Cánh phượng tình thơ 1
Chương 1
Cánh Phượng Tình Thơ sẽ đưa ta trở về với những ngày tháng
vui tươi của thủa làm học trò và những mối tình ngây thơ lãng mạn nơi sân trường
phượng vĩ.
Con bướm vàng ngày xưa đã bay xa rồi
Tôi đem cánh phượng chôn tình thơ tuổi mới lớn...
Tôi viết tặng em bài thơ bằng giấy mực
Hỏi mưa trong lòng hay mưa ở bên ai
Thu Trinh
Mùa hè năm 1972 hai anh em tôi được mẹ gửi lên ở nhà dì Hai ở
thị trấn Bảo Lộc để đi học. Lúc đó anh Quang Hùng bắt đầu vào lớp 11 và tôi bắt
đầu vào lớp 9. Dì Hai có tất cả bốn người con, chị Bích Phượng lớn nhất, sau
hai lần thi tú tài không đậu chị bỏ con đường đi học chỉ ở nhà phụ dì Hai buôn
bán, trông nom nhà cửa và nấu nướng. Anh Quốc Dũng cùng tuổi với tôi học lớp 9.
Hai người con còn lại của dì nhỏ tuổi hơn chúng tôi, chị Bích Dung học lớp 5 và
anh Quốc Trung học lớp 6.
Dì Hai có một cửa tiệm bán gạo ngoài chợ, dì là người cai quản
và đứng bán chính, chị Bích Phượng mỗi ngày ra phụ với dì vào buổi sáng lúc chợ
đông người. Gần trưa, chị Phượng về nhà nấu cơm và dọn dẹp nhà cửa, đến chiều
chị mới quay ra lại tiệm phụ dì Hai dọn hàng và đóng cửa. Dượng Hai làm hành
chánh cho phòng bưu điện của thị trấn. Dượng làm công chức nên ngày nào cũng
‘sáng xách cặp đi, chiều xách cặp về’. Buổi trưa thì dượng ghé về nhà để ăn cơm
và ngủ trưa, sau đó lại quay lại văn phòng làm việc đến chiều mới về.
Sau khi gửi hai anh em tôi lên ở trọ nhà dì Hai, mẹ tôi vẫn
tiếp tục ở lại Sài Gòn đi làm. Tháng tháng mẹ gửi tiền lên cho dì Hai để phụ
giúp trả tiền chi phí ăn uống và học hành cho anh em tôi. Dì Hai nhất định
không bao giờ chịu lấy số tiền này. Dì nói rằng gia đình dì đủ dư giả để nuôi
thêm anh em tôi, cháu chắt trong nhà dì không muốn tính toán những chuyện nhỏ
nhặt như vậy. Tuy nhiên mẹ tôi không chịu, mẹ nói nếu dì Hai không lấy tiền thì
mẹ sẽ không nhờ nữa và sẽ đem anh em tôi trở về lại Sài Gòn. Dì Hai chẳng đặng
mới nhận tiền. Dì chỉ lấy một số nhỏ làm tượng trưng, nói tiền này dì để cho
anh em tôi may quần áo mặc, mua sách vở đi học và để xài riêng khỏi phải xin
ai.
Dì Hai thương mẹ con tôi lắm. Dì là chị lớn nhất trong nhà, mẹ
tôi là em gái kế dì, theo sau là Cậu Tư và cậu Út. Dượng Hai chồng của dì Hai
thì hiền như cục bột. Dượng để vợ mình toàn quyền quyết định trong nhà muốn làm
gì thì làm. Tính đàn ông không để ý tới những việc vặt vặn trong nhà, chuyện
hai anh em tôi đến ở cũng không gây phiền hà gì cho dượng. Dượng nói, thật ra
anh em tôi đã mang những điều lợi cho gia đình dượng. Thứ nhất, vì có anh Quang
Hùng, dượng cảm thấy yên tâm có người cho dượng nhờ cậy canh chừng anh Quốc
Dũng. Anh Quang Hùng trở thành người giám thị không chính thức của anh Quốc
Dũng. Dượng Hai giao cho anh nhiệm vụ để ý dò la xem anh Quốc Dũng có hay đi
chơi bời lêu lổng hay không, có trốn học hay không và học hành như thế nào ở
trong trường. Điểm lợi thứ hai mà dượng thấy, đó là tôi có thể kèm chị Bích
Dung và anh Quốc Trung học và làm bài ở nhà. Ai cũng biết tôi học giỏi mà lại
kiên nhẫn, dạy kèm cho hai anh chị nhỏ học thật không ai bằng. Có tôi, dượng tiết
kiệm được tiền, đỡ phải gửi hai con nhỏ đi học kèm với người khác.
Hai anh em tôi được gia đình dì Hai đón nhận vào ở trong nhà
một cách nồng nhiệt và mọi người ai cũng thương chúng tôi. Có lẽ tình chị em thắm
thiết giữa dì và mẹ tôi trong nhiều năm đã ảnh hưởng tới tất cả mọi người trong
hai gia đình. Là anh chị em bạn dì nhưng chúng tôi thương nhau không khác gì
anh chị em cùng cha mẹ. Anh Quang Hùng được ở chung phòng với anh Quốc Dũng và
Quốc Trung, còn tôi thì ở chung phòng với chị Bích Dung.
Để hiểu tại sao anh em tôi phải đi trọ học nhà dì Hai thì phải
đi tìm hiểu về chuyện của cha mẹ tôi. Chuyện của cha mẹ tôi nếu đem ra kể có lẽ
có thể viết thành một quyển tiểu thuyết dầy. Cha và mẹ tôi đã bắt đầu kết hợp với
nhau bằng một cuộc tình lãng mạn thơ mộng thời sinh viên, nhưng lại kết thúc bằng
một đổ vỡ đắng cay chua chát. Cha tôi người Huế, nhà ở Đà Lạt xuống Sài Gòn học
đại học. Lúc đó nhà ông bà nội trên Đà Lạt rất giầu, làm chủ nông trại rau và
trái cây lớn. Họ mong rằng cha sau khi ra trường sẽ có đủ kiến thức để phát triển
ngành nghề cho gia đình. Mẹ tôi là gái miền nam, sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn,
sinh viên cùng trường với cha tôi nhưng nhỏ hơn hai khóa.
Cha và mẹ đã gặp nhau, quen nhau và yêu nhau. Cuộc tình của họ
là một cuộc tình đẹp và thơ mộng nhưng lại lắm gian nan. Về phía mẹ tôi thì
không có gì trở ngại vì bà ngoại bận buôn bán suốt ngày, ít để ý đến con gái.
Bà ngoại lại là người dễ dãi nên cũng không la rầy gì. Cha tôi cũng được coi là
đẹp trai, lại thêm con nhà giầu, như vậy thật không có gì đáng để bà ngoại phản
đối hay ngăn cản. Sự phản đối đã có thật ra là từ phía gia đình nội tôi.
Gia đình cha tôi là người Huế, nghe nói khi xưa lâu lắm rồi
ông tổ ông cố cũng thuộc vào hàng quan đời nhà Nguyễn. Sau này khi nhà Nguyễn
suy sụp, ông cố đem gia đình vào Đà Lạt định cư lập nghiệp. Sang đến đời ông bà
nội, ông bà vẫn mang nặng tính khắc khe và cổ hủ. Ông bà nội lúc nào cũng coi
trọng mặt mũi bề ngoài và muốn giữ gìn sự cao quý của giòng dõi. Lâu trước khi
cha tôi vào Sài Gòn học đại học, ông bà nội đã có ý muốn cha tôi lấy một cô gái
thuộc một gia đình giầu có trên Đà Lạt và cũng là con gái của người bạn thân
quen của bà nội. Tuy nhiên cha tôi không chịu, cha nói cha không thể lấy vợ mà
không có tình yêu. Cha nói cái thời cha mẹ đặt đâu con ngồi đó cổ hủ phong kiến
đã qua rồi, thanh niên thời đại mới phải được quyền tự do luyến ái và lấy người
mình yêu.
Khi biết được tình yêu giữa cha và mẹ, ông bà nội giận lắm, bắt
cha tôi phải chấm dứt cuộc tình ngay. Hai ông bà đã nhiều lần thân chinh xuống
tận Sài Gòn gặp mặt mẹ tôi nói chuyện, buộc mẹ phải rút lui ra khỏi cuộc tình.
Nhưng mẹ tôi là một người con gái cứng đầu và bướng bỉnh, mẹ tôi đã từ chối.
Sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn là một thành phố lớn, mẹ tôi mang cá tính của một
cô gái thời mới tỉnh thành. Con người mẹ tuy lãng mạn, cởi mở nhưng rất cứng cỏi,
độc lập và không biết sợ ai.
Ngay từ lúc đầu đã không tán thành cuộc tình này, bây giờ thấy
thái độ của mẹ tôi như vậy, ông bà nội càng ghét cay ghét đắng mẹ tôi. Đối với
ông bà nội, một cô gái có gia đình tầm thường như mẹ, gia sản thì chẳng có gì,
lại thêm là người quá tân thời và âu hóa, mẹ thật không có điểm nào cho họ ưng
ý, họ càng ra sức áp lực cha tôi chia tay với mẹ và thúc dục cha về làm đám cưới
với cô gái mà họ chọn.
Để ngăn cản cuộc tình này và để tránh cảnh đêm dài lắm mộng,
mùa hè một năm trước khi cha tôi ra trường, ông bà nội quyết định sẽ làm đám cưới
cho cha tôi và cô gái ở Đà Lạt. Họ tính sau khi đám cưới cha vẫn có thể theo học
tiếp cho tới khi ra trường. Cha tôi phản đối dự định này kịch liệt. Lúc đó cha
yêu mẹ tha thiết nồng nàn, một tình yêu mãnh liệt khiến không có gì có thể làm
cha rời xa mẹ. Do đó, để chống lại ông bà nội và để họ bỏ ý định bắt cha lấy
người khác, mùa hè năm đó thay vì về Đà Lạt làm đám cưới với cô gái mà gia đình
đã chọn, cha và mẹ tôi quyết định lấy nhau. Ông bà nội đương nhiên làm sao chấp
nhận được chuyện này. Họ đưa ra tối hậu thư, một là cha về Đà Lạt lấy vợ, còn nếu
cứ nhất định đòi lấy mẹ thì gia đình sẽ từ cha tôi luôn và cắt đứt mọi chu cấp
đi học hàng tháng.
Về phía bên ngoại tôi thì cũng không xuông xẻ hơn bao nhiêu,
bà ngoại tôi tuy không phản đối cha tôi nhưng không muốn mẹ hấp tấp kết hôn. Bà
ngoại muốn mẹ học cho ra trường đã. Thuyết phục bà ngoại không được mẹ sang năn
nỉ chị gái. Mẹ khóc lóc quá làm dì Hai mủi lòng. Hai chị em biết bà ngoại là
người dễ tính và hay tha thứ nên bàn nhau cứ tổ chức đám cưới đi rồi sau đó mới
‘đánh trước tấu sau’ với bà ngoại. Thật ra dì Hai đã biết, với tính cứng đầu của
mẹ tôi, cho dù dì có phản đối đi nữa mẹ cũng vẫn sẽ làm. Thế là cha và mẹ lấy
nhau.
Đám cưới của họ thật là đơn giản, ngoài dì dượng Hai đứng ra
làm chứng, họ chỉ mời mấy người bạn sinh viên trong trường và đãi hai ba bàn tiệc
ngọt sơ sài. Không áo cưới cô dâu, không xe hoa đưa đón, không tiệc tùng linh
đình, mẹ tôi đã hy sinh giấc mộng mặc áo cưới cô dâu lộng lẫy trong ngày về nhà
chồng để lấy cha tôi trong một nghi thức đơn giản như vậy. Cha và mẹ an ủi lẫn
nhau rằng sau này khi ông bà nội hết giận rồi, họ sẽ tổ chức đám cưới lại cho
đàng hoàng.
Dĩ nhiên sau đám cưới cha mẹ gia đình cả hai bên đều giận dữ.
Cả bên nội và bên ngoại đều từ không nhìn mặt cha mẹ. Dì Hai bị bà ngoại la cho
một trận tơi bời vì đã nuông chiều em gái và qua mặt bà ngoại. Thế nhưng chỉ
vài tháng sau, đúng như hai chị em dự đoán, bà ngoại đã nguôi giận và tha thứ
cho cả hai chị em, nhất là tha cho mẹ tôi. Bà ngoại than thở rằng con hư tại mẹ
và đổ lỗi cho việc này là vì ông ngoại chết sớm và bà không biết dạy con.
Gia đình ông bà nội thì ngược lại. Chuyện cha cãi lời không
chịu về Đà Lạt cưới vợ, đã vậy còn tự tiện đi lấy mẹ tôi, khiến họ giận không
sao diễn tả. Đối với họ đó là một điều xấu hổ nhục nhã cho gia đình. Vì quá giận
và để trừng phạt cha tôi đã cãi lời, ông bà nội tuyên bố từ con trai và cắt đứt
mọi trợ cấp đi học hàng tháng. Điều này khiến cha tôi xém phải bỏ học vì không
có tiền trả tiền trường và tiền ăn ở. Sau đám cưới, cha không thể ở nội trú
trong trường được nữa (vì trường chỉ có ký túc xá riêng cho nam và ký túc xá
riêng cho nữ, không có chuyện vợ chồng ở chung), hai người họ ra mướn phòng ở
trọ bên ngoài.
Sau khi ông bà nội cúp trợ cấp, cha mẹ tôi đã thật là khốn đốn
vì không có tiền. Tiền bà ngoại cho mẹ hàng tháng chỉ đủ cho mẹ đi học, không đủ
để ra ngoài ở riêng và lại còn bao thêm cho cả cha tôi. Lúc đó dì dượng Hai thì
đang ở Bảo Lộc. Cha mẹ phần vì tự ái, phần thì không muốn làm phiền dì Hai, họ
nhất định không chịu về nhờ dì Hai giúp. Không có tiền, cha tôi muốn bỏ học
nhưng mẹ tôi khuyên mãi. Mẹ nói cha chỉ còn hơn một năm là tốt nghiệp, bỏ ngang
như vậy thật là quá uổng. Mẹ nhất quyết muốn cha học tới nơi tới chốn ra trường
thành tài đàng hoàng, như vậy sẽ khiến ông bà nội vui lòng và tha thứ về sau
này. Để giúp cha ăn học, mẹ bỏ học đi làm kiếm tiền cho hai vợ chồng sống qua
ngày. Dĩ nhiên con đường học vấn của cha vì vậy mà vẫn xuông sẻ tiến tới nhưng
con đường học vấn của mẹ thì đành giở giang. Mẹ không vì thế mà buồn. Sự đền bù
cho sự hy sinh của mẹ là nhìn thấy chồng mình vẫn còn được đi học đàng hoàng.
Nghèo mà hạnh phúc, cha mẹ tôi đã trải qua những tháng ngày hạnh
phúc nhất trong cuộc tình của họ. Họ yêu nhau chân thật và sẵn sàng hy sinh cho
nhau, câu "một túp lều tranh hai trái tim vàng" nếu áp dụng cho hoàn
cảnh họ thì thật là đúng. Dì Hai thương em gái nên thương luôn em rể. Dì thường
gửi tiền về giúp em gái, thế nhưng vì lúc đó dượng Hai mới thuyên chuyển về làm
ở Bảo Lộc, hai vợ chồng dì còn đang trong tình trạng lập nghiệp nên sự giúp đỡ
của dì cũng hạn chế không được nhiều. Bà ngoại tôi thì không hay biết tý gì
chuyện mẹ tôi bỏ học và chuyện cha tôi đã không còn tiền trợ cấp từ gia đình.
Cô con gái của bà dấu diếm mọi chuyện kỹ quá, lúc nào về thăm mẹ cũng mang một
khuôn mặt tươi vui hạnh phúc cho bà yên lòng.
Trong khi chuyện học hành và đời sống của cha mẹ tôi chưa đi
đến đâu thì đùng một cái mẹ mang bầu anh Quang Hùng. Mọi người chung quanh ai
cũng ái ngại cho mẹ, nhưng mẹ thì không than van. Tình yêu dành cho cha và tình
yêu dành cho đứa con trong bụng khiến mẹ cho rằng mình là người hạnh phúc nhất
trên đời. Mùa hè năm đó khi cha tôi tốt nghiệp đại học thì anh Quang Hùng cũng
ra đời.
Sau khi tốt nghiệp, cha bắt đầu đi làm việc, nhưng vì không
có kinh nghiệm và không có tay chân quen biết, những việc cha tôi xin được đều
không kiếm được nhiều tiền. Nhìn mẹ tôi vất vả, nhìn anh Quang Hùng đang còn bé
tý xíu lúc đó còn chưa biết đi, cha thương lắm. Lại thêm phần trong lòng thương
nhớ ông bà nội và gia đình, cha tôi bàn với mẹ và hai người quyết định đi về
xin lỗi ông bà nội. Cuối cùng cha tôi cũng thành công trong việc thuyết phục
ông bà nội tha thứ và chấp nhận cho cha đem vợ con về Đà Lạt. Cha tôi là con
trai trưởng và cũng là cháu đích tôn trong giòng họ, ông bà nội thật không muốn
mất đi đứa con trai này. Họ cũng bỏ qua luôn chuyện bắt cha lấy cô gái kia và
như vậy mẹ tôi chính thức về làm dâu nhà chồng.
Cha mẹ tôi dọn về Đà Lạt ở chung nhà với ông bà nội và các em
chồng. Vì cha tôi là con trai trưởng sau này sẽ kế thừa làm chủ căn nhà của ông
bà nội, cho nên cha tôi không được phép ra ở riêng. Ông bà nội bắt đầu giao cho
cha những công việc làm ăn của gia đình, giúp cha làm quen với mọi thứ để sau
này giao cho cha quản lý mọi việc. Làm con dâu nhà khá giả, mẹ tôi không phải
làm gì, chỉ ở nhà nuôi con. Những năm làm dâu, cuộc sống của mẹ thật là chịu đựng.
Vốn không được bố mẹ chồng ưa từ trước, cộng thêm thành kiến về những chuyện đã
làm trong quá khứ, mẹ tôi đã trở thành cái gai trong mắt ông bà nội. Dù gì cũng
là gia đình cao quý trọng mặt mũi, gia đình nội không muốn bị mang tiếng là đối
xử với con dâu tồi tệ. Bên ngoài mặt, họ đối xử với mẹ tôi như một mợ hai trong
nhà, rất kiểu cách và rất lịch sự. Nhưng thật ra bên trong, phải là người trong
cuộc mới biết, những cư xử đó chứa đựng sự lạnh lùng, xa cách, đôi khi còn chêm
vào những câu nói mỉa mai hay khinh khi.
Trong nhà có nuôi người làm, về mặt vật chất và thể xác thì mẹ
tôi không khổ, nhưng về mặt tinh thần thì mẹ tôi thật là đau khổ. Sống ở Đà Lạt
không bà con thân thuộc, không bạn bè, chỉ có chồng là người thương yêu nhưng
chồng thì lại bận rộn công chuyện làm ăn đi làm cả ngày, mẹ tôi đã sống trong sự
cô đơn, lẻ loi, buồn bã và bị khinh khi. Mẹ xin phép để được ra ngoài đi làm, cố
ý tránh không muốn ở nhà trong những giờ phút cha tôi vắng mặt. Thế nhưng ông
bà nội và ngay cả cha tôi cũng không đồng ý. Mọi người ai cũng nói họ là gia
đình khá giả, mẹ không cần đi làm, vả lại mẹ đi làm rồi không ai trông coi anh
Quang Hùng. Mẹ tôi do đó ở nhà nuôi con và sống nhờ vào sự chu cấp của gia đình
chồng.
Khi anh Quang Hùng được hơn hai tuổi thì tôi ra đời. Cha tôi
sau khi đã được an cư, ông bắt đầu cảm thấy yên tâm để lo lập nghiệp. Cha tôi từ
từ nắm quyền cai quản đồn điền mà gia đình làm chủ. Lúc trước, đồn điền của gia
đình chỉ chủ yếu là sản xuất rau quả, sau đó bán lại cho những người buôn mối.
Từ lúc cha tôi về giúp, với óc sáng tạo cộng thêm kiến thức học vấn, cha tôi bắt
đầu phát triển thêm để bao thầu luôn phân phối. Ông mua một loạt những xe vận tải
lớn để chuyên trở rau cải sản xuất được từ nông trại của mình về Sài Gòn và đến
các tỉnh. Nông trại nhà không đủ cung cấp hàng cho vận chuyển, ông bắt đầu nhảy
sang thu mua thêm rau quả từ những nông trại khác chung quanh. Những năm kế tiếp,
trong khi việc làm ăn buôn bán của cha tôi ngày càng phát triển, quan hệ giữa mẹ
tôi và ông bà nội cũng không được tiến bộ hơn bao nhiêu. Thương con trai nhưng
không có nghĩa là họ sẽ thương luôn con dâu. Thương cháu nội nhưng cũng không
có nghĩa ông bà chịu vượt qua cái hố ngăn cắt với người mẹ để bày tỏ tình
thương với cháu. Khi có mặt mẹ, ông bà vẫn tỏ ra lạnh lùng xa cách với cháu nội.
Chỉ có khi nào không có mặt mẹ thì ông bà mới hỏi han đến chúng tôi.
Đường đời không phải lúc nào cũng êm đềm như mình tưởng. Cuộc
tình sóng gió của cha mẹ tôi ngỡ rằng sẽ được êm ả những năm tháng sau đó, ai
ngờ đâu đã phải đi đến một kết cục đau buồn. Vì công việc làm ăn lúc đó đã kiêm
thêm ngành chuyên chở buôn bán với các tỉnh ở xa, cha tôi phải đi giao dịch và
vắng nhà thường xuyên. Khi tôi được chừng năm tuổi, cha tôi về thú nhận ông có
quan hệ với một người đàn bà khác ở tỉnh xa và họ đã lỡ có con với nhau. Cha muốn
mẹ tha thứ để ông công khai chấp nhận người đàn bà này và đứa con.
Mẹ tôi đau khổ cùng cực. Dĩ nhiên mẹ làm dữ lắm và nhất định
không chịu. Trên đời này có người đàn bà nào chịu chia sẻ chồng mình cho một
người đàn bà khác. Cuộc tình tay ba kéo dài rất lâu mà không đi đến đâu. Mỗi lần
cha về nhà, cha và mẹ lại gây lộn, mẹ muốn cha bỏ người đàn bà kia. Cha thì
cũng muốn bỏ bà ta lắm, nhưng vì liên quan đến đứa con, cha không muốn làm người
bất nhân bỏ rơi con. Thời gian đó là những ngày đau khổ nhất trong đời mẹ tôi.
Bị cha mẹ chồng ghét bỏ và sống trong cảnh cô đơn ở nhà chồng cũng không đau đớn
bằng cảnh chồng mình có người đàn bà khác. Sự ghen tuông đã hành hạ tâm hồn mẹ
tôi. Lúc đó tôi còn bé lắm nhưng vẫn nhớ mang máng cảnh mẹ ôm hai anh em tôi
khóc thầm. Không có ai chung quanh cho mẹ thở than tâm sự, mẹ thỉnh thoảng chỉ
biết bế con ghé về dì Hai khóc lóc than thở với chị.
Tình trạng như vậy kéo dài được hai năm thì mẹ tôi không thể
chịu đựng hơn được nữa. Với tính tình bướng bỉnh và cứng rắn, mẹ tôi khăn gói
mang anh em tôi về nhà bà ngoại, nhất định chấm dứt một cuộc hôn nhân tay ba mà
mẹ không muốn làm bà lớn hay bà nhỏ. Mẹ nói cha đã không dứt khoát và không có
quyết định trong chuyện tình cảm, nhưng mẹ có. Trong hai năm sau đó, tuy cha
tôi đã về Sài Gòn nhiều lần năn nỉ xin đón mẹ con tôi về, mẹ tôi vẫn làm giấy
ly dị, thế là cuộc tình đẹp ngày nào đành chấm dứt. Sau ly dị, cha tôi nghĩ ông
không còn cơ hội gì hàn gắn với mẹ nữa nên đã chính thức lấy người đàn bà kia
và đem hai mẹ con họ về nhà. Sau này bà ta còn sanh cho cha thêm một người con
trai nữa.
Về phần mẹ con tôi, chúng tôi được bà ngoại cho ở chung nhà.
Lúc đó cậu Tư và cậu Út chưa lập gia đình. Mẹ tôi kiếm được việc đứng bán hàng
cho siêu thị. Thế nhưng sau này khi cậu Tư và cậu Út lấy vợ và mang vợ về ở
chung thì nhà bà nội trở nên chật hẹp. Anh em chúng tôi ngày càng lớn, gia đình
hai cậu bắt đầu sanh con, căn nhà ở càng ngày càng chật hơn. Đến khi bà ngoại
qua đời, mẹ cảm thấy áy náy nếu cứ ở như vậy thì sẽ làm phiền hai cậu, cho nên
ngay sau khi mẹ tìm được một việc làm mới ở trong một hãng chủ ngoại quốc thì
chúng tôi dọn nhà ra riêng, mướn một căn gác trọ nhỏ ở trong một khu lao động rẻ
tiền.
Căn gác nhỏ chúng tôi mướn ở là một căn phòng được người chủ
nhà nối thêm lên ở phía trên căn nhà, mẹ tôi mướn vì giá thuê rẻ. Căn gác vừa
nhỏ, vừa hẹp, trần nhà thấp làm bằng tôn nên nóng lắm. Buổi tối thì đỡ, nhưng
buổi trưa thì không ai có thể ở nổi. Mẹ tôi đi làm cả ngày, chỉ có hai anh em
tôi ở nhà, nóng quá anh em tôi ít khi ở trên gác. Để tránh cái nóng, anh Quang
Hùng có cớ dẫn tôi đi chơi la cà khắp nơi, làng trên xóm dưới, mãi đến tối khi
nào mẹ tôi sắp về hai anh em tôi mới dẫn nhau về nhà. Hôm nào chúng tôi có nhiều
bài làm ở nhà, hai anh em tôi phải cắn răng chịu nóng ở trên gác làm bài. Mồ
hôi đổ nhỏ giọt, chúng tôi vừa làm bài, vừa quạt phe phẩy, vừa lấy tay gạt mồ
hôi. Mẹ tôi biết hai anh em tôi cực khổ nên mỗi ngày đều an ủi chúng tôi. Mẹ
nói cho mẹ thêm một thời gian, khi mẹ có đủ sức cáng đáng mẹ sẽ đi kiếm một chỗ
ở khá hơn.
Điều kiện sống của chúng tôi khắc nghiệt như vậy cho đến khi
dì Hai về Sài Gòn thăm. Nhìn thấy cảnh sống mẹ con chúng tôi, dì nổi giận đùng
đùng, la lối om sòm và chê mẹ tôi là anh hùng rơm. Dì nói phải đi kiếm cha tôi
bắt cha tôi chu cấp cho mẹ con, nếu không thì mẹ nên về ở chung với hai cậu để
anh em tôi đỡ khổ. Nhưng thật ra có ai còn lạ gì tính mẹ tôi. Nếu nói về ngang
bướng, cứng đầu và tự ái cao thì không ai qua mặt mẹ. Thật ra cha tôi ngay từ đầu
đã có ý muốn chu cấp hàng tháng cho chúng tôi nhưng mẹ nhất định không lấy một
đồng xu từ cha tôi. Về phần hai cậu, hai cậu cũng đã ngăn mẹ tôi đừng ra ở
riêng, nhưng mẹ vì ngại không muốn làm phiền hai em dâu, nên nhất định dọn ra.
Dì Hai làm dữ lắm, bắt mẹ con chúng tôi dọn lên nhà dì ở Bảo
Lộc, nhưng mẹ tôi cũng không chịu. Mẹ nói mẹ mới xin được vào làm một hãng ngoại
quốc, sau này sẽ có tương lai, vả lại về Bảo Lộc không có việc gì thích hợp cho
mẹ làm. Mãi sau này, dì Hai dùng việc học của hai anh em tôi làm lý do cho mẹ đổi
ý. Dì nói:
- "Căn gác nóng như vậy anh em chúng làm sao học hành.
Thằng Hùng sắp bắt đầu vào đệ nhị cấp rồi, chẳng còn bao nữa sẽ thi tú tài, nó
cần một nơi để học hành. Ngày nào cũng để hai anh em nó lêu lổng la cà ngoài đường
như vậy thế nào cũng hư, rồi sẽ theo cao bồi du đãng. Em phải biết, làm người
có tự ái và tự trọng là tốt nhưng cũng chỉ mức nào thôi, khi nó có ảnh hưởng tới
con cái thì mình phải suy xét lại.
Hai chị em cãi qua cãi lại mấy ngày lâu lắm. Sau cùng, mẹ tôi
nghe những lời dì Hai nói thấy cũng có lý, thế là mẹ tôi bằng lòng gửi anh em
tôi lên ở với dì Hai đi học, trong khi mẹ vẫn tiếp tục ở Sài Gòn đi làm. Mẹ
nói, một khi mẹ có khả năng kiếm được một chỗ ở đàng hoàng, mẹ sẽ đem anh em
tôi về lại ở với mẹ. Thế là sang đến mùa hè, mẹ tôi thu dọn dẫn hai anh em tôi
lên gửi sống với dì Hai ở thị trấn.
Chương 2
Chỉ trong một thời gian ngắn ngay sau khi chúng tôi nhập học,
anh Quang Hùng đã lập tức trở thành một nhân vật nổi tiếng trong khối lớp 11 của
anh. Với dáng người cao ráo, diện mạo bô trai và tài đánh đàn guitar, anh nhanh
chóng trở thành đối tượng ngưỡng mộ của các nữ sinh trong trường. Chơi thành thạo
hai môn thể thao chính là đá banh và bóng rổ, anh trở thành nhân vật được ưa
thích trong đám bạn con trai. Trong hai tháng đầu tiên, hai hạng nhất trong học
bạ khiến anh trở thành học trò cưng của các thầy cô giáo. Nếu có ai nói anh tôi
là một thanh niên toàn vẹn thì tôi cho rằng lời khen tặng đó quả không quá
đáng. Cộng thêm cái nhãn hiệu là dân tỉnh thành từ Sài Gòn về, anh Hùng đã mang
làn gió mới về cho các bạn trong lớp. Với lối nói chuyện duyên dáng và những ưu
điểm vừa nêu trên, tuy tính cách của anh Quang Hùng hơi mang một vẻ ngạo mạn và
xấc láo, chúng không làm anh mất đi những nét quyến rũ của mình.
Đối với một số bạn nam, anh Hùng là một thần tượng của họ. Những
gì anh nói và làm đều được họ cho là hay là đúng. Họ ráng nhớ nằm lòng những lời
anh nói và coi chúng như những danh ngôn. Họ bắt trước cắt tóc theo kiểu thời
trang của anh, kiểu tóc để hơi dài phía sau, phía trước thì để lòa xòa rủ xuống
trán. Họ còn bắt chước luôn dáng điệu của anh mỗi khi đưa tay lên vuốt tóc.
Anh Quang Hùng chưa bao giờ có bạn gái và chưa từng yêu ai,
thế nhưng từ lúc vào học trường mới, không hiểu từ lúc nào anh bỗng dưng trở
thành chuyên gia về tình yêu cho các bạn nam đến tham khảo. Họ hỏi ý kiến anh
làm sao tán gái và làm sao hiểu được tâm lý con gái. Những lúc đó tôi thấy anh
Quang Hùng tỏ dáng điệu ta đây đàn anh, đưa tay vuốt nhẹ mái tóc trước trán, hất
mặt lên và nói giọng điệu sặc mùi kiếm hiệp:
- "Muốn hiểu tâm lý con gái hả? Chúng mày thật đã kiếm
đúng cao thủ rồi. Ông đây đã từng quen biết bao nhiêu là con gái, ông hiểu bọn
chúng như những đường chỉ tay trong tay ông."
- "Thật sao?" Đám đệ tử trung thành của anh tròn mắt.
"Hùng Đại Ca dạy cho tụi này vài tuyệt chiêu thử coi."
Anh Quang Hùng tủm tỉm cười ra vẻ đắc ý:
- "Trong Anh Hùng Xạ Điêu, vì muốn Hoàng Thất Công truyền
mười tám môn võ nghệ Giáng Long Thập Bát Chưởng cho Quách Tĩnh, Hoàng Dung đã
phải bỏ bao công lao nấu nướng đãi đằng, chiều chuộng. Tụi bay muốn học mười
tám chiêu đi cua gái của ông thì phải chịu khó hầu hạ ông và để ông xai khiến.
Nếu ông thấy vui, ông sẽ chỉ cho từng chiêu một. "
Ngừng một lát thăm dò tình hình đám bạn đệ tử lúc đó đang ngẩn
mặt khâm phục lắng nghe, anh Quang Hùng gật gù nói tiếp:
- "Nhưng thôi, hôm nay để ông dạy cho chúng mày bài học
đầu tiên không tốn tiền gọi là món quà ra mắt cho tụi bay. Đây nhé hãy nhỉnh
tai lên mà nghe lời vàng ngọc của ông. Mấy đứa con gái tụi nó làm tàng và điệu
bộ lắm, mình càng tỏ ý theo tụi nó thì tụi nó càng làm cao, cho nên chúng mày
phải chơi cái màn lơ tụi nó đi. Bước đầu tiên để gây chú ý cho mấy cô nàng là
nhìn trộm mấy cô nàng một cách lộ liễu để cho mấy cô nàng biết là mình đang chú
ý tới mấy cô. Nhưng một khi mấy nàng nhìn lại thì chúng mày phải quay đi làm
như không có gì. Đây là một thái độ khiêu khích gợi sự tò mò, mấy cô nàng rồi sẽ
theo dõi chúng mày để dò xét tình ý. Nếu tụi mày cứ lò tò tỏ ra say mê các cô
nàng, các cô nàng sẽ càng làm cao, không ngó ngàng gì tới tụi mày. Ngược lại, nếu
thấy chúng mày làm lơ, các cô nàng sẽ tức giận và quay ngược lại tìm cách chinh
phục lại chúng mày."
Các bạn anh Quang Hùng tấm tắc khen bài học cua gái thứ nhất
này là hay và họ nhắc nhau sẽ thực hành. Tôi nghe mà chỉ muốn cười. Anh tôi xưa
nay có quen bạn gái với ai bao giờ đâu, anh chưa bồ với ai và cũng chưa yêu ai,
sao lại tỏ ra sành sỏi kinh nghiệm về tâm lý con gái như thế. Nếu như anh Hùng
quả thật có hiểu biết về tâm lý con gái và cua gái, những kinh nghiệm đó hoàn
toàn là do đọc từ sách vở hoặc là từ bao nhiêu năm sống chung với mẹ và tôi chứ
chẳng phải kinh nghiệm cua gái gì của bản thân anh. Tuy vậy, những lời anh
Quang Hùng nói vẫn khiến các bạn anh phục lăn và họ càng coi anh là thần tượng
của họ.
Trong số những người bạn trong lớp, anh Quang Hùng chơi thân
nhất với một nhóm bạn bẩy người. Nhóm bạn bẩy người này tự đặt cho nhau một
danh hiệu nặng mùi kiếm hiệp là Thất Hiệp, dựa tên theo nhóm Giang Nam Thất Hiệp
trong chuyện Kim Dung "Anh Hùng Xạ Điêu". Nhóm Thất Hiệp này ít gọi
nhau bằng tên một chữ, họ thường gọi nhau bằng cả tên lẫn họ hoặc gán cho nhau
những biệt danh. Thí dụ như họ gọi anh Quang Hùng là Nguyễn Quang Hùng hay Hùng
Đại Ca, gọi anh Trịnh Xuân Quang là Quang Cận vì anh đeo cặp kính cận thị dầy
cui, gọi anh Trần Bá Kỳ là Kỳ Triết Học vì anh hay lên giọng giảng triết lý, gọi
anh Bùi Thịnh là Thịnh Ú vì anh hơi tròn trịa mập mạp. Về phiá con gái, nhóm bạn
thân của anh gồm có chị Nguyễn Thị Hậu là Hậu Mít Ướt vì chị hay khóc, chị Trần
Thúy Hồng là Hồng Chạp Phô vì nhà chị bán quán chạp phô và chị Vũ Kim Điệp là
Bướm Vàng vì Kim Điệp có nghĩa là bướm vàng. Ngoài biệt hiệu Hùng Đại Ca của
nhóm Thất Hiệp tặng, anh Quang Hùng còn có một biệt danh nữa được các bạn khác
trong lớp đặt cho, đó là Hùng Đểu. Họ nói anh nói câu nào ra sao nghe cũng thấy
đểu hết. Anh Hùng lúc đầu cảm thấy giận vì bị gán cho tên này, nhưng không lâu
sau thì nghe quen tai nên không giận nữa. Anh biết các bạn không ác ý và ngay
chính anh, anh cũng công nhận cách anh nói chuyện về con gái có hơi đểu thật.
Lúc ở Sài Gòn anh em chúng tôi đi học đều mặc đồng phục. Học
sinh ở Sài Gòn, Hocon trai mặc áo sơ mi trắng, quần xanh dương đậm, con gái thì
mặc áo dài trắng, quần đen. Trường trung học ở thị trấn nơi anh em chúng tôi mới
vào học cũng mặc đồng phục giống y như vậy, nhưng vì là xứ lạnh cho nên đồng phục
còn có thêm áo len xanh dương đậm cho nam sinh và áo len tím hoa cà cho nữ
sinh. Đến ngày thứ Hai là ngày chào cờ thì các học sinh, cả nam lẫn nữ, đều phải
mặc quần trắng.
Các học trò ở gần trường thì đi bộ đi học, các học trò ở xa
cách đó bẩy tám cây số, chẳng hạn như vùng Tân Thanh, Tân Phát, thì đi học bằng
xe đạp. Một điều mà tôi chưa từng bao giờ thấy khi ở Sài Gòn đó là học sinh dân
tộc thiểu số. Trong trường còn có các học sinh dân tộc thiểu số đi học. Những học
sinh dân tộc thiểu số này đều ở trong những vùng rừng núi rất xa thành phố, mỗi
ngày họ phải đạp xe đạp mấy tiếng mới tới trường. Những nữ sinh dân tộc thiểu số
không phải mặc đồng phục áo dài hay quần đen quần trắng như nữ sinh dân tộc
kinh chúng tôi, họ có thể mặc váy sà-rông đi học.
Vì trường bao gồm cả đệ nhất cấp (từ lớp sáu tới lớp chín) và
đệ nhị cấp (từ lớp mười đến lớp mười hai) nên học sinh rất đông, Đa số các cấp
lớp đều học buổi sáng, số các cấp lớp còn lại phải học buổi chiều. Học sinh buổi
chiều đi học thường bị buồn ngủ. Cấp lớp của tôi và của anh Hùng may mắn đều được
xếp vào buổi sáng.
Đời sống học trò tỉnh lẻ thì êm đềm và giản dị hơn học sinh
thành phố Sài Gòn. Học sinh ở đây thân thiện hơn và giàu tình cảm hơn. Hai anh
em tôi đã gia nhập thế giới mới này một cách ngỡ ngàng xa lạ, nhưng sau đó chỉ
trong một thời gian ngắn, với sự thân thiện của bè bạn chung quanh chúng tôi đã
nhanh chóng làm quen với môi trường. Anh Hùng đã trở nên thân thiết với nhóm Thất
Hiệp của anh và tôi cũng đã có bạn gái thân, điều mà chúng tôi đã không có
trong những ngày sống thay đổi ở Đà Lạt hay Sài Gòn.
Chừng hơn một tháng sau khi nhập học, một buổi trưa tháng Mười,
sau khi đi học về và ăn cơm xong anh Quang Hùng rủ tôi:
- "Cuối tuần này nếu em có rảnh thì lên trường phụ anh
làm tập san. Tụi anh có hai nhóm, một nhóm sẽ tập văn nghệ và nhóm kia thì làm
tập san."
Vì cũng không có gì bận rộn trong ngày cuối tuần, tôi nhận lời
anh ngay lập tức, vả lại đây cũng là thói quen. Xưa nay hai anh em tôi rất gần
gũi nhau, từ những ngày chúng tôi còn ở Sài Gòn, sau giờ học tôi lúc nào cũng
đi theo anh. Mẹ tôi vì đi làm cả ngày nên anh Quang Hùng được giao trách nhiệm
coi em. Anh thương tôi lắm, đi đâu cũng dẫn tôi đi theo, ngay cả khi đi chơi với
các bạn trai của mình. Tôi nhớ có lần anh đi chơi đánh bi với mấy tên con trai
bên xóm kế bên, anh chơi gian lận sao đó nên bị mấy tên con trai bên đó đuổi
đánh. Anh vừa chạy vừa lôi tôi theo nhất định không bỏ em gái mình lại. Nếu
không có tôi, chắc anh đã cao bay xa chạy mất rồi, nhưng vì lo kéo theo tôi nên
hai anh em chạy rất chậm, thế là anh bị tụi xóm bên đánh một trận tơi tả. Về
nhà mẹ hỏi tại sao anh bầm mặt sứt trán, hai anh em cùng nhau nói láo nói anh bị
té. Mẹ không tin câu chuyện, nói rằng những vết bầm không giống như té, nhưng
vì có tôi nói thêm nên sau đó mẹ cũng không tra hỏi gì hơn.
Tuổi thơ của tôi đã trôi qua như vậy, tôi không có bạn gái để
chơi búp bê hay chơi làm nhà như những bé gái cùng lứa.Tuổi thơ của tôi là đi
theo anh trai mình chơi những trò chơi con trai như thả diều, tạt ống bơ, bắn
ná hay bắn bi. Tôi nhớ chúng tôi cũng hay đi bắn thằn lằn nữa. Anh Hùng và các
bạn lấy đấy sét nặn thành những viên bi nhỏ, rồi nhét vào ống nhựa thổi bắn thằn
lằn. Anh cũng dắt tôi nhập cùng các bạn trong xóm đi hái trộm mận nhà mấy người
xóm khác. Tôi được giao nhiệm vụ đứng trước cửa ăn cà rem, nhưng mục đích thật
sự là canh chừng xem chủ nhà có ai ra không. Anh Quang Hùng và mấy anh bạn kia
lấy cây sào dài đóng thêm một cây đinh ở đầu và treo vào đó một ống lon. Các
anh thọc cây hái cho mận rớt vào ống lon. Nếu khi nào tôi thấy có người ra thì
sẽ làm bộ hát lên và các anh sẽ biết thế mà chạy. Anh Quang Hùng dạy các bạn đồng
lõa của anh một cách hào hiệp rằng có ăn cắp trái cây thì ăn cắp ở xóm khác, đừng
ăn cắp xóm mình, mình là người cùng xóm phải có lòng thương yêu đoàn kết với
nhau.
Anh Quang Hùng thương tôi hơn bất cứ thứ gì trên đời, anh chỉ
hơn tôi hai tuổi nhưng xử sự đối với tôi như một người lớn. Có ai cho món ăn gì
anh cũng nhịn, để dành đem về nhường cho tôi ăn. Anh lúc nào cũng bảo vệ tôi
không cho ai bắt nạt và còn dẫn tôi đi theo anh khắp nơi không rời bước.
Quay lại chuyện làm tập san cho lớp, hôm anh Hùng rủ tôi đi
theo là chỉ còn khoảng ba tháng là đến tết Nguyên Đán. Theo như truyền thống,
trường tổ chức thi văn nghệ tất niên. Các lớp có thể tham dự thi đua và biểu diễn
các bộ môn như hợp ca, tốp ca, đơn ca, múa và kịch. Ngoài văn nghệ, trường còn
tổ chức thi bích báo và tập san. Các lớp đệ nhị cấp sẽ thi làm tập san. Các lớp
đệ nhất cấp sẽ thi làm bích báo. Tập san và bích báo của các lớp sẽ được trưng
bày ở hành lang mỗi cấp lớp cho mọi người thưởng thức. Kết quả trúng giải sẽ được
công bố vào đêm văn nghệ tất niên trước tết âm lịch. Trong đêm văn nghệ, các lớp
sẽ biểu diễn thi đua những màn biểu diễn của lớp mình. Kết quả cuộc thi văn nghệ
cũng sẽ được tuyên bố vào phần kết thúc. Giám khảo là các thầy cô giáo trong
trường.
Hôm đó khi hai anh em tôi đến trường thì các bạn của anh
Quang Hùng đã có mặt ở đó. Vì là cuối tuần nên lớp học để trống, các anh chị
dùng lớp học để tập văn nghệ và làm tập san. Nhóm văn nghệ của anh Hùng có khoảng
mười người và nhóm tập san chừng ba người, cộng thêm tôi. Các bạn trong nhóm Thất
Hiệp đều rủ nhau tham dự và hầu hết đều gia nhập ban văn nghệ. Chỉ có anh Quang
Cận là tham gia vào nhóm tập san. Tôi được các anh chị trong nhóm tập san giao
cho nhiệm vụ đọc bài và sửa lỗi chính tả của các bài viết. Anh Hùng đánh đàn
guitar hay, cho nên lãnh phần đệm đàn cho cả nhóm hát. Họ tập dợt ba tiết mục,
một hợp ca, một hài kịch ông táo về trời và một song ca giữa anh Hùng và chị
Kim Điệp.
Tôi ngồi ở trong góc lớp phụ với anh Quang Cận đọc các bài viết
cho tập san. Anh Quang Cận là một người nhỏ nhắn gầy còm. Cặp kính cận to và nặng
trên mắt cứ trệ xuống mũi làm cho anh phải thường xuyên đưa tay đên sửa kiếng
cho đừng rớt. Anh ít nói hơn những bạn trong nhóm và là người anh Hùng của tôi
thân nhất và thương nhất. Anh Hùng nói anh thương cái tính hiền lành chân thật
của anh Quang, còn anh Quang thì mến anh Hùng qua cách cư xử đàn anh hào phóng.
Hai người hai tính cánh nhưng họ thương nhau và thân với nhau hơn ai hết. Mỗi lần
nhìn anh Quang, tôi lại liên tưởng đến nhân vật Tý Cận trong những tập chuyện
tranh Xì Trum (Smurf) của nhà văn Peyo. Lúc bấy giờ Xì Trum là loạt chuyện hoạt
hình mà các thiếu niên đều say mê. Nhân vật Tý Cận là một trong những nhân vật
tý hon trong làng Xì Trum. Trong chuyện, Tý Cận thường không được các tý trong
làng ưa thích vì anh ta hay lý sự cùn và lúc nào cũng lên giọng nói đạo đức triết
lý. Thế nhưng đối với độc giả ngoài đời, Tý Cận là một nhận vật đáng yêu mà ai
cũng ưa mến. Tý Cận biểu hiện cho sự chân thật, hiền lành, đạo đức và tín nhiệm.
Lúc đó, ý nghĩ về anh Quang và nhân vật Tý Cận trong Xì Trum
làm tôi mỉm cười. Anh Quang nhìn tôi lạ lùng:
- "Em có gì mà cười thích thú vậy?"
- "Ô, không có gì. Em đang lắng nghe mấy anh chị đóng kịch
ông táo về trời. Thấy cũng khôi hài."
Tôi đỏ mặt nói lấp liếm, sợ anh Quang đoán được những ý nghĩ
trong đầu. Anh Quang nhìn ra giữa lớp, lúc đó anh Quanh Hùng đang đọc đoạn sớ kể
tội chủ nhà.
- "Ừ, thằng Hùng đóng vai ông táo cũng thấy tếu. Nhưng
anh thấy cho nó đóng mấy vai gian hợp hơn. Cái mặt nó trông đểu."
Hai đứa chúng tôi cười khúc khích vì lời bỡn cợt này. Thấy
anh Quang và tôi đang thì thầm nói cười, anh Hùng ngừng đóng kịch, bước tới chỗ
chúng tôi:
- "Hai đứa đang nói cười gì đây? Phải thằng Quang Cận
đang tán em gái ông không?" Anh vỗ vai anh Quang cận nói giọng kẻ cả.
"Nhưng không sao, mày thì ông yên tâm, ông giao em gái cho mày canh giữ.
Ông biết mày không dám tán em gái ông đâu." Sau đó anh quay qua các bạn
còn lại trong lớp. "Nhưng những thằng còn lại thì ông không tin được. Này,
ông báo trước, đứa nào nhào vào tán em gái ông thì ông bẻ răng, em gái ông
không phải để cho chúng mày tán đâu nhá."
Trong khi anh Quang Cận khoái chí cười tủm tỉm thì các anh
khác nhao nhao lên phản đối. Họ phản đối không phải là vì họ muốn tán tôi,
nhưng vì cách anh Hùng cảnh cáo họ như vậy. Mấy anh trong lớp nháy mắt nhau, họ
hè nhau túm lấy anh Hùng, đè anh xuống thọc lét.
- "Thằng này bố láo, mày dám coi thường bọn ông, để bọn
ông làm thịt mày rồi đem em mày ra bán đấu giá."
Anh Hùng bị cả bọn đè xuống thọc lét, anh vừa cười vừa la bai
bải:
- "Tụi mày dám? Ông có chết cũng về làm ma bắt chúng
mày."
Nghe anh nói, các bạn nam càng không tha và càng càng thọc
lét cho anh cười. Các chị trong lớp lúc đó tuy không theo phe nào nhưng đứng vỗ
tay cười la hét inh ỏi, tạo thành một quang cảnh ồn ào. Ngay lúc đó có một vài
nam sinh từ lớp khác bước vào, dẫn đầu là một nam sinh dáng cao, tóc cắt ngắn,
khuôn mặt sáng sủa. Anh nam sinh dẫn đầu này vừa cười vừa nói bằng giọng ôn hòa
vui vẻ:
- "11C1 làm gì mà ồn ào quá vậy, xin lịch sự một chút được
không? Giữ yên lặng cho lớp bên, chúng tôi cũng đang tập văn nghệ."
Anh Quang cận thì thầm vào tai tôi:
- "Sắp có chuyện coi rồi. Hai con cọp sắp đụng trận."
Tôi không hiểu anh Quang nói gì, thì thầm hỏi lại:
- "Cọp gì? Sao lại đụng trận?"
- "Thằng này là Khiêm Thủ Quân lớp 11D1. Nó xưa nay vẫn
được mọi học trò cùng cấp ưa thích và tôn sùng. Từ ngày có thằng Hùng về đây, sự
chú ý đã được chia bớt qua bên thằng Hùng. Hai thằng ghanh và kình nhau. Một rừng
mà có hai cọp hỏi sao không nẩy lửa."
Lúc đó các bạn anh Hùng ngừng tay và đứng dãn ra. Anh Hùng lồm
cồm đứng lên sửa tóc lại cho ngay ngắn rồi bước tới. Đang vui vẻ ôn hòa, thấy
anh Hùng, anh con trai lớp kia đổi thái độ ngay, giọng nói cũng khác đi:
- "Ồ. Thì ra có Hùng Đểu ở đây. Đáng lẽ ra mình cũng nên
biết."
Nghe câu nói châm chọc này anh Hùng không nhịn được, hùng hổ
bước tới:
- "Biết gì? Lớp ai nấy ở, mày sang đây làm gì?"
- "Lớp mấy người ồn ào quá, không ai chịu nổi."
- "Không phải giờ học, tụi tao không cần phải giữ yên lặng."
Anh Hùng vênh mặt.
- "Vậy đâu được." Anh con trai cao giọng. " Sống
phải tôn trọng người chung quanh, yêu cầu mấy người đừng làm phiền gây ồn
ào."
Anh Quang Hùng không chịu lui mà anh Khiêm cũng không nhường
bước, hai người đối đáp qua lại một hồi thiếu điều muốn nhào vào đánh lộn. Các
anh chị của cả hai lớp phải vào can họ mới thôi. Trong khi các anh lớp bên kia
kéo anh Khiêm Thủ Quân đi, anh Hùng vẫn đứng lại trong lớp hùng hổ nói anh
không sợ ai bắt nạt, lớp anh có tự do muốn làm gì thì làm. Các bạn trong lớp
không muốn sanh sự với ai, họ tự động nhỏ tiếng và khuyên anh Hùng bỏ đi. Sau
đó cả bọn quay lại tiếp tục tập dượt.
Tôi vẫn còn thắc mắc muốn tìm hiểu thêm nên hỏi tiếp anh
Quang Cận:
- "Họ kình nhau dữ vậy hả?"
Anh Quang Cận gật đầu:
- "Ừ, hôm nọ xém đục nhau trên sân banh rồi. Lúc đó hai
thằng đá cho hai đội khác nhau, không biết vô tình hay cố ý thằng Hùng đá trúng
chân Khiêm Thủ Quân cho nên Khiêm nó thù, nó đá lại. Hai thằng đá chân nhau qua
lại một hồi thì nóng máu đè nhau ra sân. Lúc đó không có mấy bạn trong hai đội
kéo ra thì hai thằng đục nhau te tua rồi."
- "Sao khi không lại ra nỗi này? Ai đúng ai sai?"
- "Ai cũng sai đầy mình. Đã vậy, thằng Khiêm chắc cũng
thích Kim Điệp, bởi thế trước mặt Con Bướm Vàng, hai con cọp càng dương oai. Đạn
nổ, miểng dăng mình đứng gần oan mạng."
Tôi nhăn mặt khi nghe kể về thái độ của anh mình nhưng không
khỏi không phì cười vì cách nói dỡn của anh Quang. Những giờ còn lại sau đó
không ai nhắc gì về sự việc mới xẩy ra nữa. Các anh chị trong lớp tiếp tục tập
văn nghệ và tôi tiếp tục phụ phần tập san.
Những cuối tuần của những tháng kế tiếp chúng tôi đều đặn họp
nhau lại như vậy để hoàn thành tờ tập san và tập dợt văn nghệ. ‘Hai con cọp’ thỉnh
thoảng vẫn gườm nhau nếu hai lớp tình cờ tập dợt chung giờ.
Chương 3
Tôi đi học về trễ hơn mọi ngày. Cô giáo chủ nhiệm nhờ vài học
sinh ở lại phụ cô kiểm soát coi lại sổ điểm của lớp. Khi tôi về đến nhà thì thấy
đồ ăn đã dọn trên bàn nhưng vẫn chưa ai ăn. Thường thì buổi trưa dì Hai không về
nhà ăn cơm. Dì có một cửa tiệm bán gạo ở chợ và dì thường ở luôn trên cửa tiệm
không về. Nếu chị Bích Phượng rảnh thì mang cơm ra cho dì, nếu chị Phượng không
rảnh thì dì Hai sẽ ăn cơm ở mấy quán gần đó. Chị Bích Phượng buổi sáng ở trên
tiệm phụ hàng với dì Hai, buổi trưa chị về sớm nấu cơm cho cả nhà ăn. Dượng Hai
cũng thường về nhà ăn cơm và ngủ trưa. Những bữa cơm trưa hàng ngày thường chỉ
có dượng Hai và các anh em trong nhà.
Khi tôi vào đến phòng ăn, chị Bích Dung lúc đó đang chơi bên
bực cửa, nói vọng vào:
- "Hôm nay chị ăn cơm một mình đi. Ba đi ăn với mấy người
trên sở không về. Hai anh Hùng và Dũng mừng như chim sổ lồng, mấy ảnh không phải
ngồi vào bàn ăn cơm như mọi ngày. Hai anh đã bưng mỗi người một tô cơm bự vào
phòng vừa ăn vừa đọc chuyện kiếm hiệp rồi."
Chị Bích Dung tuy là vai chị của tôi, nhưng vì nhỏ tuổi hơn
nên vẫn có thói quen gọi tôi bằng chị xưng em.
- "Dung không ăn sao? Chị Phượng đâu rồi?" Tôi hỏi.
- "Em ăn rồi." Sau đó Bích Dung nhìn tôi với nụ cười
bí mật. "Hôm nay chị Phượng no rồi, không ăn. Chị ấy chịu bỏ công đi nấu
cơm cho tụi mình ăn đã là một kỳ tích rồi."
- "Sao vậy?" Tôi hỏi tiếp.
- "Đọc thư người yêu nên no ngang, đâu còn tâm trí gì
làm chuyện khác."
Chị Bích Dung không nói gì thêm, quay qua tiếp tục chơi với
những thủ công của mình. Chị Bích Dung là một cô bé ngoan và dễ bảo. Chị biết tự
chăm sóc cho mình và ít làm phiền ai. Mỗi buổi tối tôi thường kiểm soát bài vở
của chị và giúp giải thích những phần bài chị không hiểu trên lớp. Năm nay Bích
Dung đang học lớp năm, cuối năm chị sẽ thi lên lớp sáu.
Tôi mỉm cười đưa tay xoa đầu Bích Dung tỏ ý hiểu lời chị nói.
Sau đó tôi bỏ đi kiếm chị Bích Phượng. Tôi thật sự hiểu ý chị Bích Dung muốn
nói gì. Chị muốn nói chị Bích Phượng vừa mới nhận được thư của anh Tuấn gửi từ
Pháp về nên vui quá. Anh Tuấn là người yêu của chị Bích Phượng, đang đi du học ở
bên Pháp. Chương trình du học của anh là năm năm, đến nay đã được ba năm rồi. Từ
ngày đi đến nay anh Tuấn chỉ về thăm nhà vào mùa hè năm ngoái, thường thì anh
và chị Phượng liên lạc với nhau bằng thư từ. Hai người hò hẹn khi nào anh Tuấn
về nước thì sẽ làm đám cưới. Chị Phượng và anh Tuấn quen nhau hai năm trước khi
anh qua Pháp du học, quen từ lúc họ còn học trung học. Hai người có một cuộc
tình thắm thiết thề non hẹn biển mà ai cũng ngưỡng mộ. Nhà anh Tuấn là gia đình
trung lưu nhưng chưa đủ giàu để tự lo cho con đi du học. Anh đi Pháp du học là
nhờ khả năng học giỏi của anh và nhờ có người chú biết chạy chọt xin được cái học
bổng cho anh. Gia đình anh không đủ chi phí cho anh về thăm nhà thường xuyên,
do đó từ ngày đi đến nay đã ba năm anh chỉ về thăm nhà có một lần. Nghe nói ở
bên Pháp anh hàng ngày đi học, đến cuốn tuần thì đi rửa chén cho nhà hàng Tàu để
kiếm tiền xài thêm. Chị Bích Phượng đôi khi cũng gửi tiền dành dụm của mình
sang Pháp giúp anh Tuấn tiêu xài thêm. Lúc đầu anh Tuấn nhất định không chịu lấy,
nhưng sau vì chị Phượng nài quá anh mới nhận. Anh nói rằng sau này anh ra trường
sẽ đền bù cho chị lại gấp mười. Mọi người ghẹo chị Phượng nói rằng chỉ cần anh
Tuấn đền bằng kiệu hoa đến nhà xin cưới là đủ lắm rồi. Mỗi lần nghe như vậy chị
Bích Phượng lại đỏ hồng mặt, bẻn lẻn không nói gì. Bạn chị Phượng ai cũng ngưỡng
mộ chị có một cuộc tình và một người yêu lý tưởng.
Khi tôi ra đến ngoài vườn sau nhà thì chị Bích Phượng đang ngồi
duỗi chân trên ghế xích đu, một hộp bìa cứng để trên đùi, tay đang cầm lá thư đọc.
Thấy tôi ra, chị bỏ chân xuống đất, nhích qua một bên để nhường một phần ghế
xích đu cho tôi ngồi.
- "Ngồi xuống đây em. Ăn uống gì chưa?"
Tôi lắc đầu nói chưa đói và ngồi xuống cạnh bên chị. Nét mặt
chị Bích Phượng hồng hào hân hoan, cặp mắt chị sáng long lanh chứa đựng niềm hạnh
phúc. Niềm vui mừng của tình yêu làm chị trông đẹp và tươi tắn hơn ngày thường.
- "Đã hai tháng rồi chị mới nhận được thư của anh Tuấn.
Anh nói độ này anh ít có dịp viết thư cho chị vì chương trình hai năm cuối càng
lúc càng khó nên anh phải chuyên tâm vào học nhiều hơn."
Chị Bích Phượng gấp lá thư lại rồi bỏ vào trong hộp bìa cứng
trên đùi. Trong hộp chị cất giữ tất cả những lá thư mà anh Tuấn gửi cho chị từ
ngày anh đi du học. Trong hộp còn có những tấm hình của anh Tuấn gửi tặng chị.
Tôi hỏi:
- "Cho em coi hình được không?"
Chị Bích Phượng vui vẻ lấy hình ra cho tôi coi. Chị nói ngoại
trừ một tấm chụp từ Việt Nam mà anh Tuấn tặng chị lúc chia tay, những tấm hình
còn lại là chụp ở bên Pháp. Tôi ngắm nhìn tấm hình anh Tuấn chụp lúc ở Việt
Nam, trong hình anh còn rất trẻ, mang dáng điệu của một cậu học sinh, mặc đồng
phục trường trung học, tóc cắt ngắn chải gọn gàng. Phía sau lưng tấm hình anh
viết giòng chữ "Tặng Bích Phượng. Forget me not." Mấy tấm hình kia chụp
anh ở bên Pháp. Trong những tấm hình này anh Tuấn trông trông đã chững trạc hơn
và đã mất đi dáng điệu cậu học sinh vùng tỉnh nhỏ. Quần áo anh mặc đã theo kiểu
tây phương và tóc đã để dài chải bồng bềnh theo mốt.
Chị Bích Phượng đón nhận những tấm hình tôi gửi trả lại rồi cất
bỏ vào trong hộp. Giọng chị trở nên mơ màng:
- "Chị mong cho anh Tuấn sớm trở về. Chị thật là nhớ anh
ấy."
Tôi nhìn chị và mong lời ước nguyện của chị sẽ mau thành đạt.
Dì Hai nói mấy năm qua chị Phượng sống như hòn vọng phu ngóng đợi chồng về. Chị
sống cuộc đời khép kín cô độc, không giao thiệp với ai và không đi đâu. Ban
ngày sau khi đi phụ mẹ ở chợ về chị chỉ trốn mình trong phòng sống trong thế giới
mộng mơ riêng tư của mình. Chị Bích Phượng là một cô gái dịu dàng, hiền lành và
thùy mị. Chị có dáng người mảnh mai dễ thương. Chị Bích Phượng tuy học không giỏi
lắm, sau khi thi rớt tú tài hai lần, chị quyết định ở nhà luôn phụ dì Hai trông
coi hàng gạo. Tôi nghĩ chị sau này chắc chắn sẽ là một người vợ hiền và anh Tuấn
nếu lấy chị thì anh thật là người may mắn.
Một vài giọt nắng lọt qua khe những chiếc lá trên tàng cây
mít trên cao, đậu xuống trên tóc chị Bích Phượng lấp lánh trông thật đẹp. Chị
đưa tay vuốt một chiếc lá khô vừa rơi trên tóc, nói tiếp:
- "Chị mong anh Tuấn sau này đừng chê chị. Chị học dở,
không có nghề nghiệp gì, làm sao xứng với anh ấy là một sinh viên du học."
- "Chị là một người hiền lành, đức độ và đảm đang. Anh
Tuấn phải có phước lắm mới lấy được chị." Tôi khuyến khích chị.
- "Chị cũng hy vọng như vậy. Chị nghĩ đàn ông lúc nào
cũng muốn làm chủ trong gia đình. Họ chỉ muốn có một người vợ biết lo lắng cho
chồng con và gia đình. Họ đâu có muốn có một người vợ ra đường làm ăn xông xáo
hơn cả chồng. Chị thấy mấy người bạn gái chung quanh đi làm việc này việc kia
ngoài đời, đến lúc lấy chồng và sanh con cũng phải bỏ cả sự nghiệp ở nhà nuôi
con."
Tôi tuy không đồng ý với quan niệm của chị Bích Phượng về địa
vị phụ nữ trong gia đình và xã hội, nhưng cũng không lên tiếng nói gì. Câu nói
của chị Bích Phượng thật ra là xác thật cho đa số những trường hợp đã xẩy ra
chung quanh thị trấn nhỏ này. Nhưng tôi đã từng ở Sài Gòn và thấy phụ nữ ở Sài
Gòn có học thức cao và họ cũng ra đời đi làm như đàn ông. Tôi cũng coi sách báo
nhiều và thấy rằng đa số phụ nữ phương tây đều gửi con ở nhà trẻ để đi làm, có
những người còn nắm những nghề nghiệp và chức vị cao trong xã hội. Vì không muốn
làm mất vui chị Phượng lúc này, tôi chọn không nói gì thêm về đề tài này.
Trong nhà dì Hai, chị Bích Phượng thích chiếc xích đu sau nhà
nhất. Ngày nào chị cũng ra ngồi ở đó để đọc đi đọc lại những lá thư của anh Tuấn.
Nếu không thì chị cũng đan áo len để gửi cho anh Tuấn mặc mùa đông. Chị nói mùa
đông bên Pháp lạnh lắm, đan gửi áo cho anh để anh mặc, mỗi khi mặc áo chị đan,
anh sẽ nhớ tới chị. Tôi không biết chị đã gửi cho anh Tuấn bao nhiêu áo len rồi,
chắc phải là nhiều lắm vì ngày nào tôi cũng thấy chị đan. Lúc thì kiểu này màu
này, khi thì kiểu kia màu kia.
Hai chị em ngồi tâm sự một lát thì chia tay, chị Bích Phượng
phải ra tiệm giúp dì Hai và tôi cũng có bài để làm.
Nhà dì Hai ở trên đầu một con dốc cao. Nó là một căn nhà hai
tầng nằm giữa một dẫy nhà lầu xây sát bên giống nhau. Căn nhà có chung tường gạch
với hai nhà hàng xóm bên cạnh. Sau nhà có một mảnh vườn nhỏ mà dượng Hai đã trồng
một vài cây ăn trái để lấy bóng mát. Dượng đặt một xích đu ngay dưới tàng của một
cây mít cao to xum xuê nhất. Gần đó dượng xây một hòn non bộ và thả mấy con cá
kiểng. Mảnh vườn sau nhà được ngăn cách với những hàng xóm chung quanh bằng một
hàng rào hoa bông bụt. Trước nhà là hai cây bông giấy cao trồng sát tường, mọc
từ dưới đất lên tới ban công trên lầu. Hai cây bông giấy trồng ở hai bên có tác
dụng làm hàng rào cản khiến cho từ ban công của hai nhà hai bên, hàng xóm không
thể thò đầu sang nhìn vào trong nhà.
Từ ngày tôi lên ở và đi học ở trên thị trấn này, tôi có quen
một cô bạn thân tên Minh Châu. Minh Châu là hàng xóm của chúng tôi, nhà ở sát
bên nhà dì Hai và lại còn là bạn học chung lớp của tôi, lớp 9A1. Anh Quốc Dũng
học lớp 9A2. Lúc ở Sài Gòn, bởi vì tôi hay theo anh Quang Hùng đi khắp nơi cho
nên tôi không có bạn thân, các bạn tôi quen chỉ là bạn thường trong lớp hoặc
trong xóm. Bây giờ lần đầu tiên có được cô bạn học thân, nhà lại ở sát nhau,
tôi thật là quý mến tình bạn này. Giờ đây, thay vì cứ đi theo anh Quang Hùng
như ngày xưa, tôi bắt đầu dành nhiều thì giờ hơn cho Minh Châu. Một phần vì tôi
đang vào tuổi mới lớn, phần kia vì tôi đã bắt đầu có những sở thích con gái
riêng cho mình, những trò chơi con trai của anh Quang Hùng đã không còn thích hợp
với tôi nữa.
Tôi và Minh Châu rất hợp nhau, đang bước vào tuổi mơ mộng,
chúng tôi thích ép bướm, ép hoa, làm thơ, chép thơ của những nhà thơ nổi tiếng
và nếu rảnh rỗi thì ngồi to nhỏ tâm tình. Thật ra anh Hùng cũng bận rộn với thế
giới mới của anh. Nếu các chị trên trường không giả vờ đến nhờ anh giảng bài,
thì chị Kim Điệp cũng đến rủ anh đi đánh tennis. Những thời gian còn lại, anh tập
họp đi chơi với mấy người trong nhóm Thất Hiệp hay đi đá banh.
Trong khi chị Phượng dành quyền làm chủ xích đu sau nhà thì
tôi chiếm cứ ban công trên lầu. Mỗi buổi tối tôi hay ra ban công nhìn ngắm
trăng sao trên trời. Nếu lúc đó Minh Châu cũng đang ở bên ban công nhà nó thì
chúng tôi sẽ nói chuyện với nhau. Tuy giàn bông hoa giấy che khuất khiến chúng
tôi không thấy mặt nhau nhưng chúng tôi vẫn có thể nói chuyện qua lại. Cần đưa
gì cho nhau thì chúng tôi lấy cây cột món đồ vào đầu cây rồi truyền qua bên
kia. Thỉnh thoảng Minh Châu cũng qua nhà chơi với tôi, hay ngược lại tôi cũng
qua bên nhà Minh Châu. Những lúc đó hai đứa tôi kéo ghế ra ban công nằm dài tán
dóc hay trao đổi những đoạn thơ mà mỗi đứa mới đọc được. Hai đứa tôi mỗi đứa có
một quyển tập riêng để chép lại những bài thơ hay của những nhà thơ nổi tiếng.
Hai đứa giống nhau, đều thích thơ của những nhà thơ tiền chiến như Nguyễn Bính,
Xuân Diệu, Huy Cận, v…v.
Anh Quang Hùng cảm thấy khó chịu về tình bạn này của chúng
tôi. Anh bày tỏ sự khó chịu của mình ra mặt. Tôi biết anh làm vậy là vì ghen tỵ.
Ngày xưa tôi lúc nào cũng đi theo anh không rời nửa bước. Giờ đây có bạn, tôi
đã bớt đi theo anh. Mỗi lần Minh Châu qua nhà chơi, hay mỗi lần tình cờ gặp
Minh Châu đi với tôi ở trên trường, anh Quang Hùng đều nói những lời bực tức, mỉa
mai châm chích. Anh không ngại để lộ ra ngoài thái độ không ưa Minh Châu của
mình. Thế nhưng Minh Châu không phải là con bé vừa, nó lúc nào cũng ăn miếng trả
miếng anh Hùng, đôi khi tài ăn nói và tài kê tủ đứng vào miệng người ta của nó
đã khiến anh Hùng phải cứng họng.
Thái độ anh Quốc Dũng thì hoàn toàn ngược lại. Anh mừng như bắt
được vàng thấy tôi trở thành bạn thân của Minh Châu. Gia đình anh Quốc Dũng và
gia đình Minh Châu đã làm hàng xóm với nhau từ ngày hai người còn nhỏ xíu. Lúc
đó anh Quốc Dũng và Minh Châu là hai bạn láng giềng chơi thân với nhau. Họ nhập
bọn cùng với những bạn trong xóm chơi chung rất thân. Thế nhưng từ ngày hai người
lên lớp sáu tới giờ thì tình bạn đó đã không còn như xưa. Minh Châu bắt đầu bước
vào tuổi con gái mới lớn và đã biết e thẹn làm dáng. Anh Quốc Dũng thì vỡ tiếng
và đã biết để ý tới con gái. Hai người họ đã không còn chơi chung với nhau như
xưa. Mỗi lần gặp nhau thì cả hai đều bẻn lẻn ngượng ngập và nói chuyện rất ít.
Chị Bích Phượng hay chọc ghẹo anh Quốc Dũng về sự thay đổi này. Chị hay kể cho
chúng tôi nghe về những kỷ niệm lúc anh Dũng và Minh Châu chơi chung với nhau
khi còn bé. Lần nào cũng vậy, chị sẽ kết thúc câu chuyện bằng câu "Ôi, đây
mới đúng là mối tình ‘ngày thơ tình thơ’." Rồi sau đó chị không quên chêm
vào mấy câu trong bài thơ Cuộc Đời của Minh Phẩm:
"Ngày xưa hồi còn thơ
Một chiều nắng đẹp khoe màu tơ
Tôi cùng em, hai đứa
Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửa.
Tóc em chừa bánh bèo
Môi chưa hồng, da mét: con nhà nghèo !
Đầu tôi còn hớt trọc
Khét nắng, hôi trâu, thèm đi học
Em cầm một củ khoai
Cạp vỏ bằng răng rồi chia hai.
Thứ khoai sùng lượm mót
Mà sao nó ngọt thôi là ngọt
……"
Anh Quốc Dũng thường mắc cở về lời chọc ghẹo này, nhưng dáng
vẻ của anh thì lại chứng tỏ anh thích nghe chọc lắm. Tôi biết anh Quốc Dũng
thích Minh Châu nhưng anh không dám nói ra, cho nên khi thấy tôi quen thân với
Minh Châu anh mừng lắm. Anh cho rằng tôi có thể làm chiếc cầu bắt nối cho anh.
Qua tôi, anh có thể có dịp được gần gũi với Minh Châu nhiều hơn. Mỗi lần Minh
Châu qua nhà chơi với tôi, anh Quốc Dũng thế nào cũng tìm cách lân la đến gần
làm bộ nói chuyện với tôi hay hỏi mượn này kia. Miệng anh thì nói với tôi nhưng
mắt thì chỉ hướng về nhìn bạn tôi. Lâu lâu anh cũng chêm vào một vài câu nói
bâng quơ không đâu vào đâu hướng về Minh Châu. Trong những trường hợp như vậy,
tôi thấy Minh Châu không tỏ thái độ gì khác lạ. Con bé lúc nào cũng nở nụ cười
dễ thương và không nói gì. Tôi không nghĩ Minh Châu thích anh Quốc Dũng. Mỗi lần
tôi chọc Minh Châu với anh Dũng thì nó chỉ phá lên cười và nói:
- "Thôi đi bà, để cho con yên. Nhà con ở sát bên nhà Quốc
Dũng, tụi con còn làm hàng xóm với nhau lâu lắm. Chọc làm sao mà rồi hai đứa phải
lấy mo cau che mặt mỗi khi bước ra cửa gặp nhau."
Tôi cười, tôn trọng bạn tôi không chọc ghẹo Minh Châu trước mặt
mọi người, nhưng thỉnh thoảng khi không có ai chung quanh tôi vẫn đem đề tài
này ra ghẹo bạn.
Anh Quốc Dũng tuy bằng tuổi và học ngang cấp lớp với tôi
nhưng mọi người ai cũng nói anh không được chững chạc bằng tôi. Tính của anh cởi
mở, dễ dãi và mau quên. Anh không hay để ý đến chuyện chung quanh và không để
lâu trong bụng điều gì. Anh thích chơi đá banh. Đá banh là môn thể thao anh mê
hơn những thứ gì trên đời. Chiều nào anh cũng ra sân banh chơi. Dượng Hai hay
la anh vì anh mê đá banh không chịu học hành. Chị Phượng hay nói, "Người
ta mê bồ bỏ vợ, thằng Dũng sau này mê đá banh bỏ vợ." Những lúc như vậy
anh Dũng chỉ cười xởi lởi.
Từ ngày có sự hiện diện của anh em tôi trong nhà và từ ngày
tôi trở bạn thân của Minh Châu, anh Quốc Dũng quay sang hai anh em chúng tôi nhờ
cậy giúp anh cua gái. Anh cứ xui tôi rủ rê Minh Châu qua nhà chơi và nhờ tôi
nói tốt về anh tới Minh Châu. Tôi nói:
- "Anh nhát gái như vậy mà đòi đi cua gái à?"
- "Nhát gì em, chỉ ngại thôi. Là hàng xóm nhà sát bên, lỡ
tỏ tình mà Minh Châu từ chối thì anh ê mặt lắm, lúc đó phải đi đục lỗ hàng rào
sau nhà để làm cửa đi ra ngoài đường chứ không dám đi cửa trước."
Không những nhờ tôi, anh Quốc Dũng còn nhờ luôn anh Hùng dạy
anh cua gái. Đương nhiên anh Hùng của tôi không từ chối. Gì chứ làm quân sư cua
gái cho người khác là sở trường của anh. Thế nhưng nó cũng lại là sở đoản của
anh là vì anh chưa hề cua ai cho mình bao giờ.
- "Chuyện này thì dễ thôi. Người khác thì em không dạy,
nhưng mình là anh em trong nhà thì em phải chỉ dẫn cho anh tận tình. Một công
hai chuyện, trước là giúp anh đạt được ý muốn, sau là mong tình yêu sẽ khiến bà
Minh Châu dữ như chằn lửa này cải hóa, khiến bà bớt dữ." Sau đó anh Hùng
quàng vai anh Quốc Dũng thân thiện, anh bắt đầu lên giọng giảng bài. "Xưa
nay, tiếng đàn và tiếng hát luôn là vũ khí sắc bén để con trai cua gái. Em sẽ dạy
anh đánh đàn và hát một vài bài làm vốn. Ngày xưa Trương Chi xấu như ma, chỉ nhờ
dùng tiếng sáo và tiếng hát mà cua được Mỵ Nương. Anh đẹp trai như vầy, lại có
thêm em làm quân sư thì coi như Minh Châu đã nằm chắc trong tay anh rồi."
Lời anh Hùng nói anh Dũng nghe thật bùi tai và vì vậy đã trở
nên vui mừng hớn hở ra mặt. Phải rồi, chuyện ngày xưa Trương Chi xấu như vậy mà
vẫn có thể làm Mỵ Nương xiêu lòng bằng tiếng hát và tiếng sáo của mình. Chuyện
ngày nay băng nhạc Beatle chỉ hát có mấy bài mà khiến hàng triệu các con gái
trên thế giới mê mệt. Rành rành như thế anh Dũng sao không nên nghe. Thế là anh
Dũng từ đó theo anh Hùng học cách cua Minh Châu. Anh Hùng dạy cho anh hát và
đánh đàn. Vì để đốt ngắn giai đoạn, anh Hùng nói anh Dũng cần học dã chiến,
nghĩa là học cho nhanh cho lẹ để còn ra trận. Anh không dạy anh Dũng nhạc lý
căn bản từ đầu mà chỉ dạy đánh và hát một vài bài nhạc tủ.
Đi cua gái mà anh tôi làm như đi đánh trận thời chiến quốc,
anh dàn quân bày mưu chiến lược như Khổng Minh Gia Cát Lượng ngày xưa. Trong
khi chờ đợi anh Dũng ‘luyện công’ bài nhạc tủ ‘chờ ngày hạ san’, ông anh quân
sư của tôi bày trận đánh du kích trước, ‘gọi là dọ thám tình hình’. Anh lấy đưa
cho anh Dũng bài thơ Cô Hàng Xóm của Nguyễn Bính, nói anh Dũng chép ra giấy rồi
nhờ tôi đưa cho Minh Châu. Anh Hùng nói:
- "Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Trước khi mở
trận tấn công, mình phải đánh du kích trước bằng cách gửi bài thơ này cho đối
phương để dò xét phản ứng. Nếu đối phương trả bài thơ lại, khi gặp mặt mình thì
cho ra vài câu chửi chó mắng mèo thì mình rút quân liền, về nhà nằm chờ thời
tìm phương kế khác. Ngược lại, nếu thấy đối phương im ru thì xem chừng có khả
quan, mình đánh tới luôn."
Anh Dũng nghe răm rắp lời quân sư Khổng Minh của anh, lấy giấy
chép bài thơ rồi đưa cho tôi nhờ chuyển dùm:
"Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi ! Bướm hãy vào đây !
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên...
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi !
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,
Tôi buồn tự hỏi: "Hay tôi yêu nàng ?"
-- Không, từ ân ái lỡ làng,
Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao ?
Tơ hong nàng chả cất vào,
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.
Cái gì như thể nhớ mong ?
Nhớ nàng ? Không ! Quyết là không nhớ nàng !
……….."
Tôi đưa thơ cho Minh Châu, hai đứa tôi ôm bụng cười rúc rích.
Tôi phân bua với nó:
- "Tao không có phần, tao chỉ làm sứ giả đưa thư thôi.
Nói trước, luật lệ xưa nay các nước không được giết sứ giả."
Minh Châu đương nhiên không làm hại sứ giả, nó cũng không nỡ
làm đau lòng hay mất mặt ông anh bà con của tôi. Nó vì vậy cứ im lặng, không gửi
trả bài thơ mà cũng không chửi chó mắng mèo. Anh Dũng đi theo tôi tò tò hỏi dò
tình hình, nhưng tôi nói với anh tôi không có tin gì cho anh.
Hai ông anh tôi cười đắc thắng. Tài tiên đoán như thần cộng
thêm mưu lược của quân sư Quang Hùng dường như đang đi vào chiều hướng tốt đẹp.
Như đã toan tính trước, khi không thấy ‘phe địch’ có động tịnh gì, hai ông anh
tôi tiến tới đi luôn chiêu thứ hai, tập hát và tập đàn ráo riết. Tập được một
tuần, hai người đem nhau ra ban công thử nghiệm. Một tối, chờ cho Minh Châu có
mặt ở bên ban công nhà nó, anh Quốc Dũng ôm đàn guitar rên rỉ hát bài Cô Láng
Giềng của Hoàng Quý:
" ...Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm.
Đôi mắt trong đen màu hạt huyền
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
Xao xuyến nỗi niềm yêu.
Cô láng giềng ơi!
Không biết cô còn nhớ đến tôi?
Giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ..."
Đương nhiên tiếng đàn của anh thì rất vụng về và không đúng
nhịp, giọng của anh vẫn còn trong tình trạng vỡ tiếng chưa được trong trẻo, anh
hát thật khó nghe. Mỗi khi anh lên giọng hát điệp khúc ‘cô láng giềng ơi..’ thì
hơi của anh như tắc trong cuống họng không lên cao được. Anh Quang Hùng lúc đó
đứng khuất trong nhà lãnh phần lấy tay ra dấu làm đạo diễn, mỗi lúc nghe anh Quốc
Dũng lên giọng anh lại nhăn mặt lè lưỡi lấy hai ngón tay bịt lỗ tai.
Cứ vậy, mỗi tối khoảng tám giờ, sau khi làm bài xong, hai anh
Hùng và Dũng lại mang đàn ra ban công hát. Suốt cả hai tuần anh Dũng chỉ biểu
diễn có một bài tủ là bài Cô Láng Giềng, anh hát mỗi ngày không biết chán. Minh
Châu lại gặp tôi nhăn nhó:
- "Ông anh bà con mày đang làm gì đây. Nếu không thương
tao thì cũng thương cho cái tai của mọi người chung quanh."
- "Anh Hùng làm đạo diễn đó. Mày qua than phiền với ảnh
đi." Tôi trả lời.
- "Đáng ra tao nên biết đứng sau lưng ông Dũng là ông
anh của mày."
Tôi không nói cho anh Dũng nghe lời phê bình của bạn mình, sợ
anh buồn và tự ái, nhưng tôi đem lời này nói lại cho anh Hùng. Ông anh tôi nghe
xong suy ngẫm một vài giờ và rồi bắt đầu giở trò mới. Biết Minh Châu chê anh
Dũng hát dở, anh dạy nhồi thêm cho đệ tử mình bài nhạc thứ hai, đó là bài Cô
Hàng Xóm của Lê Minh Bằng:
"…
Nhà gần bên, em sống trong giàu sang
Quen gấm nhung đài trang
Đi về xe đón đưa
Đêm đêm dưới ánh trăng vàng
Tôi với cây đàn âm thầm thở than
Và cô nàng bên xóm
Mỗi lúc lên đèn, sang nhà làm quen
Tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở,
Nhưng nàng khen nhiều và thật nhiều
Làm tôi thấy trong tâm tư xôn xao
Như lời âu yếm mặn nồng của đôi lứa yêu nhau
……"
Có được hai bài, phần trình diễn văn nghệ hàng tối của anh
Dũng đã được thêm phần phong phú nhưng chất lượng của giọng hát và tài đánh đàn
của anh cũng không khấm khá hơn bao nhiêu. Minh Châu lại lắc đầu than thở:
- "Ông anh Hai mày lắm mưu nhiều kế, tao chê ông Dũng
hát dở thì ổng lại bồi thêm vào bài này làm tao cứng họng. Ông Dũng hát ‘tôi ca
không hay tôi đàn nghe cũng dở’ thì đúng là sự thật không ai chối cãi. Nhưng
tao có khen bao giờ đâu. Hai bài nhạc của người ta đang thơ mộng lãng mạn như vậy,
qua giọng ông Dũng hát thấy khác luôn. Một bài thì ổng hát như đi hành quân.
Bài kia thì ổng rên rỉ nghe buồn não nề, giống như tiếng ễng ương than thở
trong đêm khuya. Ai mà đang thất tình ngày nào cũng nghe ổng hát chắc sẽ tự tử
luôn."
Tôi phải bật cười vì lối phê bình của bạn mình. Nói thì nói vậy
nhưng thật ra tôi biết trong lòng Minh Châu nó cảm thấy thích thú và tự mãn lắm.
Có đứa con gái nào mà không cảm thấy hãnh diện khi được con trai yêu thầm tán tỉnh,
mà nhất là chàng trai đó chịu khó mang lời ca tiếng nhạc đi tỏ tình như vậy.
Những ngày đầu, tiếng hát mỗi tối của anh Dũng có làm chúng
tôi vừa khó chịu vừa buồn cười, nhưng riết rồi chúng tôi quen đi và nghe cũng
xuông tai. Minh Châu nhắn với tôi nếu để anh Hùng đệm đàn và hát phụ chắc chắn
sẽ nghe đỡ hơn. Nghe tôi lập lại lời này, anh Dũng đã sửa sang chương trình và
anh Hùng được cho góp phần. Sau đó, chương trình hàng đêm của anh bắt đầu được
mọi người ưa thích khi anh Quang Hùng bắt đầu tham gia vào hát chung. Đương
nhiên giọng hát của anh Hùng nghe quyến rũ hơn và tiếng đàn của anh nghe cũng
hay hơn. Mỗi khi anh Hùng hát, tôi ra ngồi cạnh lắng nghe, chị Bích Phượng và
Bích Dung cũng ra ngồi. Kể cả Minh Châu, con bé đương nhiên thỉnh thoảng cũng
qua tham dự làm thính giả. Mãi sau thì thành thói quen, mỗi tối đám thính giả
chúng tôi đều muốn được nghe hai anh con trai hát và đó đã trở thành một hoạt động
quen thuộc trong mỗi buổi tối của bọn trẻ chúng tôi.
Chương 4
Một ngày giữa tháng Mười Một, tan học tôi và Minh Châu đi bộ
từ trường về nhà. Hai đứa tôi đi bộ một cách nhẩn nha không vội vã dưới hai
hàng cây hoa muồng vàng rợp bóng mát. Con đường này là con đường đẹp nhất của
thị trấn. Nó bắt đầu từ ngay trước mặt trường học của chúng tôi, kéo dài ngang
qua tòa nhà khí tượng, kéo dài đến gần dẫy nhà chúng tôi ở mới chấm dứt. Hai
bên đường được trồng những cây hoa muồng vàng cao to rợp bóng mát. Hoa muồng rất
nhỏ, nhưng hoa mọc rất nhiều phủ kín cả cây. Đến mùa hoa muồng nở nguyên cả con
đường biến thành một màu vàng như màu hoa cúc. Khi gần hết mùa, hoa bắt đầu rụng,
vì cánh hoa muồng rất mỏng, nhỏ và nhẹ nên khi rụng những cánh hoa sẽ bay một
cách rất đãng đãng và bay thật lâu trong không gian trước khi chạm xuống đất. Mặt
đường lúc đó sẽ được phủ đầy những cánh hoa muồng. Từ xa nhìn lại, con đường
trông giống như một tấm thảm vàng trải dài từ đầu đường đến cuối đường. Học trò
con gái chúng tôi rất thích đi bộ thật chậm dưới hai hàng cây vào mùa hoa rụng,
những cánh hoa vàng khi rụng rơi sẽ bay và đậu lấm tấm trên tóc chúng tôi thật
đẹp. Nhà văn Duyên Anh có một tác phẩm tiểu thuyết mang tên Về Yêu Hoa Cúc,
chúng tôi nói sau này chúng tôi nên có một tác phẩm có tựa đề Về Yêu Hoa Muồng.
Minh Châu đã vì con đường hoa vàng này mà làm nên một câu thơ:
"Thị trấn buồn, hoa muồng vàng nở
Rụng rơi bay giữa ráng chiều mơ
Tháng mười một đẹp trời thương nhớ
Đường thênh thang gió đợi nắng chờ"
Tôi chọc hỏi Minh Châu đang chờ đợi ai. Minh Châu cười nói
đùa nó đang đợi một tình yêu, một "hoàng tử của lòng em". Tôi nói:
- "Không biết đến khi nào thì hoàng tử của lòng mày mới
xuất hiện. Hoàng tử nào thì tao không thấy, bây giờ tao chỉ thấy có anh Dũng.
Câu thơ này không hợp với mày, có vẻ thích hợp với tâm sự chị Phượng hơn, để
tao đem tặng chị Phượng.
Tôi chép châu thơ đưa cho chị Phượng. Chị khen hay và đem gửi
tặng cho anh Tuấn.
Hôm đó, khi về tới gần nhà cách chừng mấy chục thước, chúng
tôi thấy một chiếc xe hơi đậu bên đường. Chiếc xe trông có vẻ quen thuộc nhưng
tôi không dám đoán người chủ của nó đã tới đây. Khi hai chúng tôi đi ngang qua
xe, tôi nghe tiếng gọi tên mình, tôi quay lại và nhận ra đó là cha.
Tôi cảm thấy hơi bất ngờ và ngỡ ngàng nên chỉ biết đứng im một
chỗ không biết làm gì. Tôi không ngờ cha tôi đã biết chúng tôi ở đây và đến
tìm. Cha tôi lúc đó đang ngồi trong xe, ông mở cửa bước ra ngoài và đi lại phía
tôi. Minh Châu nhận ra dáng điệu ngập ngừng bối rối của tôi, nó thì thầm hỏi
tôi:
- "Ai vậy? Sao đi xe hơi sang trọng quá vậy, lại quen với
mày?"
Tôi ngập ngừng một chút sau đó thì thầm trả lời lại:
- "Ông già tao."
Tôi có thể nhận ra vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt Minh Châu.
Con bé tròn mắt hết nhìn tôi đến nhìn cha tôi. Tôi đã có từng kể cho Minh Châu
nghe hoàn cảnh gia đình tôi. Cũng như tôi, con bé có lẽ đang ngạc nhiên sao cha
tôi lại tìm ra tôi ở đây và lại đến trong bất ngờ như thế này. Trong khi hai đứa
tụi tôi vẫn chưa qua khỏi giây phút ngạc nhiên cha tôi đã đi tới nơi.
- "Sao con gái? Ngạc nhiên cha đến thăm lắm phải
không?" Quay sang Minh Châu cha hỏi tiếp, "đây là bạn học của con hả?"
Tôi lí nhí trả lời và giới thiệu bạn mình tới cha. Minh Châu
nhanh nhẹn lên tiếng chào cha tôi. Ông đưa tay vuốt đầu con bé khen giỏi và nói
với tôi.
- "Anh con đâu?"
- "Anh Hùng nếu chưa về tới nhà thì chắc cũng sắp về tới."
- "Con vào xin dượng đi. Cha muốn chở hai con đi ăn
trưa. Cha ngồi ở ngoài xe chờ con."
Tôi nhìn cha ngạc nhiên:
- "Sao cha không vào nhà chơi?"
Cha tôi lộ vẻ ngập ngừng:
- "Thôi để cha ở đây chờ hai anh em con tiện hơn. Hồi
nãy cha đã có gặp dượng con rồi."
Tôi không gạn hỏi thêm, nói cha tôi ở ngoài đợi để tôi vào
nhà cất cặp và xin phép dượng. Khi bước đến hàng hiên nhà, Minh Châu và tôi
chia tay.
- "Có chuyện kể cho tao nghe tối nay rồi." Minh
Châu thấp giọng nói với tôi, nháy mắt, sau đó bước khuất dạng vào trong nhà của
nó.
Khi tôi bước vào trong nhà thì dượng Hai và các anh chị đang
chuẩn bị vào bàn ăn. Dượng tôi, như thường lệ, về nhà để ăn cơm và ngủ trưa.
Trong nhà lúc đó thiếu bóng anh Quang Hùng. Tôi chưa kịp nói gì thì đã nghe dượng
tôi lên tiếng:
- "Sao cháu? Đã gặp ông già cháu chưa? Nghe ổng nói ổng ở
ngoài xe đợi hai anh em cháu về. Hồi nãy ổng có vào đây tìm hai anh em tụi bay
nhưng có lẽ thấy thái độ lạnh lùng không hoan nghênh lắm của dượng cho nên ổng
ngượng. Ổng nói để ổng ra ngoài xe ngồi đợi. Dượng thật là ghét cay ghét đắng
phải nhìn mặt con người hai lòng đó."
Tôi nhìn dượng tôi, sắc mặt của dượng đỏ lên chứng tỏ cơn giận
vẫn chưa nguôi. Các anh chị trong nhà không ai dám nói gì, mọi người lẳng lặng
sắp chén đũa và đồ ăn lên bàn. Tôi cố lấy can đảm nói với dượng, chỉ sợ sẽ làm
khơi cơn giận của dượng lên:
- "Cha cháu muốn dẫn hai anh em cháu ra ngoài ăn trưa và
nói chuyện. Cháu xin phép dượng cho đi."
Dượng Hai tỏ vẻ không bằng lòng, không muốn cho đi. Dượng to
tiếng.
- "Thăm với nom! Bao năm nay có làm bổn phận người cha
không mà bây giờ vác mặt tới đây thăm?"
Tôi sợ hãi đứng yên không nói gì. Sau một hồi suy nghĩ trong
im lặng, dượng nhỏ giọng xuống:
- "Nhưng thôi hai anh em con đi đi. Dượng cũng chẳng cản
mấy cha con tụi bay gặp nhau. Dù gì cũng là tình nghĩa cha con." Ngừng một
lát dượng nói tiếp. "Con cất cặp vào rồi ra với cha con đi. Thằng Hùng
chưa về. Khi nào nó về đây dượng nói nó ra xe sau."
Tôi nhỏ nhẹ cám ơn dượng và lên phòng cất cặp, sau đó chào mọi
người và đi ra ngoài. Khi đi ngang qua anh Quốc Dũng, anh nheo mắt nhìn tôi ra
dấu sau đó bước theo tôi ra cửa giả bộ như để đóng cửa. Anh nói với tôi:
- "Đừng có chờ nó. Hồi nãy lúc anh và nó đi học về, nó
đã thấy xe của cha em rồi. Nó ‘chẩu’ rồi. Nó nói nó không muốn gặp mặt ổng. Như
vậy em tùy cơ ứng biến mà nói cho xong."
Tôi lắc đầu thở dài, cám ơn anh Quốc Dũng và ra khỏi nhà. Anh
Quang Hùng lúc nào cũng như vậy, bao nhiêu năm qua anh không hề nguôi oán hận
cha tôi. Lúc ở Sài Gòn, cha tôi xuống thăm anh em tôi một năm chừng hai lần. Lần
nào cũng vậy, anh Quang Hùng lúc nào cũng giận dữ không muốn gặp mặt cha. Mẹ
tôi phải la anh dữ lắm và bắt anh đi gặp cha anh mới chịu đi. Mẹ nói cha có lỗi
với mẹ nhưng không có lỗi với anh em chúng tôi và đàng nào cha vẫn là cha,
chúng tôi không được vô lễ hay bất hiếu. Anh Quanh Hùng thường cãi:
- "Không có lỗi với tụi con? Bao nhiêu năm nay ông ấy chỉ
nuôi con của người đàn bà kia, có nuôi nấng gì tụi con, như vậy sao không có lỗi?
Ông ấy đâu đáng làm cha con."
Mẹ tôi lúc nào cũng dịu dàng giải thích cho anh hiểu:
- "Thật ra cha con có muốn đưa hai con về nuôi nhưng mẹ
không chịu. Ổng có nói với mẹ nhiều lần rồi. Không thuyết phục được mẹ giao các
con ra, ổng cũng đưa tiền chu cấp cho các con nhưng mẹ nhất định không chịu lấy.
Mẹ không muốn xài tiền hay mang ơn huệ người này."
Những lần như vậy, bị mẹ ép lắm anh Hùng mới gượng ép đi gặp
cha. Nhưng khi gặp thì anh hầu như không nói chuyện gì và chỉ ậm ừ cho qua giờ.
Lần gặp nào, cha cũng cho hai anh em tiền và lần nào thì anh Hùng cũng nhất định
không chịu lấy. Thật ra tôi cũng không muốn lấy nhưng thấy cha có vẻ buồn và thất
vọng nên tôi đành cầm lấy cho ông vui. Cả anh Quang Hùng và mẹ đều không thích
tôi lấy tiền của cha. Đứng giữa tôi không biết xử sao, nên sau mỗi lần lấy tiền
như vậy tôi đều không xài, đem hết về bỏ heo.
Ra đến xe gặp cha, tôi nói dối anh Hùng hôm nay không về nhà,
anh có chuyện phải ở lại trường. Cha tôi tin, không hỏi thêm và dục tôi lên xe.
Ở quán cơm, vừa ăn cha vừa hỏi han anh em chúng tôi. Hỏi từ chuyện cuộc sống
hàng ngày đến chuyện học hành. Sau đó tôi được biết cha có chuyện đi ngang qua
thị trấn nên ghé vào thăm. Tôi hỏi sao cha biết anh em tôi dọn lên ở đây, cha
trả lời cha về Sài Gòn thì nghe mẹ nói. Cha tôi nói thêm:
- "Mẹ con đưa hai anh em lên đây cha cũng vui lòng. Điều
kiện sống ở đây đỡ hơn căn gác hai anh em ở lúc trước, khí hậu ở đây lại mát mẻ.
Từ Đà Lạt về đây cũng gần, cha sẽ được dịp thăm hai con thường xuyên hơn."
Ngừng một lát cha nói tiếp, "Mẹ con thật cứng đầu, từ đây về chỗ cha chỉ
cách có hơn trăm cây số, mẹ cho các con về đây ở với dì Hai mà không cho về với
cha."
Tôi nói đỡ giúp mẹ:
- "Tụi con chỉ ở đây tạm thôi, ít nữa mẹ lại đón về ở với
mẹ. Tụi con ở với dì Hai mẹ còn lên thăm tụi con được, ở với cha, mẹ không dám
ghé thăm."
Cha tôi nhìn tôi dịu dàng, mắt ông trở nên mơ màng:
- "Con mặt thì giống mẹ, nhưng tính tình thì lại khác
xa. Mẹ con cứng cỏi bao nhiêu thì con lại mềm mỏng bấy nhiêu. Trong ba mẹ con,
chỉ có con là tỏ ra thông cảm cho cha."
Tôi nhìn cha không nói gì, cảm thấy thương hại cho ông. Cha
tôi đã có vợ khác và có hai đứa con khác, thật ra ông không cần đuổi theo anh
em chúng tôi để xin xỏ chút tình cảm cha con. Thế nhưng, ông vẫn đi kiếm chúng
tôi thăm hỏi, nhẫn nhục tìm cách làm chúng tôi thương ông. Tình cảm của cha thật
hay giả tôi cảm nhận được, tôi biết ông thương anh em tôi vô cùng. Những lần
thăm trước, có mặt Quang Hùng cha không tâm sự gì nhiều. Tính anh Hùng nóng nảy,
đã vậy trong lòng anh vẫn mang nặng niềm hiềm khích với cha, anh không thích
nghe cha kể lể hay giải thích cho nên cha tránh không nói gì nhiều. Hôm nay
không có sự hiện diện của anh Hùng, cha tôi cảm thấy thoải mái hơn và nói nhiều
hơn.
- "Khi nào con lớn lên con sẽ hiểu người làm cha mẹ, con
nào cũng thương như nhau. Cha không hề có ý nghĩ trong đầu nuôi con này bỏ con
kia. Thật ra nếu cha có sự chọn lựa, cha sẽ không bỏ con nào cả. Thế nhưng cha
đã không có sự chọn lựa đó. Mẹ con đã làm một sự chọn lựa cho cha. Đối với cha,
sự chọn lựa nào cũng là một đau khổ."
- "Như vậy sao cha đã tạo điều kiện khiến cho mình phải
có sự chọn lựa?"
- "Con nên biết trong đời người ai cũng có lần làm lỗi."
Cha tôi thở dài, tiếng thở dài nghe não lòng. "Có những lỗi lầm mình có thể
sửa đổi được, có thể đền bù được hay có thể tha thứ được. Nhưng cũng có những lỗi
lầm một khi đã phạm thì coi như đã vào con đường một chiều không lối thoát,
không cách nào quay lại. Cha đã phạm vào một lỗi lầm mà cả sửa đổi, đến đền bù
hay đến tha thứ cha đều không được cơ hội làm. Anh em con sau này lớn lên, trước
khi làm bất chuyện gì cũng phải đặt cho mình câu hỏi ‘chuyện làm này có gây hậu
quả gì không và hậu quả đó có cách gì đền bù sửa đổi được không’."
Nói tới đó cha tôi ngừng lời lại, có lẽ để ngăn sự xúc động của
mình. Tôi đặt tay mình lên tay cha biểu lộ sự thông cảm. Cha tôi ngước mắt nhìn
tôi, sau đó ông nắm tay tôi:
- "Con sau này lớn lên ra đời sẽ được mọi người thương mến.
Tính con mềm mỏng, biết lắng nghe, biết quan tâm cho người khác, thân thiện và
tế nhị, mọi người chung quanh sẽ quý mến con. Một người, để thành công trên đời,
ngoài tài năng và trí tuệ cũng cần phải biết cách giao tiếp với những người
chung quanh. Gây và giữ được thiện cảm với mọi người là một trong những yếu tố
quan trọng giúp mình thành công trên đường đời."
- "Con lại nghĩ con là người nhu nhược"
- "Cha không nghĩ như vậy. Con cương quyết nhưng kiên nhẫn,
con ít nói nhưng quan sát nhiều. Mềm mỏng không có nghĩa là nhu nhược và ôn hòa
không có nghĩa là khuất phục. Những việc con muốn làm, con sẽ nhất định làm cho
tới nơi tới chốn. Cha xưa nay không có dịp dạy dỗ các con, mẹ con đã thay cha
làm việc này một cách xuất sắc. Mà thật ra một con người đã làm lỗi lầm như cha
thì không có tư cách dạy dỗ các con. ."
Hôm đó cha tôi tâm sự với tôi thật lâu và dạy bảo rất nhiều
chuyện. Đây là lần đầu tiên trong đời cha con tôi có dịp ngồi nói chuyện với
nhau lâu và thông cảm với nhau như vậy. Vấn đề giữa cha và mẹ, hay giữa cha và
anh Hùng, là họ không bao giờ có dịp ngồi xuống nói chuyện với nhau lâu. Không
ai chịu thổ lộ tình cảm của mình, không ai chịu nói thật những gì họ nghĩ và vì
vậy đã khiến cho họ không bao giờ hiểu nhau hay cảm thông cho nhau. Tôi tự hỏi
nếu mẹ tôi đã hiểu được tâm tư của cha tôi và sự dằn vặt trong lòng ông về bổn
phận làm cha đối với đứa con của người đàn bà kia thì có thể mẹ tôi đã có một
quyết định khác. Tôi biết cha tôi vẫn còn thương mẹ tôi. Ông không phải đã quên
đi mối tình đầu thơ đẹp ngày nào và ông cũng không thể quên, vì yêu ông, mẹ tôi
đã dở dang con đường học vấn của bà.
Sau khi ăn xong, cha tôi chở tôi về lại nhà. Ông không vào
nhà và muốn về lại Đà Lạt trước khi trời tối. Cha nhắn tôi gửi lời thăm anh
Hùng và nói ông sẽ xuống thăm anh em tôi thường xuyên hơn. Sau đó cha con tôi
chia tay, trước khi đi, như lệ thường cha dúi tiền vào tay tôi và nói "Cất
đi, đem về chia cho anh con. Hai anh em để dành may quần áo và mua sắm."
Hôm đó anh Hùng gặp tôi thì lờ đi làm như không biết chuyện
cha đến thăm. Tôi cũng lờ luôn không nhắc tới. Buổi tối khi cả nhà ăn cơm dì dượng
Hai hỏi thăm cha tôi thế nào và tôi đã kể lại cho mọi người nghe về buổi trưa
ăn cơm của hai cha con. Dì dượng Hai lại lên tiếng phê bình về con người và sự
tệ bạc thay lòng của cha. Anh Hùng chỉ ngồi im lặng ăn cơm không nói gì.
Buổi tối, ở ban công anh cuối cùng cũng lên tiếng hỏi:
- "Ổng khỏe không?"
- "Khỏe, cha hỏi thăm anh." Đợi một lúc không thấy
anh trả lời, tôi nói tiếp, " Cha nói bây giờ ở gần, cha sẽ xuống thăm mình
thường xuyên. Cha nhắc anh ráng học."
Anh Hùng không hỏi gì thêm, anh ngồi yên lặng một lát rồi đem
đàn ra đánh, dáng điệu trông ra không vui. Tôi thật không hiểu được anh không
vui là vì lý do gì, vì cha đến thăm, hay vì anh vừa muốn gặp cha mình, vừa hận
ghét ông cay đắng muốn tránh mặt.
Chương 5
Mẹ tôi viết thư lên hỏi nếu anh em chúng tôi muốn về Sài Gòn
ăn tết với mẹ hay muốn mẹ lên nhà dì Hai với anh em tôi. Vì anh em chúng tôi có
văn nghệ tất niên trong trường, lại thêm anh Quang Hùng muốn thưởng thức cái tết
đầu tiên trên vùng cao nguyên lạnh, cho nên chúng tôi viết thư hồi âm muốn mẹ
lên với chúng tôi.
Từ ngày dọn lên ở thị trấn nhỏ miền cao nguyên này, tôi đâm
ra yêu thích khung cảnh và đời sống ở đây. Ngay giữa trung tâm thị trấn có một
hồ nước rất đẹp. Hồ không có tên, khi tôi tới đây, tôi chỉ nghe người ta gọi là
hồ Bảo Lộc. Ngay ở giữa hồ có xây một căn nhà thủy tạ. Nối từ trong bờ tới nhà
thủy tạ là chiếc cầu xi măng rộng với hai thành cầu hai bên. Chung quanh hồ được
trồng những bụi hoa hướng dương bông vàng thật lớn. Cách hồ một khoảng ngắn là
một bờ đất, được đắp rất cao và rất rộng giống như cái đê. Không biết có phải
người ta làm cái bờ đất này để ngăn nước trong hồ đừng chảy qua vùng đất thấp
xóm Sình cạnh bên, nơi có dân ở, hay để làm đường giao thông cho hai phố hai
bên. Cũng có thể là cả hai lý do. Trên mặt bờ đê, một chiếc cầu xi măng được
xây lên để làm đường nối liền thông thương giữa hai khu Chợ Mới và khu Chợ Cũ.
Cầu rộng như đường quốc lộ, xe có thể chạy cả hai chiều. Trên cầu, sát hai bên
đường xe chạy, người ta xây hai lối nhỏ dành cho người đi bộ. Khi tôi lên ở Bảo
Lộc thì chợ Cũ đã không còn là chợ nữa, nó lúc đó đã trở thành khu dân cư, ngoại
trừ vài tiệm bán vải của những người Ấn Độ. Còn khu chợ Mới mới thật là khu
buôn bán chợ búa. Dân địa phương gọi cầu là cầu Trắng. Tôi hỏi người chung
quanh xem tại sao lại gọi là cầu Trắng thì không ai biết câu trả lời. Có người
thì nói là vì cầu được sơn trắng nên gọi là cầu Trắng. Người khác thì nói là
tên cầu Trắng được dùng để phân biệt với cầu Đen ở vùng trên.
Cảnh trí của hồ thật là nên thơ, tôi thật yêu thích cái không
khí êm đềm, lãng mạn và thơ mộng của nó. Những buổi sáng sớm khi sương mù còn
bao phủ, đi ngang qua cầu Trắng nhìn xuống mặt hồ thì không có gì đẹp bằng. Lúc
đó trên mặt hồ vẫn còn được bao phủ bởi làn sương trắng dầy đặc, thấp thoáng
chiếc cầu thủy tạ nằm lặng lẽ cô đơn ẩn mình sau màn sương. Lúc đó nếu may mắn
thấy được chiếc đò của mấy người dậy sớm đi vớt tép thì cảnh trí càng thêm đẹp
không thua gì những bức tranh thủy mạc của Trung Hoa. Buổi sáng học trò đi học
lũ lượt ngang cầu, màu áo len tím dịu dàng của các nữ sinh hòa cùng những tà áo
dài trắng thướt tha khiến ai có khô khan tình cảm tới đâu cũng phải dậy lên
trong lòng một chút lãng mạn.
Mỗi buổi chiều, nếu rảnh không có chuyện gì làm, tôi thường
ra bờ hồ chơi. Minh Châu hôm nào rảnh cũng theo tôi ra đó chơi, nhưng thường
thường thì tôi đi một mình. Tôi thường đạp xe đạp ra bờ hồ, dựng xe vào một gốc
cây nào đó rồi thơ thẩn ra chơi ở nhà thủy tạ khoảng nửa tiếng mới về. Tôi cũng
thường lân la đến coi những người câu cá ở trên cầu thủy tạ. Những lần như vậy,
tôi chỉ đứng im lặng bên cạnh, quan sát cách họ móc mồi, thả dây và kéo cần khi
cá cắn câu. Lúc câu cá không ai nói nhiều hay làm ồn ào, mấy chú bác câu cá ở
đó nói cá nó thính lắm, nếu nghe tiếng động chúng sẽ không tới ăn mồi. Tôi
không biết lời này có đúng không, nhưng ai nói sao thì tôi nghe vậy, cứ thế mà
im lặng coi mọi người câu cá.
Một ngày tôi thấy có một người lạ mặt tới câu cá, người mới
này không phải là một trong các chú bác vẫn ngồi câu hàng ngày. Tuy đội mũ lưỡi
trai che xụp gần hết mặt, trông dáng điệu thì tôi vẫn đoán được đó là một thanh
niên trẻ. Thấy người này câu được rất khá nhiều cá, tôi lân la lại gần coi. Đến
nơi, tôi nhận ra đó là anh Khiêm Thủ Quân học cùng cấp lớp với anh Hùng mà tôi
đã có dịp gặp mặt lúc trước. Không biết do may mắn hay giỏi, tôi thấy anh Khiêm
câu được rất nhiều cá, hết kéo con này đến con kia rồi bỏ vào cái thùng sô nước
bên cạnh. Tôi đứng gần bên quan sát thật lâu không nói gì, mà anh Khiêm dường
như cũng đang mải mê với thú vui của mình nên không để ý tới tôi. Mãi một lúc
sau anh mới phát giác ra sự hiện diện của tôi, anh không tỏ ra gì ngượng ngùng,
chỉ hỏi một cách cộc lốc:
- "Có gì mà coi?"
Tôi lắc đầu không trả lời, tiếp tục nhìn anh gắn mồi câu mới
vào lưỡi. Một lúc sau anh lại hỏi:
- "Coi người hay coi cá?"
- "Đương nhiên là coi cá. Người đâu có gì để coi."
Lần này thì tôi lên tiếng trả lời.
- "Trả lời hơi xấc đó nghe." Anh Khiêm nhướng mặt
lên nhìn tôi, đôi mắt nằm khuất dưới vành nón thấp. Nhìn tôi một lát, anh hỏi
tiếp "Cô nhỏ mặt lạ quá, dân mới hả?"
- "Anh mới là người mới ở đây."
Lần này anh Khiêm ngẩng đầu hẳn lên nhìn tôi, anh kéo nón lên
cao khỏi trán. Hai đứa tôi nhìn lẫn nhau cảm thấy thú vị vì cách hỏi và cách trả
lời của mỗi người. Tôi nhận thấy mắt của anh mầu rất nâu, không đen như mắt những
người khác.
- "Ý câu hỏi có phải cô nhỏ là dân mới về Bảo Lộc
không?" nh đính chính câu hỏi của mình, sau đó nhìn quyển sách giáo khoa
tôi đang cầm trên tay, anh hỏi tiếp.
- "Dân trung học Bảo Lộc hả?"
- "Sao biết?"
- "Nhìn quyển sách giáo khoa thì biết là dân đệ nhất cấp.
Ở đây chỉ có hai trường trung học, một là trường công trung học Bảo Lộc, còn
trường kia là trường tư thục trung học Cộng Hoà. Giữa hai trường, trường Trung
Học Bảo Lộc lớn hơn và có nhiều học sinh hơn, nếu đoán là học sinh trường đó
thì xác xuất trúng sẽ lớn hơn."
Tôi cười vì cách đoán láu lỉnh của anh. Anh Khiêm quay lại
câu hỏi lúc nãy mà tôi chưa trả lời:
- "Phải học trò mới không? Tui học ở đây từ nhỏ đến lớn.
Nếu là dân ở đây và là học trò cũ thì tui đã biết mặt."
- "Học trò mới. Từ Sài Gòn lên."
Anh Khiêm nhìn tôi lần nữa, nheo mắt cau mày ra vẻ đang suy
nghĩ:
- "Dân Sài Gòn mới lên? Hừm…., có anh em gì với Nguyễn
Quang Hùng 11C1 không?"
- "Anh Hùng là anh Hai."
- "Hèn gì." Anh Khiêm gục gặc đầu "nhìn kỹ thì
cũng có nét giống".
- "Mình đã gặp nhau một vài lần rồi. Hôm lớp anh Hùng tập
văn nghệ."
Nghe tôi nhắc, anh Khiêm hơi ngạc nhiên, anh quay qua nhìn
tôi một cách xoi mói từ đầu đến chân. Tôi cảm thấy mắc cở, đỏ mặt và tránh nhìn
qua chỗ khác.
- "Vậy sao? Tui không nhớ. Thằng Hùng láu cá mà có em
gái hiền lành như vầy, trông ra thì không giống."
Tôi hơi phật lòng cách anh Khiêm phê bình anh tôi như vậy cho
nên không trả lời gì. Anh Quang Cận nói đúng, hai con cọp một rừng không ưa
nhau. Thấy tôi im lặng một hồi lâu không nói gì anh Khiêm gợi chuyện hỏi tiếp.
-"Cô nhỏ học lớp mấy? Hay ra đây coi người ta câu cá lắm
hả?"
- "9A1. Thỉnh thoảng thôi."
- "Cô nhỏ nói ít quá, hay không muốn nói?"
Tôi không trả lời câu hỏi, đưa tay chỉ ra ngoài nước:
- "Anh nói nhiều quá cá sợ chạy hết."
Anh Khiêm cười tủm tỉm rồi nhìn vào thùng sô cá của anh
- "Hôm nay câu như vậy đủ rồi, có nói nhiều một tý cũng
không sao. Cá biết bơi chứ không biết chạy cho nên mình cũng không sợ."
Tôi cười vì cách anh bắt bẻ tôi dùng chữ. Thấy tôi cười, anh
nói thêm:
- "Bây giờ mới thấy cười."
Tôi đã bớt giận vì câu nói của anh lúc nãy về anh Hùng, nên bắt
đầu chuyện trò:
- "Không thấy anh hay ra đây câu."
- "Thỉnh thoảng mới đi câu, tuy nhiên có đi thì câu ở
bên kia." Vừa nói anh vừa chỉ tay về chỗ đập nước phía bên kia hồ.
"Thường thì hay đi đá banh hơn."
- "Hèn gì có tên Khiêm Thủ Quân. Anh là thủ quân của đội
banh hả?"
- "Ừ, tụi trong trường đặt cho cái biệt danh đó. Ai nói
cho nghe? Bọn thằng Hùng phải không? ."
Tôi không trả lời, hỏi tiếp:
- "Anh có trong đội banh của anh Quốc Dũng không?"
- "Quốc Dũng nhà bán gạo đó hả? Không, thằng Dũng ở
trong đội banh lớp nhỏ hơn, anh ở trong đội banh khối 11."
Không biết từ lúc nào anh Khiêm đã đổi sang xưng bằng anh với
tôi. Tôi tủm tỉm cười. Anh hỏi tiếp:
- "Em là gì của thằng Dũng?"
- "Em bà con, tụi em ở nhà anh Dũng."
- "Ồ, ra thế."
Lúc đó có con cá cắn câu, tôi gọi báo cho anh Khiêm hay. Anh
dựt dây, gỡ cá và bỏ vào thùng sau đó thay mồi mới.
- "Chắc vía em hên, hôm nay cá ăn câu nhiều. Em muốn lấy
cá về nhà không?"
Tôi lắc đầu. Hai đứa chúng tôi đã cảm thấy quen hơn và đã bắt
đầu nói chuyện nhiều hơn. Tôi thấy anh Khiêm lúc chưa quen thì hơi có ăn nói cộc
lốc nhưng nếu nói chuyện một hồi lâu thì thấy anh cũng dễ thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét