1- Chiều Saigon mưa suốt, cơn trắng trời ngập lụt phố phường. Thư
phòng im vắng, tôi nghe và cảm rất rõ bóng dáng mình đang lướt đi trên dòng thời
gian bong tróc rứt rời từng mảng, từng sát na - mình giây phút này không còn là
mình giây phút trước, cứ thế huyễn hoặc triền miên cho đến lúc nào đó… “Mệt
quá cái thân ta này, nằm xuống với đất nghỉ ngơi” (Ngẫu nhiên - Trịnh Công
Sơn).
Đọc đến chương 12 - Từ “Tiếng Nói Dân Tộc” đến “Điện
Tín”- (Hồi Ký Không Tên - NXB Trẻ-2004), nghe cố nhà báo Lý Quí Chung
- Chánh Trinh kể lại: “Cùng thời điểm Trịnh Công Sơn sáng tác những bài hát phản
chiến (bắt đầu từ năm 1968), phần tôi (LQC) trên báo Tiếng Nói Dân Tộc cũng tổ chức
cuộc thi viết phóng sự với chủ đề “Viết cho quê hương, dân tộc” dành cho bạn đọc. Các
bài dự thi đều chống cuộc chiến, chống sự can thiệp của người Mỹ, phản ánh tâm
trạng, thực trạng khắp miền Nam, tất cả hợp thành bức tranh xúc động và trung
thực của nửa phần Tổ quốc phía Nam… Báo TNDT đã mời giáo sư Lý Chánh Trung làm
chủ tịch Hội đồng chấm giải...” (tr 154) - gợi tôi nhớ chút kỷ niệm với hai
truyện ngắn bút danh Phan Đồi Thông, đươc chọn vào vòng loại cuộc thi của báo: “Khi
màn đêm buông xuống” (TNDT-1968), “Về phía có mặt trận” (ĐT-1971) - Rất tiếc các
bài viết bị thất lạc cùng với nhiều sách báo trong lúc chuyển nhà. Cả hai truyện
ngắn đều đề cập đến nỗi thống khổ của phận người trong chiến cuộc - Miền Đông
đất đỏ: đêm súng ống rình rập nặng nề đầy nỗi phập phồng lo sợ, ánh trăng lạnh
ghê người, tiếng chó tru táp vào hư không tĩnh mịch, tiếng dép lốp bước vội, tiếng
lách cách va chạm của binh khí và hơi thở nén lại trong lồng ngực muốn vỡ
tung… - Hình ảnh cỗ quan tài ốm xọp nhốt thi thể một người lính nào đó trong bốn
phiến gỗ chật chội tối tăm, phủ lá cờ ba sọc di chuyển qua phố thật buồn; chi
tiết một số giáo viên kẹt trong vùng chiến sự (Bình long, Phước Long) chờ di tản
- chiếc trực thăng đầy nhóc người quá tải loạng choạng bốc vội khỏi mặt đất, một
thầy giáo còn rất trẻ liều mạng đu bám theo, sút tay rụng xuống cuộc binh đao!
Chắc giờ này các bạn đã qua cầu Nại Hà húp bát cháo Lú quên đi tiền kiếp, đầu
thai cho số phận khác lâu rồi? Dòng người di tản chạy thoát khỏi vùng chiến
sự. Hòa bình cách đó vài trăm mét… Mọi người khát khao công cuộc dựng xây
- ”Chát búa đập nơi công trường sắt thép/ Nhà máy vang những nỗ lực không ngừng”.
Thập niên 60, thời thư sinh yêu thích văn chương, tôi tập
tành sáng tác - thấy bài được xuất hiện trên báo là vui rồi. Thơ, tùy bút, viết
ngắn (bút danh Phan Nguyễn Song Linh, Linh Dạ, Phan Đồi Thông), có mặt rải rác
mục Bút hoa, Tuổi hoa, Văn nghệ, Sáng tác bạn đọc… các nhật báo Saigon (Thần
Chung, Đuốc Nhà Nam, Dân Chúng, Chánh Đạo, Đất Tổ, Saigon báo, Dân Tiến, Trắng
Đen, Giai phẩm Xuân Sư Phạm, Pétrus Ký…).
Lúc bấy giờ chủ yếu viết chơi thôi, viết ra rồi bỏ đó, và làm
gì có nhận thức lý luận soi rọi như cách nói của Aleksandr Blok - nhà thơ Nga
(1880-1921): “Nếu không sống nhập vào thời đại của mình thì đừng có viết làm
gì”. Chiến cuộc dai dẳng càng lúc càng khốc liệt, tàn phá đất nước, trút đau
thương lên đầu dân tộc, gieo rắc hận thù ngộ nhận chia cắt lòng người, đã thôi
thúc, trào ra từ ngọn bút non tơ. Các sắc lệnh tổng động viên từng phần rồi
toàn phần (năm 67, 68), đã biến bọn đầu xanh chúng tôi thành những thanh củi được
tọng vô tội vạ vào lò lửa thiêu đốt phi lý: “Tuổi thơ lớn dậy muộn màng/ Ngó
trời, ngó đất, ngó đèn nhang câm” (PVT). Giờ nhìn lại lịch sử, tôi vẫn còn nghe vẳng
những lời bi thiết:
- Đèn nhang anh thắp cho anh/ Hình nhân giấu mặt tay khoanh đứng
chờ - (Cáo phó -1965) - Em cười vỡ hạt ca dao/ Thác đi về ngõ lũy hào đầu
thai/ (Bài cho em - 1970 - PVT)
- Đất nước buồn úp mặt/ Giữa lòng phố mê man/ Ru điệu ca nát
ngướu/ Trong cuộc này gian nan// Con thủy triều hung hản/ Thanh mã tấu ngồi dậy// Tay
chân đan với nhau/ Thối nát từng chiếc thây// Hai bên miền sông núi/ Treo nước mắt
cháy khô/ Nghiêng mình cây lá mọc/ Ban đêm gió lõa lồ// Nhăn nheo vừng trán
đỏ/ Bụi bám giấc ngủ ngon/ Đốt điếu thuốc thứ nhất/ Viên đạn đồng trẻ non// Xin
thêm một ngày sống/ Dấu vết đầy thân thể/ Anh buông xuôi chán chường/ Mọi người
xin được chết (Trong cuộc gian nan - 1966 - PVT)
- Chia làm đôi sông núi/ Căm hờn bôi trên môi/ Mây đen về buổi
tối/ Thi thể này tanh hôi// Vòng kẽm gai dang dở/ Sần sùi viên đá đen/Đánh mất từng
sợi tóc/ Uống từng ngụm quê hương (Đối diện - 1966 - PVT)
- Tôi ôm thế kỷ than dài/ Cho quê hương đó lưu đày lên môi/ Nuốt
từng bọt đắng đơn côi/ Chiến chinh mấy bận đau vùi nước non…// Cỏ cây giờ
rướm máu tanh/ Đêm về rũ rượi mấy cành xương khô/ Từ cơn sóng biển nhấp nhô/ Ngồi
đây mấy kiếp để chờ đổi thay! (Nỗi buồn chưa hết - 1966 - PVT)
- Mấy đồi sim tím xa xưa/ Người theo cát bụi cho vừa nước
non/ Tháng ngày bên vó ngựa mòn/ Tôi rơi nước mắt khóc hồn người ơi!(Thơ cho
người - gửi hương hồn Dzũng Chinh (*) - người tôi không hề quen - 1967 - PVT).
2- Triết lý “làm gan” sống …(**)
Nhìn lại cả một thời trai trẻ tan hoang - SVHS bị lôi cuốn
vào những cuộc biểu tình xuống đường chống độc tài gia đình trị Ngô Đình
Diệm, phản chiến chống bắt lính, đốt xe Mỹ - đòi “US go home!”…Nội bộ chính
trường miền Nam phân tán rối ren - đảo chánh, chỉnh lý, bầu cử độc diễn… Con
đường hướng về “vùng giải phóng” như một kỳ vọng, hấp dẫn những chàng trai “chưa
trắng nợ anh hùng” - nhưng xem ra vẫn còn là một hành trình tìm kiếm đầy thử
thách. Bối cảnh đó đã khiến xã hội thành thị miền Nam thập niên 60 là mảnh đất
“màu mỡ” cho triết học và văn học hiện sinh bén rễ, sinh sôi nẩy nở.
Triết lý “hiện sinh” đa dạng nhiều màu sắc. J Paul Sartre (1905-1980)
cho rằng: mọi sự hiện hữu hoàn toàn vô lý. Không thể có gì là chân lý cả! vì
mọi sự là vô lý, nên sự hiện hữu của chúng, tất cả, đều là ghê tởm đáng nôn mửa. Và
Sartre cho biết nhân vật của ông phạm tội ác để có thể chứng minh rằng con
người hoàn toàn tự do, không hối hận gì, giải phóng mọi thành kiến luân lý. Rằng
thì: “Các anh được giải thoát mọi thành kiến của giai cấp, mọi cản trở của khu
vực các anh sống, của nền giáo dục. Các anh được giải thoát khỏi tín ngưỡng tôn
giáo, khỏi sự quyến rũ của sự hy sinh; các anh được giải thoát khỏi mọi phong
thái của gia đình, của luân lý; thoát khỏi sự áp chế của lứa đôi (hôn nhân), của
sự cám dỗ làm điều thiện. Các anh được giải thoát cả lòng kính yêu Tổ quốc nữa… Các
anh chỉ còn phải bước một bước nữa là tới chỗ giải phóng hoàn toàn: ấy là tội
ác” (Homme libre, 1943). Tư tưởng của Sartre đã dẫn đến quan niệm cho cuộc đời
là phi lý, mỗi người tự chọn đời mình, sống một cách ích kỷ trên hết,và kể cả
làm tội ác!
Trong cuốn “Les Nourritures Terrestres”, André Gide (1869-1951)
chủ trương sống phung phí buông thả “không chống lại mình nữa, ưng thuận hưởng
lạc một cách tự do”. Gide nói: “Nếu ban đầu tôi đừng nhịn uống thì đâu có
khát khao nhiều”. Ở cuốn “L’immoraliste” (Kẻ Vô luân), Gide ca ngợi đạo cảm
giác và đưa đạo đó lên hàng nhân bản chủ nghĩa; từ chối mọi cái gì là vĩnh cửu, là
lý tưởng, là cao xa. Chỉ có một thái độ đáng kể: sống thành thực, thành thực bằng
cả thân xác cuồng loạn của con người.
Tư tưởng của Gide cực kỳ nguy hiểm, giết chết lý tưởng sống
cao đẹp của thanh niên, tàn phá xã hội loài người! Không thể đổ lỗi cho Chúa
theo cái kiểu “Chúa đã đặt khó khăn vào xác thịt tôi” - “tôi có chọn như vậy
đâu”- cái kiểu như Charles Péguy: “Lạy Chúa, là đấng đã nhào nặn nên loài người
bằng đất này, xin Người chớ bỡ ngỡ khi thấy họ dính mùi tục lụy” - (Seigneur
qui les avez pétris de cette terre - Ne vous étonnez pas qu’ils soient
trouvés terreux).
André Malraux (1901-1976) băn khoăn về “thân phận con
người” - tại sao sống? và sống để làm gì? Theo Malraux: con người chỉ có một
sự đam mê đáng kể - đó là đam mê khủng bố giết chóc,vì nó giúp cho ta dùng hết
sức lực của mình… Hành động bao giờ cũng chỉ là một lối giải thoát sức lực, trốn
tránh ưu tư, mặc dù không bao giờ tránh được. Malraux quan niệm ám sát kẻ thù
nhưng không vì lý tưởng nào cả; chỉ vì căm ghét loài người, vì nôn mửa trước những
tình cảm tốt đẹp - và cho rằng: “Hành động không vì bất kỳ ai. Có chăng vì một
kẻ khác dòm ngó vào hành động của ta”.
Xã hội miền Nam (1954-1975) thực sự chao đảo, khủng hoảng niềm
tin. Tôi đã sống trong đó phần đời trẻ măng của mình. Nhìn lại dù tích cực hay
tiêu cực, dẫu sao tất cả là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử. Không ai có thể
tự túm tóc nhấc mình lên khỏi mặt đất - và do đó họ rất dễ trở thành con rối
cho đời giật dây từ mọi phía.
Hồi Ký Không Tên là bức tranh lịch sử thập niên 60 cho đến
khi kết thúc chiến tranh (tháng Tư 1975). Bức tranh đó có đủ màu sắc, từ sáng đến
tối, màu này chồng lên màu kia, sự kiện này che lấp sự kiện kia, chi tiết này
chen lấp chi tiết nọ… Mong mỏi của cố nhà báo Lý Quí Chung là: “có thể giúp người
đọc hiểu rõ thêm một số sự kiện xảy ra tại miền Nam trước 1975”. Riêng tôi rất
thú vị khi bỗng nhặt được mảnh vụn ký ức tưởng chừng mất tăm - một thời “viết
lách” xa ngái dễ chừng gần nửa thế kỷ!...
Chú thích:
(*) Dzũng Chinh nhạc sĩ phổ ca khúc Những đồi hoa sim -
thơ Hữu Loan.
(**) Sách tham khảo: “Sứ mệnh văn nghệ” Nguyễn Nam
Châu, NXB Đại Học - 1958.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét