hàn
Mặc Tử, Bích Khê đã không chọn con đường của lãng mạn bởi nó đã chứng tỏ sự cạn
kiệt, bất lực của thi nhân, không thể là phương thức để họ cắt nghĩa thế giới.
Và Chế Lan Viên với tư cách một thành viên trong nhóm đã đưa thơ ca mình theo
hướng sáng tác ấy.
Cùng theo con đường đó với trường thơ Loạn không thể không kể
đến nhóm Dạ đài gồm có Đinh Hùng, Trần Dần, Vũ
Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Nguyễn Văn Tậu. Dạ đài ra được số 1 (16.
11. 1946). Tất cả đều nhận mình là thi sĩ theo trường phái tượng trưng, nhưng họ
đã có ý thức vượt lên trên quan niệm sẵn có để làm một cuộc tiếp biến, đưa nhóm
mình theo một hướng riêng, trước nhất, là ở cấp độ lý thuyết. Họ đã cố gắng đưa
thơ trở về với nguyên thể của nó, và người nghệ sĩ là của thực của mộng của hồn
và xác: “Chúng tôi muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mới chỉ có những thi
sĩ của lòng. Đã đến lúc chúng ta đợi những thi sĩ của linh hồn, những thi sĩ của
cái tâm thầm kín”. Họ đã đưa thơ ca tới bến bờ của U Huyền: “chúng tôi sẽ
nói thay cho tiếng nói những loài ma. Chúng tôi sẽ khóc lên cho những nỗi oán hờn
chưa giải. Chúng tôi sẽ bắt hiện lên những đường lối U Minh. Chúng tôi sẽ kể lại
những cuộc viễn du trong những thế giới âm thầm sự vật”.
Xuân Thu nhã tập chỉ tồn tại trong vòng mấy năm
(1942-1945), và chỉ gồm mấy tác giả, nhưng lại hội tụ đầy đủ cả “đại gia đình”
nghệ thuật: Thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số lượng sáng tác cũng rất “khiêm tốn”
nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ, văn xuôi, tiểu luận. Mục đích sáng tác
cũng khá độc đáo ”Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: TRÍ THỨC - ĐẠO ĐỨC
- SÁNG TẠO.
Xuân Thu ra đời khi Thơ Mới đã rơi vào bế
tắc, khủng hoảng. Cái tôi- mảnh đất linh diệu của Thơ mới đã được đào sâu đến
tận cùng, và lúc này, đã mất hết sức sống. Trong xu thế đó, nhóm Xuân
Thu đã trăn trở và tìm một hướng đi mới cho thơ ca dân tộc: “Tìm con đường
thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước vọng này. Gọi về những tính cách riêng của
ta, để có thể xuôi chảy trong cái dòng sống thực của ta, không quanh co, lúng
túng vì những ảnh hưởng ngoài”. Thơ được Xuân Thu nhã tập đồng nghĩa
với Trong, Đẹp, Thật. Đưa thơ vào phạm trù của đạo, xem thơ là một thứ cao siêu
như tôn giáo,Xuân Thu nhã tập đã rút ra một nguyên lý căn bản (trong mối quan
hệ) giữa thơ ca với vũ trụ: Đạo – Âm + Dương – Sáng tạo – Rung động
– Thơ – Đạo. Họ còn kêu gọi: “Tìm thơ vĩnh viễn, ta trở về nguồn: TA”. Đặc biệt
họ còn cho thấy rõ hướng đi về phía thơ siêu thực với tuyên ngôn sáng tác: “Trí
thức, Sáng tạo, Đạo lý” mà những bài thơ như Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình
tàn thu của Nguyễn Xuân Sanh là một ví dụ tiêu biểu:
Lẵng Xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Những cuộc cách tân thơ ca ấy đã có những ảnh hưởng nhất định
tới Chế Lan Viên đặc biệt là Trường thơ Loạn. Nó đã tạo nên một không khí sáng
tác mới, một bầu sinh quyển mới để những sáng tạo thơ ca cất cánh, đưa thơ lên
tới một bến bờ xa hơn là tượng trưng siêu thực.
2.3. Ảnh
hưởng từ chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và một quan
điểm mỹ học xuất hiện cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỷ XX. Tháng 9/1886, chủ
nghĩa tượng trưng ra đời ở Pháp với bản “Tuyên ngôn tượng trưng” của Jean
Moreas đề xuất một quan niệm thi ca mới nhằm phản ứng lối thơ thiên về chạm trỗ,
trau chuốt ngôn từ của phái Thi sơn (Parmasse) và cách làm thơ quá dễ dãi của
trường phái lãng mạn. Về nguyên tắc mỹ học, nếu như thơ lãng mạn chủ yếu biểu
hiện bằng hình tượng, hình ảnh tương phản thì thơ tượng trưng biểu hiện mối
quan hệ giữa con người và sự vật trong mối tương hợp nói như Einstein đó là “tính
toàn thể của thế giới và tính nhất thể giữa con người và thế giới”. Họ quan niệm
thơ là một thứ siêu cảm giác, thơ “trước hết phải có nhạc tính” do âm nhạc
hơn hẳn các nghệ thuật khác trong việc truyền đạt những sắc thái, những bán âm
(Verlaine). Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái
bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được. Đây mới chính
là bản thể của thế giới. Cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực
giác. Mallarmé cũng nói: “Câu thơ không phải chỉ là một số chữ, mà phải là những
ý niệm và chữ phải tự xóa mờ đi, nhường chỗ cho cảm giác”.Thơ tượng trưng dùng
biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc biệt để chống lại lối miêu tả và
biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nó đã khai thác triệt để khả
năng ám gợi, tính đa nghĩa của ngôn ngữ để đem đến một thế giới bí ẩn, với những
mê lộ huyền diệu. Chủ nghĩa tượng trưng có mối quan hệ rất chặt chẽ với
trường phái hội họa ấn tượng.
Cùng với đó là sự ra đời của học thuyết tương đối của
Einstein và thuyết phân tâm học của Frued đã làm cho các nhà thơ có một
cách cảm nhận rất khác về thế giới. Cấu trúc vận động của thế giới không còn là
hài hòa âm dương, đối ngẫu cũng không còn là tuyến tính hợp lí mà nó là phi tuyến
tính, với cấu trúc phân mảng, mảnh ghép. Cứ như thế những nhà thơ tượng trưng
đã đưa thơ ca tới một bến bờ mới tưởng chừng như xa lạ nhưng đó mới chính là bản
thể uyên nguyên, là cái tôi đa diện của con người...
Nhà phê bình Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam coi Xuân
Diệu là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” là xuất phát từ quan điểm xem
xét một cách toàn diện tiến trình của thơ mới trên phương diện một chủ nghĩa
(Chủ nghĩa lãng mạn). Trong thơ Xuân Diệu cũng đã thấp thoáng những yếu tố tượng
trưng nhưng để đưa thơ ca đi tới tận bến bờ của tượng trưng thì phải kể tới trường
thơ Loạn mà trong đó không thể không kể tới “Điêu tàn” của Chế Lan Viên. Phan Cự
Đệ đã khẳng định: Chế Lan Viên cũng như các nhà thơ Loạn “chịu ảnh hưởng trực
tiếp những quan niệm thẩm mỹ của Egar Poe”, “Và càng về sau họ không
chỉ chịu ảnh hưởng từ một mà càng nhiều thi sĩ Pháp trong đó Baudelaire là đậm
nét nhất”. Chế Lan Viên đã đẩy cái đẹp qua một địa hạt khác, mở
rộng nội hàm cái đẹp để tiệm cận với cái kinh dị, cái ghê rợn, cái xấu và đem
những cái ấy làm thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến bờ chủ nghĩa siêu thực. Những biểu
tượng: Hồn, máu, sọ người, xương khô, tủy, đám ma… tràn đầy trong
thơ Chế Lan Viên:
Ta sẽ nhịp khớp xương lên đỉnh sọ
Ta sẽ ca những giọng của hồn điên
Để máu cạn, hồn tàn, tim tan vỡ
Để trôi đi tháng ngày nặng ưu phiền
(Điệu nhạc điên cuồng)
Thi nhân đã từ bỏ một thế giới hiện hữu, tìm về một một thế
giới của đổ nát của huyền diệu, tạo dựng một không gian mới cho tâm tư mà ông
đã gọi bằng “Cõi Ta”, thi nhân không sống bằng thực tại, mà sống bằng nguồn
siêu tưởng... Như vậy có thể thấy rõ cơ sở hình thành không gian nghệ thuật trong
thơ thi sĩ họ Chế chính là những ảnh hưởng từ quan niệm thơ của chủ nghĩa tượng
trưng - siêu thực Pháp lúc bấy giờ.
Chương 2: Các dạng thức của không gian nghệ thuật
trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên
1. Không gian hiện thực trần thế
đầy ánh sáng
Nghĩ tới “Điêu tàn” người ta thường nghĩ ngay tới không gian
của tha ma, mộ huyệt của máu trào, xương rơi nhưng bên cạnh đó còn xuất hiện
không gian tươi đẹp tràn đầy sức sống của trần gian với những bài thơ như: Xuân
về, Thu, Trưa đơn giản:
Hàng dừa cao say sưa ôm bóng ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
(Xuân về)
Trưa
lên trời. Và xanh thẳm bầu trời
Bỗng mê ly nhìn thấy trắng mây trôi
Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời
Bên vú trái tròn, lá bỗng run môi
(Trưa đơn giản)
Cũng
mới độ nào trong gió lộng
Nến lau bừng sáng núi lau xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rũ trước thành
(Thu)
Những câu thơ là sự sống thiên nhiên, con người được hoàn
nguyên trở lại với những hình ảnh của hiện thực tươi tắn, màu sắc rực rỡ, có lẽ
chính vì thế mà Vũ Tuấn Anh coi đây là “những câu thơ vào loại đẹp nhất của Điêu
tàn, và của Thơ mới”. Tuy không gian này xuất hiện không nhiều nhưng nó phải
chăng chính là thể hiện sự gắn bó với cuộc đời của Chế Lan Viên. Cái tôi siêu
thực càng đau khổ, chìm trong đau thương mãnh liệt thì lại càng khát khao
níu đời bấy nhiêu. Cái Tôi ấy luôn mong manh bên bờ vực cuộc đời trần thế và
cõi siêu nhiên. Đó là những đối cực không thể vượt thoát. Như Hàn Mặc Tử bên cạnh
những vần thơ điên ta vẫn thấy có những vần thơ đầy trong sáng:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng...
(Mùa xuân chín)
Hay:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc...
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Nhưng không gian ấy xuất hiện rất ít bởi cái Tôi không thể
tìm thấy chỗ đứng trong hiện thực mà luôn vươn tới một cõi khác, cõi siêu nhiên
vĩnh hằng bởi chỉ có không gian ấy mới đủ sức dung chứa con người thi sĩ.
2. Không gian của cõi âm và bóng
tối
Chế Lan Viên cũng thoát li thực tại tìm tới một cõi trời
riêng nhưng ông không phải là nhà thơ của hoa bướm mộng mơ, của tình trường tha
thiết, của cõi Thiên thai...mà là của những sự phi thường, kinh dị tới rùng rợn.
Hiện dần ra trong thơ một cõi Âm, một thế giới của cô hồn, tiếng thịt người nảy
nở, tiếng xương rên trong mộ, tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi...Với thi
sĩ, trời đất cũng mang hình hộp sọ, “tinh cầu - sọ người bay lơ lửng trong
không gian Chế Lan Viên, như một thứ hạt giống thi ca gieo vãi hư vô lên từng
trang giấy”, nói như Trần Mạnh Hảo thì Chế Lan Viên là một “nhà ma học”.
2.1. Máu
xương
Trong “Điêu tàn” Chế Lan Viên đã tạo nên một thế giới của cõi
âm và bóng tối với thịt rữa, xương tan, sọ dừa, đầu lâu, máu chảy,.... Có những
hình ảnh được tác giả lặp đi lặp lại trở thành những biểu tượng nghệ thuật có
khả năng ám gợi rất cao. Máu xương được nhà thơ họ Chế sử dụng trong 60 câu
thơ, xuất hiện 63 lần trong 19 bài, đặc biệt có những bài biểu tượng này xuất
hiện với tần số cao như: “Xương khô” 9 lần, “Máu xương” 8 lần, “Xương vỡ máu
trào” 6 lần. Hai hình ảnh này không tách rời mà thường đi song hành, gắn bó với
nhau và chúng tồn tại trong mối cộng hưởng với những biếu tượng khác (như sọ xuất
hiện 14 lần trong 9 bài thơ) tạo nên sức ám gợi cao, ám ảnh tâm trí người đọc.
Máu xương gợi về nơi chiến địa của dân tộc Chàm, về một quá khứ đã lùi vào dĩ
vãng:
Nơi, một tối, máu gào vang chiến địa
Nơi, loa vang ngựa hí, với đầu rơi
(Chiến tượng)
Trong gió rét, tiếng huyết kêu rạo rực
...Ồ ạt trôi nguồn máu chiến trường xa
(Sông Linh)
Máu xương là sự cụ thể hóa sự lụi tàn và diệt vong của cả một
thế hệ, một dân tộc, nó là những nỗi đau của quá khứ:
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Chính vì thế mà khi nhìn màu hoa đào của mùa xuân thi sĩ cũng
tưởng đó là “khối máu của dân Chàm”, cành cây là “hài cốt của muôn vạn dân
Chiêm” và trời xuân lúc này chỉ là “trời huyết”... Những câu thơ của Chế Lan
Viên thật đúng như Egar Poe đã nói: “Làm thơ làm những điều kỳ lạ dị thường,
vượt lên trên mọi giới hạn thông thường”.
Máu xương kia còn chính là một “dạng thức”, của cái tôi siêu
thực muốn phân mảnh, đi tìm về bản thể. Chế Lan Viên cũng giống như Hàn Mặc Tử: “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”
hay Bích Khê: “Máu cuồng vẫn chảy điệu mê tơi… Máu cuồng run khắp trong thân
thể…”. Những hình ảnh máu xương ngập tràn trong “Điêu tàn” chính là một không
gian đặc biệt để cái tôi trú ngụ, thả vào đó những đau thương khủng khiếp nhất,
“gửi chôn Hận Trần Gian”:
Ta sẽ uống máu lan cùng tủy chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô
Máu không chỉ xuất hiện một cách đơn thuần mà đã trở thành “suối”:
“Nồng tươi như suối máu lúc ban mai”, “Phải chăng còn trào bao suối huyết”,
thành “giòng”, “giải”: “Thi nhân sầu nhìn theo dòng huyết cuốn/ Tâm hồn trôi
theo giải máu bơ vơ”...
Như vậy trong “Điêu tàn”, máu xương là biểu tượng cho không
gian của cõi âm, của một quá khứ đã lụi tàn gợi nhắc về một đất nước đã mất.
Và hơn hết nó còn giống như một “siêu không gian”, nơi đó cái Tôi trú ngụ để “bay
tìm Chán Nản với U Buồn”, đi tới bến bờ của tột cùng đau thương.
2.2. Hồn
Nói đến Hồn, các tôn giáo đều cho rằng nó gợi về một quyền lực
siêu nhiên, một thế giới vô hình, thần linh, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Và trong “Điêu tàn”, hình ảnh này được trở đi trở lại thành một biểu tượng đặc
sắc với 61 lần, trong 58 câu thơ của 28 bài. Các từ ngữ như: hồn, linh hồn, hồn
tử sĩ, cô hồn, hồn mơ, hồn yêu tinh... được lặp lại rất nhiều như những nốt nhấn
cho giai điệu của “máu cuồng và hồn điên”.
Hồn được quan niệm là gắn với trí tuệ, ánh sáng nhưng trong “Điêu
tàn”, nó không gắn với ánh sáng mà nó là bóng tối, nó không thuộc về trần thế
mà gắn với cái chết và sự hư vô. Đó chính là thế giới vạn cô hồn, những linh hồn
tử sĩ, yêu ma của dân Chàm:
Đây chiến địa, nơi đôi bên giao trận
Muôn hồn tử sĩ hét gầm vang
(Trên đường về)
Chiều nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây, thế giới vạn cô hồn
(Xương khô)
Ta hãy nghe, mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí trời đêm
Nhưng không dừng lại ở đó, Hồn còn là không gian của cái Tôi,
nơi ấy diễn ra sự phân chia giữa Xác và Hồn, giữa lúc Xác quẩn quanh trong cái
Chết thì chỉ có Hồn có thể bay lên, với khát vọng vùng vẫy muốn thoát khỏi nỗi
cô đơn. Nói như Jung: nó là thể hiện “cái vô thức” và “sự nhân cách hóa những nội
dung vô thức”. Biểu tượng Hồn cũng được xuất hiện rất nhiều trong thơ của Hàn Mặc
Tử: “ Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt tôi
chơi/ Môi đầy hương không dám ngậm cười/ Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng”. Nhưng
nếu trong thơ Hàn Hồn là sự phân chia giằng co tới mãnh liệt muốn thoát khỏi
đau thương thì trong thơ của Chế Lan Viên, Hồn đã vượt thoát hoàn toàn trở
thành Hồn say, Hồn Điên,...điên cuồng rồ dại đi tìm về thế giới của những sọ
người, yêu ma, và nhiều khi còn không hiểu chính mình, thấy mình sống vô nghĩa:
Ta lặng lẽ nhìn muôn sao tự hỏi:
- Mảnh hồn ta tiêu diệt tự bao giờ?
(Đám ma)
Có khi hồn vẩn vơ đợi một người Chiêm nữ nhưng rồi cũng lại
rơi vào trong tuyệt vọng,mang màu sắc riêng của “Điêu tàn”. Có khi hồn lại tự tạo
lập cho mình một cõi riêng, chối bỏ tất cả những màu sắc của trần gian:
Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối
Mênh mang lên bát ngát tựa đêm sâu
Cho hồn phách say sưa trong giả dối
Về cõi âm chờ đợi đã bao lâu
Và lúc đó Hồn tự hào, kiêu ngạo về thế giới mình vừa tạo lập:
Cho hồn ta vụt bay lên vòi vọi
Trong bóng đêm u ám của hàng mi
Kiêu ngạo rằng: “Đây là bầu thế giới
Tạo lập ra trong một phút sầu bi”
(Tạo lập)
Hồn lạc lối, hồn trôi, hồn bay... là một trạng thái phiêu du
vô định, để tâm linh bắt đầu cuộc sống của riêng nó, để sự nghiệm sinh cuộc
thoát xác bắt đầu. Đó chính là cảm xúc thoát li, nhưng Chế Lan Viên đã tạo nên
một cảm thức khác lạ với Thơ Mới, ông muốn vượt thoát tới không cùng tìm về thế
giới của bản thể, xóa nhòa nhận thức và lí trí, tạo ra một cõi Ta riêng. Và với
khát vọng như thế con người sáng tạo ra những điều phi phàm, khá thường quái dị.
Đó chính là mạch chảy của tư duy thơ siêu thực đang bắt đầu tìm thấy đường đi của
nó.
2.3. Mộ
Mộ được xuất hiện trong “Điêu tàn” như một tín hiệu thẩm mỹ đặc
sắc với 26 lần trong 11 bài thơ, đặc biệt bài “Mồ không” có tới 9 lần xuất hiện,
“Xương khô” 4 lần. Mộ đi vào trang thơ Chế Lan Viên là biểu tượng của không
gian cõi chết, đau thương tang tóc, điêu tàn. Nó gắn với muôn vạn dân Chiêm, với
sọ dừa, yêu ma, cô hồn tử sĩ để cùng với những hình ảnh ấy dựng nên một không
gian ma quái rùng rợn của cõi Chết:
Thôi vắng bặt từ nay bao giây phút
Mà tiếng cười ghê rợn dậy vang nấm mồ
(Mồ không)
Hay:
Hồn ma ơi! Trong những đêm u tối
...Hãy nghiêng cánh ở lại bên mồ
(Mồ không)
Trên một nấm mộ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não cân người
(Xương khô)
Chế Lan Viên ám ảnh với những ngôi mồ phải chăng vì trong nội
tâm có “một nghĩa trang chất chứa những ước muốn bị dồn nén,những mối tình đã mất,
những tham vọng tiêu tan, những hạnh phúc đã qua...”, đó là “cái chết tâm lý”
theo một cách đặc biệt, “đang tìm kiếm một thế giới còn chứa đựng một cuộc sống
bí mật dành cho người đó” (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới- Jean Chevalier,
Alain Gheerbrant). Mộ trong thơ Chế Lan Viên đã trở thành một biểu tượng nghệ
thuật đặc sắc, giàu sức ám gợi, nó không chỉ gợi lên không gian của bóng tối,
cái chết mà còn là sự dồn tụ những ẩn ức, là nơi chất chứa những nỗi đau thương
tột cùng:
Nàng hỡi nàng! Trên tay ta là mộ trống
Trong lòng ta là huyệt bỏ với trong hồn
Là mồ không giá lạnh lùng với sương đông
(Mồ không)
Mộ đối với thi sĩ là nơi chôn cả dĩ vãng, tương lai:
Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
(Những nấm mồ)
Còn gì bế tắc, chán nản u sầu hơn thế, con người tựa như mình
đang giam hãm trong một thế giới của bóng tối, cái chết, của thê lương. Dĩ vãng
và tương lai, cái đã qua và cái sắp tới thì có khác gì nhau, đều là những nấm mồ
mà thôi.
2.4. Bóng
Tối
Bao trùm cả “Điêu tàn” là bóng tối, nói như Hồ Thế Hà “Trong
“Điêu tàn”, không gian bóng tối nhiều hơn ánh sáng, hoàng hôn nhiều hơn bình
minh”. Nó được xuất hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những từ ngữ như:
màn đêm, bóng đêm, đêm... với 34 lần xuất hiện trong 20 bài. Trong đó có những
bài ngay từ tiêu đề đã thấy hiện lên rất rõ: “Bóng tối”, “Đêm tàn”, “Đêm
xuân sầu”.
Bóng tối là không gian cho những bóng ma, linh hồn, những đầu
lâu, máu xương xuất hiện:
Hay mi nhớ những đêm ma rùng rợn
Hồn mi bay trong đốm lửa ma trơi
Hay:
Hồn ma ơi trong những đêm u tối
Mi tung mây về chân trời vòi vọi
(Mồ không)
Hỡi những hồn yêu tinh trong bóng tối
Những thương vong uổng tử đáy mồ sâu
(Xương vỡ máu trào)
Nó là không gian của “những sông vắng lê mình”, của “máu gào
vang chiến địa”,“tiếng cô hồn lặng thở”, nước non Chàm...Trong bóng tối, thế giới
ấy càng hiện lên ma quái, rùng rợn hơn tạo làm cho người đọc đọc những câu thơ
có khi cảm thấy gai gai cột sống.
Bóng tối chỉ là không gian của ngoại giới mà đó còn là không
gian của lòng người, trong không gian ấy con người tự đối diện với lòng mình để
thu về một nỗi cô đơn, đau thương tới tận cùng:
Ta vẫn thấy hồn ta buồn ủ rũ
Và cõi lòng dày đặc bóng đêm mờ
(Nắng mai)
Bên tháp vắng, còn người thi sĩ hỡi
Sao không lên tiếng hát đi ngươi ơi?
Mà buồn bã âu sầu trong đêm tối
Ngươi vẫn nằm há miệng đớp sao rơi?
(Đêm xuân sầu)
Có thể nói cái chết và bóng tối là không gian đã ám ảnh Chế
Lan Viên, nó xuất hiện dày đặc khắp tập thơ “Điêu tàn” thông
qua những biểu tượng như: máu xương, hồn, mộ, sọ người, bóng tối... Nó không chỉ
dừng lại là không gian mà còn như một cảm thức. Hàn Mặc Tử đã đau đớn mong ngày
được chết :
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si
Và đã nghĩ tới ngày “Một mai tôi chét bên khe ngọc tuyền”...
Với Chế Lan Viên không gian này ám ảnh ông ngay khi thi sĩ mới có 16, 17 tuổi,
như một nỗi trắn trở không nguôi. Đó phải chăng là có sự ảnh hưởng từ “Hoa ác”
của Bauderlaire mà chính ông đã có lần thú nhận “Nhờ ác hoa (Fluers du Mal) của
Bauderlaire tôi đã viết về cái chết trong Điêu tàn...”.
Đằng sau đó ta thấy một trái tim đang quại đau đớn, nhưng
khác với các nhà thơ mới với ông đau thương không chỉ như một trạng thái tâm lí
mà ông tôn sùng nó, nó bao bọc khắp vũ trụ, ông còn đặt nó lên ngôi cao nhất đó
là Đấng sáng tạo:
Quả
tim ta là một Khối U buồn
Mạch máu ta là một khối đau thương
Mà Quả đất là Khối sầu vô hạn...
Và không gian bóng đêm - cái chết chính là một dạng thức biểu
hiện của cái Tôi đau thương ấy mà thôi.
3. Không gian của vũ trụ rộng lớn,
mộng ảo
Thế giới của những Tháp Chàm đổ nát nay chỉ còn là sọ dừa, đầu
lâu,những nấm mồ hoang...và nó không phải là thế giới duy nhất nữa. Hay nói
cách khác nó chính là nguồn bi thương đầu tiên mở ra những chuỗi bi thương khác
trong tâm hồn thi nhân. Không còn bám víu vào hiện thực, Chế Lan Viên
chuyển hẳn sang địa hạt thơ siêu thực với những giấc mơ, con người hướng lên tầm
cao rộng mở của vũ trụ với trăng sao, bầu trời.
Đây là một biểu tượng quen thuộc trong thơ ca, chỉ riêng thơ
Mới thôi cũng có rất nhiều nhà thơ viết về trăng, sao. Nếu như trăng trong thơ
Lưu Trọng Lư thổn thức, xôn xao: “Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn
thức”, nếu như trong thơ Xuân Diệu, trăng lạnh lẽo, giá buốt: “Em sợ lắm giá
băng tràn mọi nẻo/ Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”...thì Hàn Mặc Tử,
Bích Khê và Chế Lan Viên lại đem đến một biểu tượng trăng hoàn toàn khác. Nó
hòa nhập cùng xác và hồn tạo nên một không gian không phải lãng mạn mà là không
gian của u huyền, siêu thực: “Xác ta sẽ hút bao nguồn trăng loạn/ Ngấm
vào trong cơ thể những hoa hương/ Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng/ Để
trên cao hồn khỏi lộn màu sương” (Hàn Mặc Tử). Rồi trăng biến ra tất cả những
gì tinh túy nhất: “Ôi nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc…Màu trăng không
gian như gờn gợn sóng” (Bích Khê); “Ta ngậm hương trăng đầy lỗ miệng….Như
bông trăng nở bông trăng nở” (Hàn Mặc Tử). Thế giới trăng của Chế Lan Viên
trong cái hòa nhập chung với trường thơ Loạn vẫn có nét riêng không thể trộn lẫn,
nó “vừa rực rỡ vừa điêu tàn, vừa lung linh lại vừa đổ vỡ...xốn xang, sống động...”.
Trăng và sao xuất hiện dày đặc trên những trang thơ của “Điêu tàn” với 40 lần
trăng xuất hiện và sao là 17 lần trong 18 bài thơ.
Trăng sao tạo thành không gian cho thi nhân làm cuộc đối thoại
tưởng tượng với Chiêm nữ để hướng về một quá khứ đã mất:
Bên cửa Tháp, ngóng trông người Chiêm nữ
Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng:
Vài vạn ngôi sao lẻ loi hồi hợp thở
Một đôi cành tơ liễu nhúng trong trăng
(Đợi người Chiêm nữ)
Khoan đã em nép mình vào bóng lá
Riết lấy anh cho chặt, kẻo hồn bay
Ô! Kìa nhìn em ơi, trăng lả tả
Rơi trên đầu chưa bạc những hàng cây
(Trăng điên)
Thậm c hí thi nhân còn tạo nên một thế giới của ảo mộng trong
tình yêu với người tình Chiêm nữ:
Ta gặp Nàng trên một vì sao nhỏ
Ta hôn Nàng trong bóng núi mây cao
Ta ôm Nàng trong những nguồn trăng đổ
Ta ghì Nàng trong những suối trăng sao
(Ngủ trong sao)
Nhà thơ còn nhận ra mình đang “tắm trăng”, ngụp lặn trong “ánh
vàng hỗn độn”, để “cho trăng ghì, trăng riết cả làn da”.., Trăng sao cũng điên,
cũng sầu, lẻ loi cùng con người: “Mà mảnh trăng cũng điên rồi em ạ”, “Trăng
xuân sầu, sao héo, cũng thôi cười”, “Vài ngôi sao lẻ loi hồi hộp thở”, “Cả đêm
nay vì sao buồn man mác”...
Bằng ảo giác nhà thơ đã tạo nên một không gian đầy mộng ảo,
phi thường, nó đã cập bến u huyền, siêu thực. Cái Tôi hướng lên cõi siêu nhiên,
lên vũ trụ để thỏa sức vùng vẫy, phiêu du như chính ông đã nói trong “Vàng sao”
: “Đào xới hư vô. Tuôn chảy hư vô. Cả hai đều do lòng ta sáng tạo và bằng
một sự tuần hoàn như máu cả hai trở về sáng tạo lòng ta”.
Trong không gian Hư vô ấy, thi nhân khao khát tạo dựng một
Cõi ta với “đầu mênh mang” chứa đựng cả “một trời im lặng”, mang “vạn linh hồn”,
đựng “một bầu sao rụng”, “một nguồn trăng sáng cả muôn hương”, với “bao ý mộng”...
Trong không gian ấy con người còn khát khao đi tìm bản thể:
Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma
Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta
Ý của ai trào lên trong đáy óc?
...Ai bảo giùm Ta có có Ta không?
(Ta)
Những câu hỏi với khát vọng tha thiết tới cháy bỏng đào sâu tới
tận cùng bản ngã. Trong câu hỏi ấy ta thấy ẩn hiện một sự bi quan tới tuyệt vọng,
con người càng khát khao khám phá bản thân mình lại càng không thể hiểu hết được,
càng thấy được cái vô nghĩa của sự Tồn tại. Nhà thơ tự tạo cho mình một tin cầu
giá lạnh để lấn tránh “những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”, vươn tới một không
gian ảo nhưng rồi lại thu về lòng mình một điều rất thực đó là nỗi sầu vô biên.
Tự phân thân cái Tôi của mình thành trăng sao, làm một cuộc phân li hồn – xác
nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi bờ tuyệt vọng bởi:
Quả tim ta là một Khối U buồn
Mạch máu ta là một khối đau thương
Mà Quả đất là Khối sầu vô hạn..
3.2. Bầu
trời
Nói đến bầu trời là người ta nhắc tới sự uy quyền, “trời là
biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, của uy quyền, của cái vĩnh hằng của
thiêng liêng...” (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới). Và bầu trời trong thơ
Chế Lan Viên phải chăng vừa có những ý nghĩa đó vừa có những nét nghĩa sáng tạo
của riêng mình. Bầu trời được nhắc lại 23 lần, trong 15 bài thơ của tập “Điêu
tàn”, trong đó hầu hết những lần xuất hiện đều mang tính ám gợi.
Cùng với trăng sao, bầu trời đã tạo nên một không gian huyền ảo
mơ mộng, một miền không gian hoang tưởng, u huyền cho cái Tôi trú ngụ. Nhà thơ
muốn thoát khỏi hiện thực với những giấc mơ siêu hình, và không gian thích hợp
nhất đó chính là bầu trời, mà ông đã đặt tên cho nó là Trời Mơ:
Dòng tư tưởng dần trôi trong Lầm Lạc
Hồn say sưa vào khắp cõi Trời Mơ
(Ngủ trong sao)
Trời xuất hiện trong “Điêu tàn” là trời xa chứa đựng những
khát vọng của con người muốn hướng về một thế giới khác, xa thẳm và mênh mông:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao tro trọi giữa trời xa
(Những sợi tơ lòng)
Hay:
Để hồn trôi theo sóng đến trời xa
Đến trời xa nơi gió vàng tha thiết
(Chiến tượng)
Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi
(Đêm tàn)
Đó còn là một bầu trời chứa đầy những đau thương về một
quá khứ đã mất, về một dân tộc đã bị vùi vào quên lãng:
Dưới trời huyết, tháp Chàm buồn tư lự
Khói lam chiều nũng nịu lướt ngàn xanh
(Sông Linh)
Chế Lan Viên lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái chết, nỗi cô đơn,
niềm hư ảo. Những nỗi niềm ấy đã choáng ngợp cả bầu trời, nhuốm lên không gian ấy
một niềm bi hận, đau thương tới vô bờ không sao thoát ra được.
Những biểu tượng trăng – sao và trời là cụ thể hóa của một
không gian rộng lớn mộng ảo, của cõi siêu phàm đối nghịch với hiện thực, với
cõi chết đầy bóng tối. Thi nhân kêu gào vật vã để được hòa cùng với thiên
nhiên, trốn tránh thực tại, để tạo ra một cuộc phiêu du trong tâm hồn...Ngay
trong khi thức tỉnh ông vẫn mơ, mơ tới một cõi khác, bay lên cao cùng vũ trụ,
thế giới của trăng sao, trời đất. Nhưng càng mơ cõi lòng lại càng trĩu nặng, nỗi
buồn sầu vẫn cứ vây quanh : “Ôi! Mơ Mộng dìm ta trong suối Khổ”, “Cho sọ ta no
nê bao ý mộng/Cho hả hê ngây ngất rượu Đau Thương”.... Và rồi thi sĩ chợt như
nhận ra tất cả chỉ là giấc mơ, bao quanh chỉ là bóng tối mà thôi:
Mơ rồi! Mơ rồi! Ta mơ rồi!
Xạc xào chỉ có lá vàng rơi
Quanh mình bóng tối mênh mang cả
Thấp thoáng đôi hồi đốm lửa soi
(Mơ trăng)
Đó là một nỗi cô đơn đến tận cùng, nói như PGS Vũ Tuấn Anh
thì đó là “nỗi cô đơn tự hủy.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Có rất nhiều những cơ sở để hình thành không gian nghệ thuật
trong “Điêu tàn”,nhưng niên luận chú ý đến ba nguyên nhân chính: quan điểm nghệ
thuật của Chế Lan Viên, ảnh hưởng từ những cuộc cách tân nghệ thuật thời bấy giờ
(có nghĩa là những yếu tố nội sinh) và từ thơ tượng trưng - siêu thực Pháp (tức
những yếu tố ngoại sinh). Cùng với đó còn phải kể đến những yếu tố khác như :
những ám ảnh về tháp Chàm Bình Định từ thời còn niên thiếu, hoàn cảnh thời đại,
tôn giáo... Do những cơ sở ấy mà không gian nghệ thuật trong “Điêu tàn” với mô
tip không gian thoát ly, hướng về quá khứ, kì dị hóa quá khứ, tạo ra một từ trường
của riêng nó, huyền ảo kì dị, mơ mộng và đi đến tận cùng của đau thương.
2. Không gian nghệ thuật trong “Điêu tàn” được biểu hiện dưới
ba dạng thức chính đó là: không gian hiện thực trần thế, đầy ánh sáng; không
gian của cõi âm - bóng tối; không gian của vũ trụ đầy mộng ảo. Ba dạng thức
không gian ấy được thể hiện rất rõ qua những biểu tượng nghệ thuật, và khai
thác những biểu tượng ấy ta thấy được rõ nét không chỉ mô hình không gian mà
qua đó ta còn thấy được chiều sâu tâm hồn, cái Tôi Chế Lan Viên.
3. Không gian nghệ thuật trong “Điêu tàn” không chỉ đơn
thuần là mô hình, một biểu hiện của cấu trúc hình thức mà nó còn chính là thế
giới nghệ thuật thơ. Qua những không gian đó người viết nhận thấy Cái chết - Hư
vô - Cô đơn đã trở thành nỗi ám ảnh lớn của Chế Lan Viên. Tâm hồn nhà thơ biến
thành ốc đảo của những điều huyền bí mà chỉ có ngọn gió siêu hình thổi vào làm
ngân lên những bài ca bi ai, hoan lạc, những bản hòa tấu cô đơn bằng những biểu
tượng trong mối tương ứng đến kỳ lạ. Đó chính là dấu hiệu của tư duy mới– tư
duy thơ siêu thực. Như Mallarmé đã từng nói: “Tất cả những vật gì linh thiêng
hay muốn được linh thiêng, mãi mãi đều cần có huyền nhiệm bao quanh”. Khi
lãng mạn đã trở nên cạn kiệt trong khả năng mô tả và biểu lộ hiện thực và cảm
xúc. Khi thế giới giờ đây không còn song hành đối ngẫu, cũng không còn tuyến
tính có thể nhận thức bằng tư duy lý tính mà đó là thế giới phân mảnh, phi tuyến
tính nên nhà thơ cũng phải tìm đến một con đường nhận thức mới để có thể cắt
nghĩa được hiện thực. Chế Lan Viên đã thơ được tới tận cùng của huyền ảo, những
vần thơ được viết lên bằng cảm giác, và vô thức, nhà thơ tự đào sâu vào cõi tâm
linh huyền bí để đi tìm cái tôi của mình. Và một không gian kinh dị, huyền bí
được dựng lên bởi những mảng ghép, những biểu tượng giàu sức ám gợi chính là sự
hiện thực hóa của tư duy thơ siêu thực đang bắt đầu hé mầm trên mảnh đất “Điêu
tàn”. Nó cùng với “Thơ điên” của Hàn Mặc Tử, “Tinh huyết” của Bích Khê làm
nên một trường thơ Loạn độc đáo và khơi nguồn sáng tạo cho những dòng chảy sau
này như Dạ Đài, Sáng Tạo... cho những “Mê hồn ca”, những “Cây Ánh sáng” ra đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét