Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Huế, thi ca và tôi

Huế, thi ca và tôi
Huế - vùng đất mộng mơ, đã lắng sâu trong tiềm thức của tôi với tình cảm thân thương, đằm thắm. Hầu hết mỗi người trong chúng ta đều được một lần nghe nói đến sông Hương, núi Ngự, thôn Vỹ Dạ, chùa Thiên Mụ, cầu Tràng Tiền…qua những khúc tình ca đã viết về cố đô thân yêu này…
Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vương chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về
Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ lắm chi
(Ai ra xứ Huế - Duy Khánh)
Huế buồn, Huế đẹp, Huế thơ... sao lại để cho tôi trăm ngàn lưu luyến, vấn vương!. Mỗi lần nghe nhắc về Huế, là mỗi lần nhớ đến Huế, là nhớ về một vùng ký ức xa xôi, nhớ đến não lòng…
Những đêm dài nhức nhối trên sông Hương
Thả tương tư bay bổng khắp Nội thành
Như sợi khói bay tròn quanh núi Ngự
(Khói tương tư - Đỗ Hữu Tài)
Huế đến với tôi lần đầu tiên khi tôi bước vào lứa tuổi ô mai đầy mộng mơ, trong mùa hè đỏ lửa 1972. Năm đó Đông Hà rồi cổ thành Quảng Trị thất thủ. Máu loang như màu phượng đỏ trên Đại lộ kinh hoàng, trên con đường số 1 từ Mỹ Chánh ra Quảng trị với sự tàn sát dã man của đoàn người tản cư chen chúc. «Một người lính dù, nước mắt chan hòa, đứng lặng giữa hàng trăm, hàng ngàn xác chết, bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy nằm ngổn ngang, chỏng gọng…Những chiếc xe jeep,  xe hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những xác người nằm trên băng ca…Có bộ xương em bé nằm trên bộ xương người mẹ dưới bụi gai. Có xác khô đét như người tiền sử…có xác nằm sấp, có xác nằm co…Tất cả im lặng. Không có tiếng người, không có tiếng chim…» (Trích đoạn «Những oan hồn trên Đại lộ kinh hoàng» - Trần Đức Tường). Sau lần chứng kiến đau thương đó, Ba tôi được lệnh dời tiểu đoàn quân y về đóng quân ở cây số thứ 17 Hiệp Khánh - Phú Bài - Huế.
Và mảnh đất thần kinh này bỗng dưng đã trở nên quen thuộc và thân thương với tôi… Ba tôi cũng bị "chinh phục" bởi Huế. Người thường tâm sự rằng: "Tuy rằng quê quán ở Kinh Bắc, nơi quê hương quan họ; tuy rằng sinh sống ở Sài Gòn, nhưng bây giờ có ai hỏi tôi, nơi nào ở Việt Nam tôi nhớ nhất thì tôi sẽ trả lời là "Huế". Nhiều người hỏi tôi, có mối tình nào ở miền Sông Hương, Núi Ngự. không? Thực tình thì không phải như vậy. Có lẽ là suốt 10 năm đi lính Nhảy Dù, tôi đã đổ ra rất nhiều mồ hôi và đôi khi cả máu mình cho vùng đất thơ mộng nhưng cũng nhiều đau thương nghèo khó này...". Tôi cũng thế. Tôi sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn phồn hoa đô thị nhưng lại yêu thích cố đô cổ kính này. Tuy tôi biết Huế dưới khói lửa chiến tranh tàn khốc nhưng ở đây, từ những đường mái ngói cong cong hoang tàn đổ nát của thành nội, từ những tường đá rêu phong của đền đài, chùa chiền lăng tẩm đến dòng Hương giang nước xanh biếc lững lờ trôi, và núi Ngự bình chìm trong sương khói, mơ màng với gió trăng; tất cả đều mang một nét đẹp đắm say như một bức tranh họa đồ diễm tuyệt của thiên nhiên:

Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ…
(Ca dao)
Vì thế mà tôi đã quyến luyến Huế, quyến luyến một vùng đất của dáng Huế thơ, một bầu trời của chất Huế nhạc và một thế giới của tâm Huế tịnh yên nhưng quật cường bất khuất…
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương giang nước biếc, nhớ Ngự bình trăng trong 
Những tháng ngày ở Huế, có lẽ do bản tính tôi đa sầu đa cảm từ hồi bé thơ cho nên dòng sông Hương có một sức quyến rũ đối với tôi một cách lạ thường.
Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn
Chéo qua Ngọc Trãn đến vạn Kim Long
Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành
Đêm khuya một chiếc thuyền tình ngã nghiêng
(Ưng Bình Thúc Giạ Thị)

Tôi thường thích ngồi trên những bậc thang rêu phong của chùa Thiên Mụ để ngắm nhìn sóng nước Hương Giang dưới cảnh chiều tà dần buông…Thiệt đẹp lắm! Nhìn mặt nước óng ả những giọt nắng cuối cùng, tôi để tâm hồn mình lâng lâng vào trong một thế giới mơ huyền của mùa trăng. Rồi dưới ánh nguyệt tĩnh mịch mơ màng đó, thoang thoảng trong gió âm vang những câu hò mái nhì Huế trầm lặng u hoài. Soi bóng dòng Hương những chiếc đò chuyên chở những cung điệu Nam Ai, Nam Bình não nề ai oán nặng tình yêu thương non nước:
Chiều chiều, trước bến Vân Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non…
(Ưng Bình Thúc Giạ Thị)       
Tôi đã không biết có tự bao giờ nhưng người dân Huế thường tự hào rằng sông Hương là trái tim, là linh hồn, là chiếc nôi của văn hóa nghệ thuật độc đáo của đất nước thần kinh này…Tôi thấy sông Hương xinh đẹp dịu dàng như những o Huế, chảy vào tận đáy sâu của tâm hồn khiến cho Huế trở nên thơ.
Dòng Hương duyên dáng lung linh
Như O con gái tự tình đêm trăng
Mơ màng sương khói mây giăng
Tóc thề buông xỏa đón vầng bán cung
Phím đàn gieo khúc não nùng
Rối lòng lữ khách muôn trùng vấn vương
(Hương Giang dạ khúc - Tiểu Vũ Vi)
Và con sông đã từng chứng kiến biết bao biến cố thăng trầm của Huế qua những thời đại nhục vinh trở nên nguồn cảm hứng diệu kỳ vô tận. Bao tao nhân mặc khách đã đề bút cho dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, của nghệ thuật xứ Huế này. Thi hào Nguyễn Du đã từng cảm tác về sông Hương rằng:
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Sông Hương một mảnh nguyệt
Lai láng sầu cổ câm 
Hương giang cũng được vua Thiệu trị đề thưởng mấy dòng sau:
Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ
Sóng hoa do luyến kết vân anh
Cây cối hai bên bờ sông còn đẫm sương
Hoa trên núi còn vương vấn với mây đẹp đẽ
Trên sông nước Hương Giang, đêm về là cả một thế giới đầy thơ mộng và hết sức quyến rũ, đầy dẫy những con đò tình xuôi ngược trên sông, hòa trong tiếng mái chèo khua đọng, văng vẳng một giọng hò mái nhì tình tứ, thiết tha:
Thuyền về Đông Ba, thuyền qua Đập Đá
Thuyền từ Vỹ Dạ thẳng ngã ba Sềnh
Lờ đờ bóng ngã trăng nghiêng
Giọng hò mái đẩy nhắn tình nước non
Nhà thơ Tôn Thất Phú Sĩ cũng đã từng hoài mơ được «xuôi dòng Hương Giang»:
Mây lơ lững trôi theo dòng nước chảy
Mái chèo đưa khua dợn sóng đôi bờ
Xin lặng thinh nghe giọng hò lơ lẵng
Tự  xa xưa như muôn kiếp ai chờ 
Quả thật, Huế vốn nổi tiếng với dòng âm nhạc dân gian, với những làn điệu dân ca trữ tình như điệu hò mái nhì, mái đẩy, khoan thai, dàn trải, ngọt ngào như tâm hồn người dân xứ Huế hiền hòa; những điệu lý bay bổng, mượt mà như lý con sáo, lý hoài xuân, lý tình tang…
Bước qua xứ Huế đã lâu
Chưa phai kỷ niệm chìm sâu thuở nào
Chân đi ghi dấu Nam Dao
Trường Tiền bao nhịp tôi bao dạ sầu
Tiếng tiêu vang vọng Vân Lâu
Hương Giang nước biếc đêm thâu giọng hò
Lời này nhắn gởi đến o
Trăm thương ngàn nhớ điệu hò trong tôi.
(Việt Hải - Huế, Em tôi)
Bên cạnh đó, Huế còn một dòng ca nhạc cung đình đầy tính trang trọng gọi là nhạc Lễ hay nhã nhạc như giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, yến nhạc. Nhã nhạc cung đình Huế có một giá trị nghệ thuật cao được UNESCO nhìn nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
Nhưng tôi thì lại thích cái nét trữ tình đậm đà của ca Huế hơn…Ca Huế nằm giữa hai dòng nhạc và mang những đặc trưng riêng với chất trữ tình sâu lắng làm xao động lòng người. Ca Huế bao gồm cả hai yếu tố ca Huế và đàn Huế.
Còn gì tình tứ, thơ mộng và lãng mạn hơn là xuôi dòng Hương Giang lững lờ trên một chiếc đò ngang, rồi thả thuyền, chơi trăng, thả thơ, nghe ca Huế…
Dập dềnh sóng vỗ mạn thuyền
Ngồi nghe ca Huế mà lòng bâng khuâng!
Tương tư với nguyệt cùng mây
Hỏi non nước ấy đắm say bao tình?
Sông Hương - Núi Ngự là biểu tượng văn hóa, phong thổ của kinh đô Huế. Nhà thơ Bùi Giáng đã từng tâm sự rằng: «Dạ thưa xứ Huế bây giờ. Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương!»…
Hồn xưa bóng cũ quyện mây trời
Đại Nội mưa buồn lất phất rơi
Điệu hát Nam Ai sầu suốt kiếp
Câu hò Mái Đẩy nhớ ngàn đời
Nam Giao nắng tắt vầng dương nhạt
Thọ Lộc chiều buông sắc ráng vơi
Đứng giữa Hoàng Thành nghe tiếng gió
Xa xa Đỉnh Ngự ánh trăng vời
(Thứ Lang - Hồn Huế)
Huế là xứ sở thanh bình của thơ và mộng. Nói đến Huế là nói đến cái gì đó rất riêng, rất đẹp và thơ. Huế có cảnh đẹp người xinh, nhất là có những nàng Công Tằng Tôn Nữ thuộc dòng họ hoàng gia, mang những cái tên hoa mỹ điển hình của xứ Huế. Tôi rất thích những cái tên dài lướt thướt rất thơ này của những nàng Tôn nữ Huế, nào là Công Tằng Tôn Nữ Thị Trân Phương, hay Nguyễn Khoa Thụy Quỳnh Hương…Ba tôi thường đùa với tôi rằng «tên các o Huế dài như mái tóc thề…»…Mỗi lần từ căn cứ Sally Hiệp Khánh - Phú Bài, nơi đóng quân của ba tôi, vào thành nội, tôi có thói quen hay đi tảo bộ trên con đường Lê Lợi, dọc theo bờ sông Hương, ngắm những tà áo dài thướt tha bay trong gió…Từ muôn thuở, chiếc nón bài thơ cùng với tà áo dài của thiếu nữ Huế đã đi vào thi ca, trở thành một vẻ đẹp đặc trưng làm say lòng du khách…

Ở đây áo tím riêng màu
Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân
(Vài nét Huế - Nguyễn Bính)
Có một điều đã làm thắc mắc một cô bé học sinh Couvent Sàigòn như tôi, lúc nào cũng quen nhí nhảnh trong bộ đồng phục jupe xanh áo trắng, là không biết tự bao giờ tà áo dài trắng, tím cùng cánh nón bài thơ luôn đi liền với hình bóng người phụ nữ Huế mọi lúc, mọi nơi, trong nhà, ngoài phố; ngay cả khi tôi nhìn các o gánh hàng rong ngoài chợ Đông Ba cũng duyên dáng kín đáo trong chiếc áo dài Cát Tường Le mur đó
Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng...
(Bích Lan)
Ba tôi thì cho rằng người con gái Huế thích bận áo dài Huế vì Huế là hiện thân của chiếc áo dài quê hương với hai vạt áo nghĩa tình “Trường Sơn“ và “Nam Hải”. Mỗi lần nhắc đến gái Huế thì tôi lại nhung nhớ đến một tà áo dài lụa trắng đơn sơ, một mái tóc thề, một chiếc nón bài thơ mà nhà thơ Huy Cận đã từng xao xuyến ngẩn ngơ:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong
Hôm xưa em đến, mắt như lòng...
Nở bừng ánh sáng em đi đến,
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng
Tôi mang tâm hồn lãng mạn nên yêu màu tím của tuổi học trò…Và khi đến Huế tôi đã ngất ngây say đến một màu tím của Huế, màu tím của nhu mì, của thầm kín, của đức hạnh, của thủy chung:
Nắng vương nhẹ gót hài thiếu nữ
Cánh phượng hồng như dấu hiệu chia tay
Em thân ơi, anh đã sống những ngày
Huế tim tím ngất say tà áo ấy
(Màu tím Huế nhớ nhung - Lê Trọng Phú)
Và không bao giờ tôi quên được những buổi trưa hè oi ả của ngọn gió Hạ Lào, ngồi trong xe jeep của tiểu đoàn, tôi đã lặng nhìn say sưa những tà áo tím duyên dáng Đồng Khánh, che nghiêng vành nón, suối tóc thề xỏa vai dịu dàng thướt tha bước khoan thai trên cầu Tràng tiền:
Qua Đồng Khánh nhìn sân trường xao xuyến
Huế muôn đời ưa cám dỗ thi nhân
Bóng dáng nào hò hẹn khách dừng chân
Hay là tại nón bài thơ ai đội
Trải vạt áo dài thi ca muôn thuở
Xỏa mái tóc huyền thi nhạc giao duyên
Môi ai cười vành nón lá che nghiêng
Nghe vướng vấp bước chân người khách lạ
(Một lần về thăm Huế - Yên Sơn)
Chiếc áo với hai tà bay lửng lơ cuốn quít theo làn gió trông thật thơ mộng, thật trữ tình …Hình ảnh này đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao tâm hồn nghệ sĩ, phong phú hóa kho tàng thơ, văn, nhạc, họa, nhiếp ảnh trong văn học nghệ thuật Việt Nam như thi sĩ Nguyên Sa đã ngất ngây gửi hồn trong hai tà áo người tình:
Có phải em mang trên áo bay
hai phần gió thổi một phần mây
hay là em gói mây trong áo
rồi thở cho làn áo trắng bay?
 
Nguyên Sa (Tương Tư)
Cái duyên dáng của người con gái Huế được thể hiện qua mái tóc thề buông dài xỏa kín bờ vai. Có lẽ vì thế mà ba tôi thích tóc tôi lúc nào cũng để dài chấm lưng. Mái tóc thề của nàng Tôn Nữ Huế, thơm thoang thoảng mùi dạ lan, biểu tượng nét nguyên trinh của thuở áo trắng học trò vừa chớm biết yêu đương. Một làn thu ba sâu vời vợi phảng phất một chút tình Huế u buồn. Một nụ cười như đóa hàm tiếu e ấp thẹn thùng dưới vành nón lá che nghiêng…
Mái tóc thề xỏa trên bờ vai
Cho tôi nhung nhớ tháng năm dài
Nón lá nghiêng che đôi mắt ngọc
Cho tôi thờ thẩn mộng thiên thu
Đóa hồng tươi bờ môi son đỏ
Mắt nhung huyền đài các mộng mơ
Dáng hồn nhiên sơn ca tình ái
Em mỉm cười ngây dại nắng vàng tơ
(Vương Ngọc Long - Huế ngọc)
Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ làm cho bao nhà thơ, nhà văn và nhạc sĩ phải ngẩn ngơ rồi nhung nhớ đến đi tìm:
Một ngày mùa đông chân về Huế
Đi lang thang tìm mái tóc thề
Mà ngày xưa khi chiều đánh mất
Để vơi sầu giây phút tái tê.
(Đông Hòa - Duyên áo tím)
Con gái Huế không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp cả trong giọng nói thỏ thẻ nhẹ nhàng, thiệt "mặn mà có duyên". Những tiếng «dạ, thưa…» ngọt lịm làm cho người nghe dù chỉ một lần đã thấy vấn vương suốt cả đời 
Giọng em vang tự trời quê Huế
Nhẹ thoáng, xanh veo, mà xốn xang
Nồng cháy như mồi thông núi Ngự
Giọng em nửa thực, nửa mơ màng
Chỉ một lần nghe đủ nhớ đời…
(Huy Cận- Giọng em)
Những ngôn ngữ kỳ lạ của Huế, đã từng làm cho tôi một thời chới với, nào là “mô, tê, răng, rứa”,“bên ni, bên nớ“, “chua choa“ hay những tiếng “hỉ“ gieo cuối câu làm cho tiếng nói của người dân Huế mang âm hưởng của nhạc, thật trầm lắng, du dương và gọi tình…Có lẽ vì thế, tuy rằng ba tôi là trai Bắc Ninh, mẹ tôi là gái Bến Tre, nhưng tôi lại có một giọng nói phảng phất âm hưởng của Huế…Có lẽ vì tôi gắn bó và quyến luyến Huế cho nên tôi đã không biết học nói theo tiếng Huế tự bao giờ. Tôi còn nhớ đã đọc một bài thơ viết về Huế từ thập niên năm mươi của một nữ sinh lớp đệ tam trường Đồng Khánh; bài thơ gói trọn hết cái nét dí dỏm dễ thương của ngôn ngữ Huế giàu nhạc điệu, đầy thi vị:
Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc
Ngó chi tôi đồ cỏ dại hoa hèn
Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
Tui mơ ước có bao giờ tuyệt đích
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ
Rồi ngó tui chi lạ rứa hững hờ
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
(Huế chi lạ rứa)
Nhắc đến Huế thơ, tôi lại hoài niệm về thôn Vỹ Dạ và nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ba tôi đã có lần đưa tôi về chơi thôn Vỹ. Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, dọc theo sông Hương tới Bến Cạn, ẩn hiện trong màn sương trắng trong, dưới những hàng cau xanh tươi quyện trong mùi hương bưởi thoang thoảng dịu êm. Trong thơ của Hàn Mặc Tử, thôn Vỹ Dạ là một thôn đẹp lãng mạn, hữu tình và rất nên thơ. Một nét đẹp mượt mà, óng ả và tình tứ với những khu vườn hoa sum suê trái xanh như lá ngọc, những phủ đệ tường đá rêu phong, một dòng sông trăng chuyên chở những khối tuyệt tình…
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mát quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ơ khách đường xa khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Đây thôn Vỹ Dạ - Hàn mặc Tử)
Thôn Vỹ cũng là nơi mà ánh trăng đẹp nhất Huế. Trăng sáng suốt đêm thâu. Trăng tròn rồi lại khuyết nhưng tự bao đời vẫn vằng vặc tỏa bóng, lúc mờ ảo, lúc hư vô…Trăng theo cánh gió quyện hương đêm về ru tình cho hồn trang trải những nỗi sầu thương…Trăng vẫn dõi bóng đơn côi, thả ánh ngà lung linh như ngàn điệu khúc Nghê thường mê say…Tôi yêu những đêm trăng tình tự của Vỹ Dạ. Vào mùa trăng, những hương bưởi, hương cau, hương chanh, hương lài, hương sứ… đua nhau trổ hoa. Đâu đây thoang thoảng một làn hương mỏng ngọt ngào chợt vỡ trong đêm:
Ánh trăng nhẹ khẽ mơ theo gió
Như nghiêng vành nón rủ tóc thề
Buông lơi…trầm mặc…vân vê
Mùi hương hoa quyện bước về dưới trăng
(Thu Hằng - Mùa trăng hương nồng)
Huế còn là vùng đất nổi tiếng về những món ăn ngon, vật lạ…Có lẽ Huế ngày xưa là của một thời vua chúa cho nên Huế có nhiều cao lương mỹ vị dành cho ẩm thực cung đình, nhiều đặc sản đầy hương vị. Huế đã tập cho tôi biết ăn cay. Tôi tuy đã rời xa Huế hơn một phần tư thế kỷ nhưng tôi vẫn không thể nào quên được chè bắp và cơm Hến cay thơm ngon đặc biệt ở Cồn Hến:
Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê 

(Lục bát đặc sản Huế - Võ Quê)
hay bún bò Gia Hội, bánh canh Nam Phổ, bánh khoái Thượng Tứ, bánh bèo Ngự Bình, bánh bột lọc của «Mụ Đỏ»
Bột trong bọc thịt tôm hồng
Lá xanh em gói ươm nồng hương yêu
Bánh ngon nước mắm cay nhiều
Anh ơi dùng tạm bữa chiều cùng em
(Quỳ Lê)
Tuy đây là những món ăn bình dân nhưng đã để lại cho những người con xa xứ một nỗi nhớ khắc khoải về một mùi hương vị cay nồng, ấm nóng nặng tình nước non, về người con gái Huế khéo léo, đảm đang, công dung ngôn hạnh vẹn toàn như những nàng Tấm thảo hiền…
Những năm tháng tôi ở Huế, chiến trận vẫn tiếp diễn, ngày càng khốc liệt hơn…Tôi đã từng như ba tôi chứng kiến, đau đớn và xót xa với mỗi vết thương của Huế…Tôi cũng đã từng tự hào mỗi khi người dân Huế kiên cường vươn lên từ trong thảm nạn điêu tàn đổ nát của chiến tranh hay thiên tai.
Tôi không phải là người Huế nhưng lại yêu và nhung nhớ Huế vô cùng…Tôi yêu cái huyền ảo hư hư thực thực của Huế mộng Huế mơ. Tôi yêu cái mong manh lụa là tợ như sương khói của Huế thơ…Tôi yêu cái tâm Huế kín đáo bình dị chịu thương chịu khó.
Nhà văn Trần Doãn Nho đã gói trọn một góc trời Huế trong những dòng sau: «Dù thay ngôi đổi chủ, Huế vẫn là Huế bún bò, Huế cơm hến, Huế mưa dầm, Huế phượng đỏ, Huế gió Lào, Huế những cơn bão rớt, Huế lội nước lụt, Huế lăng tẩm hẹn hò, Huế răng tê mô rứa, Huế cao sang và nghèo hèn, Huế hòa bình và sục sôi tranh đấu, Huế cao thượng và hẹp hòi, nghiệt ngã, Huế những mối tình đài các và những thành kiến triền miên, Huế chiếc nón bài thơ và Huế ngủ đò, Huế ở thì buồn xa thì nhớ, Huế tôn nữ và Huế bình dân…».
Phải, Huế mà tôi yêu là như thế đó! Huế thương nhớ ơi, xin cho tôi gửi trọn tấm chân tình về một cố đô thơ mộng, mơ huyền đã đem cho tôi bao cảm xúc, bao rung động, bao mơ ước, bao khát khao thầm kín…, đã cùng chia sẻ với tôi một quãng thời thơ ấu dưới bom đạn…Giờ đây, cho dù ở nơi đất khách quê người, tôi vẫn gửi trăm nhớ ngàn thương về Huế, về một cõi ru tình:
Nhớ về Huế
Nhớ về Huế mộng mơ màu áo tím
Cầu Tràng Tiền guốc khua nhịp kiêu sa
Chao nghiêng vành nón thướt tha tà lụa
Tóc huyền buông xỏa lụy khách hào hoa
Nhớ về Huế sương mờ giăng Núi Ngự
Một giải tơ vàng rủ xuống dòng Hương
Mái nhì mái đẩy, thuyền trôi lờ lững
Vọng khúc Nam Bình da diết luyến thương
Nhớ về Huế xanh hàng cau thôn Vỹ
Sông trăng cổ độ òa trắng đêm thâu
Trải sóng thi ca, ươm tình Tôn Nữ
Lồng trong đáy nước rụng rơi nhánh sầu
Nhớ về Huế những con đường Đại Nội
Cửa Thượng tứ tường đá phủ rêu phong
Vẳng vào thinh không hồi chuông Thiên Mụ
Gọi vào tiền kiếp hồn thiêng Tiên Rồng
Nhớ về Huế ngọt ngào mùi hương bưởi
Xuôi Thuận an nghe biển gió ru hời
Chiều Đông Ba nồng cay thơm cơm Hến
Bến Vân Lâu huyền thoại vướng mây trời
Ôi chi lạ chừ, răng mà nhớ rứa!
Huế lãng mạn đẹp tựa nón bài thơ…

2/6/2006
Bích Phượng
Theo http://www.ninh-hoa.com/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...