Trịnh Công Sơn
qua góc nhìn người nghe nhạc
Nhìn lại chặng đường Văn học
Việt thì có rất nhiều văn sĩ thi sĩ nổi tiếng được lưu danh vào lịch sử Văn học
nước nhà qua các thời kỳ vàng son, sáng giá nhất trên bầu trời Nghệ thuật văn
chương là cụ Nguyễn Du với truyện Kiều 3.254 câu lục bát bất hủ, cụ Du là nhà
thơ có sức học uyên bác vào thời Văn học Trung Đại, tác phẩm truyện Kiều đưa Cụ
cùng thể thơ lục bát đạt đến đỉnh cao của danh vọng và nghệ thuật thơ ca.
Từ ngày cụ Du tạ thế năm 1820, mãi đến
khi Trịnh Công Sơn ra đời mới có ngôi sao Nghệ thuật Tân nhạc lấp lánh trên bầu
trời Đất Việt. Hai trăm năm không quá dài không quá ngắn, cụ Du có đủ thời gian
ra thách thức và tự khẳng định mình là số một thi ca từ cổ chí kim, không nhân
vật tài ba nào có thể sửa dùm cho Cụ một chữ trong 3.254 câu lục bát tuyệt tác.
Tuy nhiên cụ Du vẫn hiểu là “nghệ thuật không có đỉnh cao tuyệt đối”, nghệ thuật
sau cao hơn nghệ thuật trước là định luật phát triển tự nhiên xưa nay. Và thời
gian còn là cái nôi sinh ra nhân tài cho đất nước, đất nước có nhiều nhân tài
thì sự tôn trọng cũng bắt nguồn từ đó, đó còn là sự may mắn cho một dân tộc. Trịnh
Công Sơn là nhân vật hậu thế, nổi danh khoảng thập niên 50 của thế kỷ 20, danh
của ông lan rộng ra nước ngoài vì tài năng âm nhạc xuất chúng của ông, nhất là
dòng nhạc Phản Chiến, thể hiện rõ tấm lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người
và hòa bình của ông; ông có “Đĩa vàng” và Giải thưởng âm nhạc tại Nhật, có tên
trong Tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp (1).
Năm 2019, do nhạc và danh tiếng của ông có tầm ảnh hưởng rộng rãi trong nước và
cộng đồng quốc tế, Google đã vinh danh ông vì sự cống hiến đó.
Ngôn ngữ ca từ của Trịnh Công Sơn được
giới chuyên môn xem là thơ, nếu xem Trịnh Công Sơn là một thi sĩ “nói lạ” độc
đáo thì Văn chương Việt có thêm một nhà thơ cá biệt và hiếm có.
Thơ cụ Du sinh động hiện thực bởi muôn màu
cuộc sống tả chân, người đọc Kiều cảm cùng cảnh ngộ với nhân vật mà cụ Du quan
niệm Tài - Mệnh tương đố, đồng thời bừng bừng căm giận chế độ phong kiến hà khắc
và thối nát, quan lại tham ô sách nhiễu dân lành, chà đạp lên thân phận người
phụ nữ như: Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Tú Bà v.v…
Bút pháp của cụ Du đã đạt đến đỉnh
cao của nghệ thuật tả chân bằng lối thơ lục bát có thủ pháp điêu luyện. Trái với
cụ Du, ngôn ngữ ca từ của Trịnh Công Sơn được xem là thơ thì bãng lãng sương
mai của thể thơ siêu thực khó hiểu. Ngôn ngữ lạ kỳ của Trịnh Công Sơn dẫn đến
người yêu thích nhạc của ông gọi ông với nhiều mỹ danh thán phục: Phù thủy văn
chương/Phù thủy ngôn từ/ Phù thủy của chiếc đũa thần: ví như ông gõ vào con chữ
nào thì lập tức nó biến hóa có hồn có xác theo ý ông muốn. Các nhà chuyên môn gọi
ông là “hiện tượng Trịnh Công Sơn”, họ còn tìm thấy ở ngôn ngữ của ông chứa đựng
nhiều tầng nghĩa: Triết học/ Phật học/ Thiền học, v.v… Từ cổ chí kim có ngôn ngữ
nghệ thuật nào cùng một lúc chứa đựng nhiều tầng nghĩa như vậy không? Hỏi thiên
tài âm nhạc thế giới là có ngôn ngữ ca từ nào như Trịnh Công sơn không?
Tài năng của Trịnh Công Sơn có thể nằm
trong 2 câu mà cụ Du đã tả tài nghệ nàng Kiều:
Thông minh vốn sẵn tư trời
Trịnh Công Sơn có thông minh
không, tất nhiên là có, ông là thi sĩ, họa sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, vì vậy ngôn ngữ
ca từ của ông mang đậm thơ và họa, có thể hai cái này làm ngôn ngữ của ông nhòa
nhạt vào nhau nên bãng lãng khói sương của bức họa như thơ: họa tức thơ, thơ tức
tình, tình tức cảnh,… Cứ nối tiếp xuyên suốt đi từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai: quá khứ hư ảo, hiện tại mờ nhòa, tương lai bãng lãng, nó làm người nghe
quay cuồng không bắt kịp hình ảnh nào là thực và hình ảnh nào là hư….
Về niềm tin sáng tác cụ
Du chủ trương Tài Mệnh tương đố:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Trịnh Công Sơn thì tin
kiếp luân hồi huyền bí trong giáo lý nhà Phật, như: Một cõi đi về/ Cát bụi/ Ngẫu
nhiên,…
Cụ Du và Trịnh Công Sơn đều lấy
thiên nhiên làm thước đo cái đẹp, Cụ tả chị em nàng Kiều:
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da (Thúy Vân)
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh (Thúy Kiều)
Trịnh Công Sơn tả mỹ nhân của
mình:
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ
Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai (Như cánh vạc bay)
Cụ Du tả thực một cách tài
tình, như sờ như thấy trước mắt, Trịnh Công Sơn thì thần kỳ hư ảo, hai ông thổi
hồn vào mây gió, hoa lá,…đều biết ghen biết hờn.
Tóm lại, hai ông đã đứng trên
đỉnh núi cao của Nghệ thuật ngôn từ, bút pháp tả chân của cụ Du đạt đến đỉnh
toàn bích; bút pháp của Trịnh Công Sơn phù phiếm biến hóa của thế giới
siêu thực. Hai ngọn núi Ngôn từ hùng vĩ của thơ ca sừng sửng đứng giữa bầu trời
Đất Việt: đệ nhất thắng cảnh trong kho tàng Văn hóa văn học Việt cho đến tận
ngày nay: “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, ví như cụ Du đã tả
vẻ đẹp cân phân của chị em Thúy Kiều.
Phần cụ Du tới đây là hết.
Trịnh Công Sơn có hơn 600 ca
khúc, mỗi ngôn ngữ ca từ được xem là một bài thơ hay, đem nối các ca khúc đơn lẻ
thành một bản “Trường ca về tình yêu thân phận và quê hương đất nước” thì số
câu chữ khá kinh ngạc. Giả sử mỗi ca khúc có 32 trường canh, mỗi trường canh là
5 chữ ca từ (xin tính dùm).
Người ta đồn là nhạc của Trịnh Công
Sơn chứa nhiều chữ “học”: Triết học/ Phật học/ Thiền học, v.v… Mấy chữ ‘học’ này là
ngoài sự hiểu biết, người viết cảm được cái gì thì nói ra cái đó:
Nghe nhạc Trịnh rất cần sự yên tỉnh
nhất là lúc đi ngủ, bên cạnh chiếc máy nghe nhạc, nằm nhắm mắt hít thở thật sâu
rồi thở ra nhẹ nhàng làm nhiều lần cho tâm bình ổn như khi ngồi Thiền, sau đó lắng
nghe Hồng Nhung, Ngọc Lan, Khánh Ly hát nhạc Trịnh… Nên chọn tiếng hát Khánh Ly
trước 1975, khi đó chị còn trẻ, tâm trạng của một người trẻ khi yêu hay bị dỡ
dang thường có khác hơn lúc lớn tuổi, mọi cảm xúc được thể hiện rõ qua giọng
hát nồng nàn tình ái và sâu lắng của chị. Là người trẻ thì chọn những ca khúc đầu
tay của Trịnh Công Sơn: Ướt mi/ Biển nhớ/ Diễm xưa,… vì Trịnh Công Sơn lúc này còn
trẻ, ông yêu cuồng nhiệt và say đắm hơn. Người già bệnh tật, sắp chết thì chọn:
Một cõi đi về/ Cát bụi/ Ngẫu nhiên, nghe thường xuyên thì không còn hoang mang sợ
chết khi bệnh tật tuổi già, hoặc nghe những ca khúc có triết lý suy niệm sâu xa
thì rất tuyệt. Đây chỉ là gợi ý.
Đúng là nhạc Trịnh cho ta nhiều
tầng nghĩa như chữ “học” nói ở trên, nghe nhạc Trịnh đêm khuya, tính Thiền xuất
hiện lúc cái tâm đuổi rượt theo ca từ nói lạ, nó làm quên đi mọi thứ buồn vui của
cuộc đời, bởi sự chiêm nghiệm về cuộc đời được Trịnh Công Sơn khắc họa vào lời
ca tiếng hát, người nghe tập trung cao độ vì sự khó hiểu của ngôn ngữ ca từ nói
lạ của ông, người nghe cố suy viễn cách nào đi nữa thì cũng không ngoài những ý
đẹp mà Trịnh Công Sơn muốn đưa vào ca khúc của mình. Và chính cái này đã làm
cái tâm như được thanh lọc qua «lớp lọc ca từ» (như sỏi, cát, đá của bình lọc nước)
nhằm loại bỏ cặn bã: phiền muộn lo âu sẽ biến mất khi tâm được thanh lọc qua lớp
ca từ, rồi dần dần đi vào giấc ngủ bình yên.
Giai điệu slow, boston đi thư
thả cùng lời ca tiếng hát, tựa hồ như gõ mõ tụng kinh của các vị thiền sư ở
chùa ngồi Thiền: tay gõ mõ, mắt nhắm nghiền, miệng râm rang kinh Phật, mọi hành
động chìm sâu vào vô thức, lúc ấy, sắc dục không còn xâm thực nội tâm, chỉ có lời
kinh Phật như cây bút tẩy, tẩy xóa vết hằn dục vọng nơi trang giấy lòng đã bị
thời gian hoen ố lâu ngày bởi cuộc sống kim tiền bề bộn. Ví như mặt hồ nước:
tâm động làm sóng động, sóng động che tâm, dẫn đến tâm hành động thiếu sáng suốt;
tâm tịnh sóng yên, lúc đó tâm nhìn tận đáy của tâm một cách sáng suốt nhất để
biết đâu là đúng là sai. Nghe nhạc Trịnh thường xuyên làm tâm bớt vọng động,
sáng suốt trong cách nghĩ cách làm: đó là Thiền tâm khi nghe nhạc Trịnh, cũng
không nhất thiết phải nghe ban đêm, nghe bất kỳ lúc nào và ở đâu.
Có lẽ Trịnh Công Sơn đúc rút từ
chân lý cuộc sống thực và sách vở mà ông đã chiêm nghiệm nó, ông lấy đó làm nền
tản cho triết lý sống của mình bằng ba trụ cột: Chân - Thiện - Mỹ, đây là hình
dạng của chữ Đức trong mọi ý nghĩ của những con người có trí tuệ; ông nhìn sự vật
hiện tượng nào thì ở đó lóe lên cái đẹp, cái chân thiện, vì vậy mọi sự vật hiện
tượng đối với ông đều có hồn có xác như một sinh linh thật sự, dẫn ông đến mọi
ý nghĩ và hành động: yêu thương cỏ cây, sỏi đá, yêu thương con người và quê
hương đất nước của ông, nổi bật ở dòng Phản Chiến ông luôn ngầm kêu gọi mọi người
cần hướng đến ba đức tính cao đẹp đó. Nghe nhạc Trịnh cho ta triết lý sống đẹp,
sống chân thành, sống vị tha, sống cho đến lúc hai tay buông xuôi, chỉ để cho
gió cuốn tấm lòng đẹp đó bay đi, một triết lý diệu mỹ của Phật pháp về tình yêu
thương bất vụ lợi mà Trịnh Công Sơn đã cảm tác vào nhạc (…). Triết lý sinh tử
trong các ca khúc: Một cõi đi về/ Cát bụi/ Ngẫu nhiên, nó làm người nghe tỉnh tâm
không lo sợ chết và an nhiên trong cuộc sống bề bộn, vì chết không phải là hết,
chết là sự bắt đầu cho kiếp sống mới.
Thuở thiếu thời Trịnh Công Sơn
có dịp xây cho mình một tượng đài vững chắc đó là tính Phật trong ông, theo như
ông mô tả dưới đây:
Tôi là Phật tử trong một gia
đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và
thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đi đến chùa vì thích yên tĩnh. Có những năm
tháng bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi
thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những cầu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã
có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản
văn hóa Đông Tây nhặt được, còn có kinh kệ vô tình nằm ở đấy. (2)
Trong ông thấm nhuần triết lý
nhà Phật về lòng từ bi hỷ xả chúng sinh, vì vậy, trong các ca khúc ông luôn thể
hiện một tình yêu cao đẹp với mỹ nhân của mình “yêu em yêu thêm tình phụ”, v.v… Ở
dòng nhạc Phản Chiến, tính Phật của ông bừng bừng sự phẫn nộ khi chiến tranh
làm cho đồng bào và đất nước ông điêu linh. Nghe nhạc Trịnh ta thấy: yêu thương
không thù hận/ bao la không hẹp hòi/ vị tha không cố chấp,… đây là Phật tính nổi
bật nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Ảnh hưởng nhạc Trịnh trong đời
sống xã hội đương thời: Thế giới ngày nay không quá cách xa, âm nhạc trở thành
những người bạn kết nối và giao lưu không biên giới ngày tràn ngập thị trường
âm nhạc trong nước bằng nhiều thể loại nhạc trẻ trung, mang nhiều phong cách mới
lạ và phong phú đa dạng, góp phần đẩy nhanh nền Tân nhạc Việt theo hướng hiện đại,
đáp ứng nhu cầu và thị hiếu nghe nhạc của đông đảo người nghe, nhất là giới trẻ.
Tuy nhiên, một bộ phận của giới trẻ ngày tỏ ra mệt mỏi với lối sống nhanh sống
gắp, họ muốn tìm về cội nguồn: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” để ngẫm lại chính
mình. Và tìm cách thanh lọc nội tâm đã có ít nhiều tham vọng trong cuộc sống
kim tiền, qua con đường “Nghe hát nhạc Trịnh”. Nhạc Trịnh dẫu có mơ hồ khó hiểu,
trừu tượng hay siêu thực ra sao thì ở đó họ vẫn bắt gặp được cái đẹp, mong tìm
cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vốn nặng nề của cuộc sống thực dụng. Nghe
nhạc Trịnh như nghe ông thầy sống giảng luân lý, hoặc cùng một lúc nghe nhiều
môn học: Triết học/ Phật học/ Thiền học/ Ngữ học/ Văn học, v.v… phụ thuộc độ nhạy và sự
hiểu biết của mỗi người, vì lẽ đó, nhạc Trịnh mới tồn tại và được mọi giới mọi
ngành hát và nghe như một “Thánh kinh” về cuộc đời tạm bợ. Có thể khẳng định:
bao giờ “Chân - Thiện - Mỹ” không còn trong đời sống xã hội thì nhạc Trịnh sẽ
biến mất vĩnh viễn.
Xin bịa câu chuyện vui để kết:
Cụ Du và cụ Sơn, hai cụ thắp trầm
hương bàn chuyện thơ nhạc, cụ Sơn gọi cụ Du bằng cụ Cố thầy vì tài làm thơ xuất
chúng của cụ Du, cụ Du đỉnh đạc trong bộ áo dài khăn đống thời Trung Đại, Cụ
nói với học trò Trịnh Công Sơn khả quý của mình:
- Ta rất mừng vì có đồ đệ xuống đây
để cùng ta đối ẩm và đàm đạo chuyện thơ văn… - cụ Du vuốt râu trầm ngâm - Gần
200 năm nay ta rất cô đơn buồn tẻ vì không thấy ngôi sao nào lấp lánh trên bầu
trời Văn học nghệ thuật Đất Việt như ta từng mong muốn bấy lâu, nay có đồ đệ là
Ngôi sao Tân nhạc sáng chói trên bầu trời Nghệ thuật văn chương Đất Việt làm ta
rất mừng vui! - cụ Du cười mãn nguyện - Ta biết hậu sinh khả quý mà! - Cụ nhắm
trà thơm trông thích thú.
Trịnh Công Sơn trong bộ veston lịch
lãm, vẫn cặp kính trắng ngày nào cùng nụ cười hiền lành, ông vuốt mái tóc dài
nghệ sĩ nói:
- Trò nói mau cho ta biết chuyện là sao?
- Dạ, tại cái thuyết Tài - Mệnh tương đố của
Cụ đã làm con không sống tới tuổi “thất thập cổ lai hy”, để con có thêm thời
gian cống hiến cho những người yêu thích nhạc cùng bạn bè quốc tế ạ!
- Vậy mi tạ thế năm bao nhiêu tuổi?
- cụ Du vuốt chòm râu bạc như tiên, hỏi:
- Thưa Cụ, 62 tuổi ạ! - Trịnh Công Sơn buồn
buồn.
Cụ Du ngẫm nghĩ rồi cười:
- Trò còn thọ hơn ta 8 tuổi!
-… !!!
Câu chuyện vui trên đây cho thấy sự
mất mát trong nền Văn học nghệ thuật Việt là không nhỏ.
Chú thích:
(1) Bách khoa toàn thư mở
(2) Trịnh Công Sơn, Tập san Giác Ngộ, năm 2004.
- Người viết không có ý so sánh Thi hào Nguyễn Du với Trịnh
Công Sơn, chỉ gợi lên những gì đã đọc qua Kiều và nghe nhạc Trịnh, cảm nghĩ ra
sao thì viết ra vậy. Nếu Trịnh Công Sơn lọt vào tốp thiên tài âm nhạc thế giới
như Mozart, Beethoven thì Đất Việt có vui không, tất nhiên là có. “Tài
năng xuất chúng sẽ mang vinh quang cho tổ quốc”, đúng như Google đã vinh danh cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Chiến tranh đã kết thúc hơn bốn mươi năm, các thế hệ con người
tiếp tục sinh ra sống và làm việc trong một đất nước hòa bình thịnh vượng, tự
do và hạnh phúc, có cả những con người từ hai phía còn sống sót qua cuộc chiến
tranh khốc liệt và dai dẳng của người Mỹ trên đất nước Việt Nam một thời khói lửa.
Vết thương chiến tranh ngày một lành, tư tưởng những con người một thời khắc
khe đã có cách nhìn mới về thời đại mà người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn
sinh sống và làm việc.
Thời ấy, chiến tranh ác liệt đã thôi thúc người nghệ sĩ có tấm
lòng nhân ái đã phải bày tỏ tình cảm của mình qua dòng nhạc Phản chiến đã làm
khuấy động hàng triệu con tim người Việt trong nước và lan rộng ra nước ngoài, ảnh
hưởng tới những con người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới xuống đường
đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Lúc ấy, sinh mạng của người nghệ sĩ thực sự
đi giữa hai lằn tên mũi đạn, nhưng người nhạc sĩ có trái tim “nhân ái” thực sự
can đảm không chùng bước, không nghiêng ngả mà dùng âm nhạc để nói lên số phận
dân tộc, số phận đồng bào ruột thịt phải sống trong cảnh chiến tranh dầu soi lửa
bỏng.
Có lẽ Trịnh Công Sơn là người nhạc sĩ rất đặc biệt trong các
nhạc sĩ cùng thời, ông đem lòng nhiệt huyết có trách nhiệm của một công dân bằng
cách dấn thân vào con đường âm nhạc Phản Chiến mà không sợ nguy nan, nó như thứ
vũ khí đắc lực duy nhất thay cho tiếng nói của những con người thống khổ và vô
tội. Lời nhạc Phản chiến của ông bừng bừng phẫn nộ, lúc tha thiết cảm thương
dân tộc cảm thương đồng bào mình, lúc hô hào quyết liệt đòi hòa bình cho dân tộc
nhỏ bé, lúc thở than bất lực trước sức mạnh vũ khí chiến tranh hiện đại cày xéo
quê hương đêm ngày trong lửa đạn, uất hận nhìn đồng bào mình chết trong cảnh
nhà tan cửa nát, ruộng vườn bỏ hoang, vv…
Ca Khúc “Gia Tài Của Mẹ” là ca khúc tóm lược lịch sử và là
quan điểm rõ nét của Trịnh Công Sơn về cuộc chiến tranh cùng với ca khúc: “Nối
Vòng Tay Lớn” thể hiện niềm vui dân tộc - đó là hai ca khúc chủ đạo nói lên sự
khởi đầu và kết thúc chiến tranh vào ngày 30/4/1975.
“Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày (…)
Mẹ mong con chớ quên màu da
Chớ quên màu da nước Việt xưa….” (Gia Tài Của Mẹ)
“Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Bàn tay nắm nối tròn một vòng Việt Nam (…)
Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay
Ta đi từ đồng hoang vượt hết núi đèo
Vượt thác cheo leo tay ta vượt đèo
Biển xanh sông gấm nối liền một vòng tự sinh. (Nối Vòng Tay Lớn)
Âm nhạc Phản Chiến của Trịnh Công Sơn mô tả chiến tranh tàn
phá khốc liệt không khác những thước phim thời sự chiến trường có góc nhìn hiện
thực và rõ nét nhất, nó làm người nghe phải chứng kiến cảnh chiến tranh tàn khốc
trước mắt là có biết bao số phận người già và em bé kêu gào trong lửa đạn, lê lếch
thịt da nát tan, nhà cửa cháy rực, ruộng vườn hoang phế,vv…Người nghe cảm cùng
cảnh ngộ đến rơi lệ, thương cho dân tộc, cho đất nước nhỏ bé của mình, v.v….
“Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn…..” (Đại Bác Ru Đêm)
“Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
Bên những vồng khô khoai…” (Hát Trên Những Xác Người)
“… Đường anh em sao đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối…” (Hãy Nhìn Lại)
“Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn ăn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục cung thân…” (Ca Dao
Mẹ)
“Người già co ro chiều thiu thiu ngủ
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi…” (Người Già Em Bé)
“Xác người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co
Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa
Trên giáo đường thành phố trên nền nhà hoang vu…” (Dành Cho
Những Xác Người)
“Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hòa bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn…” (Hát Trên Những Xác Người)
“… Giọt nước mắt thương con con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong…” (Nước Mắt
Cho Quê Hương). v.v…
Trên dưới 60 ca khúc Phản Chiến, chỉ vài lời mô tả ít ỏi cũng
đã cho thấy cảnh chiến tranh tàn phá đến thê lương ra sao. Chiến tranh đến nỗi
người ta điên cuồng vỗ tay hoan hô trong trạng thái hoảng loạn của người mẹ người
chị…
Lời nhạc Phản Chiến đậm tính nhân bản, dễ dàng nhìn được cái
Tâm Phật của Trịnh Công Sơn về lòng từ bi bác ái và lòng yêu thương chúng sinh
của Phật pháp, một tôn giáo ảnh hưởng đến tư tưởng và tình cảm của Trịnh Công
Sơn trong sáng tác nghệ thuật ở cả hai dòng nhạc Tình Ca và Phản Chiến. Ngôn ngữ
ở dòng nhạc Phản Chiến có thể coi là một chứng tích hùng hồn về lịch sử chiến
tranh một thời đã đem đến sự thống khổ cho dân tộc và là bức tranh hiện thực của
cuộc chiến được lưu giữ dưới dạng ký ức và ngôn ngữ âm nhạc trong kho tàng Văn
chương nghệ thuật Việt.
Người ta cho rằng Trịnh Công Sơn là người viết Tình Ca hay nhất,
nghĩ lại, ông viết dòng nhạc Phản Chiến hay hơn Tình Ca, vì đó là nỗi đau thực
và lớn lao của một dân tộc nhỏ bé đã có hàng triệu cái chết vô tội của các lớp
người già trẻ….
Ở dòng Tình Ca, bài hát nào cũng thắp thoáng bóng giai nhân
như khói lam sương mai, thơ mộng và trừu tượng. Trái lại ở dòng Phản Chiến thì
hình tượng về đất nước điêu linh, hình tượng về người mẹ thống khổ, hình tượng
về em bé trần truồng đầy vết bỏng cháy, tất cả được đẩy lên hiện thực đến nao
lòng qua ngôn ngữ tả thực đến trần trụi bởi sự uất hận tột cùng của tác giả. Ở
dòng Tình Ca ông mở rộng vòng tay tha thứ, buồn bã mềm yếu, trái lại, ở dòng nhạc
Phản Chiến ông mạnh mẽ kiên cường quyết đấu tranh đòi hòa bình cho quê hương đất
nước của mình, ông ôm khổ đau dân tộc vào con người nhỏ bé của ông, ông xem đó
là trách nhiệm của mỗi người con Việt qua những bài hát tự tình quê hương, tự
tình dân tộc, bất lực trước cảnh bom đạn trút đổ lên đầu đồng bào và đất nước của
ông.
Hãy nghe đoạn tự sự dưới đây để thấy tính “Phật” của ông đã
hình thành từ lúc thiếu thời và là nguồn gốc âm nhạc của ông sau này.
Tôi là Phật tử trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật
giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi
hay đi đến chùa vì thích yên tĩnh. Có những năm tháng bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng
nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa
những cầu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà
Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hóa Đông Tây nhặt được, còn
có kinh kệ vô tình nằm ở đấy. (1)
Trịnh Công Sơn, một nửa con người Nhà Phật, một nửa văn hóa
Đông Tây, hai nền văn hóa đại diện cho văn minh nhân loại đã hình thành nên
cái Tâm chính kiến của người nghệ sĩ khi đã giác ngộ minh triết.
Nhạc Trịnh Công Sơn càng lúc có nhiều thế hệ nối tiếp “nghe –
hát” và lan rộng ra thế giới bên ngoài: vì trong âm nhạc của ông luôn chứa đựng
hai chữ “Tình thương” giữa người với người, nhất là ở dòng nhạc Phản Chiến,
chính vì vậy năm 2019, Google đã vinh danh ông vì sự cống hiến đó và ông
là người Việt Nam đầu tiên được tôn vinh.
Trịnh Công Sơn không phải là người cầu an cho danh vọng riêng
tư, như vậy âm nhạc của ông sẽ lem máu đồng bào của mình. Không! Ông cùng đồng
bào đứng lên đòi hòa bình như ông từng ôm đàn hát trước hàng ngàn sinh viên ở
hai trường đại học Sài Gòn và Huế vào thời trước 1975, những ca khúc Phản Chiến
của ông được giới sinh viên trí thức nồng nhiệt đón nhận, họ chuyền tay chép rồi
hát những lúc sinh hoạt cấm trại và hội họp qua những ca khúc Phản Chiến có
trong các tập: Khúc Da Vàng/ Kinh Việt Nam/ Ta Phải Thấy Mặt Trời/ Phụ khúc Da
Vàng. Nên truyền thông nước ngoài ví Trịnh Công Sơn và Khánh Ly như đôi danh ca
Bob Dylan và joan Baez ở Mỹ với những ca khúc Phản Chiến tranh nỗi tiếng thế giới
(2).
Nhạc sĩ Văn Cao đã viết về Trịnh Công Sơn như sau: “Sơn đã
hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng niềm
vui, biết đau tận cùng của nỗi đau của tổ quốc mẹ hiền” (3)
“Thế giới không ngừng chiến tranh thì âm nhạc Phản Chiến của
Trịnh Công Sơn vẫn còn giá trị ở đâu đó trên quả địa cầu.”
(14 giờ 35. Ngày 1.3. 2019 Kỷ Hợi).
Nguồn:
- (1) Trịnh Công Sơn, Tập San Giác Ngộ, tháng 4 năm 2001
- (2) Bùi Văn Phú talawas. Org. 1.4.2008.
- (3) Nhiều tác giả - Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người. NXB Hội
Nhà Văn Hà Nội, 2012.
- Bách khoa toàn thư mở.
- Trịnh Công Sơn có được “Đĩa vàng” và (Giải thưởng âm nhạc) tại Nhật, ông có tên trong bộ tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp. Rất nhiều binh lính của Thiệu bỏ ngũ khi nghe bản nhạc “Người con gái Việt Nam da vàng”. Lệnh cấm nhạc Phản chiến của Trịnh Công Sơn, do Tổng thống Thiệu ký mang số: 33 ngày 8.2.1969(Wikipedia tiếng Việt).
- Năm 2019, Google vinh danh Trịnh Công Sơn do sự cống hiến của ông.
- Trịnh Công Sơn có được “Đĩa vàng” và (Giải thưởng âm nhạc) tại Nhật, ông có tên trong bộ tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp. Rất nhiều binh lính của Thiệu bỏ ngũ khi nghe bản nhạc “Người con gái Việt Nam da vàng”. Lệnh cấm nhạc Phản chiến của Trịnh Công Sơn, do Tổng thống Thiệu ký mang số: 33 ngày 8.2.1969(Wikipedia tiếng Việt).
- Năm 2019, Google vinh danh Trịnh Công Sơn do sự cống hiến của ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét