Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2022

Cánh phượng tình thơ 1

Cánh phượng tình thơ 1

Chương 1

Cánh Phượng Tình Thơ sẽ đưa ta trở về với những ngày tháng vui tươi của thủa làm học trò và những mối tình ngây thơ lãng mạn nơi sân trường phượng vĩ.

Con bướm vàng ngày xưa đã bay xa rồi
Tôi đem cánh phượng chôn tình thơ tuổi mới lớn...
Tôi viết tặng em bài thơ bằng giấy mực
Hỏi mưa trong lòng hay mưa ở bên ai

Thu Trinh

Mùa hè năm 1972 hai anh em tôi được mẹ gửi lên ở nhà dì Hai ở thị trấn Bảo Lộc để đi học. Lúc đó anh Quang Hùng bắt đầu vào lớp 11 và tôi bắt đầu vào lớp 9. Dì Hai có tất cả bốn người con, chị Bích Phượng lớn nhất, sau hai lần thi tú tài không đậu chị bỏ con đường đi học chỉ ở nhà phụ dì Hai buôn bán, trông nom nhà cửa và nấu nướng. Anh Quốc Dũng cùng tuổi với tôi học lớp 9. Hai người con còn lại của dì nhỏ tuổi hơn chúng tôi, chị Bích Dung học lớp 5 và anh Quốc Trung học lớp 6.

Dì Hai có một cửa tiệm bán gạo ngoài chợ, dì là người cai quản và đứng bán chính, chị Bích Phượng mỗi ngày ra phụ với dì vào buổi sáng lúc chợ đông người. Gần trưa, chị Phượng về nhà nấu cơm và dọn dẹp nhà cửa, đến chiều chị mới quay ra lại tiệm phụ dì Hai dọn hàng và đóng cửa. Dượng Hai làm hành chánh cho phòng bưu điện của thị trấn. Dượng làm công chức nên ngày nào cũng ‘sáng xách cặp đi, chiều xách cặp về’. Buổi trưa thì dượng ghé về nhà để ăn cơm và ngủ trưa, sau đó lại quay lại văn phòng làm việc đến chiều mới về.

Sau khi gửi hai anh em tôi lên ở trọ nhà dì Hai, mẹ tôi vẫn tiếp tục ở lại Sài Gòn đi làm. Tháng tháng mẹ gửi tiền lên cho dì Hai để phụ giúp trả tiền chi phí ăn uống và học hành cho anh em tôi. Dì Hai nhất định không bao giờ chịu lấy số tiền này. Dì nói rằng gia đình dì đủ dư giả để nuôi thêm anh em tôi, cháu chắt trong nhà dì không muốn tính toán những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Tuy nhiên mẹ tôi không chịu, mẹ nói nếu dì Hai không lấy tiền thì mẹ sẽ không nhờ nữa và sẽ đem anh em tôi trở về lại Sài Gòn. Dì Hai chẳng đặng mới nhận tiền. Dì chỉ lấy một số nhỏ làm tượng trưng, nói tiền này dì để cho anh em tôi may quần áo mặc, mua sách vở đi học và để xài riêng khỏi phải xin ai.

Dì Hai thương mẹ con tôi lắm. Dì là chị lớn nhất trong nhà, mẹ tôi là em gái kế dì, theo sau là Cậu Tư và cậu Út. Dượng Hai chồng của dì Hai thì hiền như cục bột. Dượng để vợ mình toàn quyền quyết định trong nhà muốn làm gì thì làm. Tính đàn ông không để ý tới những việc vặt vặn trong nhà, chuyện hai anh em tôi đến ở cũng không gây phiền hà gì cho dượng. Dượng nói, thật ra anh em tôi đã mang những điều lợi cho gia đình dượng. Thứ nhất, vì có anh Quang Hùng, dượng cảm thấy yên tâm có người cho dượng nhờ cậy canh chừng anh Quốc Dũng. Anh Quang Hùng trở thành người giám thị không chính thức của anh Quốc Dũng. Dượng Hai giao cho anh nhiệm vụ để ý dò la xem anh Quốc Dũng có hay đi chơi bời lêu lổng hay không, có trốn học hay không và học hành như thế nào ở trong trường. Điểm lợi thứ hai mà dượng thấy, đó là tôi có thể kèm chị Bích Dung và anh Quốc Trung học và làm bài ở nhà. Ai cũng biết tôi học giỏi mà lại kiên nhẫn, dạy kèm cho hai anh chị nhỏ học thật không ai bằng. Có tôi, dượng tiết kiệm được tiền, đỡ phải gửi hai con nhỏ đi học kèm với người khác.

Hai anh em tôi được gia đình dì Hai đón nhận vào ở trong nhà một cách nồng nhiệt và mọi người ai cũng thương chúng tôi. Có lẽ tình chị em thắm thiết giữa dì và mẹ tôi trong nhiều năm đã ảnh hưởng tới tất cả mọi người trong hai gia đình. Là anh chị em bạn dì nhưng chúng tôi thương nhau không khác gì anh chị em cùng cha mẹ. Anh Quang Hùng được ở chung phòng với anh Quốc Dũng và Quốc Trung, còn tôi thì ở chung phòng với chị Bích Dung.

Để hiểu tại sao anh em tôi phải đi trọ học nhà dì Hai thì phải đi tìm hiểu về chuyện của cha mẹ tôi. Chuyện của cha mẹ tôi nếu đem ra kể có lẽ có thể viết thành một quyển tiểu thuyết dầy. Cha và mẹ tôi đã bắt đầu kết hợp với nhau bằng một cuộc tình lãng mạn thơ mộng thời sinh viên, nhưng lại kết thúc bằng một đổ vỡ đắng cay chua chát. Cha tôi người Huế, nhà ở Đà Lạt xuống Sài Gòn học đại học. Lúc đó nhà ông bà nội trên Đà Lạt rất giầu, làm chủ nông trại rau và trái cây lớn. Họ mong rằng cha sau khi ra trường sẽ có đủ kiến thức để phát triển ngành nghề cho gia đình. Mẹ tôi là gái miền nam, sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, sinh viên cùng trường với cha tôi nhưng nhỏ hơn hai khóa.

Cha và mẹ đã gặp nhau, quen nhau và yêu nhau. Cuộc tình của họ là một cuộc tình đẹp và thơ mộng nhưng lại lắm gian nan. Về phía mẹ tôi thì không có gì trở ngại vì bà ngoại bận buôn bán suốt ngày, ít để ý đến con gái. Bà ngoại lại là người dễ dãi nên cũng không la rầy gì. Cha tôi cũng được coi là đẹp trai, lại thêm con nhà giầu, như vậy thật không có gì đáng để bà ngoại phản đối hay ngăn cản. Sự phản đối đã có thật ra là từ phía gia đình nội tôi.

Gia đình cha tôi là người Huế, nghe nói khi xưa lâu lắm rồi ông tổ ông cố cũng thuộc vào hàng quan đời nhà Nguyễn. Sau này khi nhà Nguyễn suy sụp, ông cố đem gia đình vào Đà Lạt định cư lập nghiệp. Sang đến đời ông bà nội, ông bà vẫn mang nặng tính khắc khe và cổ hủ. Ông bà nội lúc nào cũng coi trọng mặt mũi bề ngoài và muốn giữ gìn sự cao quý của giòng dõi. Lâu trước khi cha tôi vào Sài Gòn học đại học, ông bà nội đã có ý muốn cha tôi lấy một cô gái thuộc một gia đình giầu có trên Đà Lạt và cũng là con gái của người bạn thân quen của bà nội. Tuy nhiên cha tôi không chịu, cha nói cha không thể lấy vợ mà không có tình yêu. Cha nói cái thời cha mẹ đặt đâu con ngồi đó cổ hủ phong kiến đã qua rồi, thanh niên thời đại mới phải được quyền tự do luyến ái và lấy người mình yêu.

Khi biết được tình yêu giữa cha và mẹ, ông bà nội giận lắm, bắt cha tôi phải chấm dứt cuộc tình ngay. Hai ông bà đã nhiều lần thân chinh xuống tận Sài Gòn gặp mặt mẹ tôi nói chuyện, buộc mẹ phải rút lui ra khỏi cuộc tình. Nhưng mẹ tôi là một người con gái cứng đầu và bướng bỉnh, mẹ tôi đã từ chối. Sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn là một thành phố lớn, mẹ tôi mang cá tính của một cô gái thời mới tỉnh thành. Con người mẹ tuy lãng mạn, cởi mở nhưng rất cứng cỏi, độc lập và không biết sợ ai.

Ngay từ lúc đầu đã không tán thành cuộc tình này, bây giờ thấy thái độ của mẹ tôi như vậy, ông bà nội càng ghét cay ghét đắng mẹ tôi. Đối với ông bà nội, một cô gái có gia đình tầm thường như mẹ, gia sản thì chẳng có gì, lại thêm là người quá tân thời và âu hóa, mẹ thật không có điểm nào cho họ ưng ý, họ càng ra sức áp lực cha tôi chia tay với mẹ và thúc dục cha về làm đám cưới với cô gái mà họ chọn.

Để ngăn cản cuộc tình này và để tránh cảnh đêm dài lắm mộng, mùa hè một năm trước khi cha tôi ra trường, ông bà nội quyết định sẽ làm đám cưới cho cha tôi và cô gái ở Đà Lạt. Họ tính sau khi đám cưới cha vẫn có thể theo học tiếp cho tới khi ra trường. Cha tôi phản đối dự định này kịch liệt. Lúc đó cha yêu mẹ tha thiết nồng nàn, một tình yêu mãnh liệt khiến không có gì có thể làm cha rời xa mẹ. Do đó, để chống lại ông bà nội và để họ bỏ ý định bắt cha lấy người khác, mùa hè năm đó thay vì về Đà Lạt làm đám cưới với cô gái mà gia đình đã chọn, cha và mẹ tôi quyết định lấy nhau. Ông bà nội đương nhiên làm sao chấp nhận được chuyện này. Họ đưa ra tối hậu thư, một là cha về Đà Lạt lấy vợ, còn nếu cứ nhất định đòi lấy mẹ thì gia đình sẽ từ cha tôi luôn và cắt đứt mọi chu cấp đi học hàng tháng.

Về phía bên ngoại tôi thì cũng không xuông xẻ hơn bao nhiêu, bà ngoại tôi tuy không phản đối cha tôi nhưng không muốn mẹ hấp tấp kết hôn. Bà ngoại muốn mẹ học cho ra trường đã. Thuyết phục bà ngoại không được mẹ sang năn nỉ chị gái. Mẹ khóc lóc quá làm dì Hai mủi lòng. Hai chị em biết bà ngoại là người dễ tính và hay tha thứ nên bàn nhau cứ tổ chức đám cưới đi rồi sau đó mới ‘đánh trước tấu sau’ với bà ngoại. Thật ra dì Hai đã biết, với tính cứng đầu của mẹ tôi, cho dù dì có phản đối đi nữa mẹ cũng vẫn sẽ làm. Thế là cha và mẹ lấy nhau.

Đám cưới của họ thật là đơn giản, ngoài dì dượng Hai đứng ra làm chứng, họ chỉ mời mấy người bạn sinh viên trong trường và đãi hai ba bàn tiệc ngọt sơ sài. Không áo cưới cô dâu, không xe hoa đưa đón, không tiệc tùng linh đình, mẹ tôi đã hy sinh giấc mộng mặc áo cưới cô dâu lộng lẫy trong ngày về nhà chồng để lấy cha tôi trong một nghi thức đơn giản như vậy. Cha và mẹ an ủi lẫn nhau rằng sau này khi ông bà nội hết giận rồi, họ sẽ tổ chức đám cưới lại cho đàng hoàng.

Dĩ nhiên sau đám cưới cha mẹ gia đình cả hai bên đều giận dữ. Cả bên nội và bên ngoại đều từ không nhìn mặt cha mẹ. Dì Hai bị bà ngoại la cho một trận tơi bời vì đã nuông chiều em gái và qua mặt bà ngoại. Thế nhưng chỉ vài tháng sau, đúng như hai chị em dự đoán, bà ngoại đã nguôi giận và tha thứ cho cả hai chị em, nhất là tha cho mẹ tôi. Bà ngoại than thở rằng con hư tại mẹ và đổ lỗi cho việc này là vì ông ngoại chết sớm và bà không biết dạy con.

Gia đình ông bà nội thì ngược lại. Chuyện cha cãi lời không chịu về Đà Lạt cưới vợ, đã vậy còn tự tiện đi lấy mẹ tôi, khiến họ giận không sao diễn tả. Đối với họ đó là một điều xấu hổ nhục nhã cho gia đình. Vì quá giận và để trừng phạt cha tôi đã cãi lời, ông bà nội tuyên bố từ con trai và cắt đứt mọi trợ cấp đi học hàng tháng. Điều này khiến cha tôi xém phải bỏ học vì không có tiền trả tiền trường và tiền ăn ở. Sau đám cưới, cha không thể ở nội trú trong trường được nữa (vì trường chỉ có ký túc xá riêng cho nam và ký túc xá riêng cho nữ, không có chuyện vợ chồng ở chung), hai người họ ra mướn phòng ở trọ bên ngoài.

Sau khi ông bà nội cúp trợ cấp, cha mẹ tôi đã thật là khốn đốn vì không có tiền. Tiền bà ngoại cho mẹ hàng tháng chỉ đủ cho mẹ đi học, không đủ để ra ngoài ở riêng và lại còn bao thêm cho cả cha tôi. Lúc đó dì dượng Hai thì đang ở Bảo Lộc. Cha mẹ phần vì tự ái, phần thì không muốn làm phiền dì Hai, họ nhất định không chịu về nhờ dì Hai giúp. Không có tiền, cha tôi muốn bỏ học nhưng mẹ tôi khuyên mãi. Mẹ nói cha chỉ còn hơn một năm là tốt nghiệp, bỏ ngang như vậy thật là quá uổng. Mẹ nhất quyết muốn cha học tới nơi tới chốn ra trường thành tài đàng hoàng, như vậy sẽ khiến ông bà nội vui lòng và tha thứ về sau này. Để giúp cha ăn học, mẹ bỏ học đi làm kiếm tiền cho hai vợ chồng sống qua ngày. Dĩ nhiên con đường học vấn của cha vì vậy mà vẫn xuông sẻ tiến tới nhưng con đường học vấn của mẹ thì đành giở giang. Mẹ không vì thế mà buồn. Sự đền bù cho sự hy sinh của mẹ là nhìn thấy chồng mình vẫn còn được đi học đàng hoàng.

Nghèo mà hạnh phúc, cha mẹ tôi đã trải qua những tháng ngày hạnh phúc nhất trong cuộc tình của họ. Họ yêu nhau chân thật và sẵn sàng hy sinh cho nhau, câu "một túp lều tranh hai trái tim vàng" nếu áp dụng cho hoàn cảnh họ thì thật là đúng. Dì Hai thương em gái nên thương luôn em rể. Dì thường gửi tiền về giúp em gái, thế nhưng vì lúc đó dượng Hai mới thuyên chuyển về làm ở Bảo Lộc, hai vợ chồng dì còn đang trong tình trạng lập nghiệp nên sự giúp đỡ của dì cũng hạn chế không được nhiều. Bà ngoại tôi thì không hay biết tý gì chuyện mẹ tôi bỏ học và chuyện cha tôi đã không còn tiền trợ cấp từ gia đình. Cô con gái của bà dấu diếm mọi chuyện kỹ quá, lúc nào về thăm mẹ cũng mang một khuôn mặt tươi vui hạnh phúc cho bà yên lòng.

Trong khi chuyện học hành và đời sống của cha mẹ tôi chưa đi đến đâu thì đùng một cái mẹ mang bầu anh Quang Hùng. Mọi người chung quanh ai cũng ái ngại cho mẹ, nhưng mẹ thì không than van. Tình yêu dành cho cha và tình yêu dành cho đứa con trong bụng khiến mẹ cho rằng mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Mùa hè năm đó khi cha tôi tốt nghiệp đại học thì anh Quang Hùng cũng ra đời.

Sau khi tốt nghiệp, cha bắt đầu đi làm việc, nhưng vì không có kinh nghiệm và không có tay chân quen biết, những việc cha tôi xin được đều không kiếm được nhiều tiền. Nhìn mẹ tôi vất vả, nhìn anh Quang Hùng đang còn bé tý xíu lúc đó còn chưa biết đi, cha thương lắm. Lại thêm phần trong lòng thương nhớ ông bà nội và gia đình, cha tôi bàn với mẹ và hai người quyết định đi về xin lỗi ông bà nội. Cuối cùng cha tôi cũng thành công trong việc thuyết phục ông bà nội tha thứ và chấp nhận cho cha đem vợ con về Đà Lạt. Cha tôi là con trai trưởng và cũng là cháu đích tôn trong giòng họ, ông bà nội thật không muốn mất đi đứa con trai này. Họ cũng bỏ qua luôn chuyện bắt cha lấy cô gái kia và như vậy mẹ tôi chính thức về làm dâu nhà chồng.

Cha mẹ tôi dọn về Đà Lạt ở chung nhà với ông bà nội và các em chồng. Vì cha tôi là con trai trưởng sau này sẽ kế thừa làm chủ căn nhà của ông bà nội, cho nên cha tôi không được phép ra ở riêng. Ông bà nội bắt đầu giao cho cha những công việc làm ăn của gia đình, giúp cha làm quen với mọi thứ để sau này giao cho cha quản lý mọi việc. Làm con dâu nhà khá giả, mẹ tôi không phải làm gì, chỉ ở nhà nuôi con. Những năm làm dâu, cuộc sống của mẹ thật là chịu đựng. Vốn không được bố mẹ chồng ưa từ trước, cộng thêm thành kiến về những chuyện đã làm trong quá khứ, mẹ tôi đã trở thành cái gai trong mắt ông bà nội. Dù gì cũng là gia đình cao quý trọng mặt mũi, gia đình nội không muốn bị mang tiếng là đối xử với con dâu tồi tệ. Bên ngoài mặt, họ đối xử với mẹ tôi như một mợ hai trong nhà, rất kiểu cách và rất lịch sự. Nhưng thật ra bên trong, phải là người trong cuộc mới biết, những cư xử đó chứa đựng sự lạnh lùng, xa cách, đôi khi còn chêm vào những câu nói mỉa mai hay khinh khi.

Trong nhà có nuôi người làm, về mặt vật chất và thể xác thì mẹ tôi không khổ, nhưng về mặt tinh thần thì mẹ tôi thật là đau khổ. Sống ở Đà Lạt không bà con thân thuộc, không bạn bè, chỉ có chồng là người thương yêu nhưng chồng thì lại bận rộn công chuyện làm ăn đi làm cả ngày, mẹ tôi đã sống trong sự cô đơn, lẻ loi, buồn bã và bị khinh khi. Mẹ xin phép để được ra ngoài đi làm, cố ý tránh không muốn ở nhà trong những giờ phút cha tôi vắng mặt. Thế nhưng ông bà nội và ngay cả cha tôi cũng không đồng ý. Mọi người ai cũng nói họ là gia đình khá giả, mẹ không cần đi làm, vả lại mẹ đi làm rồi không ai trông coi anh Quang Hùng. Mẹ tôi do đó ở nhà nuôi con và sống nhờ vào sự chu cấp của gia đình chồng.

Khi anh Quang Hùng được hơn hai tuổi thì tôi ra đời. Cha tôi sau khi đã được an cư, ông bắt đầu cảm thấy yên tâm để lo lập nghiệp. Cha tôi từ từ nắm quyền cai quản đồn điền mà gia đình làm chủ. Lúc trước, đồn điền của gia đình chỉ chủ yếu là sản xuất rau quả, sau đó bán lại cho những người buôn mối. Từ lúc cha tôi về giúp, với óc sáng tạo cộng thêm kiến thức học vấn, cha tôi bắt đầu phát triển thêm để bao thầu luôn phân phối. Ông mua một loạt những xe vận tải lớn để chuyên trở rau cải sản xuất được từ nông trại của mình về Sài Gòn và đến các tỉnh. Nông trại nhà không đủ cung cấp hàng cho vận chuyển, ông bắt đầu nhảy sang thu mua thêm rau quả từ những nông trại khác chung quanh. Những năm kế tiếp, trong khi việc làm ăn buôn bán của cha tôi ngày càng phát triển, quan hệ giữa mẹ tôi và ông bà nội cũng không được tiến bộ hơn bao nhiêu. Thương con trai nhưng không có nghĩa là họ sẽ thương luôn con dâu. Thương cháu nội nhưng cũng không có nghĩa ông bà chịu vượt qua cái hố ngăn cắt với người mẹ để bày tỏ tình thương với cháu. Khi có mặt mẹ, ông bà vẫn tỏ ra lạnh lùng xa cách với cháu nội. Chỉ có khi nào không có mặt mẹ thì ông bà mới hỏi han đến chúng tôi.

Đường đời không phải lúc nào cũng êm đềm như mình tưởng. Cuộc tình sóng gió của cha mẹ tôi ngỡ rằng sẽ được êm ả những năm tháng sau đó, ai ngờ đâu đã phải đi đến một kết cục đau buồn. Vì công việc làm ăn lúc đó đã kiêm thêm ngành chuyên chở buôn bán với các tỉnh ở xa, cha tôi phải đi giao dịch và vắng nhà thường xuyên. Khi tôi được chừng năm tuổi, cha tôi về thú nhận ông có quan hệ với một người đàn bà khác ở tỉnh xa và họ đã lỡ có con với nhau. Cha muốn mẹ tha thứ để ông công khai chấp nhận người đàn bà này và đứa con.

Mẹ tôi đau khổ cùng cực. Dĩ nhiên mẹ làm dữ lắm và nhất định không chịu. Trên đời này có người đàn bà nào chịu chia sẻ chồng mình cho một người đàn bà khác. Cuộc tình tay ba kéo dài rất lâu mà không đi đến đâu. Mỗi lần cha về nhà, cha và mẹ lại gây lộn, mẹ muốn cha bỏ người đàn bà kia. Cha thì cũng muốn bỏ bà ta lắm, nhưng vì liên quan đến đứa con, cha không muốn làm người bất nhân bỏ rơi con. Thời gian đó là những ngày đau khổ nhất trong đời mẹ tôi. Bị cha mẹ chồng ghét bỏ và sống trong cảnh cô đơn ở nhà chồng cũng không đau đớn bằng cảnh chồng mình có người đàn bà khác. Sự ghen tuông đã hành hạ tâm hồn mẹ tôi. Lúc đó tôi còn bé lắm nhưng vẫn nhớ mang máng cảnh mẹ ôm hai anh em tôi khóc thầm. Không có ai chung quanh cho mẹ thở than tâm sự, mẹ thỉnh thoảng chỉ biết bế con ghé về dì Hai khóc lóc than thở với chị.

Tình trạng như vậy kéo dài được hai năm thì mẹ tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Với tính tình bướng bỉnh và cứng rắn, mẹ tôi khăn gói mang anh em tôi về nhà bà ngoại, nhất định chấm dứt một cuộc hôn nhân tay ba mà mẹ không muốn làm bà lớn hay bà nhỏ. Mẹ nói cha đã không dứt khoát và không có quyết định trong chuyện tình cảm, nhưng mẹ có. Trong hai năm sau đó, tuy cha tôi đã về Sài Gòn nhiều lần năn nỉ xin đón mẹ con tôi về, mẹ tôi vẫn làm giấy ly dị, thế là cuộc tình đẹp ngày nào đành chấm dứt. Sau ly dị, cha tôi nghĩ ông không còn cơ hội gì hàn gắn với mẹ nữa nên đã chính thức lấy người đàn bà kia và đem hai mẹ con họ về nhà. Sau này bà ta còn sanh cho cha thêm một người con trai nữa.

Về phần mẹ con tôi, chúng tôi được bà ngoại cho ở chung nhà. Lúc đó cậu Tư và cậu Út chưa lập gia đình. Mẹ tôi kiếm được việc đứng bán hàng cho siêu thị. Thế nhưng sau này khi cậu Tư và cậu Út lấy vợ và mang vợ về ở chung thì nhà bà nội trở nên chật hẹp. Anh em chúng tôi ngày càng lớn, gia đình hai cậu bắt đầu sanh con, căn nhà ở càng ngày càng chật hơn. Đến khi bà ngoại qua đời, mẹ cảm thấy áy náy nếu cứ ở như vậy thì sẽ làm phiền hai cậu, cho nên ngay sau khi mẹ tìm được một việc làm mới ở trong một hãng chủ ngoại quốc thì chúng tôi dọn nhà ra riêng, mướn một căn gác trọ nhỏ ở trong một khu lao động rẻ tiền.

Căn gác nhỏ chúng tôi mướn ở là một căn phòng được người chủ nhà nối thêm lên ở phía trên căn nhà, mẹ tôi mướn vì giá thuê rẻ. Căn gác vừa nhỏ, vừa hẹp, trần nhà thấp làm bằng tôn nên nóng lắm. Buổi tối thì đỡ, nhưng buổi trưa thì không ai có thể ở nổi. Mẹ tôi đi làm cả ngày, chỉ có hai anh em tôi ở nhà, nóng quá anh em tôi ít khi ở trên gác. Để tránh cái nóng, anh Quang Hùng có cớ dẫn tôi đi chơi la cà khắp nơi, làng trên xóm dưới, mãi đến tối khi nào mẹ tôi sắp về hai anh em tôi mới dẫn nhau về nhà. Hôm nào chúng tôi có nhiều bài làm ở nhà, hai anh em tôi phải cắn răng chịu nóng ở trên gác làm bài. Mồ hôi đổ nhỏ giọt, chúng tôi vừa làm bài, vừa quạt phe phẩy, vừa lấy tay gạt mồ hôi. Mẹ tôi biết hai anh em tôi cực khổ nên mỗi ngày đều an ủi chúng tôi. Mẹ nói cho mẹ thêm một thời gian, khi mẹ có đủ sức cáng đáng mẹ sẽ đi kiếm một chỗ ở khá hơn.

Điều kiện sống của chúng tôi khắc nghiệt như vậy cho đến khi dì Hai về Sài Gòn thăm. Nhìn thấy cảnh sống mẹ con chúng tôi, dì nổi giận đùng đùng, la lối om sòm và chê mẹ tôi là anh hùng rơm. Dì nói phải đi kiếm cha tôi bắt cha tôi chu cấp cho mẹ con, nếu không thì mẹ nên về ở chung với hai cậu để anh em tôi đỡ khổ. Nhưng thật ra có ai còn lạ gì tính mẹ tôi. Nếu nói về ngang bướng, cứng đầu và tự ái cao thì không ai qua mặt mẹ. Thật ra cha tôi ngay từ đầu đã có ý muốn chu cấp hàng tháng cho chúng tôi nhưng mẹ nhất định không lấy một đồng xu từ cha tôi. Về phần hai cậu, hai cậu cũng đã ngăn mẹ tôi đừng ra ở riêng, nhưng mẹ vì ngại không muốn làm phiền hai em dâu, nên nhất định dọn ra.

Dì Hai làm dữ lắm, bắt mẹ con chúng tôi dọn lên nhà dì ở Bảo Lộc, nhưng mẹ tôi cũng không chịu. Mẹ nói mẹ mới xin được vào làm một hãng ngoại quốc, sau này sẽ có tương lai, vả lại về Bảo Lộc không có việc gì thích hợp cho mẹ làm. Mãi sau này, dì Hai dùng việc học của hai anh em tôi làm lý do cho mẹ đổi ý. Dì nói:

- "Căn gác nóng như vậy anh em chúng làm sao học hành. Thằng Hùng sắp bắt đầu vào đệ nhị cấp rồi, chẳng còn bao nữa sẽ thi tú tài, nó cần một nơi để học hành. Ngày nào cũng để hai anh em nó lêu lổng la cà ngoài đường như vậy thế nào cũng hư, rồi sẽ theo cao bồi du đãng. Em phải biết, làm người có tự ái và tự trọng là tốt nhưng cũng chỉ mức nào thôi, khi nó có ảnh hưởng tới con cái thì mình phải suy xét lại.

Hai chị em cãi qua cãi lại mấy ngày lâu lắm. Sau cùng, mẹ tôi nghe những lời dì Hai nói thấy cũng có lý, thế là mẹ tôi bằng lòng gửi anh em tôi lên ở với dì Hai đi học, trong khi mẹ vẫn tiếp tục ở Sài Gòn đi làm. Mẹ nói, một khi mẹ có khả năng kiếm được một chỗ ở đàng hoàng, mẹ sẽ đem anh em tôi về lại ở với mẹ. Thế là sang đến mùa hè, mẹ tôi thu dọn dẫn hai anh em tôi lên gửi sống với dì Hai ở thị trấn.

Chương 2

Chỉ trong một thời gian ngắn ngay sau khi chúng tôi nhập học, anh Quang Hùng đã lập tức trở thành một nhân vật nổi tiếng trong khối lớp 11 của anh. Với dáng người cao ráo, diện mạo bô trai và tài đánh đàn guitar, anh nhanh chóng trở thành đối tượng ngưỡng mộ của các nữ sinh trong trường. Chơi thành thạo hai môn thể thao chính là đá banh và bóng rổ, anh trở thành nhân vật được ưa thích trong đám bạn con trai. Trong hai tháng đầu tiên, hai hạng nhất trong học bạ khiến anh trở thành học trò cưng của các thầy cô giáo. Nếu có ai nói anh tôi là một thanh niên toàn vẹn thì tôi cho rằng lời khen tặng đó quả không quá đáng. Cộng thêm cái nhãn hiệu là dân tỉnh thành từ Sài Gòn về, anh Hùng đã mang làn gió mới về cho các bạn trong lớp. Với lối nói chuyện duyên dáng và những ưu điểm vừa nêu trên, tuy tính cách của anh Quang Hùng hơi mang một vẻ ngạo mạn và xấc láo, chúng không làm anh mất đi những nét quyến rũ của mình.

Đối với một số bạn nam, anh Hùng là một thần tượng của họ. Những gì anh nói và làm đều được họ cho là hay là đúng. Họ ráng nhớ nằm lòng những lời anh nói và coi chúng như những danh ngôn. Họ bắt trước cắt tóc theo kiểu thời trang của anh, kiểu tóc để hơi dài phía sau, phía trước thì để lòa xòa rủ xuống trán. Họ còn bắt chước luôn dáng điệu của anh mỗi khi đưa tay lên vuốt tóc.

Anh Quang Hùng chưa bao giờ có bạn gái và chưa từng yêu ai, thế nhưng từ lúc vào học trường mới, không hiểu từ lúc nào anh bỗng dưng trở thành chuyên gia về tình yêu cho các bạn nam đến tham khảo. Họ hỏi ý kiến anh làm sao tán gái và làm sao hiểu được tâm lý con gái. Những lúc đó tôi thấy anh Quang Hùng tỏ dáng điệu ta đây đàn anh, đưa tay vuốt nhẹ mái tóc trước trán, hất mặt lên và nói giọng điệu sặc mùi kiếm hiệp:

- "Muốn hiểu tâm lý con gái hả? Chúng mày thật đã kiếm đúng cao thủ rồi. Ông đây đã từng quen biết bao nhiêu là con gái, ông hiểu bọn chúng như những đường chỉ tay trong tay ông."

- "Thật sao?" Đám đệ tử trung thành của anh tròn mắt. "Hùng Đại Ca dạy cho tụi này vài tuyệt chiêu thử coi."

Anh Quang Hùng tủm tỉm cười ra vẻ đắc ý:

- "Trong Anh Hùng Xạ Điêu, vì muốn Hoàng Thất Công truyền mười tám môn võ nghệ Giáng Long Thập Bát Chưởng cho Quách Tĩnh, Hoàng Dung đã phải bỏ bao công lao nấu nướng đãi đằng, chiều chuộng. Tụi bay muốn học mười tám chiêu đi cua gái của ông thì phải chịu khó hầu hạ ông và để ông xai khiến. Nếu ông thấy vui, ông sẽ chỉ cho từng chiêu một. "

Ngừng một lát thăm dò tình hình đám bạn đệ tử lúc đó đang ngẩn mặt khâm phục lắng nghe, anh Quang Hùng gật gù nói tiếp:

- "Nhưng thôi, hôm nay để ông dạy cho chúng mày bài học đầu tiên không tốn tiền gọi là món quà ra mắt cho tụi bay. Đây nhé hãy nhỉnh tai lên mà nghe lời vàng ngọc của ông. Mấy đứa con gái tụi nó làm tàng và điệu bộ lắm, mình càng tỏ ý theo tụi nó thì tụi nó càng làm cao, cho nên chúng mày phải chơi cái màn lơ tụi nó đi. Bước đầu tiên để gây chú ý cho mấy cô nàng là nhìn trộm mấy cô nàng một cách lộ liễu để cho mấy cô nàng biết là mình đang chú ý tới mấy cô. Nhưng một khi mấy nàng nhìn lại thì chúng mày phải quay đi làm như không có gì. Đây là một thái độ khiêu khích gợi sự tò mò, mấy cô nàng rồi sẽ theo dõi chúng mày để dò xét tình ý. Nếu tụi mày cứ lò tò tỏ ra say mê các cô nàng, các cô nàng sẽ càng làm cao, không ngó ngàng gì tới tụi mày. Ngược lại, nếu thấy chúng mày làm lơ, các cô nàng sẽ tức giận và quay ngược lại tìm cách chinh phục lại chúng mày."

Các bạn anh Quang Hùng tấm tắc khen bài học cua gái thứ nhất này là hay và họ nhắc nhau sẽ thực hành. Tôi nghe mà chỉ muốn cười. Anh tôi xưa nay có quen bạn gái với ai bao giờ đâu, anh chưa bồ với ai và cũng chưa yêu ai, sao lại tỏ ra sành sỏi kinh nghiệm về tâm lý con gái như thế. Nếu như anh Hùng quả thật có hiểu biết về tâm lý con gái và cua gái, những kinh nghiệm đó hoàn toàn là do đọc từ sách vở hoặc là từ bao nhiêu năm sống chung với mẹ và tôi chứ chẳng phải kinh nghiệm cua gái gì của bản thân anh. Tuy vậy, những lời anh Quang Hùng nói vẫn khiến các bạn anh phục lăn và họ càng coi anh là thần tượng của họ.

Trong số những người bạn trong lớp, anh Quang Hùng chơi thân nhất với một nhóm bạn bẩy người. Nhóm bạn bẩy người này tự đặt cho nhau một danh hiệu nặng mùi kiếm hiệp là Thất Hiệp, dựa tên theo nhóm Giang Nam Thất Hiệp trong chuyện Kim Dung "Anh Hùng Xạ Điêu". Nhóm Thất Hiệp này ít gọi nhau bằng tên một chữ, họ thường gọi nhau bằng cả tên lẫn họ hoặc gán cho nhau những biệt danh. Thí dụ như họ gọi anh Quang Hùng là Nguyễn Quang Hùng hay Hùng Đại Ca, gọi anh Trịnh Xuân Quang là Quang Cận vì anh đeo cặp kính cận thị dầy cui, gọi anh Trần Bá Kỳ là Kỳ Triết Học vì anh hay lên giọng giảng triết lý, gọi anh Bùi Thịnh là Thịnh Ú vì anh hơi tròn trịa mập mạp. Về phiá con gái, nhóm bạn thân của anh gồm có chị Nguyễn Thị Hậu là Hậu Mít Ướt vì chị hay khóc, chị Trần Thúy Hồng là Hồng Chạp Phô vì nhà chị bán quán chạp phô và chị Vũ Kim Điệp là Bướm Vàng vì Kim Điệp có nghĩa là bướm vàng. Ngoài biệt hiệu Hùng Đại Ca của nhóm Thất Hiệp tặng, anh Quang Hùng còn có một biệt danh nữa được các bạn khác trong lớp đặt cho, đó là Hùng Đểu. Họ nói anh nói câu nào ra sao nghe cũng thấy đểu hết. Anh Hùng lúc đầu cảm thấy giận vì bị gán cho tên này, nhưng không lâu sau thì nghe quen tai nên không giận nữa. Anh biết các bạn không ác ý và ngay chính anh, anh cũng công nhận cách anh nói chuyện về con gái có hơi đểu thật.

Lúc ở Sài Gòn anh em chúng tôi đi học đều mặc đồng phục. Học sinh ở Sài Gòn, Hocon trai mặc áo sơ mi trắng, quần xanh dương đậm, con gái thì mặc áo dài trắng, quần đen. Trường trung học ở thị trấn nơi anh em chúng tôi mới vào học cũng mặc đồng phục giống y như vậy, nhưng vì là xứ lạnh cho nên đồng phục còn có thêm áo len xanh dương đậm cho nam sinh và áo len tím hoa cà cho nữ sinh. Đến ngày thứ Hai là ngày chào cờ thì các học sinh, cả nam lẫn nữ, đều phải mặc quần trắng.

Các học trò ở gần trường thì đi bộ đi học, các học trò ở xa cách đó bẩy tám cây số, chẳng hạn như vùng Tân Thanh, Tân Phát, thì đi học bằng xe đạp. Một điều mà tôi chưa từng bao giờ thấy khi ở Sài Gòn đó là học sinh dân tộc thiểu số. Trong trường còn có các học sinh dân tộc thiểu số đi học. Những học sinh dân tộc thiểu số này đều ở trong những vùng rừng núi rất xa thành phố, mỗi ngày họ phải đạp xe đạp mấy tiếng mới tới trường. Những nữ sinh dân tộc thiểu số không phải mặc đồng phục áo dài hay quần đen quần trắng như nữ sinh dân tộc kinh chúng tôi, họ có thể mặc váy sà-rông đi học.

Vì trường bao gồm cả đệ nhất cấp (từ lớp sáu tới lớp chín) và đệ nhị cấp (từ lớp mười đến lớp mười hai) nên học sinh rất đông, Đa số các cấp lớp đều học buổi sáng, số các cấp lớp còn lại phải học buổi chiều. Học sinh buổi chiều đi học thường bị buồn ngủ. Cấp lớp của tôi và của anh Hùng may mắn đều được xếp vào buổi sáng.

Đời sống học trò tỉnh lẻ thì êm đềm và giản dị hơn học sinh thành phố Sài Gòn. Học sinh ở đây thân thiện hơn và giàu tình cảm hơn. Hai anh em tôi đã gia nhập thế giới mới này một cách ngỡ ngàng xa lạ, nhưng sau đó chỉ trong một thời gian ngắn, với sự thân thiện của bè bạn chung quanh chúng tôi đã nhanh chóng làm quen với môi trường. Anh Hùng đã trở nên thân thiết với nhóm Thất Hiệp của anh và tôi cũng đã có bạn gái thân, điều mà chúng tôi đã không có trong những ngày sống thay đổi ở Đà Lạt hay Sài Gòn.

Chừng hơn một tháng sau khi nhập học, một buổi trưa tháng Mười, sau khi đi học về và ăn cơm xong anh Quang Hùng rủ tôi:

- "Cuối tuần này nếu em có rảnh thì lên trường phụ anh làm tập san. Tụi anh có hai nhóm, một nhóm sẽ tập văn nghệ và nhóm kia thì làm tập san."

Vì cũng không có gì bận rộn trong ngày cuối tuần, tôi nhận lời anh ngay lập tức, vả lại đây cũng là thói quen. Xưa nay hai anh em tôi rất gần gũi nhau, từ những ngày chúng tôi còn ở Sài Gòn, sau giờ học tôi lúc nào cũng đi theo anh. Mẹ tôi vì đi làm cả ngày nên anh Quang Hùng được giao trách nhiệm coi em. Anh thương tôi lắm, đi đâu cũng dẫn tôi đi theo, ngay cả khi đi chơi với các bạn trai của mình. Tôi nhớ có lần anh đi chơi đánh bi với mấy tên con trai bên xóm kế bên, anh chơi gian lận sao đó nên bị mấy tên con trai bên đó đuổi đánh. Anh vừa chạy vừa lôi tôi theo nhất định không bỏ em gái mình lại. Nếu không có tôi, chắc anh đã cao bay xa chạy mất rồi, nhưng vì lo kéo theo tôi nên hai anh em chạy rất chậm, thế là anh bị tụi xóm bên đánh một trận tơi tả. Về nhà mẹ hỏi tại sao anh bầm mặt sứt trán, hai anh em cùng nhau nói láo nói anh bị té. Mẹ không tin câu chuyện, nói rằng những vết bầm không giống như té, nhưng vì có tôi nói thêm nên sau đó mẹ cũng không tra hỏi gì hơn.

Tuổi thơ của tôi đã trôi qua như vậy, tôi không có bạn gái để chơi búp bê hay chơi làm nhà như những bé gái cùng lứa.Tuổi thơ của tôi là đi theo anh trai mình chơi những trò chơi con trai như thả diều, tạt ống bơ, bắn ná hay bắn bi. Tôi nhớ chúng tôi cũng hay đi bắn thằn lằn nữa. Anh Hùng và các bạn lấy đấy sét nặn thành những viên bi nhỏ, rồi nhét vào ống nhựa thổi bắn thằn lằn. Anh cũng dắt tôi nhập cùng các bạn trong xóm đi hái trộm mận nhà mấy người xóm khác. Tôi được giao nhiệm vụ đứng trước cửa ăn cà rem, nhưng mục đích thật sự là canh chừng xem chủ nhà có ai ra không. Anh Quang Hùng và mấy anh bạn kia lấy cây sào dài đóng thêm một cây đinh ở đầu và treo vào đó một ống lon. Các anh thọc cây hái cho mận rớt vào ống lon. Nếu khi nào tôi thấy có người ra thì sẽ làm bộ hát lên và các anh sẽ biết thế mà chạy. Anh Quang Hùng dạy các bạn đồng lõa của anh một cách hào hiệp rằng có ăn cắp trái cây thì ăn cắp ở xóm khác, đừng ăn cắp xóm mình, mình là người cùng xóm phải có lòng thương yêu đoàn kết với nhau.

Anh Quang Hùng thương tôi hơn bất cứ thứ gì trên đời, anh chỉ hơn tôi hai tuổi nhưng xử sự đối với tôi như một người lớn. Có ai cho món ăn gì anh cũng nhịn, để dành đem về nhường cho tôi ăn. Anh lúc nào cũng bảo vệ tôi không cho ai bắt nạt và còn dẫn tôi đi theo anh khắp nơi không rời bước.

Quay lại chuyện làm tập san cho lớp, hôm anh Hùng rủ tôi đi theo là chỉ còn khoảng ba tháng là đến tết Nguyên Đán. Theo như truyền thống, trường tổ chức thi văn nghệ tất niên. Các lớp có thể tham dự thi đua và biểu diễn các bộ môn như hợp ca, tốp ca, đơn ca, múa và kịch. Ngoài văn nghệ, trường còn tổ chức thi bích báo và tập san. Các lớp đệ nhị cấp sẽ thi làm tập san. Các lớp đệ nhất cấp sẽ thi làm bích báo. Tập san và bích báo của các lớp sẽ được trưng bày ở hành lang mỗi cấp lớp cho mọi người thưởng thức. Kết quả trúng giải sẽ được công bố vào đêm văn nghệ tất niên trước tết âm lịch. Trong đêm văn nghệ, các lớp sẽ biểu diễn thi đua những màn biểu diễn của lớp mình. Kết quả cuộc thi văn nghệ cũng sẽ được tuyên bố vào phần kết thúc. Giám khảo là các thầy cô giáo trong trường.

Hôm đó khi hai anh em tôi đến trường thì các bạn của anh Quang Hùng đã có mặt ở đó. Vì là cuối tuần nên lớp học để trống, các anh chị dùng lớp học để tập văn nghệ và làm tập san. Nhóm văn nghệ của anh Hùng có khoảng mười người và nhóm tập san chừng ba người, cộng thêm tôi. Các bạn trong nhóm Thất Hiệp đều rủ nhau tham dự và hầu hết đều gia nhập ban văn nghệ. Chỉ có anh Quang Cận là tham gia vào nhóm tập san. Tôi được các anh chị trong nhóm tập san giao cho nhiệm vụ đọc bài và sửa lỗi chính tả của các bài viết. Anh Hùng đánh đàn guitar hay, cho nên lãnh phần đệm đàn cho cả nhóm hát. Họ tập dợt ba tiết mục, một hợp ca, một hài kịch ông táo về trời và một song ca giữa anh Hùng và chị Kim Điệp.

Tôi ngồi ở trong góc lớp phụ với anh Quang Cận đọc các bài viết cho tập san. Anh Quang Cận là một người nhỏ nhắn gầy còm. Cặp kính cận to và nặng trên mắt cứ trệ xuống mũi làm cho anh phải thường xuyên đưa tay đên sửa kiếng cho đừng rớt. Anh ít nói hơn những bạn trong nhóm và là người anh Hùng của tôi thân nhất và thương nhất. Anh Hùng nói anh thương cái tính hiền lành chân thật của anh Quang, còn anh Quang thì mến anh Hùng qua cách cư xử đàn anh hào phóng. Hai người hai tính cánh nhưng họ thương nhau và thân với nhau hơn ai hết. Mỗi lần nhìn anh Quang, tôi lại liên tưởng đến nhân vật Tý Cận trong những tập chuyện tranh Xì Trum (Smurf) của nhà văn Peyo. Lúc bấy giờ Xì Trum là loạt chuyện hoạt hình mà các thiếu niên đều say mê. Nhân vật Tý Cận là một trong những nhân vật tý hon trong làng Xì Trum. Trong chuyện, Tý Cận thường không được các tý trong làng ưa thích vì anh ta hay lý sự cùn và lúc nào cũng lên giọng nói đạo đức triết lý. Thế nhưng đối với độc giả ngoài đời, Tý Cận là một nhận vật đáng yêu mà ai cũng ưa mến. Tý Cận biểu hiện cho sự chân thật, hiền lành, đạo đức và tín nhiệm.

Lúc đó, ý nghĩ về anh Quang và nhân vật Tý Cận trong Xì Trum làm tôi mỉm cười. Anh Quang nhìn tôi lạ lùng:

- "Em có gì mà cười thích thú vậy?"

- "Ô, không có gì. Em đang lắng nghe mấy anh chị đóng kịch ông táo về trời. Thấy cũng khôi hài."

Tôi đỏ mặt nói lấp liếm, sợ anh Quang đoán được những ý nghĩ trong đầu. Anh Quang nhìn ra giữa lớp, lúc đó anh Quanh Hùng đang đọc đoạn sớ kể tội chủ nhà.

- "Ừ, thằng Hùng đóng vai ông táo cũng thấy tếu. Nhưng anh thấy cho nó đóng mấy vai gian hợp hơn. Cái mặt nó trông đểu."

Hai đứa chúng tôi cười khúc khích vì lời bỡn cợt này. Thấy anh Quang và tôi đang thì thầm nói cười, anh Hùng ngừng đóng kịch, bước tới chỗ chúng tôi:

- "Hai đứa đang nói cười gì đây? Phải thằng Quang Cận đang tán em gái ông không?" Anh vỗ vai anh Quang cận nói giọng kẻ cả. "Nhưng không sao, mày thì ông yên tâm, ông giao em gái cho mày canh giữ. Ông biết mày không dám tán em gái ông đâu." Sau đó anh quay qua các bạn còn lại trong lớp. "Nhưng những thằng còn lại thì ông không tin được. Này, ông báo trước, đứa nào nhào vào tán em gái ông thì ông bẻ răng, em gái ông không phải để cho chúng mày tán đâu nhá."

Trong khi anh Quang Cận khoái chí cười tủm tỉm thì các anh khác nhao nhao lên phản đối. Họ phản đối không phải là vì họ muốn tán tôi, nhưng vì cách anh Hùng cảnh cáo họ như vậy. Mấy anh trong lớp nháy mắt nhau, họ hè nhau túm lấy anh Hùng, đè anh xuống thọc lét.

- "Thằng này bố láo, mày dám coi thường bọn ông, để bọn ông làm thịt mày rồi đem em mày ra bán đấu giá."

Anh Hùng bị cả bọn đè xuống thọc lét, anh vừa cười vừa la bai bải:

- "Tụi mày dám? Ông có chết cũng về làm ma bắt chúng mày."

Nghe anh nói, các bạn nam càng không tha và càng càng thọc lét cho anh cười. Các chị trong lớp lúc đó tuy không theo phe nào nhưng đứng vỗ tay cười la hét inh ỏi, tạo thành một quang cảnh ồn ào. Ngay lúc đó có một vài nam sinh từ lớp khác bước vào, dẫn đầu là một nam sinh dáng cao, tóc cắt ngắn, khuôn mặt sáng sủa. Anh nam sinh dẫn đầu này vừa cười vừa nói bằng giọng ôn hòa vui vẻ:

- "11C1 làm gì mà ồn ào quá vậy, xin lịch sự một chút được không? Giữ yên lặng cho lớp bên, chúng tôi cũng đang tập văn nghệ."

Anh Quang cận thì thầm vào tai tôi:

- "Sắp có chuyện coi rồi. Hai con cọp sắp đụng trận."

Tôi không hiểu anh Quang nói gì, thì thầm hỏi lại:

- "Cọp gì? Sao lại đụng trận?"

- "Thằng này là Khiêm Thủ Quân lớp 11D1. Nó xưa nay vẫn được mọi học trò cùng cấp ưa thích và tôn sùng. Từ ngày có thằng Hùng về đây, sự chú ý đã được chia bớt qua bên thằng Hùng. Hai thằng ghanh và kình nhau. Một rừng mà có hai cọp hỏi sao không nẩy lửa."

Lúc đó các bạn anh Hùng ngừng tay và đứng dãn ra. Anh Hùng lồm cồm đứng lên sửa tóc lại cho ngay ngắn rồi bước tới. Đang vui vẻ ôn hòa, thấy anh Hùng, anh con trai lớp kia đổi thái độ ngay, giọng nói cũng khác đi:

- "Ồ. Thì ra có Hùng Đểu ở đây. Đáng lẽ ra mình cũng nên biết."

Nghe câu nói châm chọc này anh Hùng không nhịn được, hùng hổ bước tới:

- "Biết gì? Lớp ai nấy ở, mày sang đây làm gì?"

- "Lớp mấy người ồn ào quá, không ai chịu nổi."

- "Không phải giờ học, tụi tao không cần phải giữ yên lặng." Anh Hùng vênh mặt.

- "Vậy đâu được." Anh con trai cao giọng. " Sống phải tôn trọng người chung quanh, yêu cầu mấy người đừng làm phiền gây ồn ào."

Anh Quang Hùng không chịu lui mà anh Khiêm cũng không nhường bước, hai người đối đáp qua lại một hồi thiếu điều muốn nhào vào đánh lộn. Các anh chị của cả hai lớp phải vào can họ mới thôi. Trong khi các anh lớp bên kia kéo anh Khiêm Thủ Quân đi, anh Hùng vẫn đứng lại trong lớp hùng hổ nói anh không sợ ai bắt nạt, lớp anh có tự do muốn làm gì thì làm. Các bạn trong lớp không muốn sanh sự với ai, họ tự động nhỏ tiếng và khuyên anh Hùng bỏ đi. Sau đó cả bọn quay lại tiếp tục tập dượt.

Tôi vẫn còn thắc mắc muốn tìm hiểu thêm nên hỏi tiếp anh Quang Cận:

- "Họ kình nhau dữ vậy hả?"

Anh Quang Cận gật đầu:

- "Ừ, hôm nọ xém đục nhau trên sân banh rồi. Lúc đó hai thằng đá cho hai đội khác nhau, không biết vô tình hay cố ý thằng Hùng đá trúng chân Khiêm Thủ Quân cho nên Khiêm nó thù, nó đá lại. Hai thằng đá chân nhau qua lại một hồi thì nóng máu đè nhau ra sân. Lúc đó không có mấy bạn trong hai đội kéo ra thì hai thằng đục nhau te tua rồi."

- "Sao khi không lại ra nỗi này? Ai đúng ai sai?"

- "Ai cũng sai đầy mình. Đã vậy, thằng Khiêm chắc cũng thích Kim Điệp, bởi thế trước mặt Con Bướm Vàng, hai con cọp càng dương oai. Đạn nổ, miểng dăng mình đứng gần oan mạng."

Tôi nhăn mặt khi nghe kể về thái độ của anh mình nhưng không khỏi không phì cười vì cách nói dỡn của anh Quang. Những giờ còn lại sau đó không ai nhắc gì về sự việc mới xẩy ra nữa. Các anh chị trong lớp tiếp tục tập văn nghệ và tôi tiếp tục phụ phần tập san.

Những cuối tuần của những tháng kế tiếp chúng tôi đều đặn họp nhau lại như vậy để hoàn thành tờ tập san và tập dợt văn nghệ. ‘Hai con cọp’ thỉnh thoảng vẫn gườm nhau nếu hai lớp tình cờ tập dợt chung giờ.

Chương 3

Tôi đi học về trễ hơn mọi ngày. Cô giáo chủ nhiệm nhờ vài học sinh ở lại phụ cô kiểm soát coi lại sổ điểm của lớp. Khi tôi về đến nhà thì thấy đồ ăn đã dọn trên bàn nhưng vẫn chưa ai ăn. Thường thì buổi trưa dì Hai không về nhà ăn cơm. Dì có một cửa tiệm bán gạo ở chợ và dì thường ở luôn trên cửa tiệm không về. Nếu chị Bích Phượng rảnh thì mang cơm ra cho dì, nếu chị Phượng không rảnh thì dì Hai sẽ ăn cơm ở mấy quán gần đó. Chị Bích Phượng buổi sáng ở trên tiệm phụ hàng với dì Hai, buổi trưa chị về sớm nấu cơm cho cả nhà ăn. Dượng Hai cũng thường về nhà ăn cơm và ngủ trưa. Những bữa cơm trưa hàng ngày thường chỉ có dượng Hai và các anh em trong nhà.

Khi tôi vào đến phòng ăn, chị Bích Dung lúc đó đang chơi bên bực cửa, nói vọng vào:

- "Hôm nay chị ăn cơm một mình đi. Ba đi ăn với mấy người trên sở không về. Hai anh Hùng và Dũng mừng như chim sổ lồng, mấy ảnh không phải ngồi vào bàn ăn cơm như mọi ngày. Hai anh đã bưng mỗi người một tô cơm bự vào phòng vừa ăn vừa đọc chuyện kiếm hiệp rồi."

Chị Bích Dung tuy là vai chị của tôi, nhưng vì nhỏ tuổi hơn nên vẫn có thói quen gọi tôi bằng chị xưng em.

- "Dung không ăn sao? Chị Phượng đâu rồi?" Tôi hỏi.

- "Em ăn rồi." Sau đó Bích Dung nhìn tôi với nụ cười bí mật. "Hôm nay chị Phượng no rồi, không ăn. Chị ấy chịu bỏ công đi nấu cơm cho tụi mình ăn đã là một kỳ tích rồi."

- "Sao vậy?" Tôi hỏi tiếp.

- "Đọc thư người yêu nên no ngang, đâu còn tâm trí gì làm chuyện khác."

Chị Bích Dung không nói gì thêm, quay qua tiếp tục chơi với những thủ công của mình. Chị Bích Dung là một cô bé ngoan và dễ bảo. Chị biết tự chăm sóc cho mình và ít làm phiền ai. Mỗi buổi tối tôi thường kiểm soát bài vở của chị và giúp giải thích những phần bài chị không hiểu trên lớp. Năm nay Bích Dung đang học lớp năm, cuối năm chị sẽ thi lên lớp sáu.

Tôi mỉm cười đưa tay xoa đầu Bích Dung tỏ ý hiểu lời chị nói. Sau đó tôi bỏ đi kiếm chị Bích Phượng. Tôi thật sự hiểu ý chị Bích Dung muốn nói gì. Chị muốn nói chị Bích Phượng vừa mới nhận được thư của anh Tuấn gửi từ Pháp về nên vui quá. Anh Tuấn là người yêu của chị Bích Phượng, đang đi du học ở bên Pháp. Chương trình du học của anh là năm năm, đến nay đã được ba năm rồi. Từ ngày đi đến nay anh Tuấn chỉ về thăm nhà vào mùa hè năm ngoái, thường thì anh và chị Phượng liên lạc với nhau bằng thư từ. Hai người hò hẹn khi nào anh Tuấn về nước thì sẽ làm đám cưới. Chị Phượng và anh Tuấn quen nhau hai năm trước khi anh qua Pháp du học, quen từ lúc họ còn học trung học. Hai người có một cuộc tình thắm thiết thề non hẹn biển mà ai cũng ngưỡng mộ. Nhà anh Tuấn là gia đình trung lưu nhưng chưa đủ giàu để tự lo cho con đi du học. Anh đi Pháp du học là nhờ khả năng học giỏi của anh và nhờ có người chú biết chạy chọt xin được cái học bổng cho anh. Gia đình anh không đủ chi phí cho anh về thăm nhà thường xuyên, do đó từ ngày đi đến nay đã ba năm anh chỉ về thăm nhà có một lần. Nghe nói ở bên Pháp anh hàng ngày đi học, đến cuốn tuần thì đi rửa chén cho nhà hàng Tàu để kiếm tiền xài thêm. Chị Bích Phượng đôi khi cũng gửi tiền dành dụm của mình sang Pháp giúp anh Tuấn tiêu xài thêm. Lúc đầu anh Tuấn nhất định không chịu lấy, nhưng sau vì chị Phượng nài quá anh mới nhận. Anh nói rằng sau này anh ra trường sẽ đền bù cho chị lại gấp mười. Mọi người ghẹo chị Phượng nói rằng chỉ cần anh Tuấn đền bằng kiệu hoa đến nhà xin cưới là đủ lắm rồi. Mỗi lần nghe như vậy chị Bích Phượng lại đỏ hồng mặt, bẻn lẻn không nói gì. Bạn chị Phượng ai cũng ngưỡng mộ chị có một cuộc tình và một người yêu lý tưởng.

Khi tôi ra đến ngoài vườn sau nhà thì chị Bích Phượng đang ngồi duỗi chân trên ghế xích đu, một hộp bìa cứng để trên đùi, tay đang cầm lá thư đọc. Thấy tôi ra, chị bỏ chân xuống đất, nhích qua một bên để nhường một phần ghế xích đu cho tôi ngồi.

- "Ngồi xuống đây em. Ăn uống gì chưa?"

Tôi lắc đầu nói chưa đói và ngồi xuống cạnh bên chị. Nét mặt chị Bích Phượng hồng hào hân hoan, cặp mắt chị sáng long lanh chứa đựng niềm hạnh phúc. Niềm vui mừng của tình yêu làm chị trông đẹp và tươi tắn hơn ngày thường.

- "Đã hai tháng rồi chị mới nhận được thư của anh Tuấn. Anh nói độ này anh ít có dịp viết thư cho chị vì chương trình hai năm cuối càng lúc càng khó nên anh phải chuyên tâm vào học nhiều hơn."

Chị Bích Phượng gấp lá thư lại rồi bỏ vào trong hộp bìa cứng trên đùi. Trong hộp chị cất giữ tất cả những lá thư mà anh Tuấn gửi cho chị từ ngày anh đi du học. Trong hộp còn có những tấm hình của anh Tuấn gửi tặng chị. Tôi hỏi:

- "Cho em coi hình được không?"

Chị Bích Phượng vui vẻ lấy hình ra cho tôi coi. Chị nói ngoại trừ một tấm chụp từ Việt Nam mà anh Tuấn tặng chị lúc chia tay, những tấm hình còn lại là chụp ở bên Pháp. Tôi ngắm nhìn tấm hình anh Tuấn chụp lúc ở Việt Nam, trong hình anh còn rất trẻ, mang dáng điệu của một cậu học sinh, mặc đồng phục trường trung học, tóc cắt ngắn chải gọn gàng. Phía sau lưng tấm hình anh viết giòng chữ "Tặng Bích Phượng. Forget me not." Mấy tấm hình kia chụp anh ở bên Pháp. Trong những tấm hình này anh Tuấn trông trông đã chững trạc hơn và đã mất đi dáng điệu cậu học sinh vùng tỉnh nhỏ. Quần áo anh mặc đã theo kiểu tây phương và tóc đã để dài chải bồng bềnh theo mốt.

Chị Bích Phượng đón nhận những tấm hình tôi gửi trả lại rồi cất bỏ vào trong hộp. Giọng chị trở nên mơ màng:

- "Chị mong cho anh Tuấn sớm trở về. Chị thật là nhớ anh ấy."

Tôi nhìn chị và mong lời ước nguyện của chị sẽ mau thành đạt. Dì Hai nói mấy năm qua chị Phượng sống như hòn vọng phu ngóng đợi chồng về. Chị sống cuộc đời khép kín cô độc, không giao thiệp với ai và không đi đâu. Ban ngày sau khi đi phụ mẹ ở chợ về chị chỉ trốn mình trong phòng sống trong thế giới mộng mơ riêng tư của mình. Chị Bích Phượng là một cô gái dịu dàng, hiền lành và thùy mị. Chị có dáng người mảnh mai dễ thương. Chị Bích Phượng tuy học không giỏi lắm, sau khi thi rớt tú tài hai lần, chị quyết định ở nhà luôn phụ dì Hai trông coi hàng gạo. Tôi nghĩ chị sau này chắc chắn sẽ là một người vợ hiền và anh Tuấn nếu lấy chị thì anh thật là người may mắn.

Một vài giọt nắng lọt qua khe những chiếc lá trên tàng cây mít trên cao, đậu xuống trên tóc chị Bích Phượng lấp lánh trông thật đẹp. Chị đưa tay vuốt một chiếc lá khô vừa rơi trên tóc, nói tiếp:

- "Chị mong anh Tuấn sau này đừng chê chị. Chị học dở, không có nghề nghiệp gì, làm sao xứng với anh ấy là một sinh viên du học."

- "Chị là một người hiền lành, đức độ và đảm đang. Anh Tuấn phải có phước lắm mới lấy được chị." Tôi khuyến khích chị.

- "Chị cũng hy vọng như vậy. Chị nghĩ đàn ông lúc nào cũng muốn làm chủ trong gia đình. Họ chỉ muốn có một người vợ biết lo lắng cho chồng con và gia đình. Họ đâu có muốn có một người vợ ra đường làm ăn xông xáo hơn cả chồng. Chị thấy mấy người bạn gái chung quanh đi làm việc này việc kia ngoài đời, đến lúc lấy chồng và sanh con cũng phải bỏ cả sự nghiệp ở nhà nuôi con."

Tôi tuy không đồng ý với quan niệm của chị Bích Phượng về địa vị phụ nữ trong gia đình và xã hội, nhưng cũng không lên tiếng nói gì. Câu nói của chị Bích Phượng thật ra là xác thật cho đa số những trường hợp đã xẩy ra chung quanh thị trấn nhỏ này. Nhưng tôi đã từng ở Sài Gòn và thấy phụ nữ ở Sài Gòn có học thức cao và họ cũng ra đời đi làm như đàn ông. Tôi cũng coi sách báo nhiều và thấy rằng đa số phụ nữ phương tây đều gửi con ở nhà trẻ để đi làm, có những người còn nắm những nghề nghiệp và chức vị cao trong xã hội. Vì không muốn làm mất vui chị Phượng lúc này, tôi chọn không nói gì thêm về đề tài này.

Trong nhà dì Hai, chị Bích Phượng thích chiếc xích đu sau nhà nhất. Ngày nào chị cũng ra ngồi ở đó để đọc đi đọc lại những lá thư của anh Tuấn. Nếu không thì chị cũng đan áo len để gửi cho anh Tuấn mặc mùa đông. Chị nói mùa đông bên Pháp lạnh lắm, đan gửi áo cho anh để anh mặc, mỗi khi mặc áo chị đan, anh sẽ nhớ tới chị. Tôi không biết chị đã gửi cho anh Tuấn bao nhiêu áo len rồi, chắc phải là nhiều lắm vì ngày nào tôi cũng thấy chị đan. Lúc thì kiểu này màu này, khi thì kiểu kia màu kia.

Hai chị em ngồi tâm sự một lát thì chia tay, chị Bích Phượng phải ra tiệm giúp dì Hai và tôi cũng có bài để làm.

Nhà dì Hai ở trên đầu một con dốc cao. Nó là một căn nhà hai tầng nằm giữa một dẫy nhà lầu xây sát bên giống nhau. Căn nhà có chung tường gạch với hai nhà hàng xóm bên cạnh. Sau nhà có một mảnh vườn nhỏ mà dượng Hai đã trồng một vài cây ăn trái để lấy bóng mát. Dượng đặt một xích đu ngay dưới tàng của một cây mít cao to xum xuê nhất. Gần đó dượng xây một hòn non bộ và thả mấy con cá kiểng. Mảnh vườn sau nhà được ngăn cách với những hàng xóm chung quanh bằng một hàng rào hoa bông bụt. Trước nhà là hai cây bông giấy cao trồng sát tường, mọc từ dưới đất lên tới ban công trên lầu. Hai cây bông giấy trồng ở hai bên có tác dụng làm hàng rào cản khiến cho từ ban công của hai nhà hai bên, hàng xóm không thể thò đầu sang nhìn vào trong nhà.

Từ ngày tôi lên ở và đi học ở trên thị trấn này, tôi có quen một cô bạn thân tên Minh Châu. Minh Châu là hàng xóm của chúng tôi, nhà ở sát bên nhà dì Hai và lại còn là bạn học chung lớp của tôi, lớp 9A1. Anh Quốc Dũng học lớp 9A2. Lúc ở Sài Gòn, bởi vì tôi hay theo anh Quang Hùng đi khắp nơi cho nên tôi không có bạn thân, các bạn tôi quen chỉ là bạn thường trong lớp hoặc trong xóm. Bây giờ lần đầu tiên có được cô bạn học thân, nhà lại ở sát nhau, tôi thật là quý mến tình bạn này. Giờ đây, thay vì cứ đi theo anh Quang Hùng như ngày xưa, tôi bắt đầu dành nhiều thì giờ hơn cho Minh Châu. Một phần vì tôi đang vào tuổi mới lớn, phần kia vì tôi đã bắt đầu có những sở thích con gái riêng cho mình, những trò chơi con trai của anh Quang Hùng đã không còn thích hợp với tôi nữa.

Tôi và Minh Châu rất hợp nhau, đang bước vào tuổi mơ mộng, chúng tôi thích ép bướm, ép hoa, làm thơ, chép thơ của những nhà thơ nổi tiếng và nếu rảnh rỗi thì ngồi to nhỏ tâm tình. Thật ra anh Hùng cũng bận rộn với thế giới mới của anh. Nếu các chị trên trường không giả vờ đến nhờ anh giảng bài, thì chị Kim Điệp cũng đến rủ anh đi đánh tennis. Những thời gian còn lại, anh tập họp đi chơi với mấy người trong nhóm Thất Hiệp hay đi đá banh.

Trong khi chị Phượng dành quyền làm chủ xích đu sau nhà thì tôi chiếm cứ ban công trên lầu. Mỗi buổi tối tôi hay ra ban công nhìn ngắm trăng sao trên trời. Nếu lúc đó Minh Châu cũng đang ở bên ban công nhà nó thì chúng tôi sẽ nói chuyện với nhau. Tuy giàn bông hoa giấy che khuất khiến chúng tôi không thấy mặt nhau nhưng chúng tôi vẫn có thể nói chuyện qua lại. Cần đưa gì cho nhau thì chúng tôi lấy cây cột món đồ vào đầu cây rồi truyền qua bên kia. Thỉnh thoảng Minh Châu cũng qua nhà chơi với tôi, hay ngược lại tôi cũng qua bên nhà Minh Châu. Những lúc đó hai đứa tôi kéo ghế ra ban công nằm dài tán dóc hay trao đổi những đoạn thơ mà mỗi đứa mới đọc được. Hai đứa tôi mỗi đứa có một quyển tập riêng để chép lại những bài thơ hay của những nhà thơ nổi tiếng. Hai đứa giống nhau, đều thích thơ của những nhà thơ tiền chiến như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, v…v.

Anh Quang Hùng cảm thấy khó chịu về tình bạn này của chúng tôi. Anh bày tỏ sự khó chịu của mình ra mặt. Tôi biết anh làm vậy là vì ghen tỵ. Ngày xưa tôi lúc nào cũng đi theo anh không rời nửa bước. Giờ đây có bạn, tôi đã bớt đi theo anh. Mỗi lần Minh Châu qua nhà chơi, hay mỗi lần tình cờ gặp Minh Châu đi với tôi ở trên trường, anh Quang Hùng đều nói những lời bực tức, mỉa mai châm chích. Anh không ngại để lộ ra ngoài thái độ không ưa Minh Châu của mình. Thế nhưng Minh Châu không phải là con bé vừa, nó lúc nào cũng ăn miếng trả miếng anh Hùng, đôi khi tài ăn nói và tài kê tủ đứng vào miệng người ta của nó đã khiến anh Hùng phải cứng họng.

Thái độ anh Quốc Dũng thì hoàn toàn ngược lại. Anh mừng như bắt được vàng thấy tôi trở thành bạn thân của Minh Châu. Gia đình anh Quốc Dũng và gia đình Minh Châu đã làm hàng xóm với nhau từ ngày hai người còn nhỏ xíu. Lúc đó anh Quốc Dũng và Minh Châu là hai bạn láng giềng chơi thân với nhau. Họ nhập bọn cùng với những bạn trong xóm chơi chung rất thân. Thế nhưng từ ngày hai người lên lớp sáu tới giờ thì tình bạn đó đã không còn như xưa. Minh Châu bắt đầu bước vào tuổi con gái mới lớn và đã biết e thẹn làm dáng. Anh Quốc Dũng thì vỡ tiếng và đã biết để ý tới con gái. Hai người họ đã không còn chơi chung với nhau như xưa. Mỗi lần gặp nhau thì cả hai đều bẻn lẻn ngượng ngập và nói chuyện rất ít. Chị Bích Phượng hay chọc ghẹo anh Quốc Dũng về sự thay đổi này. Chị hay kể cho chúng tôi nghe về những kỷ niệm lúc anh Dũng và Minh Châu chơi chung với nhau khi còn bé. Lần nào cũng vậy, chị sẽ kết thúc câu chuyện bằng câu "Ôi, đây mới đúng là mối tình ‘ngày thơ tình thơ’." Rồi sau đó chị không quên chêm vào mấy câu trong bài thơ Cuộc Đời của Minh Phẩm:

"Ngày xưa hồi còn thơ

Một chiều nắng đẹp khoe màu tơ

Tôi cùng em, hai đứa

Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửa.

Tóc em chừa bánh bèo

Môi chưa hồng, da mét: con nhà nghèo !

Đầu tôi còn hớt trọc

Khét nắng, hôi trâu, thèm đi học

Em cầm một củ khoai

Cạp vỏ bằng răng rồi chia hai.

Thứ khoai sùng lượm mót

Mà sao nó ngọt thôi là ngọt

……"

Anh Quốc Dũng thường mắc cở về lời chọc ghẹo này, nhưng dáng vẻ của anh thì lại chứng tỏ anh thích nghe chọc lắm. Tôi biết anh Quốc Dũng thích Minh Châu nhưng anh không dám nói ra, cho nên khi thấy tôi quen thân với Minh Châu anh mừng lắm. Anh cho rằng tôi có thể làm chiếc cầu bắt nối cho anh. Qua tôi, anh có thể có dịp được gần gũi với Minh Châu nhiều hơn. Mỗi lần Minh Châu qua nhà chơi với tôi, anh Quốc Dũng thế nào cũng tìm cách lân la đến gần làm bộ nói chuyện với tôi hay hỏi mượn này kia. Miệng anh thì nói với tôi nhưng mắt thì chỉ hướng về nhìn bạn tôi. Lâu lâu anh cũng chêm vào một vài câu nói bâng quơ không đâu vào đâu hướng về Minh Châu. Trong những trường hợp như vậy, tôi thấy Minh Châu không tỏ thái độ gì khác lạ. Con bé lúc nào cũng nở nụ cười dễ thương và không nói gì. Tôi không nghĩ Minh Châu thích anh Quốc Dũng. Mỗi lần tôi chọc Minh Châu với anh Dũng thì nó chỉ phá lên cười và nói:

- "Thôi đi bà, để cho con yên. Nhà con ở sát bên nhà Quốc Dũng, tụi con còn làm hàng xóm với nhau lâu lắm. Chọc làm sao mà rồi hai đứa phải lấy mo cau che mặt mỗi khi bước ra cửa gặp nhau."

Tôi cười, tôn trọng bạn tôi không chọc ghẹo Minh Châu trước mặt mọi người, nhưng thỉnh thoảng khi không có ai chung quanh tôi vẫn đem đề tài này ra ghẹo bạn.

Anh Quốc Dũng tuy bằng tuổi và học ngang cấp lớp với tôi nhưng mọi người ai cũng nói anh không được chững chạc bằng tôi. Tính của anh cởi mở, dễ dãi và mau quên. Anh không hay để ý đến chuyện chung quanh và không để lâu trong bụng điều gì. Anh thích chơi đá banh. Đá banh là môn thể thao anh mê hơn những thứ gì trên đời. Chiều nào anh cũng ra sân banh chơi. Dượng Hai hay la anh vì anh mê đá banh không chịu học hành. Chị Phượng hay nói, "Người ta mê bồ bỏ vợ, thằng Dũng sau này mê đá banh bỏ vợ." Những lúc như vậy anh Dũng chỉ cười xởi lởi.

Từ ngày có sự hiện diện của anh em tôi trong nhà và từ ngày tôi trở bạn thân của Minh Châu, anh Quốc Dũng quay sang hai anh em chúng tôi nhờ cậy giúp anh cua gái. Anh cứ xui tôi rủ rê Minh Châu qua nhà chơi và nhờ tôi nói tốt về anh tới Minh Châu. Tôi nói:

- "Anh nhát gái như vậy mà đòi đi cua gái à?"

- "Nhát gì em, chỉ ngại thôi. Là hàng xóm nhà sát bên, lỡ tỏ tình mà Minh Châu từ chối thì anh ê mặt lắm, lúc đó phải đi đục lỗ hàng rào sau nhà để làm cửa đi ra ngoài đường chứ không dám đi cửa trước."

Không những nhờ tôi, anh Quốc Dũng còn nhờ luôn anh Hùng dạy anh cua gái. Đương nhiên anh Hùng của tôi không từ chối. Gì chứ làm quân sư cua gái cho người khác là sở trường của anh. Thế nhưng nó cũng lại là sở đoản của anh là vì anh chưa hề cua ai cho mình bao giờ.

- "Chuyện này thì dễ thôi. Người khác thì em không dạy, nhưng mình là anh em trong nhà thì em phải chỉ dẫn cho anh tận tình. Một công hai chuyện, trước là giúp anh đạt được ý muốn, sau là mong tình yêu sẽ khiến bà Minh Châu dữ như chằn lửa này cải hóa, khiến bà bớt dữ." Sau đó anh Hùng quàng vai anh Quốc Dũng thân thiện, anh bắt đầu lên giọng giảng bài. "Xưa nay, tiếng đàn và tiếng hát luôn là vũ khí sắc bén để con trai cua gái. Em sẽ dạy anh đánh đàn và hát một vài bài làm vốn. Ngày xưa Trương Chi xấu như ma, chỉ nhờ dùng tiếng sáo và tiếng hát mà cua được Mỵ Nương. Anh đẹp trai như vầy, lại có thêm em làm quân sư thì coi như Minh Châu đã nằm chắc trong tay anh rồi."

Lời anh Hùng nói anh Dũng nghe thật bùi tai và vì vậy đã trở nên vui mừng hớn hở ra mặt. Phải rồi, chuyện ngày xưa Trương Chi xấu như vậy mà vẫn có thể làm Mỵ Nương xiêu lòng bằng tiếng hát và tiếng sáo của mình. Chuyện ngày nay băng nhạc Beatle chỉ hát có mấy bài mà khiến hàng triệu các con gái trên thế giới mê mệt. Rành rành như thế anh Dũng sao không nên nghe. Thế là anh Dũng từ đó theo anh Hùng học cách cua Minh Châu. Anh Hùng dạy cho anh hát và đánh đàn. Vì để đốt ngắn giai đoạn, anh Hùng nói anh Dũng cần học dã chiến, nghĩa là học cho nhanh cho lẹ để còn ra trận. Anh không dạy anh Dũng nhạc lý căn bản từ đầu mà chỉ dạy đánh và hát một vài bài nhạc tủ.

Đi cua gái mà anh tôi làm như đi đánh trận thời chiến quốc, anh dàn quân bày mưu chiến lược như Khổng Minh Gia Cát Lượng ngày xưa. Trong khi chờ đợi anh Dũng ‘luyện công’ bài nhạc tủ ‘chờ ngày hạ san’, ông anh quân sư của tôi bày trận đánh du kích trước, ‘gọi là dọ thám tình hình’. Anh lấy đưa cho anh Dũng bài thơ Cô Hàng Xóm của Nguyễn Bính, nói anh Dũng chép ra giấy rồi nhờ tôi đưa cho Minh Châu. Anh Hùng nói:

- "Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Trước khi mở trận tấn công, mình phải đánh du kích trước bằng cách gửi bài thơ này cho đối phương để dò xét phản ứng. Nếu đối phương trả bài thơ lại, khi gặp mặt mình thì cho ra vài câu chửi chó mắng mèo thì mình rút quân liền, về nhà nằm chờ thời tìm phương kế khác. Ngược lại, nếu thấy đối phương im ru thì xem chừng có khả quan, mình đánh tới luôn."

Anh Dũng nghe răm rắp lời quân sư Khổng Minh của anh, lấy giấy chép bài thơ rồi đưa cho tôi nhờ chuyển dùm:

"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,

Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.

Hai người sống giữa cô đơn,

Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.

Giá đừng có dậu mùng tơi,

Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...

Có con bướm trắng thường sang bên này.

Bướm ơi ! Bướm hãy vào đây !

Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...

Chả bao giờ thấy nàng cười,

Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.

Mắt nàng đăm đắm trông lên...

Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi !

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,

Tôi buồn tự hỏi: "Hay tôi yêu nàng ?"

-- Không, từ ân ái lỡ làng,

Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao ?

Tơ hong nàng chả cất vào,

Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.

Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,

Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.

Cái gì như thể nhớ mong ?

Nhớ nàng ? Không ! Quyết là không nhớ nàng !

……….."

Tôi đưa thơ cho Minh Châu, hai đứa tôi ôm bụng cười rúc rích. Tôi phân bua với nó:

- "Tao không có phần, tao chỉ làm sứ giả đưa thư thôi. Nói trước, luật lệ xưa nay các nước không được giết sứ giả."

Minh Châu đương nhiên không làm hại sứ giả, nó cũng không nỡ làm đau lòng hay mất mặt ông anh bà con của tôi. Nó vì vậy cứ im lặng, không gửi trả bài thơ mà cũng không chửi chó mắng mèo. Anh Dũng đi theo tôi tò tò hỏi dò tình hình, nhưng tôi nói với anh tôi không có tin gì cho anh.

Hai ông anh tôi cười đắc thắng. Tài tiên đoán như thần cộng thêm mưu lược của quân sư Quang Hùng dường như đang đi vào chiều hướng tốt đẹp. Như đã toan tính trước, khi không thấy ‘phe địch’ có động tịnh gì, hai ông anh tôi tiến tới đi luôn chiêu thứ hai, tập hát và tập đàn ráo riết. Tập được một tuần, hai người đem nhau ra ban công thử nghiệm. Một tối, chờ cho Minh Châu có mặt ở bên ban công nhà nó, anh Quốc Dũng ôm đàn guitar rên rỉ hát bài Cô Láng Giềng của Hoàng Quý:

" ...Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm.

Đôi mắt trong đen màu hạt huyền

Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng

Xao xuyến nỗi niềm yêu.

Cô láng giềng ơi!

Không biết cô còn nhớ đến tôi?

Giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ..."

Đương nhiên tiếng đàn của anh thì rất vụng về và không đúng nhịp, giọng của anh vẫn còn trong tình trạng vỡ tiếng chưa được trong trẻo, anh hát thật khó nghe. Mỗi khi anh lên giọng hát điệp khúc ‘cô láng giềng ơi..’ thì hơi của anh như tắc trong cuống họng không lên cao được. Anh Quang Hùng lúc đó đứng khuất trong nhà lãnh phần lấy tay ra dấu làm đạo diễn, mỗi lúc nghe anh Quốc Dũng lên giọng anh lại nhăn mặt lè lưỡi lấy hai ngón tay bịt lỗ tai.

Cứ vậy, mỗi tối khoảng tám giờ, sau khi làm bài xong, hai anh Hùng và Dũng lại mang đàn ra ban công hát. Suốt cả hai tuần anh Dũng chỉ biểu diễn có một bài tủ là bài Cô Láng Giềng, anh hát mỗi ngày không biết chán. Minh Châu lại gặp tôi nhăn nhó:

- "Ông anh bà con mày đang làm gì đây. Nếu không thương tao thì cũng thương cho cái tai của mọi người chung quanh."

- "Anh Hùng làm đạo diễn đó. Mày qua than phiền với ảnh đi." Tôi trả lời.

- "Đáng ra tao nên biết đứng sau lưng ông Dũng là ông anh của mày."

Tôi không nói cho anh Dũng nghe lời phê bình của bạn mình, sợ anh buồn và tự ái, nhưng tôi đem lời này nói lại cho anh Hùng. Ông anh tôi nghe xong suy ngẫm một vài giờ và rồi bắt đầu giở trò mới. Biết Minh Châu chê anh Dũng hát dở, anh dạy nhồi thêm cho đệ tử mình bài nhạc thứ hai, đó là bài Cô Hàng Xóm của Lê Minh Bằng:

"…

Nhà gần bên, em sống trong giàu sang

Quen gấm nhung đài trang

Đi về xe đón đưa

Đêm đêm dưới ánh trăng vàng

Tôi với cây đàn âm thầm thở than

Và cô nàng bên xóm

Mỗi lúc lên đèn, sang nhà làm quen

Tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở,

Nhưng nàng khen nhiều và thật nhiều

Làm tôi thấy trong tâm tư xôn xao

Như lời âu yếm mặn nồng của đôi lứa yêu nhau

……"

Có được hai bài, phần trình diễn văn nghệ hàng tối của anh Dũng đã được thêm phần phong phú nhưng chất lượng của giọng hát và tài đánh đàn của anh cũng không khấm khá hơn bao nhiêu. Minh Châu lại lắc đầu than thở:

- "Ông anh Hai mày lắm mưu nhiều kế, tao chê ông Dũng hát dở thì ổng lại bồi thêm vào bài này làm tao cứng họng. Ông Dũng hát ‘tôi ca không hay tôi đàn nghe cũng dở’ thì đúng là sự thật không ai chối cãi. Nhưng tao có khen bao giờ đâu. Hai bài nhạc của người ta đang thơ mộng lãng mạn như vậy, qua giọng ông Dũng hát thấy khác luôn. Một bài thì ổng hát như đi hành quân. Bài kia thì ổng rên rỉ nghe buồn não nề, giống như tiếng ễng ương than thở trong đêm khuya. Ai mà đang thất tình ngày nào cũng nghe ổng hát chắc sẽ tự tử luôn."

Tôi phải bật cười vì lối phê bình của bạn mình. Nói thì nói vậy nhưng thật ra tôi biết trong lòng Minh Châu nó cảm thấy thích thú và tự mãn lắm. Có đứa con gái nào mà không cảm thấy hãnh diện khi được con trai yêu thầm tán tỉnh, mà nhất là chàng trai đó chịu khó mang lời ca tiếng nhạc đi tỏ tình như vậy.

Những ngày đầu, tiếng hát mỗi tối của anh Dũng có làm chúng tôi vừa khó chịu vừa buồn cười, nhưng riết rồi chúng tôi quen đi và nghe cũng xuông tai. Minh Châu nhắn với tôi nếu để anh Hùng đệm đàn và hát phụ chắc chắn sẽ nghe đỡ hơn. Nghe tôi lập lại lời này, anh Dũng đã sửa sang chương trình và anh Hùng được cho góp phần. Sau đó, chương trình hàng đêm của anh bắt đầu được mọi người ưa thích khi anh Quang Hùng bắt đầu tham gia vào hát chung. Đương nhiên giọng hát của anh Hùng nghe quyến rũ hơn và tiếng đàn của anh nghe cũng hay hơn. Mỗi khi anh Hùng hát, tôi ra ngồi cạnh lắng nghe, chị Bích Phượng và Bích Dung cũng ra ngồi. Kể cả Minh Châu, con bé đương nhiên thỉnh thoảng cũng qua tham dự làm thính giả. Mãi sau thì thành thói quen, mỗi tối đám thính giả chúng tôi đều muốn được nghe hai anh con trai hát và đó đã trở thành một hoạt động quen thuộc trong mỗi buổi tối của bọn trẻ chúng tôi.

Chương 4

Một ngày giữa tháng Mười Một, tan học tôi và Minh Châu đi bộ từ trường về nhà. Hai đứa tôi đi bộ một cách nhẩn nha không vội vã dưới hai hàng cây hoa muồng vàng rợp bóng mát. Con đường này là con đường đẹp nhất của thị trấn. Nó bắt đầu từ ngay trước mặt trường học của chúng tôi, kéo dài ngang qua tòa nhà khí tượng, kéo dài đến gần dẫy nhà chúng tôi ở mới chấm dứt. Hai bên đường được trồng những cây hoa muồng vàng cao to rợp bóng mát. Hoa muồng rất nhỏ, nhưng hoa mọc rất nhiều phủ kín cả cây. Đến mùa hoa muồng nở nguyên cả con đường biến thành một màu vàng như màu hoa cúc. Khi gần hết mùa, hoa bắt đầu rụng, vì cánh hoa muồng rất mỏng, nhỏ và nhẹ nên khi rụng những cánh hoa sẽ bay một cách rất đãng đãng và bay thật lâu trong không gian trước khi chạm xuống đất. Mặt đường lúc đó sẽ được phủ đầy những cánh hoa muồng. Từ xa nhìn lại, con đường trông giống như một tấm thảm vàng trải dài từ đầu đường đến cuối đường. Học trò con gái chúng tôi rất thích đi bộ thật chậm dưới hai hàng cây vào mùa hoa rụng, những cánh hoa vàng khi rụng rơi sẽ bay và đậu lấm tấm trên tóc chúng tôi thật đẹp. Nhà văn Duyên Anh có một tác phẩm tiểu thuyết mang tên Về Yêu Hoa Cúc, chúng tôi nói sau này chúng tôi nên có một tác phẩm có tựa đề Về Yêu Hoa Muồng. Minh Châu đã vì con đường hoa vàng này mà làm nên một câu thơ:

"Thị trấn buồn, hoa muồng vàng nở

Rụng rơi bay giữa ráng chiều mơ

Tháng mười một đẹp trời thương nhớ

Đường thênh thang gió đợi nắng chờ"

Tôi chọc hỏi Minh Châu đang chờ đợi ai. Minh Châu cười nói đùa nó đang đợi một tình yêu, một "hoàng tử của lòng em". Tôi nói:

- "Không biết đến khi nào thì hoàng tử của lòng mày mới xuất hiện. Hoàng tử nào thì tao không thấy, bây giờ tao chỉ thấy có anh Dũng. Câu thơ này không hợp với mày, có vẻ thích hợp với tâm sự chị Phượng hơn, để tao đem tặng chị Phượng.

Tôi chép châu thơ đưa cho chị Phượng. Chị khen hay và đem gửi tặng cho anh Tuấn.

Hôm đó, khi về tới gần nhà cách chừng mấy chục thước, chúng tôi thấy một chiếc xe hơi đậu bên đường. Chiếc xe trông có vẻ quen thuộc nhưng tôi không dám đoán người chủ của nó đã tới đây. Khi hai chúng tôi đi ngang qua xe, tôi nghe tiếng gọi tên mình, tôi quay lại và nhận ra đó là cha.

Tôi cảm thấy hơi bất ngờ và ngỡ ngàng nên chỉ biết đứng im một chỗ không biết làm gì. Tôi không ngờ cha tôi đã biết chúng tôi ở đây và đến tìm. Cha tôi lúc đó đang ngồi trong xe, ông mở cửa bước ra ngoài và đi lại phía tôi. Minh Châu nhận ra dáng điệu ngập ngừng bối rối của tôi, nó thì thầm hỏi tôi:

- "Ai vậy? Sao đi xe hơi sang trọng quá vậy, lại quen với mày?"

Tôi ngập ngừng một chút sau đó thì thầm trả lời lại:

- "Ông già tao."

Tôi có thể nhận ra vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt Minh Châu. Con bé tròn mắt hết nhìn tôi đến nhìn cha tôi. Tôi đã có từng kể cho Minh Châu nghe hoàn cảnh gia đình tôi. Cũng như tôi, con bé có lẽ đang ngạc nhiên sao cha tôi lại tìm ra tôi ở đây và lại đến trong bất ngờ như thế này. Trong khi hai đứa tụi tôi vẫn chưa qua khỏi giây phút ngạc nhiên cha tôi đã đi tới nơi.

- "Sao con gái? Ngạc nhiên cha đến thăm lắm phải không?" Quay sang Minh Châu cha hỏi tiếp, "đây là bạn học của con hả?"

Tôi lí nhí trả lời và giới thiệu bạn mình tới cha. Minh Châu nhanh nhẹn lên tiếng chào cha tôi. Ông đưa tay vuốt đầu con bé khen giỏi và nói với tôi.

- "Anh con đâu?"

- "Anh Hùng nếu chưa về tới nhà thì chắc cũng sắp về tới."

- "Con vào xin dượng đi. Cha muốn chở hai con đi ăn trưa. Cha ngồi ở ngoài xe chờ con."

Tôi nhìn cha ngạc nhiên:

- "Sao cha không vào nhà chơi?"

Cha tôi lộ vẻ ngập ngừng:

- "Thôi để cha ở đây chờ hai anh em con tiện hơn. Hồi nãy cha đã có gặp dượng con rồi."

Tôi không gạn hỏi thêm, nói cha tôi ở ngoài đợi để tôi vào nhà cất cặp và xin phép dượng. Khi bước đến hàng hiên nhà, Minh Châu và tôi chia tay.

- "Có chuyện kể cho tao nghe tối nay rồi." Minh Châu thấp giọng nói với tôi, nháy mắt, sau đó bước khuất dạng vào trong nhà của nó.

Khi tôi bước vào trong nhà thì dượng Hai và các anh chị đang chuẩn bị vào bàn ăn. Dượng tôi, như thường lệ, về nhà để ăn cơm và ngủ trưa. Trong nhà lúc đó thiếu bóng anh Quang Hùng. Tôi chưa kịp nói gì thì đã nghe dượng tôi lên tiếng:

- "Sao cháu? Đã gặp ông già cháu chưa? Nghe ổng nói ổng ở ngoài xe đợi hai anh em cháu về. Hồi nãy ổng có vào đây tìm hai anh em tụi bay nhưng có lẽ thấy thái độ lạnh lùng không hoan nghênh lắm của dượng cho nên ổng ngượng. Ổng nói để ổng ra ngoài xe ngồi đợi. Dượng thật là ghét cay ghét đắng phải nhìn mặt con người hai lòng đó."

Tôi nhìn dượng tôi, sắc mặt của dượng đỏ lên chứng tỏ cơn giận vẫn chưa nguôi. Các anh chị trong nhà không ai dám nói gì, mọi người lẳng lặng sắp chén đũa và đồ ăn lên bàn. Tôi cố lấy can đảm nói với dượng, chỉ sợ sẽ làm khơi cơn giận của dượng lên:

- "Cha cháu muốn dẫn hai anh em cháu ra ngoài ăn trưa và nói chuyện. Cháu xin phép dượng cho đi."

Dượng Hai tỏ vẻ không bằng lòng, không muốn cho đi. Dượng to tiếng.

- "Thăm với nom! Bao năm nay có làm bổn phận người cha không mà bây giờ vác mặt tới đây thăm?"

Tôi sợ hãi đứng yên không nói gì. Sau một hồi suy nghĩ trong im lặng, dượng nhỏ giọng xuống:

- "Nhưng thôi hai anh em con đi đi. Dượng cũng chẳng cản mấy cha con tụi bay gặp nhau. Dù gì cũng là tình nghĩa cha con." Ngừng một lát dượng nói tiếp. "Con cất cặp vào rồi ra với cha con đi. Thằng Hùng chưa về. Khi nào nó về đây dượng nói nó ra xe sau."

Tôi nhỏ nhẹ cám ơn dượng và lên phòng cất cặp, sau đó chào mọi người và đi ra ngoài. Khi đi ngang qua anh Quốc Dũng, anh nheo mắt nhìn tôi ra dấu sau đó bước theo tôi ra cửa giả bộ như để đóng cửa. Anh nói với tôi:

- "Đừng có chờ nó. Hồi nãy lúc anh và nó đi học về, nó đã thấy xe của cha em rồi. Nó ‘chẩu’ rồi. Nó nói nó không muốn gặp mặt ổng. Như vậy em tùy cơ ứng biến mà nói cho xong."

Tôi lắc đầu thở dài, cám ơn anh Quốc Dũng và ra khỏi nhà. Anh Quang Hùng lúc nào cũng như vậy, bao nhiêu năm qua anh không hề nguôi oán hận cha tôi. Lúc ở Sài Gòn, cha tôi xuống thăm anh em tôi một năm chừng hai lần. Lần nào cũng vậy, anh Quang Hùng lúc nào cũng giận dữ không muốn gặp mặt cha. Mẹ tôi phải la anh dữ lắm và bắt anh đi gặp cha anh mới chịu đi. Mẹ nói cha có lỗi với mẹ nhưng không có lỗi với anh em chúng tôi và đàng nào cha vẫn là cha, chúng tôi không được vô lễ hay bất hiếu. Anh Quanh Hùng thường cãi:

- "Không có lỗi với tụi con? Bao nhiêu năm nay ông ấy chỉ nuôi con của người đàn bà kia, có nuôi nấng gì tụi con, như vậy sao không có lỗi? Ông ấy đâu đáng làm cha con."

Mẹ tôi lúc nào cũng dịu dàng giải thích cho anh hiểu:

- "Thật ra cha con có muốn đưa hai con về nuôi nhưng mẹ không chịu. Ổng có nói với mẹ nhiều lần rồi. Không thuyết phục được mẹ giao các con ra, ổng cũng đưa tiền chu cấp cho các con nhưng mẹ nhất định không chịu lấy. Mẹ không muốn xài tiền hay mang ơn huệ người này."

Những lần như vậy, bị mẹ ép lắm anh Hùng mới gượng ép đi gặp cha. Nhưng khi gặp thì anh hầu như không nói chuyện gì và chỉ ậm ừ cho qua giờ. Lần gặp nào, cha cũng cho hai anh em tiền và lần nào thì anh Hùng cũng nhất định không chịu lấy. Thật ra tôi cũng không muốn lấy nhưng thấy cha có vẻ buồn và thất vọng nên tôi đành cầm lấy cho ông vui. Cả anh Quang Hùng và mẹ đều không thích tôi lấy tiền của cha. Đứng giữa tôi không biết xử sao, nên sau mỗi lần lấy tiền như vậy tôi đều không xài, đem hết về bỏ heo.

Ra đến xe gặp cha, tôi nói dối anh Hùng hôm nay không về nhà, anh có chuyện phải ở lại trường. Cha tôi tin, không hỏi thêm và dục tôi lên xe. Ở quán cơm, vừa ăn cha vừa hỏi han anh em chúng tôi. Hỏi từ chuyện cuộc sống hàng ngày đến chuyện học hành. Sau đó tôi được biết cha có chuyện đi ngang qua thị trấn nên ghé vào thăm. Tôi hỏi sao cha biết anh em tôi dọn lên ở đây, cha trả lời cha về Sài Gòn thì nghe mẹ nói. Cha tôi nói thêm:

- "Mẹ con đưa hai anh em lên đây cha cũng vui lòng. Điều kiện sống ở đây đỡ hơn căn gác hai anh em ở lúc trước, khí hậu ở đây lại mát mẻ. Từ Đà Lạt về đây cũng gần, cha sẽ được dịp thăm hai con thường xuyên hơn." Ngừng một lát cha nói tiếp, "Mẹ con thật cứng đầu, từ đây về chỗ cha chỉ cách có hơn trăm cây số, mẹ cho các con về đây ở với dì Hai mà không cho về với cha."

Tôi nói đỡ giúp mẹ:

- "Tụi con chỉ ở đây tạm thôi, ít nữa mẹ lại đón về ở với mẹ. Tụi con ở với dì Hai mẹ còn lên thăm tụi con được, ở với cha, mẹ không dám ghé thăm."

Cha tôi nhìn tôi dịu dàng, mắt ông trở nên mơ màng:

- "Con mặt thì giống mẹ, nhưng tính tình thì lại khác xa. Mẹ con cứng cỏi bao nhiêu thì con lại mềm mỏng bấy nhiêu. Trong ba mẹ con, chỉ có con là tỏ ra thông cảm cho cha."

Tôi nhìn cha không nói gì, cảm thấy thương hại cho ông. Cha tôi đã có vợ khác và có hai đứa con khác, thật ra ông không cần đuổi theo anh em chúng tôi để xin xỏ chút tình cảm cha con. Thế nhưng, ông vẫn đi kiếm chúng tôi thăm hỏi, nhẫn nhục tìm cách làm chúng tôi thương ông. Tình cảm của cha thật hay giả tôi cảm nhận được, tôi biết ông thương anh em tôi vô cùng. Những lần thăm trước, có mặt Quang Hùng cha không tâm sự gì nhiều. Tính anh Hùng nóng nảy, đã vậy trong lòng anh vẫn mang nặng niềm hiềm khích với cha, anh không thích nghe cha kể lể hay giải thích cho nên cha tránh không nói gì nhiều. Hôm nay không có sự hiện diện của anh Hùng, cha tôi cảm thấy thoải mái hơn và nói nhiều hơn.

- "Khi nào con lớn lên con sẽ hiểu người làm cha mẹ, con nào cũng thương như nhau. Cha không hề có ý nghĩ trong đầu nuôi con này bỏ con kia. Thật ra nếu cha có sự chọn lựa, cha sẽ không bỏ con nào cả. Thế nhưng cha đã không có sự chọn lựa đó. Mẹ con đã làm một sự chọn lựa cho cha. Đối với cha, sự chọn lựa nào cũng là một đau khổ."

- "Như vậy sao cha đã tạo điều kiện khiến cho mình phải có sự chọn lựa?"

- "Con nên biết trong đời người ai cũng có lần làm lỗi." Cha tôi thở dài, tiếng thở dài nghe não lòng. "Có những lỗi lầm mình có thể sửa đổi được, có thể đền bù được hay có thể tha thứ được. Nhưng cũng có những lỗi lầm một khi đã phạm thì coi như đã vào con đường một chiều không lối thoát, không cách nào quay lại. Cha đã phạm vào một lỗi lầm mà cả sửa đổi, đến đền bù hay đến tha thứ cha đều không được cơ hội làm. Anh em con sau này lớn lên, trước khi làm bất chuyện gì cũng phải đặt cho mình câu hỏi ‘chuyện làm này có gây hậu quả gì không và hậu quả đó có cách gì đền bù sửa đổi được không’."

Nói tới đó cha tôi ngừng lời lại, có lẽ để ngăn sự xúc động của mình. Tôi đặt tay mình lên tay cha biểu lộ sự thông cảm. Cha tôi ngước mắt nhìn tôi, sau đó ông nắm tay tôi:

- "Con sau này lớn lên ra đời sẽ được mọi người thương mến. Tính con mềm mỏng, biết lắng nghe, biết quan tâm cho người khác, thân thiện và tế nhị, mọi người chung quanh sẽ quý mến con. Một người, để thành công trên đời, ngoài tài năng và trí tuệ cũng cần phải biết cách giao tiếp với những người chung quanh. Gây và giữ được thiện cảm với mọi người là một trong những yếu tố quan trọng giúp mình thành công trên đường đời."

- "Con lại nghĩ con là người nhu nhược"

- "Cha không nghĩ như vậy. Con cương quyết nhưng kiên nhẫn, con ít nói nhưng quan sát nhiều. Mềm mỏng không có nghĩa là nhu nhược và ôn hòa không có nghĩa là khuất phục. Những việc con muốn làm, con sẽ nhất định làm cho tới nơi tới chốn. Cha xưa nay không có dịp dạy dỗ các con, mẹ con đã thay cha làm việc này một cách xuất sắc. Mà thật ra một con người đã làm lỗi lầm như cha thì không có tư cách dạy dỗ các con. ."

Hôm đó cha tôi tâm sự với tôi thật lâu và dạy bảo rất nhiều chuyện. Đây là lần đầu tiên trong đời cha con tôi có dịp ngồi nói chuyện với nhau lâu và thông cảm với nhau như vậy. Vấn đề giữa cha và mẹ, hay giữa cha và anh Hùng, là họ không bao giờ có dịp ngồi xuống nói chuyện với nhau lâu. Không ai chịu thổ lộ tình cảm của mình, không ai chịu nói thật những gì họ nghĩ và vì vậy đã khiến cho họ không bao giờ hiểu nhau hay cảm thông cho nhau. Tôi tự hỏi nếu mẹ tôi đã hiểu được tâm tư của cha tôi và sự dằn vặt trong lòng ông về bổn phận làm cha đối với đứa con của người đàn bà kia thì có thể mẹ tôi đã có một quyết định khác. Tôi biết cha tôi vẫn còn thương mẹ tôi. Ông không phải đã quên đi mối tình đầu thơ đẹp ngày nào và ông cũng không thể quên, vì yêu ông, mẹ tôi đã dở dang con đường học vấn của bà.

Sau khi ăn xong, cha tôi chở tôi về lại nhà. Ông không vào nhà và muốn về lại Đà Lạt trước khi trời tối. Cha nhắn tôi gửi lời thăm anh Hùng và nói ông sẽ xuống thăm anh em tôi thường xuyên hơn. Sau đó cha con tôi chia tay, trước khi đi, như lệ thường cha dúi tiền vào tay tôi và nói "Cất đi, đem về chia cho anh con. Hai anh em để dành may quần áo và mua sắm."

Hôm đó anh Hùng gặp tôi thì lờ đi làm như không biết chuyện cha đến thăm. Tôi cũng lờ luôn không nhắc tới. Buổi tối khi cả nhà ăn cơm dì dượng Hai hỏi thăm cha tôi thế nào và tôi đã kể lại cho mọi người nghe về buổi trưa ăn cơm của hai cha con. Dì dượng Hai lại lên tiếng phê bình về con người và sự tệ bạc thay lòng của cha. Anh Hùng chỉ ngồi im lặng ăn cơm không nói gì.

Buổi tối, ở ban công anh cuối cùng cũng lên tiếng hỏi:

- "Ổng khỏe không?"

- "Khỏe, cha hỏi thăm anh." Đợi một lúc không thấy anh trả lời, tôi nói tiếp, " Cha nói bây giờ ở gần, cha sẽ xuống thăm mình thường xuyên. Cha nhắc anh ráng học."

Anh Hùng không hỏi gì thêm, anh ngồi yên lặng một lát rồi đem đàn ra đánh, dáng điệu trông ra không vui. Tôi thật không hiểu được anh không vui là vì lý do gì, vì cha đến thăm, hay vì anh vừa muốn gặp cha mình, vừa hận ghét ông cay đắng muốn tránh mặt.

Chương 5

Mẹ tôi viết thư lên hỏi nếu anh em chúng tôi muốn về Sài Gòn ăn tết với mẹ hay muốn mẹ lên nhà dì Hai với anh em tôi. Vì anh em chúng tôi có văn nghệ tất niên trong trường, lại thêm anh Quang Hùng muốn thưởng thức cái tết đầu tiên trên vùng cao nguyên lạnh, cho nên chúng tôi viết thư hồi âm muốn mẹ lên với chúng tôi.

Từ ngày dọn lên ở thị trấn nhỏ miền cao nguyên này, tôi đâm ra yêu thích khung cảnh và đời sống ở đây. Ngay giữa trung tâm thị trấn có một hồ nước rất đẹp. Hồ không có tên, khi tôi tới đây, tôi chỉ nghe người ta gọi là hồ Bảo Lộc. Ngay ở giữa hồ có xây một căn nhà thủy tạ. Nối từ trong bờ tới nhà thủy tạ là chiếc cầu xi măng rộng với hai thành cầu hai bên. Chung quanh hồ được trồng những bụi hoa hướng dương bông vàng thật lớn. Cách hồ một khoảng ngắn là một bờ đất, được đắp rất cao và rất rộng giống như cái đê. Không biết có phải người ta làm cái bờ đất này để ngăn nước trong hồ đừng chảy qua vùng đất thấp xóm Sình cạnh bên, nơi có dân ở, hay để làm đường giao thông cho hai phố hai bên. Cũng có thể là cả hai lý do. Trên mặt bờ đê, một chiếc cầu xi măng được xây lên để làm đường nối liền thông thương giữa hai khu Chợ Mới và khu Chợ Cũ. Cầu rộng như đường quốc lộ, xe có thể chạy cả hai chiều. Trên cầu, sát hai bên đường xe chạy, người ta xây hai lối nhỏ dành cho người đi bộ. Khi tôi lên ở Bảo Lộc thì chợ Cũ đã không còn là chợ nữa, nó lúc đó đã trở thành khu dân cư, ngoại trừ vài tiệm bán vải của những người Ấn Độ. Còn khu chợ Mới mới thật là khu buôn bán chợ búa. Dân địa phương gọi cầu là cầu Trắng. Tôi hỏi người chung quanh xem tại sao lại gọi là cầu Trắng thì không ai biết câu trả lời. Có người thì nói là vì cầu được sơn trắng nên gọi là cầu Trắng. Người khác thì nói là tên cầu Trắng được dùng để phân biệt với cầu Đen ở vùng trên.

Cảnh trí của hồ thật là nên thơ, tôi thật yêu thích cái không khí êm đềm, lãng mạn và thơ mộng của nó. Những buổi sáng sớm khi sương mù còn bao phủ, đi ngang qua cầu Trắng nhìn xuống mặt hồ thì không có gì đẹp bằng. Lúc đó trên mặt hồ vẫn còn được bao phủ bởi làn sương trắng dầy đặc, thấp thoáng chiếc cầu thủy tạ nằm lặng lẽ cô đơn ẩn mình sau màn sương. Lúc đó nếu may mắn thấy được chiếc đò của mấy người dậy sớm đi vớt tép thì cảnh trí càng thêm đẹp không thua gì những bức tranh thủy mạc của Trung Hoa. Buổi sáng học trò đi học lũ lượt ngang cầu, màu áo len tím dịu dàng của các nữ sinh hòa cùng những tà áo dài trắng thướt tha khiến ai có khô khan tình cảm tới đâu cũng phải dậy lên trong lòng một chút lãng mạn.

Mỗi buổi chiều, nếu rảnh không có chuyện gì làm, tôi thường ra bờ hồ chơi. Minh Châu hôm nào rảnh cũng theo tôi ra đó chơi, nhưng thường thường thì tôi đi một mình. Tôi thường đạp xe đạp ra bờ hồ, dựng xe vào một gốc cây nào đó rồi thơ thẩn ra chơi ở nhà thủy tạ khoảng nửa tiếng mới về. Tôi cũng thường lân la đến coi những người câu cá ở trên cầu thủy tạ. Những lần như vậy, tôi chỉ đứng im lặng bên cạnh, quan sát cách họ móc mồi, thả dây và kéo cần khi cá cắn câu. Lúc câu cá không ai nói nhiều hay làm ồn ào, mấy chú bác câu cá ở đó nói cá nó thính lắm, nếu nghe tiếng động chúng sẽ không tới ăn mồi. Tôi không biết lời này có đúng không, nhưng ai nói sao thì tôi nghe vậy, cứ thế mà im lặng coi mọi người câu cá.

Một ngày tôi thấy có một người lạ mặt tới câu cá, người mới này không phải là một trong các chú bác vẫn ngồi câu hàng ngày. Tuy đội mũ lưỡi trai che xụp gần hết mặt, trông dáng điệu thì tôi vẫn đoán được đó là một thanh niên trẻ. Thấy người này câu được rất khá nhiều cá, tôi lân la lại gần coi. Đến nơi, tôi nhận ra đó là anh Khiêm Thủ Quân học cùng cấp lớp với anh Hùng mà tôi đã có dịp gặp mặt lúc trước. Không biết do may mắn hay giỏi, tôi thấy anh Khiêm câu được rất nhiều cá, hết kéo con này đến con kia rồi bỏ vào cái thùng sô nước bên cạnh. Tôi đứng gần bên quan sát thật lâu không nói gì, mà anh Khiêm dường như cũng đang mải mê với thú vui của mình nên không để ý tới tôi. Mãi một lúc sau anh mới phát giác ra sự hiện diện của tôi, anh không tỏ ra gì ngượng ngùng, chỉ hỏi một cách cộc lốc:

- "Có gì mà coi?"

Tôi lắc đầu không trả lời, tiếp tục nhìn anh gắn mồi câu mới vào lưỡi. Một lúc sau anh lại hỏi:

- "Coi người hay coi cá?"

- "Đương nhiên là coi cá. Người đâu có gì để coi." Lần này thì tôi lên tiếng trả lời.

- "Trả lời hơi xấc đó nghe." Anh Khiêm nhướng mặt lên nhìn tôi, đôi mắt nằm khuất dưới vành nón thấp. Nhìn tôi một lát, anh hỏi tiếp "Cô nhỏ mặt lạ quá, dân mới hả?"

- "Anh mới là người mới ở đây."

Lần này anh Khiêm ngẩng đầu hẳn lên nhìn tôi, anh kéo nón lên cao khỏi trán. Hai đứa tôi nhìn lẫn nhau cảm thấy thú vị vì cách hỏi và cách trả lời của mỗi người. Tôi nhận thấy mắt của anh mầu rất nâu, không đen như mắt những người khác.

- "Ý câu hỏi có phải cô nhỏ là dân mới về Bảo Lộc không?" nh đính chính câu hỏi của mình, sau đó nhìn quyển sách giáo khoa tôi đang cầm trên tay, anh hỏi tiếp.

- "Dân trung học Bảo Lộc hả?"

- "Sao biết?"

- "Nhìn quyển sách giáo khoa thì biết là dân đệ nhất cấp. Ở đây chỉ có hai trường trung học, một là trường công trung học Bảo Lộc, còn trường kia là trường tư thục trung học Cộng Hoà. Giữa hai trường, trường Trung Học Bảo Lộc lớn hơn và có nhiều học sinh hơn, nếu đoán là học sinh trường đó thì xác xuất trúng sẽ lớn hơn."

Tôi cười vì cách đoán láu lỉnh của anh. Anh Khiêm quay lại câu hỏi lúc nãy mà tôi chưa trả lời:

- "Phải học trò mới không? Tui học ở đây từ nhỏ đến lớn. Nếu là dân ở đây và là học trò cũ thì tui đã biết mặt."

- "Học trò mới. Từ Sài Gòn lên."

Anh Khiêm nhìn tôi lần nữa, nheo mắt cau mày ra vẻ đang suy nghĩ:

- "Dân Sài Gòn mới lên? Hừm…., có anh em gì với Nguyễn Quang Hùng 11C1 không?"

- "Anh Hùng là anh Hai."

- "Hèn gì." Anh Khiêm gục gặc đầu "nhìn kỹ thì cũng có nét giống".

- "Mình đã gặp nhau một vài lần rồi. Hôm lớp anh Hùng tập văn nghệ."

Nghe tôi nhắc, anh Khiêm hơi ngạc nhiên, anh quay qua nhìn tôi một cách xoi mói từ đầu đến chân. Tôi cảm thấy mắc cở, đỏ mặt và tránh nhìn qua chỗ khác.

- "Vậy sao? Tui không nhớ. Thằng Hùng láu cá mà có em gái hiền lành như vầy, trông ra thì không giống."

Tôi hơi phật lòng cách anh Khiêm phê bình anh tôi như vậy cho nên không trả lời gì. Anh Quang Cận nói đúng, hai con cọp một rừng không ưa nhau. Thấy tôi im lặng một hồi lâu không nói gì anh Khiêm gợi chuyện hỏi tiếp.

-"Cô nhỏ học lớp mấy? Hay ra đây coi người ta câu cá lắm hả?"

- "9A1. Thỉnh thoảng thôi."

- "Cô nhỏ nói ít quá, hay không muốn nói?"

Tôi không trả lời câu hỏi, đưa tay chỉ ra ngoài nước:

- "Anh nói nhiều quá cá sợ chạy hết."

Anh Khiêm cười tủm tỉm rồi nhìn vào thùng sô cá của anh

- "Hôm nay câu như vậy đủ rồi, có nói nhiều một tý cũng không sao. Cá biết bơi chứ không biết chạy cho nên mình cũng không sợ."

Tôi cười vì cách anh bắt bẻ tôi dùng chữ. Thấy tôi cười, anh nói thêm:

- "Bây giờ mới thấy cười."

Tôi đã bớt giận vì câu nói của anh lúc nãy về anh Hùng, nên bắt đầu chuyện trò:

- "Không thấy anh hay ra đây câu."

- "Thỉnh thoảng mới đi câu, tuy nhiên có đi thì câu ở bên kia." Vừa nói anh vừa chỉ tay về chỗ đập nước phía bên kia hồ. "Thường thì hay đi đá banh hơn."

- "Hèn gì có tên Khiêm Thủ Quân. Anh là thủ quân của đội banh hả?"

- "Ừ, tụi trong trường đặt cho cái biệt danh đó. Ai nói cho nghe? Bọn thằng Hùng phải không? ."

Tôi không trả lời, hỏi tiếp:

- "Anh có trong đội banh của anh Quốc Dũng không?"

- "Quốc Dũng nhà bán gạo đó hả? Không, thằng Dũng ở trong đội banh lớp nhỏ hơn, anh ở trong đội banh khối 11."

Không biết từ lúc nào anh Khiêm đã đổi sang xưng bằng anh với tôi. Tôi tủm tỉm cười. Anh hỏi tiếp:

- "Em là gì của thằng Dũng?"

- "Em bà con, tụi em ở nhà anh Dũng."

- "Ồ, ra thế."

Lúc đó có con cá cắn câu, tôi gọi báo cho anh Khiêm hay. Anh dựt dây, gỡ cá và bỏ vào thùng sau đó thay mồi mới.

- "Chắc vía em hên, hôm nay cá ăn câu nhiều. Em muốn lấy cá về nhà không?"

Tôi lắc đầu. Hai đứa chúng tôi đã cảm thấy quen hơn và đã bắt đầu nói chuyện nhiều hơn. Tôi thấy anh Khiêm lúc chưa quen thì hơi có ăn nói cộc lốc nhưng nếu nói chuyện một hồi lâu thì thấy anh cũng dễ thương.

Từ ngày quen với tôi, anh Khiêm không câu bên đập nước nữa, anh dọn sang chiếm một chỗ nơi cầu thủy tạ. Anh nói câu ở bên này nhiều cá hơn bên kia, vả lại sang đây nếu tình cờ gặp tôi thì có người tán dóc cho đỡ buồn. Anh Khiêm không đi câu thường xuyên, thỉnh thoảng mới đi. Mỗi khi có dịp gặp nhau, hai đứa tôi lại ngồi nói chuyện trên trời dưới đất. Tôì thích cách nói chuyện không đâu vào đâu của anh. Còn anh thì có lẽ thích nói, lại thêm có người chịu nghe như tôi nên anh càng nói nhiều, nhiều khi mấy bác câu cá ở đó phải nhắc chúng tôi nói nhỏ lại và nói ít đi kẻo cá không dám lại. Sau này khi Minh Châu có dịp đi với tôi, tôi dẫn nó lại giới thiệu cho quen với anh Khiêm, xem chừng ba đứa chúng tôi nói chuyện cũng tương đắc.
Nghe Minh Châu nói chúng tôi thích chép thơ tiền chiến, anh Khiêm nói chị của anh ở nhà lúc trước cũng sưu tập thơ, nhưng từ khi đi lấy chồng chị bỏ mấy tập thơ lại nhà. Anh nói hôm nào rảnh anh sẽ mang cho tụi tôi. Tưởng anh nói cho qua, ai dè anh làm thật, mấy tuần sau anh mang lại cho tôi một quyển thơ chép tay, anh nói của chị anh, bây giờ chị không cần nữa, tôi cứ giữ coi không cần trả. Tôi thích lắm cám ơn anh rối rít. Tôi hỏi anh sao chữ của chị anh giống chữ con trai quá vậy thì anh nói chị anh viết chữ xấu lắm, chữ như con trai. Tôi tin anh nên không hỏi gì. Mãi mấy tháng sau này tôi tình cờ thấy chữ viết của anh trong vở anh mang theo học bài tôi mới biết anh Khiêm nói dối, nét chữ trong quyển thơ chính là nét chữ của anh. Tuy biết như vậy tôi cũng không hỏi, anh có ý dấu, tôi có hỏi chỉ làm anh quê mặt.
Tôi và anh Khiêm coi nhau như anh em bạn bè, chúng tôi gặp nhau hợp gu, nói chuyện tầm phào đủ mọi chuyện. Anh thích ngâm nga bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Anh Khiêm nói chúng tôi không có thuyền, cứ tưởng tượng lúc đứng ở trên cầu thủy tạ là đang ở trên một chiếc thuyền câu, như vậy mới cảm nhận được cảm giác của tác giả bài thơ câu cá. Anh Khiêm cũng hay có thói quen cốc đầu tôi mỗi khi tôi chọc nghẹo anh chuyện gì và tôi thì lại hay thích chọc ghẹo anh đủ mọi chuyện.
Về nhà tôi không dám nói cho anh Quang Hùng nghe chuyện tôi quen với anh Khiêm. Tôi dặn Minh Châu cũng đừng nói. Anh Hùng và anh Khiêm như lửa với nước, cho anh biết chỉ tổ làm cho anh bực mình. Anh Hùng thì chê anh Khiêm dổm đời, nói anh Khiêm ganh tỵ với anh vì thấy anh chơi thân với chị Kim Điệp. Anh Khiêm thì chê anh Hùng láu cá, coi trời bằng vung. Hai con cọp của khối 11 không chịu ở chung một rừng, tôi đứng giữa không biết cách làm hòa cho nên cũng im luôn. Anh Khiêm biết tôi binh anh trai, cho nên sau này ít khi phê bình anh Hùng trước mặt tôi. Còn tôi, tôi tự hứa khi nào có dịp tôi sẽ tìm cách cho hai anh tìm hiểu nhau và chơi với nhau.
Thu Trinh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Ban công nhỏ bé và Tiếng Sài Gòn dễ thương

Ban công nhỏ bé và Tiếng Sài Gòn dễ thương Hà Tuyết Giảo (He Xuejiao) là người Trung Quốc đã học tiếng Việt 8 năm, tốt nghiệp đại học ...