Nghĩ về thơ: Thơ và rượu
1. Thơ ca và bia rượu: Tình hình thơ Việt Nam hiện nay?

Thế thì, hãng bia chính hiệu bị thất thu và mất uy tín do nhiều hãng bia giả hiệu đã mạo hóa ra bia dỏm, còn hãng bia giả hiệu thu lợi nhuận cao nhiều khi hơn cả hãng bia chính hiệu, vì không đầu tư cho cơ sở vật chất nhiều, không đóng thuế và nguyên liệu (giả) lại rẻ. Người uống bia là thiệt thòi nhiều nhất: tăng “đô” theo chiều hướng xấu, cơ thể hao mòn vì uống nhiều bia giả gồm nước lã, ga và rượu cồn có nồng độ cao thay vì men lúa mạch. Do mọi sự so sánh đều khập khễnh, nên câu chuyện “thật–giả”trên có lẽ chưa nói rõ được điều liên quan đến hai mặt hàng (Bia Rượu và Thơ Ca): người sản xuất bia “thứ phẩm”, trốn tránh pháp luật vì không có giấy phép sản xuất, còn người sản xuất ra thơ “thứ phẩm” thì đàng hoàng, công khai vì có giấy phép xuất bản hẳn hoi; bia rượu và thơ ca đều cần chất lượng cao, nhưng bia được sản xuất hàng loạt nên mỗi chai từ hình thức (mẫu mã) đến nội dung (hàm lượng) đều giống nhau là tốt, nhưng thơ ca thì không được thế. Mỗi “chai” đều phải “không giống ai”, từ hình thức (ngôn ngữ) đến nội dung (tình và tứ) mỗi “chai” một vẻ, một “hương vị” riêng. Tuy nhiên chúng có nhiều điểm giống nhau đến… thú vị: cả hai nhà sản xuất hàng “chính phẩm” (bia và thơ) đều cần đưa hàng thứ thiệt đến tận tay người tiêu dùng, còn người tiêu dùng “sành điệu” đều cần đến nhà sản xuất chính hiệu, nhưng họ đều không gặp nhau được, do có “anh” sản xuất hàng kém chất lượng đứng chắn ngang và trong quan hệ giữa người sản xuất hàng kém chất lượng với người tiêu thụ thì nhà sản xuất (bia và thơ) luôn luôn “đầu độc” khách hàng làm suy yếu “khẩu vị” của họ, mỗi người theo một kiểu khác nhau.

Chủ nghĩa hậu hiện đại được một
số văn nghệ sĩ VN tiếp nhận và thực tế nó đang trở thành một xu hướng sáng tác
(xu hướng chứ chưa phải là trào lưu) trong thơ ca đương đại VN nhất là trong giới
sáng tác trẻ. Có nhiều cây bút đã vận dụng thành công phương pháp sáng tác này
và “đứng được” trên thi đàn. Nhưng cũng không tránh khỏi thực trạng lạm dụng
cái mới cái lạ học chưa hết chiêu đã hành nghề… gây ra một môi trường thơ hổ lốn
đầy rượu dỏm bơm vào vỏ rượu Tây.Cho nên có những bài thơ tắc tị nhưng ngụy
trang bằng một cảm thức cao siêu kiểu như là một số người viết chữ xấu đọc
không được lại thành nghệ thuật thư pháp tiếng Việt vậy. Phổ biến nhất là loại
thơ dung tục thông tục hóa tầm thường – cả nội dung lẫn hình thức mà có lẽ
tác giả của nó chưa học hết chiêu “tục và thanh” trong thơ truyền thống.
2. Phân biệt thơ và cái không phải thơ: Xác định thế nào
là thơ?
Lại đụng phải một vấn đề lớn, khó
khăn của lý luận văn học đây. Xưa nay, các bậc học giả đã thường tìm cách định
nghĩa, nhưng có thể nói, đây là “một câu hỏi lớn không lời đáp” vậy. Hình như
con số định nghĩa về thơ phải có đến hàng ngàn, có điều không có cái nào giống
cái nào, điều đó chứng tỏ cái cụ thể đó (thể loại thơ) lại rất trừu tượng và
khó nắm bắt. Chẳng hạn theo Voltaire: “Thơ là hùng biện du dương”, theo A.De
Musset: “ Thơ là tiếng nói nhẹ nhàng của tâm tình” ,. Ở VN ta cũng có hàng chục
định nghĩa về thơ. Chẳng hạn, theo Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng tình, đồng ý,
tiếng nói đồng chí”, còn Chế Lan Viên: “Thơ là gì? Là thơ lơ mơ …”. Hai định
nghĩa về thơ của hai danh nhân nước ngoài khác nhau hoàn toàn, thậm chí đối nghịch
nhau và xác định đối tượng phản ánh của thơ cũng không giống nhau: là du dương
của hùng biện, là nhẹ nhàng của tâm tình. Còn hai định nghĩa của hai nhà thơ VN
cũng vậy: là tiếng nói đồng cảm, đồng điệu (Tố Hữu), là tâm hồn bảng lảng, bay
bổng, mơ màng …(Chế Lan Viên).
Nhà thơ dù lớn, vừa vừa, hay nhỏ, tự mình cũng phải xác định
thơ là gì khi cầm bút sáng tác ra thơ, (dĩ nhiên là sự xác định này không ai giống
ai). Nói theo dân gian: Trước khi làm phải biết mình làm cái gì thì mới làm được.
Hơn nữa, thơ hiện đại luôn đòi hỏi là nhà thơ có tri thức, kể cả tri thức lý luận…
Xác định “thơ là gì” theo lối thực dụng thì có công thức 3T: Tình – Từ – và Tứ.
Thơ trước hết phải có “Tình”, tức là nhà thơ phải có tình cảm mãnh liệt, chân
thật và sâu sắc đối với đối tượng trữ tình; phải có rung động (cảm xúc) đột xuất,
cao trào và bức xúc để tự “bức bách” mình phải “động thủ” thành thơ; đồng thời
tình cảm và rung động này phải đủ để làm nảy sinh, hòa nhập “quấn quít” với một
trí tưởng tượng phong phú, bay bổng.
Thứ hai là “Từ”, tức là ngôn ngữ thơ. Thơ là nghệ thuật bậc
cao của ngôn ngữ, mà là ngôn ngữ hình tượng. Ngôn ngữ thơ phải mới, phải sáng tạo
không lặp lại người khác, không lặp lại mình, không ước lệ sáo mòn, nói theo
ngôn ngữ hiện đại là không “lập trình sẵn”. Ngôn ngữ đó phải càng “lệch chuẩn”
càng hay. Vì càng “lệch chuẩn” càng tránh được sự sáo mòn, lặp lại, lập trình sẵn
ngôn ngữ, điều kiêng kị nhất trong thơ. “Lệch chuẩn” nghĩa là vừa giống mọi người
(chuẩn), vừa khác mọi người (lệch). Vì cái “Giống” tức là theo chuẩn mực chung
về sử dụng ngôn ngữ để mọi người hiểu được. “Khác” tức là phải có cái mới, cái
lạ mới thành thơ để mọi người thích. Chẳng hạn như Nguyễn Du viết: “Trăm năm
trong cõi người ta” thì cái “giống” (chuẩn) là: cõi trời, cõi trên, cõi Phật,
cõi trần gian … theo kết cấu cụm từ tiếng Việt, chứ chưa ai nói “cõi người ta”
như Nguyễn Du cả. Nếu viết “Trăm năm trong số người ta”, thì chưa chắc ngày nay
chúng ta có thi hào Nguyễn Du, nhà văn hóa lớn của thế giới. Cả tuần nay giới
thơ ca đang xôn xao về bài thơ dài “Trăng ca” của tác giả trẻ Võ Thị Phương
Thúy đăng trên diễn đàn: ngyuentrongtao.org . Thành công của bài thơ do nhiều
yếu tố hợp lại: điêu luyện - cách tân – tứ thơ mới – cảm xúc cái nhìn lạ
lẫm về trăng… nhưng có một yếu tố quan trọng đã biến câu lục bát thành thơ lục
bát mà tác giả vận dụng rất có tay nghề là: ngôn ngữ thơ “lệch chuẩn” một cách
rất có ý thức.
Thứ ba là Tứ. Tứ thơ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và
trừu tượng nên rất khó diễn giải. Theo tôi, “tứ” được hiểu như là một phương thức
nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình”
của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ). Cả ba yếu tố đó tổng
hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm. Như thế, chất trí tuệ,
năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công
suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”. Chính tứ thơ làm
cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất
là thơ hiện đại. Thơ tứ tuyệt đường luật chỉ ngắn bốn câu, nhiều bài ta thuộc
lòng mà vẫn thích đọc lại, thích ngâm vì tứ thơ quá hay, quá bất ngờ. Thơ
Hai-ku của Nhựt Bổn, chỉ có ba câu, ta chỉ đọc qua bản dịch mà vẫn cảm được vì
tứ thơ quá lạ, quá “siêu”. Bài thơ hai câu của Phan Thị Thanh Nhàn: “ Người tôi
yêu đã đi xa – Người yêu tôi lại ở nhà, chán không?”được rất nhiều người Việt
Nam yêu thích vì tứ thơ quá thiệt, quá quen mà quá lạ. Ngày nay, nhiều bài thơ
văn xuôi dài ngoằng, gần như không vần, không luật, rất khó nhớ mà có người vẫn
thuộc lòng vì tứ thơ quá độc đáo. Dù có vần, có điệu mà không có tứ thơ thì
không thành bài thơ mà chỉ là vè, văn vần, là khẩu hiệu tuyên truyền cổ động…
mà thôi. Không quan niệm thế, không chú trọng yếu tố “tứ” trong thơ, một quan
niệm khá phổ biến hiện nay, mà tiêu biểu là trong một số sách giáo khoa, giáo
trình… là thay thế yếu tố “tứ” bằng yếu tố “tính nhạc” của thơ. Ai làm thơ cũng
biết câu: “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”, vậy thì tính nhạc nằm đâu
trong 3 T? Xin thưa: Nó nằm trong “từ” (ngôn ngữ thơ). Ngôn ngữ thơ có hai mặt:
ngữ nghĩa (có thể coi như thuộc về phạm trù tinh thần) như đã nói qua ở trên và
tính nhạc (có thể coi như như phạm trù vật chất). Tính nhạc trong thơ bao gồm 4
yếu tố: âm, thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, theo tôi thanh (nhóm thanh bằng,
nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu)
là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ,
Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu. Ngoài ra còn phải kể thêm nhạc điệu nội tại của bài thơ toát ra từ tình và tứ của bài thơ. Cũng có người ngược lại, coi nhẹ yếu tố nhạc tính trong thơ, vì xem đó chỉ là yếu tố hình thức, mà quên rằng: Hình thức trong thơ nói riêng và trong văn học nghệ thuật nói chung là hình thức đã được “nội dung hóa”, nói thẳng ra: hình thức thơ, trong đó có tính nhạc, cũng chính là nội dung thơ…
Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu. Ngoài ra còn phải kể thêm nhạc điệu nội tại của bài thơ toát ra từ tình và tứ của bài thơ. Cũng có người ngược lại, coi nhẹ yếu tố nhạc tính trong thơ, vì xem đó chỉ là yếu tố hình thức, mà quên rằng: Hình thức trong thơ nói riêng và trong văn học nghệ thuật nói chung là hình thức đã được “nội dung hóa”, nói thẳng ra: hình thức thơ, trong đó có tính nhạc, cũng chính là nội dung thơ…
3. Làm sao tránh được tình trạng… lạm phát thơ như hiện nay?
“Cái không phải thơ”
nhưng lại “giống thơ” đã gây bao ngộ nhận. Công chúng ngộ nhận là thơ, còn người
làm thơ ngộ nhận về tài làm thơ của mình. “Cái giống thơ” lại dễ làm. Khi học cấp
2 đã được học các thể thơ rồi, bây giờ lập trình, ráp chữ, đúng luật bằng trắc
thì thành “cái giống thơ” thôi. Nên có rất nhiều người làm thơ, in ra hàng loạt
để… tặng và để…”thành” nhà thơ. Do đó, người làm thơ phải tự kiểm định thơ
mình trước khi đưa thơ ra mắt công chúng, nhưng mà khó lắm, vì “văn mình, vợ
người” mà. Xin mượn câu nói của nhà thơ Inrasara để tạm kết luận: “Nhà thơ
cần biết sợ thơ… để người đọc còn cần đến thơ” (*).
(*) Văn nghệ BRVT số 76, tháng 8/2005 (trong bài: “Nhà
thơ cần biết sợ thơ… để người đọc còn cần đến thơ”).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét